Chúa Nhật II Phục Sinh - Năm B
Cv 4,32-35 ; Tv 117; 1 Ga 5,1-6 ; Ga 20,19-31.
Bài đọc 1 Cv 4,32-35
32 Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có
một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối
với họ, mọi sự đều là của chung.
33 Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các
Tông Đồ làm chứng Chúa Giê-su đã sống lại. Và Thiên Chúa ban cho tất cả các ông
dồi dào ân sủng.
34 Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn,
vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, 35
đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo
nhu cầu.
Đáp ca Tv
117,2-4.16ab và 17-18. 22-24 (Đ. c. 1)
Đáp : Hãy tạ ơn Chúa vì
Chúa nhân từ,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương.
Hoặc:
Đáp : Ha-lê-lui-a.
2 Ít-ra-en hãy nói lên rằng :
muôn
ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
3 Nhà A-ha-ron hãy nói lên rằng :
muôn
ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
4 Ai kính sợ Chúa hãy nói lên rằng :
muôn
ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Đ.
16ab Tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa
giơ cao.
17 Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống,
để
loan báo những công việc Chúa làm.
18 Sửa phạt tôi, vâng Chúa sửa phạt tôi,
nhưng
không nỡ để tôi phải chết. Đ.
22 Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ
lại
trở nên đá tảng góc tường.
23 Đó chính là công trình của Chúa,
công
trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.
24 Đây là ngày Chúa đã làm ra,
nào
ta hãy vui mừng hoan hỷ. Đ.
Bài đọc 2 1
Ga 5,1-6
1 Anh em thân mến, phàm ai tin rằng Đức
Giê-su là Đấng Ki-tô,
kẻ
ấy đã được Thiên Chúa sinh ra.
Và
ai yêu mến Đấng sinh thành,
thì
cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra.
2 Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được
mình
yêu thương con cái Thiên Chúa :
đó
là chúng ta yêu mến Thiên Chúa
và
thi hành các điều răn của Người.
3 Quả thật, yêu mến Thiên Chúa
là
tuân giữ các điều răn của Người.
Mà
các điều răn của Người có nặng nề gì đâu,
4 vì mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều
thắng được thế gian.
Và
điều làm cho chúng ta thắng được thế gian,
đó là lòng tin của chúng ta.
5 Ai là kẻ thắng được thế gian,
nếu
không phải là người tin rằng
Đức
Giê-su là Con Thiên Chúa ?
6 Chính Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến,
nhờ nước và máu ;
không
phải chỉ trong nước mà thôi,
nhưng
trong nước và trong máu.
Chính Thần Khí là chứng nhân,
và Thần Khí là sự thật.
Tung hô Tin Mừng x. Ga 20,29
Ha-lê-lui-a.
Ha-lê-lui-a. Chúa nói : “Này anh Tô-ma, vì đã thấy Thầy nên anh mới tin. Phúc
thay những người không thấy mà tin”. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng Ga
20,19-31
19 Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần,
nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su
đến, đứng giữa các ông và nói : "Bình an cho anh em !" 20
Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được
thấy Chúa. 21 Người lại nói với các ông : "Bình an
cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." 22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo
: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. 23 Anh em tha tội cho ai, thì
người ấy được tha ; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."
24 Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma,
cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. 25
Các môn đệ khác nói với ông : "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông
Tô-ma đáp : "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ
ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có
tin." 26 Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt
trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến,
đứng giữa các ông và nói : "Bình an cho anh em." 27
Rồi Người bảo ông Tô-ma : "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy.
Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." 28
Ông Tô-ma thưa Người : "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !" 29
Đức Giê-su bảo : "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người
không thấy mà tin !"
30 Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt
các môn đệ ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. 31 Còn những điều đã
được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa,
và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.
(bản văn
theo UB.Kinh Thánh/HĐGMVN)
Suy Niệm:
Giữa cơn lo sợ bàng hoàng còn chưa nguôi; các cửa phòng còn đóng kín để
tránh ánh mắt soi mói của người Do thái. Ðức Giêsu Phục Sinh bất ngờ hiện đến,
mang theo bình an và Thần Khí của Ngài để làm cho các Tông Ðồ được vững mạnh
trong niềm tin. Từ cõi chết, Ðức Giêsu đã bước vào cõi trường sinh; từ tình trạng
xem như thất bại, Ðức Giêsu đã chiến thắng vẻ vang. Cùng với Ðức Giêsu, từ nay
người môn đệ của Ngài luôn sống trong hân hoan, bình an vì Thầy của họ đã thắng
thế gian và đưa họ vào nguồn hạnh phúc vĩnh cửu.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, ước gì lời chúc bình an của Chúa sẽ là nguồn trợ lực cho suốt
cuộc đời chúng con. Chúng con chỉ có bình an thực sự khi tin tưởng phó thác vào
Chúa. Nhờ đức tin, nhờ Lời Chúa soi dẫn, chúng con xác tín rằng Chúa luôn ở bên
chúng con và nâng đỡ chúng con trong từng biến cố. Xin Chúa đến ngự giữa chúng
con. Amen.
(Lời Chúa
trong giờ kinh gia đình)
Hội Thánh Của Chúa Sống Lại
Suy Niệm:
Chúa Nhật 2 Phục Sinh Năm B
Cv 4,32-37; 1Yn 5,1-6; Yn 20,19-31
Sau khi sống lại, Chúa Yêsu, Chúa Yêsu không còn hiện diện
hữu hình ở trần gian nữa. Người còn hiện ra nhiều lần cho môn đệ xem thấy mà
tin. Nhưng đó chỉ là những lúc họa hiếm và mau qua. Từ nay cách thức hiện diện
thường xuyên của Người với chúng ta là Thánh Thể và Hội Thánh. Ðó là hai bí
tích hiểu theo nghĩa rộng để Người ở với chúng ta hằng ngày. Hội Thánh được gọi
là Thân Thể của Chúa Kitô và Thánh Thể chính là thịt máu Người. Thế nên sau lễ
Phục sinh, Phụng vụ kéo mắt chúng ta nhìn vào Hội Thánh, nơi chúng ta có thể gặp
gỡ Chúa để hiểu biết, yêu mến, bắt chước Người nhiều hơn. Và cũng trong Hội
Thánh, chúng ta được tiếp xúc với Thánh Thể để nhận lấy sức sống Chúa muốn ban
cho chúng ta. Như vậy, suy nghĩ về Hội Thánh phải là thao thức của chúng ta
trong mùa Phục sinh này. Và người ta có thể suy nghĩ từ ngoài đi vào hoặc từ
trong đi ra. Hôm nay chúng ta hãy theo thứ tự các bài đọc Kinh Thánh trong
Thánh lễ để tìm hiểu Hội Thánh từ ngoài vào trong, từ hiện tượng khả giác vào tới
mầu nhiệm thâm sâu. Và chúng ta sẽ thấy giáo xứ và giáo phận chúng ta còn thiếu
sót nhiều quá để xứng đáng là Hội Thánh của Chúa Kitô Phục sinh.
1. Một Hội Thánh Sống Xã Hội
Bài sách Công vụ Tông đồ hôm nay họa lại cho chúng ta một
hình ảnh về Hội Thánh thời các tông đồ ở Yêrusalem. Ðây chỉ là một trong mấy bức
họa hiếm hoi về Hội Thánh ấy. Còn 2, 3 bức họa nữa cũng ở trong sách Công vụ
Tông đồ này. Và nếu được phép căn cứ vào câu đầu tiên của sách này mô tả đời sống
của Hội Thánh ở thời bấy giờ: chuyên cần với giáo huấn của các tông đồ, sự hiệp
thông, việc bẻ bánh và kinh nguyện (2,42) thì bức họa của đoạn sách Công vụ hôm
nay là bức họa thứ hai, nói về sự hiệp thông của cộng đoàn dân Chúa.
Quả vậy, chính câu đầu tiên đã nói lên chủ đề: "
Ðoàn lũ những kẻ tin chỉ có một tấm lòng, một linh hồn". Ðể mô tả sự hiệp
thông thắm thiết giữa mọi người giữa mọi người nên một ấy, đoạn sách hôm nay
nói rằng: "Không một người nào nói là mình có của gì riêng, nhưng đối với
họ mọi sự đều là của chung".
Nhiều người đã vịn vào câu văn này để khẳng định Hội
Thánh thời bấy giờ thi hành điều mà bây giờ thi hành điều mà bây giờ người ta gọi
là "cộng sản", và Hội Thánh đã cộng sản trước cộng sản. Thiết tưởng
không nên có những lời nói như vậy vì những lời nói thế chẳng đẹp lòng ai cả và
chỉ tỏ ra đọc sách Công vụ rất hời hợt.
Hôm nay chúng ta cứ thử về nhà đọc lại đoạn sách này. Thánh
Luca không cho chúng ta nhiều yếu tố để quả quyết gì về tổ chức xã hội của cộng
đoàn dân Chúa thời bấy giờ. Người chỉ cho chúng ta một cái nhìn đạo đức về thái
độ của các tín hữu đối với nhau. Nếu được phép tưởng tượng thì chúng ta có thể
nghĩ rằng: thời ấy tín hữu của Chúa sống như mọi người về mặt xã hội kinh tế. Họ
không hề có ý tưởng làm thành "một quốc gia ở trong một quốc gia",
nghĩa là tổ chức với nhau một hệ thống sản xuất hay kinh tế riêng biệt. Họ chỉ
khác đồng bào chung quanh ở chỗ là tin Chúa. Và vì chưa biết Chúa đủ, nên họ
chuyên cần đến nghe lời của các Tông đồ trong các buổi họp chung. Ở đó họ được
dẫn giải thêm về đạo lý, được cầu nguyện chung, được bẻ bánh chung, khiến họ được
mật thiết kết hợp với Chúa và cùng Người làm nên một thân thể. Rồi chính khi ấy
họ đã nhận ra mình là chi thể của nhau, là anh em con một Cha, một Chúa. Thế là
một đức tin, một Thánh Thể để kết họ nên một với nhau trong tình mến. Họ thấy
không được phép để cho ai trong anh em thiếu thốn nữa, nếu đang khi ấy họ có nhiều
của cải hơn. Thế là như Barnaba, họ đem bán của riêng, đem huê lợi đến cho các
tông đồ để chia sẻ cho anh em tùy theo nhu cầu.
Tất cả như vậy đã xảy ra từ một động lực bên trong. Việc
hiệp thông với Chúa đã dẫn sang ý thức phải hiệp thông với nhau; và không thể
hiệp thông chân thật với anh em khi có của mà để anh em túng thiếu. Ðó hoàn
toàn là đạo đức chứ không phải cộng sản gì! Nhưng là đạo đức chân thật, biết và
dám thi hành những đòi hỏi của niềm tin và lòng mến. Kẻ không đạo đức được như
vậy cũng không thể có những hành động như thế.
Sách Công vụ ngay sau đoạn văn hôm nay đã kể chuyện vợ chồng
Ananya và Saphyra. Hai người cùng bàn nhau đem bán một thửa đất riêng, rồi đem
một phần tiền đến nói với thánh Phêrô: đó là tất cả số tiền bán được. Họ tưởng lừa
được Phêrô. Nhưng họ quên Thánh Thần bấy giờ ở với Phêrô một cách rất đặc biệt.
Phêrô bảo hai người: cớ sao đồng tình và đồng lõa ăn gian nói dối? Ai bắt phải
bán đất đi? Và ai buộc phải đem lại tất cả số tiền?
Rồi câu chuyện thế nào, mọi người đã rõ. Ở đây chúng ta
chỉ cần lưu ý: mấy lời của Phêrô làm cho chúng ta hiểu việc các tín hữu buổi đầu
"không nói là mình có của gì riêng, nhưng đối với họ mọi sự đều là của
chung". Ý nghĩa như thế nào? Ðó là một sự tự nguyện, phát xuất từ tinh thần
hiệp thông xây trên một niềm tin chung; chứ không phải là một tổ chức xã hội có
tính cách hành chánh.
Sự tự nguyện này vẫn còn tồn tại trong Hội Thánh ở nơi
các cộng đoàn tu sĩ... Nó còn là đòi hỏi của Tin Mừng mà nhiều khi chúng ta
không dám nghĩ tới. Vẫn biết hoàn cảnh đã thay đổi; xã hội đã biến chuyển; con
cái Chúa không bao giờ "làm thành một Nước ở trong một Nước" để có nếp
sống xã hội riêng; nhưng đang khi sống tốt thể chế xã hội của Nước mình, họ
luôn phải nhớ đòi hỏi của Tin Mừng buộc họ phải sống hiệp thông với anh em. Và
như vậy họ không được để anh em túng thiếu khi họ đang có của. Ðó là ý nghĩa cụ
thể của đạo Bác ái. Và đó cũng là một trong những lý do của việc dâng tiền
trong thánh lễ. Cử chỉ này không thể nào không gợi lên nếp sống hiệp thông chia
sẻ mà bài sách Công vụ hôm nay nói về Hội Thánh thời các Tông đồ.
Thiết tưởng, lương tâm chúng ta còn bị chất vấn nhiều về
vấn đề này. Nhưng nếu chúng ta muốn có thiện chí làm tốt hơn thì chúng ta phải
đào sâu đức tin hơn, vì như đã nói, nếp sống hiệp thông kia đã phát xuất từ niềm
tin mới mẻ. Bài thư Yoan có nhiều yếu tố quý báu giúp chúng ta làm công việc
này.
2. Một Hội Thánh Sống Ðức Tin
Chúng ta có thể nghĩ đoạn thư này rời rạc và thiếu chặt
chẽ. Nhưng nếu nắm được ý của thánh Yoan, chúng ta sẽ thấy đây là những tư tưởng
rất quan trọng. Người muốn nói với những kẻ có đức tin để xác định niềm tin của
họ phải như thế nào và có những hệ luận nào trong đời sống cụ thể.
Sánh với bài sách Công vụ trên đây, chúng ta có thể nói
thánh Yoan đã đi từ trong ra đến ngoài đang khi thánh Luca đi từ ngoài vào
trong. Tác giả sách Công vụ mô tả nếp sống xã hội của cộng đoàn dân Chúa; còn
tác giả bài thư tìm hiểu động lực của nếp sống này.
Ðó là niềm tin mới, chưa gặp thấy nơi một xã hội loài người
nào. Người tín hữu khác mọi người ở chỗ tin Yêsu là Ðức Kitô. Muốn thấy tính
cách mới mẻ của niềm tin này, chúng ta phải trở về thời các tông đồ, hay phải
nhìn sang lương dân. Ngoài các tín hữu ra, ai có thể có một ý tưởng như thế?
Tin Yêsu là Ðức Kitô có nghĩa là tin Thiên Chúa đã thi hành kế hoạch cứu nhân độ
thế của Người nơi con người và đời sống của Yêsu người thành Nadarét. Là tin
Thiên Chúa yêu thương loài người đến độ đang khi chúng ta còn là tội nhân thù
nghịch đã ban Con Một Người làm hy lễ đền tội chúng ta. Mà không phải chỉ đền
và tha tội, nhưng còn nhờ cuộc Tử nạn Phục sinh của Ðức Kitô, cho chúng ta được
tái sinh bởi Thiên Chúa để làm con cái Người. Một niềm tin như vậy đã ám tàng
công nhận Ðức Yêsu là Con Thiên Chúa, vì nếu không, Yêsu sẽ chỉ là một sứ giả,
một dụng cụ đặc biệt của Thiên Chúa, khiến niềm tin của chúng ta sẽ chẳng mới mẻ
gì, vì đã thiếu gì người tự xưng là tiên tri của thượng đế sai đến với loài người.
Ðức tin của chúng ta thì khác. Nó mới sánh với mọi suy
nghĩ và tin tưởng của loài người, vì nó khẳng định Yêsu là Con Thiên Chúa đã đến
cứu loài người khiến ai tin thì được sinh lại bởi Thiên Chúa và được làm con
cái Chúa. Ðó là nội dung đức tin mới.
Nó chân thật vì có nền tảng vững vàng. Ai chối bỏ được việc
Ðức Yêsu Kitô đã đến? Không những Người đã đến nhờ Nước và Máu, mà có Thánh Thần
làm chứng. Không những Người đã đến nhờ nước sống Yorđan khi chịu Yoan rửa, mà
còn nhờ đến máu chảy ra trên Thập giá. Nhất là khi ở trên cây gỗ này, Người đã
để Máu và Nước chảy ra từ cạnh sườn để từ nay Hội Thánh có Nước Rửa tội và có
Máu Thánh Thể ban ơn tha thứ tội lỗi và sự sống thần linh mới cho loài người.
Nhưng tất cả cuộc đời của Ðức Kitô từ khi nhận nước rửa ở sông Yorđan đến khi
chảy máu ra trên Thập giá, cũng như tất cả các bí tích Thánh tẩy và Thánh Thể
trong Hội Thánh làm cho người ta được ơn tha thứ và có sự sống mới, tất cả những
điều ấy có giá trị chân thật đáng tin là vì cuối cùng có Chúa Thánh Thần đã đến
làm chứng cho sự nghiệp của Ðức Kitô và sức sống của Hội Thánh. Ðức tin của
chúng ta đi từ cơ sở các việc đã xảy ra trong cuộc đời của Ðức Kitô và của Hội
Thánh mà đã được Thánh Thần làm chứng, nên là đức tin chân thật và vững vàng,
khiến chúng ta thật là những người có phúc.
Thánh Yoan, trong đoạn thư này, nói đến cái phúc của người
tín hữu là họ đã thắng được thế gian. Họ là những người tin vào ơn cứu độ của
Thiên Chúa nơi Ðức Yêsu Kitô thì họ được sinh làm con cái Thiên Chúa. Và như vậy
họ không thuộc về thế gian nữa. Họ đã được giải thoát ra khỏi ách thống trị của
thế gian tức là của sức mạnh thù nghịch với Thiên Chúa và con người. Họ được
nên giống như Ðức Yêsu Kitô giờ đây đã sống lại, không còn gì có thể cầm giữ được
nữa, kể cả tử thần là kẻ thù cuối cùng của con người. Nói cách khác, tín hữu nhờ
đức tin bây giờ tuy còn sống trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian và lệ
thuộc thế gian nữa. Họ đã chiến thắng thế gian nhờ đức tin. Họ đã thuộc về Chúa
và trở nên con cái Chúa.
Như vậy họ phải sống sự sống của Người, phải giữ lệnh
truyền của Người, vì lệnh truyền của Người chỉ là đòi hỏi của sự sống của Người.
Yoan đã định nghĩa Thiên Chúa là tình yêu: Tình yêu là sự sống của Thiên Chúa;
thì chính Yoan cũng nói lệnh truyền của Người là chúng ta hãy yêu mến nhau. Ðó
là điều mà trong đoạn thư hôm nay Yoan đã viết: phàm ai yêu mến đấng sinh
thành, tức là Thiên Chúa, tất phải yêu mến kẻ bởi Chúa mà sinh ra, tức là các
con cái Thiên Chúa. Và lệnh truyền đó không nặng nề, vì như Augustinô nói:
"Khi người ta yêu thì hoặc không thấy gì nặng nề, hoặc có thấy thì cũng
yêu sự nặng nề ấy khiến nó không còn nặng nề nữa". Do đó nền tảng và động
lực của nếp sống hiệp thông trong Hội Thánh là niềm tin và lòng mến, mà bài Tin
Mừng hôm nay cho chúng ta biết đã phát xuất từ đâu.
3. Một Hội Thánh Của Chúa Sống Lại
Chúng ta biết bài Tin Mừng này đến nỗi chỉ cần nghe nhắc
tới tên Tôma là chúng ta có thể thuật lại rành rẽ. Nhưng có lẽ chúng ta đã đồng
hóa nội dung của nó với lòng cứng tin của Tôma, làm như thế, bài Tin Mừng hôm
nay chỉ muốn nói xấu vị Tông đồ này. Không thể như vậy, vì nếu như vậy thì đoạn
văn này không còn phải là Tin Mừng nữa.
Yoan đã ghi lại câu chuyện Chúa hiện ra cho các tông đồ
và Tôma là để chúng ta tin và bởi tin thì chúng ta được sống, tức là được hạnh
phúc. Người muốn nói đến nguồn gốc đức tin của chúng ta. Người đi sâu và đi vào
trong hơn bài Thánh Thư và bài sách Công vụ.
Chẳng riêng gì Tôma, mọi môn đồ khi ấy đều chưa tin. Vì
thế họ mới đóng cửa nhà, vì sợ người Dothái. Nhưng Ðức Yêsu bổng dưng đã đến đứng
giữa họ, bất chấp cửa đóng then cài. Người phải ban bình an trấn tỉnh họ. Rồi
Người cho họ thấy các thương tích của Người. Họ liền mừng rỡ vì thấy ngay là Thầy
mình đã sống lại. Chính sự sống lại của Người khiến họ được vui mừng. Chính mầu
nhiệm Phục sinh là Tin Mừng. Và Tin Mừng này, chính Ðức Yêsu đã mang đến khi hiện
ra và cho họ thấy các thương tích của Người. Người thật là đấng khơi nguồn và
viên thành đức tin của Hội Thánh.
Tôma là một trong
các tông đồ và sẽ là một trong các cột trụ để Hội Thánh vươn lên. Ông có quyền
đòi hỏi được như các bạn đồng nghiệp, và chúng ta cũng buộc Tôma phải được như
vậy để đức tin của chúng ta có cơ sở vững vàng. Do đó thật là vì chúng ta mà
Yoan thuật lại câu chuyện về Tôma để minh chứng rõ ràng đức tin của chúng ta bắt
nguồn từ việc các Tông đồ được thấy Chúa hiện ra với thương tích của Người, hầu
mọi người biết Ðấng chịu nạn đã sống lại thật. Ðó là Tin Mừng cho mọi người; vì
như vậy là bằng chứng "thế gian", tức là sức mạnh thù nghịch Thiên
Chúa và con người đã bị đánh bại, để từ nay ai tin vào Ðức Kitô Phục sinh sẽ
chiến thắng thế gian, sẽ được ơn tha tội và có sự sống mới. Và những người như
vậy sẽ tạo nên một nét mới mẻ trong đời sống xã hội con người.
Sách Công vụ hôm
nay đề cao nét sống mới mẻ này khi mô tả việc hiệp thông ở trong Hội Thánh. Thư
Yoan tìm hiểu động lực của hiện tượng đó nơi đức tin, và bài Tin Mừng cho thấy
Ðấng khơi nguồn đức tin ấy là Ðức Yêsu sống lại đã hiện ra với các môn đồ.
Chúng ta giờ đây
nhờ đức tin các tông đồ truyền cho sắp được tiếp xúc với Ðức Kitô sống lại,
trong mầu nhiệm bàn thờ. Chúng ta hãy có lòng tin và lòng mến của Tôma để kêu
lên: "Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi". Lòng tin và mến ấy chỉ
chân thật nếu chúng ta nêu gương các tín hữu tiên khởi mà sống hiệp thông với
nhau trong việc cầu nguyện, bẻ bánh, nhưng cũng phải có trong đời sống xã hội nữa.
Chỉ khi đó chúng ta mới làm cho giáo xứ và giáo phận chúng ta được nên giống Hội
Thánh của các Tông đồ, tức là Hội Thánh của chính Ðức Yêsu Kitô đã sống lại.
(Trích dẫn từ
tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố
Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Vui mừng vì thấy Chúa
Suy Niệm
“Chúng tôi đã được thấy Chúa”
Ðó là tiếng reo vui ngây ngất của các môn đệ.
Thầy Giêsu, người đã bị đóng đinh, chết và chôn cất,
nay bất ngờ hiện đến, đứng giữa họ thật gần gũi.
Ðộng từ “thấy” được nhắc đến 6 lần trong bài Tin Mừng này.
Thấy Thầy vẫn như xưa, với những dấu đinh và vết đâm.
Nhưng Thầy cũng khác xưa, nên không dễ nhận ra ngay.
Maria Macđala cứ tưởng Thầy là người làm vườn.
Ðể thấy được Chúa phục sinh, cần có đức tin.
Ai tin mới thấy, và thấy để rồi tin hơn.
Ðó là tiếng reo vui ngây ngất của các môn đệ.
Thầy Giêsu, người đã bị đóng đinh, chết và chôn cất,
nay bất ngờ hiện đến, đứng giữa họ thật gần gũi.
Ðộng từ “thấy” được nhắc đến 6 lần trong bài Tin Mừng này.
Thấy Thầy vẫn như xưa, với những dấu đinh và vết đâm.
Nhưng Thầy cũng khác xưa, nên không dễ nhận ra ngay.
Maria Macđala cứ tưởng Thầy là người làm vườn.
Ðể thấy được Chúa phục sinh, cần có đức tin.
Ai tin mới thấy, và thấy để rồi tin hơn.
“Phúc cho ai không thấy mà tin”
Chúng ta vẫn tin bao điều mình không thấy.
Các bạn trẻ vẫn tin vào tình yêu, tình bạn.
Các đôi vợ chồng vẫn tin vào sự chung thủy của nhau,
dù chẳng ai thấy rõ hết lòng dạ con người.
Tin không phải là một hành vi mù quáng, phi lý.
Tin chẳng hề làm hạ giá con người.
Trái lại, chỉ con người mới biết tin và dám tin.
Nhờ tin, tôi không còn bị giam trong thế giới chật hẹp
của cân đo đong đếm, của vật chất khả giác,
nhưng được đưa vào một thế giới phong phú hơn nhiều:
thế giới của những ngôi vị tự do, của chính Thiên Chúa.
Tin là chấp nhận bấp bênh, là có thể bị lừa.
Nhưng nếu không tin thì không thể sống được.
Vấn đề là tôi phải biết tôi đã tin vào ai.
Chúng ta vẫn tin bao điều mình không thấy.
Các bạn trẻ vẫn tin vào tình yêu, tình bạn.
Các đôi vợ chồng vẫn tin vào sự chung thủy của nhau,
dù chẳng ai thấy rõ hết lòng dạ con người.
Tin không phải là một hành vi mù quáng, phi lý.
Tin chẳng hề làm hạ giá con người.
Trái lại, chỉ con người mới biết tin và dám tin.
Nhờ tin, tôi không còn bị giam trong thế giới chật hẹp
của cân đo đong đếm, của vật chất khả giác,
nhưng được đưa vào một thế giới phong phú hơn nhiều:
thế giới của những ngôi vị tự do, của chính Thiên Chúa.
Tin là chấp nhận bấp bênh, là có thể bị lừa.
Nhưng nếu không tin thì không thể sống được.
Vấn đề là tôi phải biết tôi đã tin vào ai.
Khủng hoảng lớn nhất là khủng hoảng niềm tin:
niềm tin vào Thiên Chúa và niềm tin vào con người.
Cả hai niềm tin nâng đỡ nhau và cho tôi hạnh phúc.
Ông Tôma không tin vào lời chứng của các bạn,
nên ông chậm tin vào việc Chúa phục sinh.
Khi Chúa giúp ông lấy lại niềm tin vào Chúa,
ông sẽ gắn bó hơn nhiều với cả tập thể.
niềm tin vào Thiên Chúa và niềm tin vào con người.
Cả hai niềm tin nâng đỡ nhau và cho tôi hạnh phúc.
Ông Tôma không tin vào lời chứng của các bạn,
nên ông chậm tin vào việc Chúa phục sinh.
Khi Chúa giúp ông lấy lại niềm tin vào Chúa,
ông sẽ gắn bó hơn nhiều với cả tập thể.
Chúng ta là những kẻ không thấy mà tin.
Không thấy bằng mắt thường,
nhưng vẫn thấy bằng con mắt đức tin.
Tin là một cách thấy nghiêm túc.
Người tin là người thấy bằng trái tim.
Họ thấy được Ðấng Vô Hình rõ hơn cả cái hữu hình.
Kitô hữu là người tin Chúa, nên cũng là người thấy Chúa.
Thấy Thiên Chúa hiện diện như người Cha nhân từ.
Thấy Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa làm người trên trái đất,
sống chết chỉ vì say mê Cha và say mê con người
và đã sống lại để cho cuộc đời một ý nghĩa mới.
Thấy mọi người là con cái Cha và là anh em của nhau.
Không thấy bằng mắt thường,
nhưng vẫn thấy bằng con mắt đức tin.
Tin là một cách thấy nghiêm túc.
Người tin là người thấy bằng trái tim.
Họ thấy được Ðấng Vô Hình rõ hơn cả cái hữu hình.
Kitô hữu là người tin Chúa, nên cũng là người thấy Chúa.
Thấy Thiên Chúa hiện diện như người Cha nhân từ.
Thấy Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa làm người trên trái đất,
sống chết chỉ vì say mê Cha và say mê con người
và đã sống lại để cho cuộc đời một ý nghĩa mới.
Thấy mọi người là con cái Cha và là anh em của nhau.
Dù những điều chúng ta tin thật là mầu nhiệm,
nhưng đó không phải là chuyện mơ hồ, viễn vông.
Thế giới hôm nay chỉ tin vào những người đã thấy.
Ước gì chúng ta dám mạnh dạn tin Chúa hơn,
để có thể thấy Chúa tỏ tường hơn
và giúp người khác thấy điều mình đã thấy.
nhưng đó không phải là chuyện mơ hồ, viễn vông.
Thế giới hôm nay chỉ tin vào những người đã thấy.
Ước gì chúng ta dám mạnh dạn tin Chúa hơn,
để có thể thấy Chúa tỏ tường hơn
và giúp người khác thấy điều mình đã thấy.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng con
như Chúa đã gọi tên
chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng con
như Chúa đã gọi tên
chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc,
xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài
như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài
như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi,
xin hãy đến và đứng giữa chúng con
như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
xin hãy đến và đứng giữa chúng con
như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,
xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con
như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con
như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm
mà không được gì,
xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn,
như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
mà không được gì,
xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn,
như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra
cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
xin tỏ mình ra
cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao
Siêu, S.J.
Hãy tin
15/04/2012
Cv 4: 32-35; I Ga 5: 1-6; Ga 20: 19-31
Lm. Jude Siciliano, OP.
Học viện Đaminh chuyển ngữ
Kính thưa quí vị,
Quí vị có thực
sự chê trách Tôma không? Làm sao ông có thể chấp nhận những gì mà các môn đệ
khác đang nói với ông, “Chúng tôi đã nhìn thấy Chúa”? Ông Tôma có thể kinh nghiệm
được gì khác trong cuộc đời mình qua lời các môn đệ đang xác quyết? Những điều
mà các môn đệ đang nói với ông chẳng có chút ý nghĩa gì cả. Ở đây không phải là
vấn đề họ thân thiết thế nào với ông trong suốt khoảng thời gian cùng đồng hành
với nhau.
Khi một người
mà chúng ta yêu thương và tin tưởng lại nói một điều gì đó khiến người khác
nghi ngờ, thì chúng ta vẫn tin người thân của mình vì mối quan hệ mật thiết với
chúng ta. Nhưng có những điều không thể tin được – ngay cả khi những người thân
thiết nhất với chúng ta vẫn khăng khăng như thế. “Sự phục sinh từ cõi chết” được
liệt vào đầu danh sách những điều “không thể tin được”. Chẳng có ai hy vọng Đức
Giêsu sống lại – trước Người không có ai làm được như vậy nên chẳng có cơ sở gì
đáng tin là Người thực hiện được điều đó – mặc dù lời tuyên bố rất khẳng khái
được phát ra từ miệng các môn đệ rằng, “Chúng tôi đã nhìn thấy Chúa.”
Nhưng nếu Đức
Giêsu thực sự trỗi dậy, thì đó chỉ là trận bóng hoàn toàn mới mà thôi. Chẳng có
gì giống như trước cả. Các môn đệ của Người có lẽ đã nhìn về cuộc đời của họ và
cuộc sống nói chung theo một cách hoàn toàn mới lạ. Có lẽ họ lập lại những gì
mà họ nghe được từ Đức Giêsu nói trước đây, những điều đó thoạt đầu các môn đệ
cảm thấy khó nghe và vô lý, thì nay họ nghe lại với đôi tai mới và cách hiểu mới.
Chẳng hạn như: “Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất… Kẻ rốt hết sẽ lên hàng đầu,
người trước hết sẽ… Nếu hạt lúa không gieo vào lòng đất và chết đi, thì nó vẫn
trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, thì nó sẽ sinh nhiều bông hạt… Đi bán
tất cả những gì anh có và đem chia cho những người nghèo rồi đến đây theo tôi…”
Với lối nhìn của
thế gian những lời dạy như thế quả là ngây ngô và không thể nào thực hiện được.
Nhưng nếu các môn đệ của Đức Giêsu nói đúng và họ đã “nhìn thấy Chúa thật,” thì
mọi người và mọi vật phải được nhìn thấy qua lăng kính của sự phục sinh. Cuộc đời
mà Đức Giêsu đã sống và mời gọi các môn đệ đi theo thì bây giờ có thể thực hiện
được – nếu Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết, đúng như lời các môn đệ loan báo cho
ông Tôma.
Trình thuật về
sự hiện ra sau phục sinh của Gioan (và Luca) có chi tiết hơn của Máccô và
Mátthêu. Thánh Gioan viết cho những thế hệ muộn hơn, như chúng ta, là những người
không chứng kiến. Thánh Gioan viết cho những người muốn nói rằng, “Tôi ao ước
được có mặt ở đó thì dễ tin hơn nhiều.” Ông Tôma là một người phát ngôn giỏi
cho những lưu truyền của chúng ta, ông đã đưa nói thay cho những ngờ vực của chúng
ta. Vì Tôma nói ra những lời lẽ hết sức nghi ngờ, “Nếu tôi không thấy dấu
đinh…,” nên lời tuyên bố về niềm tin của ông đã thuyết phục chúng ta hơn. Những
anh chị em chính thống của chúng ta đã tạo cho mình một cảm nghiệm rất riêng và
thậm chí rất cảm động đối với Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần. Chúng ta không theo
truyền thống đó. Nhưng trong những tuần này, các câu chuyện phục sinh của chúng
ta vẫn dẫn dắt mọi người đến trải nghiệm rất riêng về Chúa Kitô với cách thức
khác nhau. Vài người gặp Chúa Kitô như một người họ nghĩ là xa lạ - Maria
Mađalêna trong khu vườn, hai môn đệ trên đường về Emmaus. Số khác được sức dầu
bởi Thánh Thần của Người và họ gặp Đức Kitô khi cầu nguyện với nhau. Phêrô và
Gioan có kinh nghiệm về quyền năng của Đức Kitô ở với họ khi chữa lành người
hành khất tàn tật khi họ vào Đền thờ (Cv 3, 1-10).
Ông Tôma, người
đa nghi, cuối cùng đến đối diện với Đức Kitô và thực hiện một hành động lớn lao
trong niềm tin, “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con.” Ông Tôma đã đi từ
hoài nghi đến xác tín. Nhờ thuyết hoài nghi của Tôma mà chúng ta biết được rằng
Đức Kitô không chỉ đơn thuần là hồn ma đi thăm lại chốn quen. Nhưng những vết
thương của Người là thực, lỗ đinh nơi người có thể đụng chạm được. Qua đó, Đức
Giêsu mời gọi ông Tôma và cả chúng ta hãy vượt lên trên việc tìm kiếm chứng có
thể đụng chạm được để “Tin”, dù không nhìn thấy.
Trong những
cách thức khác, mỗi người chúng ta đến để có kinh nghiệm về cái chết và sự phục
sinh của Đức Giêsu. Trong khi hầu hết chúng ta được rửa tội khi còn bé và niềm
tin của chúng ta ngay từ đầu được xây dựng trên những lời tuyên xưng của người
khác, chúng ta có thể tự chất vấn với chính mình rằng “Chúng ta đã nhìn thấy và
đụng chạm Chúa phục sinh theo cách riêng của mình như thế nào?”
Đối với một số
người, chúng ta gặp Đức Kitô qua Bí tích Hòa giải, ở đó chúng ta nghe những lời
tha thứ và bảo đảm nhận được cùng một sự chữa lành mà các môn đệ đã trải nghiệm
khi Chúa Giêsu xuất hiện ở giữa họ và nói, “Bình an cho anh em”. Chúng ta cũng
cảm nghiệm sự hiện diện sống động của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể qua việc
bẻ bánh, như hai môn đệ trên đường Emmaus đã trải qua. Những ai được rửa tội
trong đêm Vọng Phục sinh đều nói rằng họ đã cảm nhận, nhìn thấy và đụng chạm đến
Chúa Kitô phục sinh nơi những người dạy giáo lý và đỡ đầu cho họ, những người đồng
hành với họ trong hành trình đức tin.
Có lẽ chúng ta
đã gặp Chúa Kitô nơi một người đang hấp hối dù họ đón nhận niềm khi sự chết gần
kề. Hoặc là chúng ta đã đi qua một giai đoạn mất mát và thất bại nào đó, và rồi
nhận ra thấp thoáng hình ảnh của một sự sống mới đang mở ra trước mắt chúng ta.
Tình yêu của người khác dành cho chúng ta nhiều khi là những cảm nhận cụ thể
khiến chúng ta nhận ra rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết dường nào – nói
cách khác, trong nhiều trường hợp, chúng ta đã nhìn thấy và đụng chạm đến Thiên
Chúa.
Ngày nay tôi
mong muốn sống trong Giáo hội lý tưởng như là bức tranh mà thánh Luca đã vẽ về
Giáo hội thời sơ khai trong bài đọc Công vụ Tông đồ hôm nay. Ngài mô tả các
Kitô hữu đều “một lòng một ý.” Ngài nói rằng họ là một Giáo hội nơi đó không có
ai túng thiếu và mọi người đều chia sẻ của cải mình có, giống như một gia đình
hoàn hảo. Nghe như là gia đình Ozzie và Harriet kỳ cựu trước đây được trình chiếu
trên truyền hình. Không còn hận thù cá nhân, chẳng khác biệt tôn giáo hoặc
tranh chấp, cũng không có phân biệt giáo dân hay giáo sĩ, không còn bất lương,
cũng không tranh cãi về phụng vụ hay chủ nghĩa cá nhân,… Thánh Luca như đang mô
tả về các thụ tạo từ một hành tinh khác vậy! Chứ không phải tả về Giáo hội mà
chúng ta đang sống.
Quí vị đã hiểu
là thánh Luca muốn đang lý tưởng hóa cộng đồng Kitô giáo tiên khởi vì trong
chương kế tiếp (5,l-11) có hai thành viên của Giáo hội, Ananiô và Sapphira, họ
nói dối và lừa gạt, đang sắp đặt những chương trình giả trá từ việc bán của cải
trước mặt các Tông đồ. Họ đã chết vì việc làm sai trái này. Vì thế, qua cách kể
chuyện của mình, thánh Luca muốn giới thiệu đôi nét về thực trạng trong Giáo hội
sơ khai. Và chúng ta trả lời rằng, “Bây giờ thực trạng đó còn hơn thế nữa!”
Cũng vậy, thánh
Luca dường như đang trình bày với chúng ta một lý tưởng. Không cộng đoàn giáo xứ
hay tôn giáo nào, mà cũng chẳng chẳng phải vấn đề những thành viên cảm thấy
mình tốt ra sao, về các việc làm phụng vụ và những việc đạo đức của họ, lại là
nội dung mà thánh Luca nói về Giáo hội. Ngài ra như mô tả về những gì mà chúng
ta sẽ thấy, chẳng hạn cộng đoàn các môn đệ của Đức Giêsu sống động nhờ Thần Khí
của Người. Khi lắng nghe mô tả của ngài về cộng đoàn Kitô hữu ấy, chúng ta chỉ
có thể nói với chính mình rằng “Chúng ta có nhiều chỗ cần cải thiện”.
Có những giai
đoạn chúng ta rất tự hào về giáo xứ của mính. Chúng ta dường như đã phản chiếu
rất tốt hình ảnh về Đức Giêsu. Nhưng lại có những thời gian, chúng ta biết rằng
mình còn một con đường dài để đi. Ý thức về những thiếu xót của mình, chúng ta
chuẩn bị cho ngày Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, một lần nữa chúng ta lại cầu
nguyện cho Giáo hội, “Xin Chúa Thánh Thần ngự đến, giúp chúng con dễ dàng nhận
ra một cộng đoàn các môn đệ của Đức Giêsu Kitô. Giúp chúng con tha thứ cho
nhau, quan tâm đến những nhu cầu của nhau và đồng tâm nhất trí vui mừng cử hành
các phụng vụ ngợi ca và chúc tụng”.
ĐỨC TIN
Năm B – 15-04-2012
Tin Mừng: Ga 20, 19-31
Ông bà ta có câu: “Trăm nghe không bằng một thấy”, hay “Thấy mới tin”. Thật
vậy, những gì có thể kiểm chứng bằng giác quan thì chúng ta sẽ tin và tin cách
dễ dàng. Nhưng những gì không thể kiểm chứng bằng giác quan thì chúng ta không
tin; hoặc giả như có tin, thì cũng chỉ tin là tin “vừa phải”, hay bán tín bán
nghi.
Vậy, chẳng có gì đáng
ngạc nhiên khi thánh Tôma không những không tin vào lời các tông đồ khác, mà
còn đòi được kiểm chứng Đức Giêsu phục sinh: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay
vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.
Như chúng ta biết,
trong năm giác quan, thị giác và xúc giác là hai giác quan quan trọng nhất để
giúp ta nhận biết một người hay một sự vật. Do đó, nếu Đức Giêsu đã thực sự sống
lại, thì thánh Tôma đòi hỏi phải thấy và sờ để chắc chắn đó là chính Chúa Giêsu chịu
đóng đinh và chịu chết trên thập giá.
Vậy, đòi hỏi của thánh Tôma là một đòi hỏi chính đáng,
một đòi hỏi trong đức tin và chân lý. Vì thế, tám ngày sau, Đức Giêsu hiện đến
và nói với Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy
nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy”.Rồi Người vừa
trách khéo vừa mời gọi và khích lệ ông: “Đừng
cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Trước sự hiện diện của Đức Giêsu phục
sinh, thánh Tôma vỡ òa niềm vui, và trong đức tin được kiện toàn, ngài reo lên:
“Lạy Chúa của con, lạy Thiên
Chúa của con!”. Vì thế, Đức Giêsu âu yếm nhìn Tôma và nói: “Vì đã thấy Thầy nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà
tin!”.
Như thế, Đức Giêsu đã cho Tôma biết rằng phép lạ, tuy
là cần thiết, nhưng không phải là tất cả, không phải là tuyệt đối; và nhiều
khi, đó chỉ là phần thưởng cho những người đã tin. Một đức tin kiện cường, đúng
nghĩa thì không cần đến phép lạ: “Phúc
cho những người không thấy mà tin!”.
Vậy, qua thánh Tôma, Đức Giêsu nói với chúng ta là tất
cả những người tin, rằng: đức tin không dựa trên những kinh nghiệm cụ thể về Đức
Giêsu phục sinh hiện ra, hay việc thấy phép lạ, nhưng dựa trên lời chứng của
các tông đồ là những người đã thấy. Và vì vậy, qua lời chứng của các tông đồ, “phúc
cho những người không thấy mà tin!”.
Nhìn lại cuộc đời,
chúng ta không khỏi giật mình khi thấy đức tin chúng ta còn yếu kém và thực dụng
quá. Vậy nhờ lời chuyển cầu của thánh Tôma, chúng ta hãy xin Chúa Kitô Phục
Sinh kiện toàn lòng tin cho chúng ta, để giữa trăm chiều thử thách của cuộc đời,
chúng ta được kiên vững, được giữ mãi niềm tin sắt son; nhờ đó, chúng ta được
trở nên những người đáng hưởng phần phúc Chúa Kitô phục sinh trao tặng; hầu qua
đó, chúng ta được trở nên những chứng nhân trung thành của Chúa Kitô phục sinh
giữa lòng thế giới hôm nay.
Gợi ý chia sẻ
1. Anh chị cảm nghiệm
thế nào về sự hiện diện của Chúa Kitô phục sinh trong cuộc đời mình?
2. Là đoàn viên Đa
Minh, anh chị áp dụng bài Tin Mừng hôm nay vào cuộc sống cụ thể của mình như thế
nào?
Học viện Đa Minh
(CSTMHĐGDĐM tháng
4.2012
Phúc
thay những người không thấy mà tin! (Ga 20,29)
Suy niệm:
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người,
nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người,
tôi chẳng có tin”.
Với Tôma, ông chỉ còn chờ thập giá mà
thôi. Khi Chúa Giêsu đề nghị đến Bêtania lúc được tin Ladarô bị bệnh, Tôma phản
ứng : "Chúng ta hãy tới đó để cùng chết với Ngài". Tôma không thiếu
can đảm, nhưng ông có tính bi quan. Không ai nghi ngờ việc Tôma rất yêu Chúa
Giêsu. Ông yêu Ngài đủ để sẵn sàng cùng đi với Ngài lên Giêrusalem, sẵn sàng để
chết trong khi các môn đệ khác phân vân, sợ hãi. Điều mà Tôma chờ đợi đã xảy
ra, và khi việc xảy ra như ông chờ đợi thì lòng ông vẫn đau đớn vô cùng. Ông
đau đớn đến độ không muốn nhìn mặt ai nữa, ông ở riêng với niềm đau của mình.
Tôma phải đối diện với nỗi đau buồn của
ông trong cô đơn. Vì thế, khi Chúa Giêsu trở lại với các môn đệ thì ông không
có mặt. Với ông, tin báo Chúa Giêsu đã sống lại là một tin dường như quá tốt
lành đến độ không thể có thật, vì thế ông đã không chịu tin. Với tâm trạng phân
vân do bản tính bi quan, ông tuyên bố chẳng bao giờ ông tin Chúa Giêsu sống lại
từ cõi chết cho đến khi thấy tận mắt, đặt ngón tay ông trên dấu đinh trên tay
Chúa và đặt bàn tay ông vào chỗ mũi giáo đã đâm nơi hông Ngài (Kinh Thánh không
chép gì về các vết thương nơi bàn chân Chúa Giêsu , vì trong hình phạt đóng
đinh vào thập giá, đôi chân không bị đóng đinh, chỉ cột hờ vào đó mà thôi).
Thêm một tuần lễ trôi qua, lần này thì
Tôma có mặt với các môn đệ khác. Chúa Giêsu biết rõ tấm lòng của Tôma. Ngài lặp
lại lời ông và mời ông tự làm cuộc trắc nghiệm mà ông từng đòi hỏi. Bấy giờ,
lòng Tôma tuôn tràn ra tình yêu thương và lòng tôn thờ, ông chỉ có thể thốt
lên: "Lạy Chúa tôi, lạy Chúa Trời tôi". Chúa Giêsu nói với ông:
"Tôma ơi, ngươi cần thấy tận mắt rồi mới chịu tin, nhưng sẽ có lúc người
ta chỉ thấy bằng đôi mắt của đức tin và tin nhận". Tôma muốn thấy rồi mới
tin nhưng Chúa Giêsu lại muốn ông hãy tin rồi ông sẽ được thấy. Trong câu truyện
này tâm tánh của Tôma đã bộc lộ rõ ràng trước mắt chúng ta:
Tôma đã phạm một lỗi lầm. Ông đã rút lui
khỏi các buổi họp mặt hiệp thông của các môn đệ. Ông tìm sự cô đơn hơn là họp
nhau lại. Và vì không có mặt với các bạn nên ông mất cơ hội gặp Chúa Giêsu lúc
Ngài đến lần thứ nhất. Chúng ta sẽ mất mát nhiều nếu tự tách mình ra khỏi sự hiệp
thông với các Kitô hữu khác để tìm cách sống cô đơn. Nhiều điều có thể xảy đến
khi chúng ta cùng nhóm họp hiệp thông với nhau trong Giáo Hội Chúa nhưng sẽ
không xảy ra nếu chúng ta sống cô đơn. Khi gặp cảnh đau buồn, chúng ta thường
có khuynh hướng muốn đóng cửa lại nhốt mình riêng một nơi, không muốn gặp ai cả.
Nhưng chính những lúc như thế, mặc dầu đau buồn, chúng ta nên tìm thông hiệp với
các môn đệ khác, vì trong sự thông hiệp đó chúng ta có cơ may gặp Chúa mặt đối
mặt nhiều hơn cả.
Nhưng Tôma có hai đức tính lớn. Ông nhất
định không chịu nói là mình tin khi ông không tin, không bao giờ nói là mình hiểu
trong khi ông không hiểu. Ông có thái độ thành thật bất khả khoan nhượng. Ông
không hề đè nén sự nghi ngờ của mình xuống bằng cách làm như mình không hề nghi
ngờ. Tôma không thuộc loại người không chịu thông qua bài tín điều khi chưa hiểu
nó dạy gì. Ông muốn biết chắc mọi sự, và thái độ này của ông hoàn toàn đúng. Một
người đòi hỏi cho chắc chắn thì có đức tin vững vàng hơn kẻ chỉ lặp lại như con
vẹt những điều mình chẳng bao giờ suy nghĩ đến, không thật sự tin tưởng. Chính
sự hoài nghi như thế cuối cùng sẽ đạt đến chỗ tin chắc.
Đức tính kia của Tôma là khi đã biết chắc
chắn, ông sẽ đi cho đến cùng. Ông nói: "Lạy Chúa tôi, lạy Chúa Trời
tôi". Với Tôma không có vị trí lưng chừng. Ông không làm bộ hoài nghi chỉ
nhằm chơi trò xiếc tinh thần, ông nghi ngờ vì muốn trở thành người biết chắc,
và khi đã biết chắc rồi, ông hoàn toàn tuân phục. Khi một người chiến đấu với
những nỗi hoài nghi để đi đến chỗ tin tưởng, xác quyết Giêsu là Chúa, người ấy
đã đạt được sự chắc chắn mà những người dễ chấp nhận không suy nghĩ sẽ chẳng
bao giờ đạt được.
Nơi Tôma, có cái gì rất đáng yêu, đáng
ngưỡng mộ. Với Tôma, có đức tin không phải là chuyện dễ, ông không bao giờ sẵn
sàng vâng lời ngay. Tôma là người muốn biết chắc chắn, ông tính thật kỹ giá phải
trả. Một khi đã biết chắc, ông nhất quyết tin và vâng phục cho đến cùng. Đức
tin như Tôma tốt hơn loại đức tin bằng đầu môi chót lưỡi, vâng lời như Tôma vẫn
tốt hơn cái gật đầu dễ dàng đồng ý nhận làm việc gì đó mà không cân nhắc, để rồi
sau đó rút lại điều mình đã hứa.
Cầu nguyện:
Lạy
Chúa Giêsu, Chúa đã sống đến cùng công cuộc Vượt Qua của Chúa: Vượt qua đau khổ
sự chết để được vào vinh quang sống lại. Xin cho chúng con biết sống mầu nhiệm
Vượt Qua mỗi ngày: Vượt qua những ích kỷ, nhỏ nhen và những đam mê đang kéo ghì
chúng con xuống bùn đen tội lỗi, vượt qua những nỗi sợ hãi khổ đau và nhục nhã.
Vượt qua những nỗi khắc khoải đa nghi và những thành kiến về người khác.
Lạy
Chúa, Chính sự phục sinh của Chúa sẽ động viên chúng con vui mừng và can đảm vượt
qua những mất mát thua thiệt gặp phải trong cuộc sống. Ước gì chúng con biết
noi gương Chúa, luôn gieo rắc sự bình an và hy vọng khắp nơi, gieo rắc niềm an ủi
cho những người bệnh hoạn tật nguyền, gieo tình thương và cơm bánh cho những
người cô đơn đói khát. Nhờ đó, thế giới này sẽ sớm vượt qua để trở nên một Trời
Mới Đất Mới, đầy tình thương, bình an và hạnh phúc như lòng Chúa mong muốn.
15/04/12 CHÚA NHẬT TUẦN
2 PS – B
Kính Lòng Chúa ThươngXót
Ga 20,19-31
Kính Lòng Chúa Thương
VÌ TIN NÊN THẤY
Ông Tôma thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Đức Giêsu bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,28-29)
Suy niệm: Ta hay nói: cứng lòng tin như Tôma. Thật là oan cho ông Tôma! Bởi vì các tông đồ khác cũng chẳng hơn gì: Các ông cũng được xem tay và cạnh sườn Chúa (x. Ga 20,20) mà có ông còn sợ tưởng mình thấy ma (x. Lc 24,37). Trái lại, phải cám ơn Tôma, vì nhờ ông mà ta hiểu rằng tin vào Đức Kitô phục sinh không phải là điều dễ dàng chút nào. Ít ra cũng có người tỉnh táo như ông: đòi mắt phải thấy, tay phải đụng chạm vào các lỗ đinh của Đức Giêsu thì mới chịu tin. Nhờ đó, ta thấy niềm tin vào sự kiện Chúa phục sinh là có cơ sở, đáng tin cậy bởi vì chính cá nhân ông đã kiểm chứng. Thế mà niềm tin của ta lại dựa vào những chứng nhân như ông.
Mời Bạn củng cố niềm tin vào Đức Kitô phục sinh, niềm tin quan trọng nhất của cuộc đời người Kitô hữu. Tôma đòi thấy mới tin, còn bạn, vì tin nên thấy: vì tin Đức Giêsu phục sinh nên thấy Người đang sống giữa nhân loại, đang hiện diện trong bí tích Thánh Thể, đang hiện thân nơi những người anh em, chị em chung quanh.
Sống Lời Chúa: 1. Ý thức Chúa Kitô phục sinh đang sống với tôi, đang yêu mến nhìn tôi và giúp tôi sống Tin mừng Phục sinh trong đời thường của mình. 2. Mỗi ngày làm một nghĩa cử bác ái như một hành động loan báo Tin Mừng Phục sinh cho một người lân cận.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa nói với chúng con: “Phúc thay những ai không thấy mà tin”. Xin cho chúng con tin, dù không thấy Chúa, và vì tin, nên nhìn thấy Chúa đang hiện diện, đang thi ân giáng phúc cho chúng con. Amen.
Ông Tôma thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Đức Giêsu bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,28-29)
Suy niệm: Ta hay nói: cứng lòng tin như Tôma. Thật là oan cho ông Tôma! Bởi vì các tông đồ khác cũng chẳng hơn gì: Các ông cũng được xem tay và cạnh sườn Chúa (x. Ga 20,20) mà có ông còn sợ tưởng mình thấy ma (x. Lc 24,37). Trái lại, phải cám ơn Tôma, vì nhờ ông mà ta hiểu rằng tin vào Đức Kitô phục sinh không phải là điều dễ dàng chút nào. Ít ra cũng có người tỉnh táo như ông: đòi mắt phải thấy, tay phải đụng chạm vào các lỗ đinh của Đức Giêsu thì mới chịu tin. Nhờ đó, ta thấy niềm tin vào sự kiện Chúa phục sinh là có cơ sở, đáng tin cậy bởi vì chính cá nhân ông đã kiểm chứng. Thế mà niềm tin của ta lại dựa vào những chứng nhân như ông.
Mời Bạn củng cố niềm tin vào Đức Kitô phục sinh, niềm tin quan trọng nhất của cuộc đời người Kitô hữu. Tôma đòi thấy mới tin, còn bạn, vì tin nên thấy: vì tin Đức Giêsu phục sinh nên thấy Người đang sống giữa nhân loại, đang hiện diện trong bí tích Thánh Thể, đang hiện thân nơi những người anh em, chị em chung quanh.
Sống Lời Chúa: 1. Ý thức Chúa Kitô phục sinh đang sống với tôi, đang yêu mến nhìn tôi và giúp tôi sống Tin mừng Phục sinh trong đời thường của mình. 2. Mỗi ngày làm một nghĩa cử bác ái như một hành động loan báo Tin Mừng Phục sinh cho một người lân cận.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa nói với chúng con: “Phúc thay những ai không thấy mà tin”. Xin cho chúng con tin, dù không thấy Chúa, và vì tin, nên nhìn thấy Chúa đang hiện diện, đang thi ân giáng phúc cho chúng con. Amen.
Chủ Nhật II Phục Sinh, Năm B
Bài đọc: Acts 4:32-35; I Jn 5:1-6;
Jn 20:19-31.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Hậu quả của niềm tin
vào Chúa sống lại.
Tin thế nào sống thế ấy: Nếu không tin vào sự sống lại, con người sẽ chỉ biết sống
theo những giá trị đời này; nhưng nếu tin vào sự sống lại của Đức Kitô, con người
sẽ sống theo những giá trị mà Ngài răn dạy. Niềm tin vào sự sống lại không những
giúp con người vượt qua những đau khổ của cuộc sống, mà còn biết giúp con người
biết tuân giữ những gì Chúa dạy.
Các Bài Đọc hôm nay cho thấy sự quan trọng của niềm tin vào sự sống lại của Đức
Kitô. Trong Bài Đọc I, niềm tin vào Chúa phục sinh giúp các tín hữu đầu tiên biết
yêu thương nhau; họ bỏ mọi sự làm của chung, để không ai phải thiếu thốn gì cả.
Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Gioan I, xác nhận: Ai yêu mến Thiên Chúa, cũng
yêu mến Đức Kitô, Con Thiên Chúa; và nếu ai yêu mến Thiên Chúa, cũng thắng thế
gian, vì thế gian từ chối không nhận biết Ngài. Trong Phúc Âm, tác giả tường
thuật hai lần Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ: Lần đầu không có sự hiện diện
của Thomas, Chúa ban bình an và sai các ông đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người.
Lần thứ hai, Chúa hiện đến với các tông đồ và có sự hiện diện của Thomas. Ngài
thách thức ông hãy xỏ ngón tay ông vào các lỗ đinh đóng của Ngài, để ông tin
Chúa vẫn sống.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Sức
mạnh của niềm tin vào Chúa sống lại
1.1/ Các tín hữu bỏ mọi sự làm của chung: Chủ nghĩa cộng sản mơ ước có được một
mô hình lý tưởng này; nhưng họ đã thất vọng ê chề, vì con người có thói quen vơ
vét. Họ dám lấy ngay cả của chung để làm của riêng. Mấy chục năm qua, người cộng
sản chẳng những đã không thực hiện được mơ ước “thiên đàng trần gian;” mà còn
làm cho những bất công xã hội ra nặng nề hơn.
Trình thuật của Sách TĐCV đề cập tới mô hình lý tưởng của cộng đòan các tín hữu
đầu tiên: “Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một
ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của
chung.” Để làm được điều này, các tín hữu phải có niềm tin vững mạnh nơi sự
quan phòng của Thiên Chúa và nhất là niềm tin vào Đức Kitô sống lại. Nếu Thiên
Chúa đã quan phòng mọi sự, tại sao phải lo lắng đến ngày mai? Nếu Đức Kitô đã
chinh phục sự chết, còn uy quyền nào lớn hơn uy quyền của Thiên Chúa? Nhờ quyền
năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giêsu đã sống lại. Và
Thiên Chúa ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng.
1.2/ Mọi người đều có đủ dùng: “Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất
cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân
các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu.” Lý do
chính giúp các tín hữu đầu tiên có thể làm được chuyện này là niềm tin vào sự sống
lại. Truyền thống Do-thái tin hạnh phúc có được là chỉ ở đời này. Gần thời của
Chúa, niềm tin vào đời sau bắt đầu được đề cập đến, nhưng chưa rõ ràng lắm
(Sách Daniel và Macabbees). Khi Chúa Giêsu đến, Ngài làm sáng tỏ quan niệm này
bằng dạy dỗ (Jn 6:39-40) và chứng minh bằng cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Nếu các tín hữu tin có sự sống lại, họ sẽ không quyến luyến quá nhiều vào của cải
vật chất nữa, nhưng biết sống làm sao để đạt hạnh phúc đời sau.
Trong xã hội con người, bất công xã hội thường xảy ra: Người giầu có, có quá
nhiều, đến chỗ dư thừa; người nghèo khó, thiếu quá nhiều, đến nỗi hóa bần cùng.
Cả hai hạng người đều có lý do để biện minh cho mình. Người giầu đưa lý do: tôi
làm ăn lương thiện, không ăn cắp của ai, và xứng đáng được hưởng những gì do
tay tôi làm ra. Người nghèo trả lời: “Ở đời muôn sự của chung.” Tất cả là của
Thiên Chúa ban cho con người, và mọi người đều là con cái Thiên Chúa. Con người
không phải là chủ nhân, nhưng chỉ là quản lý của những của cải. Chúng tôi
nghèo, không phải vì chúng tôi lười biếng, nhưng vì không có cơ hội để làm ăn.
Hãy cho chúng tôi cơ hội, chưa chắc chúng tôi đã túng nghèo như vậy. Thực ra, để
giải quyết bất công xã hội và cho mọi người có cơ hội đồng đều, Thiên Chúa đã
thiết lập năm Jubilee, xảy ra mỗi 50 năm (x/c Lev 25). Trong năm này, mọi ruộng
đất tài sản phải được trả về cho chủ nhân cũ, vì quá túng nghèo mà phải bán đi.
Mục đích của năm này là để mọi người đều có cơ hội làm lại cuộc đời.
2/
Bài đọc II: Yêu mến Thiên Chúa và thi hành các
điều răn của Người.
2.1/ Ai yêu mến Thiên Chúa, cũng yêu mến Đức Kitô: Có một sự hợp lý tòan vẹn
trong đạo lý của Đức Kitô: Ai yêu Thiên Chúa, người đó cũng phải yêu những kẻ
được Đấng ấy sinh ra, các con Thiên Chúa; cách riêng: Đức Giêsu Kitô. Vì thế,
khi người nào nói mình yêu Thiên Chúa, người ấy cũng phải yêu Đức Kitô và tha
nhân. Chúa Giêsu đã từng tranh luận với người Do-thái về điểm này khi Ngài nói:
“Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến tôi, vì tôi phát
xuất từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa mà đến. Thật thế, tôi không tự mình mà đến,
nhưng chính Người đã sai tôi” (Jn 8:42).
Yêu Thiên Chúa không chỉ bằng lời nói, nhưng phải biểu tỏ bằng việc làm. Thánh
Gioan khuyên nhủ các tín hữu: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được mình yêu
thương con cái Thiên Chúa: đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thi hành các điều
răn của Người. Quả thật, yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người.
Mà các điều răn của Người có nặng nề gì đâu.”
2.2/ Ai tin vào Đức Kitô là thắng thế gian: Để hiểu điều này, chúng ta cần phải
phân biệt các ý nghĩa khác nhau khi Gioan nói về thế gian (ko,smoj): (1) thế gian là trái
đất, nơi con người sinh sống; (2) tất cả con người, nhất là những người chống lại
Thiên Chúa; (3) cách sống hay tiêu chuẩn giá trị của thế gian, nhất là những
tiêu chuẩn đối nghịch với Thiên Chúa; và (4) đồ trang sức (1 Pe 3.3). Theo văn
mạch, tác giả có lẽ ám chỉ theo nghĩa (3) của thế gian ở đây: “Ai là kẻ thắng
được thế gian, nếu không phải là người tin rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa?
Chính Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu; không phải chỉ trong nước
mà thôi, nhưng trong nước và trong máu. Chính Thần Khí là chứng nhân, và Thần
Khí là sự thật.” Những người chống Thiên Chúa là những người không tin Đức Kitô
được Thiên Chúa sai đến, hay những người chỉ tin vào thiên tính, hay vào nhân
tính của Người. Hơn nữa, Gioan còn nhấn mạnh: “Và điều làm cho chúng ta thắng
được thế gian, đó là lòng tin của chúng ta.”
3/
Phúc Âm: Phúc
thay những người không thấy mà tin.
3.1/ Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ, lúc không có Thomas.
(1) Bình an của Chúa Giêsu: Sự lo lắng và sợ sệt làm con người bất an, như
trình thuật kể tâm trạng của các tông đồ vào những ngày sau khi Chúa chết: “Vào
chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng
kín, vì các ông sợ người Do-thái.” Đang khi các ông hoảng hốt lo sợ như thế, Đức
Giêsu biết rõ các ông cần điều gì nhất. Ngài đến, đứng giữa các ông và nói:
"Bình an cho anh em! Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các
môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.”
Bình an các ông có được là nhờ tin Đức Kitô sống lại. Các ông tưởng sẽ không
bao giờ còn được nhìn thấy Ngài nữa, và còn đang bị khủng hoảng bởi những việc
mới xảy ra; nhưng giờ đây các ông vui mừng vì được thấy Ngài bằng xương bằng thịt.
Hơn nữa, Ngài còn chứng minh cho các ông biết tất cả những gì Ngài đã nói với
các ông là sự thật, tất cả những gì Ngài tiên báo về Cuộc Khổ Nạn của Ngài đều
hiện thực. Sự hiện diện của Đức Kitô mang lại cho các ông sự bình an đích thực
trong tâm hồn, vì Ngài bảo đảm cho các ông uy quyền và tình yêu của Thiên Chúa,
được biểu lộ qua Đức Kitô.
(2) Lệnh được sai đi: Khi Đức Kitô chọn các tông đồ, Ngài muốn các ông tiếp tục
thi hành sứ vụ Ngài đã khởi sự; nên Người lại nói với các ông: “"Bình an
cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." Nói xong,
Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em
tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm
giữ."” Sự bình an các tông đồ có được, không phải chỉ do sự hiện diện của
Đức Kitô, nhưng còn do sự hiện diện và quyền năng của Thánh Thần, mà Đức Kitô
đã thổi hơi vào các tông đồ. Với sự bình an và quyền năng của Thánh Thần, Ngài
sai các ông đi rao giảng Tin Mừng. Trước đây, sự lo lắng và sợ hãi làm cho các
ông không dám sống và làm chứng cho sự thật; nhưng giờ đây, sau khi đã cảm nhận
được sự bình an qua niềm tin vào Chúa sống lại và sức mạnh của Thánh Thần; các
tông đồ mở tung cửa đi vào thế giới và làm chứng cho Đức Kitô. Các ông biết nếu
Đức Kitô đã chinh phục kẻ thù ghê gớm nhất là sự chết, còn gì phải sợ nữa.
3.2/ Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ, có cả Thomas.
(1) Sự cứng lòng của Thomas: “Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Thomas,
cũng gọi là Didymus, không ở với các ông khi Đức Giêsu đến. Các môn đệ khác nói
với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Thomas đáp: "Nếu tôi
không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không
đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin."
Chúng ta đừng vội trách Thomas, vì các
tông đồ khác cũng từng cứng lòng như ông khi họ chưa nhìn thấy Chúa. Tuy nhiên,
cách thức “khi nhìn thấy mới tin” chỉ là một trong nhiều cách thức con người
dùng để tin một điều là sự thật.
(2) Phản ứng của Thomas khi nhìn thấy Chúa: "Tám ngày sau, các môn đệ của
Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Thomas ở đó với các ông. Các cửa đều
đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh
em." Rồi Người bảo ông Thomas: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem
tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy
tin."
Ông Thomas thưa Người:
"Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!" Đức Giêsu bảo: "Vì
đã thấy Thầy, nên anh tin. " Lời thưa của Thomas không đơn thuần chỉ là niềm
tin vào Chúa sống lại; nhưng là lời tuyên xưng Đức Kitô là Thầy và là Thiên
Chúa của ông. Tin khi đã thấy là cách thức thấp nhất con người dùng khi muốn
tin điều gì là thật; nhưng Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến những cách thức cao
hơn, khi Ngài nói: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” Con người có thể
tin Thiên Chúa qua các việc Ngài làm trong vũ trụ, hay qua Kinh Thánh, hay qua
lời chứng của các chứng nhân. Lề Luật Do-thái chỉ đòi lời của 2 chứng nhân có
thế giá. Chúng ta đã có hàng triệu chứng nhân đã làm chứng cho sự phục sinh của
Thiên Chúa.
ÁP
DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tin thế nào, sống như vậy. Nếu chúng ta tin vào Đức Kitô, hãy sống những gì
Ngài dạy; đừng sống như những người chỉ tin vào cuộc sống đời này.
- Niềm tin vào sự phục sinh của Đức Kitô phải giúp chúng ta vượt qua những lo lắng,
buồn phiền, và sợ sệt của cuộc sống. Nếu một Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến
độ ban cho chúng ta Người Con Một của Ngài, còn gì quí giá hơn có thể ban mà
Ngài từ chối không ban cho chúng ta. Nếu một Thiên Chúa uy quyền đến độ chinh
phục được kẻ thù ghê gớm nhất của con người là sự chết, chúng ta còn phải sợ
hãi gì nữa?
- Hãy đặt niềm tin hoàn toàn nơi Thiên Chúa, chúng ta mới có được sự bình an
đích thực của Ngài. Sự bình an này sẽ giúp chúng ta biết sống và làm chứng cho
Đức Kitô phục sinh.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************
Lời Chúa Trong Gia Đình
CHÚA NHẬT II PHỤC SINH, CUỐI TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH;
Cv 4, 32-35; 1Ga 5, 1-6; Ga: 20, 19-31.
LỜI SUY NIỆM: “Còn những điều đã được
chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để
anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người (Ga 20,31)
Khi chúng
ta cầm đến Sách Phúc Âm, chúng ta phải có tâm tình tôn kính yêu mến và tin là:
chúng ta đang đàm đạo với Chúa Giêsu dưới sự khai sáng của Chúa Thánh Thần giúp
chúng ta khám phá ra khuôn mặt Tình Yêu.
Chính nhờ
những lúc gần gũi và đàm đạo này giúp cho chúng ta gắn bó trong tình yêu với
Ngài và giúp cho cuộc sống của bản thân mình càng ngày càng thăng tiến trong thờ
phượng, trong cầu nguyện, trong tạ ơn và trong mọi công việc phục vụ tha nhân.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
15 Tháng Tư
Hoàng Tử Tí Hon
Trong một chuyện ngắn
mang tựa đề "Hoàng tử tí hon', văn hào Pháp Saint Exupery cókể lại chuyện
như sau: Máy bay trục trặc, ông đã phải đáp xuống giữa sa mạc Sahara .
Sáng hôm sau, khi thức dậy, ông thấy có một cậu bé luẩn quẩn bên cạnh mình. Cậu
bé cứ nài nỉ ông vẽ cho cậu một con cừu.
Viên phi công đành phải
chiều theo ý của cậu bé. Nhưng con cừu đầu tiên ông vẽ được lại là một con cừu
già nua. Không vừa ý, ông lại tiếp tục vẽ. Nhưng kết quả chỉ là một con cừu bệnh
hoạn. Không biết cách nào làm vừa lòng cậu bé, ông mới vẽ một cái họp với nhiều
lỗ xung quanh và nói với cậu: "Con cừu đang ở trong cái hộp này bé ạ".
Viên phi công ngạc
nhiên vô cùng, bởi vì ông vừa giait thích thìcậu đã reo lên: "Ðây chính là
điều mà cháu đang chờ đợi... Xem kìa, con cừu đang ngủ". Nhờ một cái hộp
như thế, cậu bé tha hồ tưởng tượng theo ý thích của nó. Nó còn tin rằng cái hộp
này quả thực là hữu ích vì con cừu mà nó chưa bao giờ thấy vẫn có nơi trú ngụ.
Trong cuộc sống của
chúng ta, có lẽ cũng có nhiều điều tương tự xảya như thế. ngay trong Giáo Hội của
chúng ta, cũng xảy ra nhiều điều như thế.
Có lẽ lắm khi chúng ta
cũng xin Chúa Giêsu hãy vẽ cho chúng ta một Giáo Hội, và Ngài đã chiều theo ý của
chúng ta. Ngài đã vẽ cho chúng ta một Giáo Hội. Ngài đã để lại cho chúng ta nhiều
yếu tố về Giáo Hội của Ngài. Giáo Hội ấy chẳng khác nào một bức tranh mà các
màu sắc được phân tán rải rác khắp nơi... Nơi đây, ngài bảo rằng Giáo Hội của
Ngài là Ánh Sáng muôn dân. Nơi khác nữa, ngài lại loan báo rằng Giáo Hội đó như
một cây vĩ đại có thể dùng làm chỗ cho chim trời đến đậu.
Dĩ nhiên ai trong chúng
ta ai cũng biết rằng Giáo Hội không phải là Ðức Giáo Hoàng, Giáo Hội không phải
là tòa thánh Vatican .
Giáo Hội lại càng không phải là một vị giám mục hay các linh mục... Giáo Hội của
Ðức Kitô là một thực tại gồm những con người, nhưng lại vượt lên trên những con
người.
Bổn phận của mỗi người
Kitô chính là vẽ lại khuôn mặt của Giáo Hội. Giáo Hội đó có thực sự là Giáo Hội
của Ðức Kitô hay không, Giáo Hội đó có thực sự là Giáo Hội của người nghèo hay không
là tùy thuộc ở những nét điểm tô mà chúng ta dành cho Giáo Hội.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lòng Chúa Thương Xót của Chúa Kitô Phục
Sinh
Chúa Nhật II Phục Sinh
LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA ĐỨC KITÔ PHỤC SINH
Trang Vietcatholic.net, ngày 10.4 vừa qua, có đăng mẫu tin nhan đề: “Trên đài truyền hình quốc gia, Hugo Chavéz khóc lóc xin Chúa tha tội”. Đây là một chuyện lạ. Chuyện lạ, vì theo bản tin, tổng thống Hugo Chavéz đeo một chuỗi tràng hạt như một người Công Giáo mộ đạo, và đứng trên bục giảng vừa khóc, vừa nói trước mặt các linh mục đồng tế trong Thánh lễ và anh chị em giáo dân những lời như sau: "Lạy Chúa xin cho con cuộc sống, thậm chí là một cuộc sống bị thiêu đốt, hoặc đau đớn đi nữa cũng không quan trọng [miễn còn sống là được]". "Lạy Chúa Kitô, cứ trao cho con mão gai của Ngài... đưa nó cho con, con sẽ mang lên dù chảy máu... xin cho con thánh giá của Chúa, một trăm thánh giá đi nữa con cũng chịu vác, nhưng xin cho con cuộc sống bởi vì còn có nhiều thứ con chưa làm xong... đừng bắt con đi bây giờ."
Căn bệnh ung thư giai đoạn 3 mà ông đang mang phải chăng cũng chính là “lòng thương xót” mà Đức Kitô muốn gởi trao cho ông để ông biết trân quý hồng ân sự sống, điều mà trước đây ông đã từng coi rẻ (ông là vị tổng thống độc tài, từng cổ vũ cho việc phá thai). Căn bệnh ung thư cũng là cơ hội để ông tìm về với lòng thương xót Chúa để được thứ tha, để được chữa lành. Vì cũng trong quá khứ, ông đã từng là người “nhiệt thành” công khai lên án Giáo Hội, cũng như đả kích và lăng mạ hàng Giám mục Vênêzuela.
Lời thú tội và van xin sự tha thứ trên đây của tổng thống Hugo Chavéz có thể nói là một chứng từ làm sáng lên sứ điệp của lòng thương xót của Chúa trong Chúa Nhật II Phục Sinh hôm nay. Đọc lại trình thuật Tin Mừng của thánh Gioan, ta thấy lòng thương xót của Đức Kitô Phục Sinh được thể hiện qua 3 nét chấm phá sau đây.
- Thứ nhất, là thể hiện qua việc hiện ra nhiều lần nhằm củng cố niềm tin và trao ban bình an cho các môn đệ.
Thấu hiểu tâm trạng thất vọng não nề của các môn sinh sau biến cố đau thương chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, và cũng thấu hiểu nỗi lòng của họ, nỗi lòng hoang mang, rối bời như mớ canh hẹ sau cái tin “xác của Thầy bị tay trộm nào đó cuỗm mất”, Đức Kitô Phục Sinh đã hiện ra với họ nhiều lần để trấn an, để khích lệ và để củng cố niềm tin, niềm hy vọng cho họ. Củng cố bằng việc trao ban bình an cho họ, thứ mà họ đang cần hơn bao giờ hết. Rồi Ngài cho họ xem tay chân và cạnh sườn của Ngài, đồng thời ăn uống trước mặt họ, để chứng tỏ Ngài đang hiện diện bằng xương bằng thịt chứ không phải là bóng ma. Ngài còn mở trí mở lòng cho họ hiểu Kinh Thánh và hiểu toàn bộ chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Rõ ràng ở đây ta bắt gặp một Đức Kitô Phục Sinh rất ân cần, rất trìu mến đối với các môn sinh của mình, tựa như gà mẹ qui tụ ấp ủ đàn con. Được gặp lại Đức Kitô Phục Sinh và được Ngài khích lệ động viên, con tim của các ngài đã “vui trở lại”, niềm tin của các ngài đã vững vàng hơn lên và nhất là các ngài đã cảm thấy được bình an thực sự, bình an của ơn cứu độ vĩnh hằng. Đây là những yếu tố chuẩn bị cho một cuộc lên đường trong nay mai đây thôi. Lên đường để cao rao, để loan truyền Tin Mừng Phục Sinh cho mọi nước mọi dân.
- Thứ hai là thể hiện qua việc nhẹ nhàng, tế nhị với Tôma.
Nhiều người khi đọc trình thuật Phục Sinh thường có thái độ trách móc Tôma: nào là cứng lòng, nào là chậm tin, nào là đa nghi đa ngờ… Thực sự, đối với Đức Kitô Phục Sinh, Tôma là người đáng thương hơn là đáng trách, đáng xót hơn là đáng mắng. Quả vậy, Đức Giêsu biết rất rõ tâm trạng của Tôma, một Tông Đồ vốn có rất nhiều tham vọng. Chính vì có nhiều tham vọng nên khi thấy Thầy mình chết một cách “vô duyên”, “vô tích sự”, Tôma đã hoá tuyệt vọng. Không còn mặt mũi nào để lên mặt với bà con lối xóm nữa vì đã lỡ “to tiếng”, lỡ “ngẩng đầu quá cao” đối với họ, nên ông chỉ còn việc đi lang thang trong vô định, lòng dạ rối tung. Tin đồn mất xác Thầy dường như cũng chẳng làm ông quan tâm. Vì đối với ông, Thầy chết là đặt dấu chấm hết - một dấu chấm hết to tướng. Chấm hết cho mọi ước mơ hoài bão. Bởi đó chiều ngày thứ nhất trong tuần khi các môn đệ khác họp nhau “tìm hướng đi mới”, Tôma đã vắng mặt. Hay nói đúng hơn là Tôma không muốn có mặt, vì gặp mặt nhau chỉ làm cho con tim thêm tan nát. Cả khi các Tông đồ khác háo hức báo tin cho ông là họ đã nhìn thấy Chúa Phục Sinh, ông còn thách thức ra mặt: “Đừng mong tôi tin khi tôi chưa xỏ được ngón tay vào lỗ đinh của Thầy; đừng đợi tôi mừng khi tôi chưa thọc được bàn tay vào cạnh sườn Thầy”. Chúa Giêsu thấu hiểu tất cả nỗi lòng của ông. Ngài không trách móc ông, cũng không “mắng vốn” ông. Ngài âm thầm chờ đợi “tám ngày sau” và nhẹ nhàng đáp ứng đòi hỏi của ông muốn được kiểm chứng tận mắt tận tay. Đây cũng là một nét chấm phá nữa làm sáng lên lòng xót thương vô ngần của Đức Kitô Phục Sinh.
Đứng trước thái độ nhân hậu từ tâm của Đức Kitô Phục Sinh, thánh Tôma đã cảm xúc đến tận cõi sâu thẳm của lòng mình. Cùng với phản ứng ấy là một hành vi đức tin của sự suy phục, suy phục Đức Giêsu là Thiên Chúa của mình: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi” (Ga 20,28). Để rồi từ đây thánh nhân dành trọn quảng đời còn lại để làm chứng cho Tin Mừng Chúa Kitô Phục Sinh và lòng thương xót vô biên của Ngài.
- Thứ ba là thể hiện qua việc ban bố mối phúc cho những ai “không thấy mà tin”.
“Phúc cho những ai không thấy mà tin” là lời thể hiện lòng thương xót của Đức Kitô Phục Sinh. Bởi chưng con số những người được tận mắt thấy Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra thực sự là rất ít. Chỉ có nhóm Mười Một, nhóm Bảy Mươi Hai, nhóm các bà gồm Maria Macđala, Salômê,…và một số người khác. Còn con số các tín hữu không được thấy Chúa Phục Sinh là bao la không đếm xuể, từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây. Tuy nhiên, chẳng phải họ là người không có phúc đâu. Trái lại họ còn có phúc hơn cả các Tông Đồ nữa là khác, ít ra là ở khía cạnh này. Chẳng phải Chúa Giêsu đã khẳng định với Tôma và qua Tôma với tất cả mọi người mọi thời: “Phúc cho những ai không thấy mà tin” là gì? Tôma vì được thấy Chúa Phục Sinh hiện ra tỏ tường với mình nên ông mới tin. Còn chúng ta là những người chưa thấy Chúa Giêsu Phục Sinh hiện hình, dù chỉ là một lần; nhưng ta vẫn vững tin vào Ngài. Tin Ngài đã Phục Sinh và đang sống giữa chúng ta. Và vì tin như thế nên chúng ta là những người có phúc có phận hơn cả Tôma. Tạ ơn lòng thương xót Chúa vì mối phúc lớn lao này mà Ngài đã ân ban cho chúng ta là con cháu, là hậu duệ của của các Tông Đồ.
Hôm nay, trên đường lữ thứ dương trần, người Kitô hữu chúng ta có lẽ đang cần lòng thương xót của Đức Kitô Phục Sinh hơn bao giờ hết, vì cuộc sống hôm nay đầy dẫy những bệnh tật, khổ đau, tai ương hoạn nạn, chiến tranh khủng bố, kinh tế đình đốn, nợ nần túng thiếu, con cái khó răn khó dạy, v.v… Đức Kitô phục sinh vẫn đang sống và đang hoạt động trong thế giới này. Ngài vẫn tiếp tục lặp lại sứ điệp: “Bình an cho anh em”. Bình an mà Ngài muốn ban tặng đó là bình an của Nước Trời, bình an ơn cứu độ. Ngài vẫn tiếp tục cất cao lời dễ thương: Phúc cho ông, phúc cho bà, phúc cho anh, phúc cho chị, phúc cho em đã không thấy mà tin…
Hãy đến với Ngài để được Ngài thi thố lòng nhân hậu xót thương; hãy đến với Ngài để được Ngài ủi an nâng đỡ; hãy đến với Ngài để được Ngài tặng ban ơn bình an cứu rỗi tràn trào. Amen.
LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA ĐỨC KITÔ PHỤC SINH
Trang Vietcatholic.net, ngày 10.4 vừa qua, có đăng mẫu tin nhan đề: “Trên đài truyền hình quốc gia, Hugo Chavéz khóc lóc xin Chúa tha tội”. Đây là một chuyện lạ. Chuyện lạ, vì theo bản tin, tổng thống Hugo Chavéz đeo một chuỗi tràng hạt như một người Công Giáo mộ đạo, và đứng trên bục giảng vừa khóc, vừa nói trước mặt các linh mục đồng tế trong Thánh lễ và anh chị em giáo dân những lời như sau: "Lạy Chúa xin cho con cuộc sống, thậm chí là một cuộc sống bị thiêu đốt, hoặc đau đớn đi nữa cũng không quan trọng [miễn còn sống là được]". "Lạy Chúa Kitô, cứ trao cho con mão gai của Ngài... đưa nó cho con, con sẽ mang lên dù chảy máu... xin cho con thánh giá của Chúa, một trăm thánh giá đi nữa con cũng chịu vác, nhưng xin cho con cuộc sống bởi vì còn có nhiều thứ con chưa làm xong... đừng bắt con đi bây giờ."
Căn bệnh ung thư giai đoạn 3 mà ông đang mang phải chăng cũng chính là “lòng thương xót” mà Đức Kitô muốn gởi trao cho ông để ông biết trân quý hồng ân sự sống, điều mà trước đây ông đã từng coi rẻ (ông là vị tổng thống độc tài, từng cổ vũ cho việc phá thai). Căn bệnh ung thư cũng là cơ hội để ông tìm về với lòng thương xót Chúa để được thứ tha, để được chữa lành. Vì cũng trong quá khứ, ông đã từng là người “nhiệt thành” công khai lên án Giáo Hội, cũng như đả kích và lăng mạ hàng Giám mục Vênêzuela.
Lời thú tội và van xin sự tha thứ trên đây của tổng thống Hugo Chavéz có thể nói là một chứng từ làm sáng lên sứ điệp của lòng thương xót của Chúa trong Chúa Nhật II Phục Sinh hôm nay. Đọc lại trình thuật Tin Mừng của thánh Gioan, ta thấy lòng thương xót của Đức Kitô Phục Sinh được thể hiện qua 3 nét chấm phá sau đây.
- Thứ nhất, là thể hiện qua việc hiện ra nhiều lần nhằm củng cố niềm tin và trao ban bình an cho các môn đệ.
Thấu hiểu tâm trạng thất vọng não nề của các môn sinh sau biến cố đau thương chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, và cũng thấu hiểu nỗi lòng của họ, nỗi lòng hoang mang, rối bời như mớ canh hẹ sau cái tin “xác của Thầy bị tay trộm nào đó cuỗm mất”, Đức Kitô Phục Sinh đã hiện ra với họ nhiều lần để trấn an, để khích lệ và để củng cố niềm tin, niềm hy vọng cho họ. Củng cố bằng việc trao ban bình an cho họ, thứ mà họ đang cần hơn bao giờ hết. Rồi Ngài cho họ xem tay chân và cạnh sườn của Ngài, đồng thời ăn uống trước mặt họ, để chứng tỏ Ngài đang hiện diện bằng xương bằng thịt chứ không phải là bóng ma. Ngài còn mở trí mở lòng cho họ hiểu Kinh Thánh và hiểu toàn bộ chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Rõ ràng ở đây ta bắt gặp một Đức Kitô Phục Sinh rất ân cần, rất trìu mến đối với các môn sinh của mình, tựa như gà mẹ qui tụ ấp ủ đàn con. Được gặp lại Đức Kitô Phục Sinh và được Ngài khích lệ động viên, con tim của các ngài đã “vui trở lại”, niềm tin của các ngài đã vững vàng hơn lên và nhất là các ngài đã cảm thấy được bình an thực sự, bình an của ơn cứu độ vĩnh hằng. Đây là những yếu tố chuẩn bị cho một cuộc lên đường trong nay mai đây thôi. Lên đường để cao rao, để loan truyền Tin Mừng Phục Sinh cho mọi nước mọi dân.
- Thứ hai là thể hiện qua việc nhẹ nhàng, tế nhị với Tôma.
Nhiều người khi đọc trình thuật Phục Sinh thường có thái độ trách móc Tôma: nào là cứng lòng, nào là chậm tin, nào là đa nghi đa ngờ… Thực sự, đối với Đức Kitô Phục Sinh, Tôma là người đáng thương hơn là đáng trách, đáng xót hơn là đáng mắng. Quả vậy, Đức Giêsu biết rất rõ tâm trạng của Tôma, một Tông Đồ vốn có rất nhiều tham vọng. Chính vì có nhiều tham vọng nên khi thấy Thầy mình chết một cách “vô duyên”, “vô tích sự”, Tôma đã hoá tuyệt vọng. Không còn mặt mũi nào để lên mặt với bà con lối xóm nữa vì đã lỡ “to tiếng”, lỡ “ngẩng đầu quá cao” đối với họ, nên ông chỉ còn việc đi lang thang trong vô định, lòng dạ rối tung. Tin đồn mất xác Thầy dường như cũng chẳng làm ông quan tâm. Vì đối với ông, Thầy chết là đặt dấu chấm hết - một dấu chấm hết to tướng. Chấm hết cho mọi ước mơ hoài bão. Bởi đó chiều ngày thứ nhất trong tuần khi các môn đệ khác họp nhau “tìm hướng đi mới”, Tôma đã vắng mặt. Hay nói đúng hơn là Tôma không muốn có mặt, vì gặp mặt nhau chỉ làm cho con tim thêm tan nát. Cả khi các Tông đồ khác háo hức báo tin cho ông là họ đã nhìn thấy Chúa Phục Sinh, ông còn thách thức ra mặt: “Đừng mong tôi tin khi tôi chưa xỏ được ngón tay vào lỗ đinh của Thầy; đừng đợi tôi mừng khi tôi chưa thọc được bàn tay vào cạnh sườn Thầy”. Chúa Giêsu thấu hiểu tất cả nỗi lòng của ông. Ngài không trách móc ông, cũng không “mắng vốn” ông. Ngài âm thầm chờ đợi “tám ngày sau” và nhẹ nhàng đáp ứng đòi hỏi của ông muốn được kiểm chứng tận mắt tận tay. Đây cũng là một nét chấm phá nữa làm sáng lên lòng xót thương vô ngần của Đức Kitô Phục Sinh.
Đứng trước thái độ nhân hậu từ tâm của Đức Kitô Phục Sinh, thánh Tôma đã cảm xúc đến tận cõi sâu thẳm của lòng mình. Cùng với phản ứng ấy là một hành vi đức tin của sự suy phục, suy phục Đức Giêsu là Thiên Chúa của mình: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi” (Ga 20,28). Để rồi từ đây thánh nhân dành trọn quảng đời còn lại để làm chứng cho Tin Mừng Chúa Kitô Phục Sinh và lòng thương xót vô biên của Ngài.
- Thứ ba là thể hiện qua việc ban bố mối phúc cho những ai “không thấy mà tin”.
“Phúc cho những ai không thấy mà tin” là lời thể hiện lòng thương xót của Đức Kitô Phục Sinh. Bởi chưng con số những người được tận mắt thấy Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra thực sự là rất ít. Chỉ có nhóm Mười Một, nhóm Bảy Mươi Hai, nhóm các bà gồm Maria Macđala, Salômê,…và một số người khác. Còn con số các tín hữu không được thấy Chúa Phục Sinh là bao la không đếm xuể, từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây. Tuy nhiên, chẳng phải họ là người không có phúc đâu. Trái lại họ còn có phúc hơn cả các Tông Đồ nữa là khác, ít ra là ở khía cạnh này. Chẳng phải Chúa Giêsu đã khẳng định với Tôma và qua Tôma với tất cả mọi người mọi thời: “Phúc cho những ai không thấy mà tin” là gì? Tôma vì được thấy Chúa Phục Sinh hiện ra tỏ tường với mình nên ông mới tin. Còn chúng ta là những người chưa thấy Chúa Giêsu Phục Sinh hiện hình, dù chỉ là một lần; nhưng ta vẫn vững tin vào Ngài. Tin Ngài đã Phục Sinh và đang sống giữa chúng ta. Và vì tin như thế nên chúng ta là những người có phúc có phận hơn cả Tôma. Tạ ơn lòng thương xót Chúa vì mối phúc lớn lao này mà Ngài đã ân ban cho chúng ta là con cháu, là hậu duệ của của các Tông Đồ.
Hôm nay, trên đường lữ thứ dương trần, người Kitô hữu chúng ta có lẽ đang cần lòng thương xót của Đức Kitô Phục Sinh hơn bao giờ hết, vì cuộc sống hôm nay đầy dẫy những bệnh tật, khổ đau, tai ương hoạn nạn, chiến tranh khủng bố, kinh tế đình đốn, nợ nần túng thiếu, con cái khó răn khó dạy, v.v… Đức Kitô phục sinh vẫn đang sống và đang hoạt động trong thế giới này. Ngài vẫn tiếp tục lặp lại sứ điệp: “Bình an cho anh em”. Bình an mà Ngài muốn ban tặng đó là bình an của Nước Trời, bình an ơn cứu độ. Ngài vẫn tiếp tục cất cao lời dễ thương: Phúc cho ông, phúc cho bà, phúc cho anh, phúc cho chị, phúc cho em đã không thấy mà tin…
Hãy đến với Ngài để được Ngài thi thố lòng nhân hậu xót thương; hãy đến với Ngài để được Ngài ủi an nâng đỡ; hãy đến với Ngài để được Ngài tặng ban ơn bình an cứu rỗi tràn trào. Amen.
4/13/2012
Ngày 15
CHÚA NHẬT II PHỤC SINH
CHÚA NHẬT LÒNG THƯƠNG XóT CHÚA
CHÚA NHẬT II PHỤC SINH
CHÚA NHẬT LÒNG THƯƠNG XóT CHÚA
Đừng sợ nữa, hãy nhận bình an!
Không có gì ngăn cản được Đức Kitô phục sinh đi tìm các môn đệ. Và sự hiện diện của Người đã thay đổi tất cả. Không còn gì sợ hãi nữa, đây là sự bình an; sự đóng kín được giải tỏa bằng con đường rộng mở và đẩy tin tưởng, bắt nguồn trong tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con và đem đến ân sủng của Thánh Thần. Nhưng một trong các môn đệ đã không được hưởng cuộc gặp gỡ đầy ánh sáng này. Ông có bị bỏ rơi trong sự cứng lòng tin của mình không? Như thế là không hiểu vị Mục Tử nhân lành. Người lại tỏ hiện một lần nữa, để chăm sóc đàn chiên của mình. Với sự tế nhị và tôn trọng, Đức Giêsu đã đối xử với Thomas! Người thấy được nhu cầu, người môn đệ này cần giúp đỡ để nhận ra Người là Đấng phục sinh. Không kết án, không trách móc, Đức Giêsu còn đề nghị các cử chỉ để chấp nhận niềm tin. Tâm hồn của Thomas bị đánh động thật sự đến độ không cần phải đụng chạm đến thân thể Đấng Phục sinh để nhận ra những dấu chứng của Đấng bị đóng đinh. Ông đã thốt lên lời tuyên xưng cô đọng nhất niềm tin của Tân Ước: "Lạy Chúa của con! Lạy Thiên Chúa của con!" (Ga 20,28).
Đức Kitô đến gặp gỡ chúng ta để dẫn chúng ta vào trong Giáo hội, trong cộng đoàn các kẻ tin.
Christelle Javary
Chân Phước Caesar de Bus
(1544-1607)
hư nhiều người trong chúng ta, Caesar de Bus cũng phải vất vả lắm mới tìm thấy ơn gọi đích thực của mình. Sau khi tốt nghiệp ở trường dòng Tên, ngài gặp khó khăn khi phải quyết định giữa sự nghiệp của một quân nhân và một văn gia. Ngài có sáng tác một vài kịch bản nhưng sau cùng an phận trong quân đội và toà án.
Cũng có lúc cuộc đời thật êm xuôi cho một người lính thủy tài giỏi. Ngài tin đó là một chọn lựa đúng. Cho đến khi ngài chứng kiến thực tế của một cuộc chiến, kể cả cuộc thảm sát của người Tin Lành Pháp vào ngày Thánh Batôlômêo năm 1572.
Ngài lâm bệnh nặng và bỗng dưng nhìn lại những tiên quyết trong đời, kể cả đời sống tâm linh. Khi bình phục Caesar quyết tâm trở thành một linh mục. Sau khi được chịu chức vào năm 1582, ngài đảm nhận công việc mục vụ đặc biệt là dạy giáo lý cho người dân sống trong tình trạng bị quên lãng ở nông thôn, hoặc các nơi hẻo lánh. Nỗ lực của ngài quả thật cần thiết và được đón nhận cách nồng hậu.
Cùng với người bà con, Cha Caesar thiết lập một chương trình giáo lý cho gia đình. Mục đích là để chống với sự lạc giáo của người dân, và mục tiêu này được sự chấp thuận của đức giám mục địa phương. Từ những nỗ lực này phát sinh một tu hội mới: các Cha của Giáo Thuyết Kitô Giáo.
Một trong những công trình của Cha Caesar là Huấn Thị Các Gia Ðình về Giáo Lý Công Giáo, được ấn hành vào 60 năm sau khi ngài từ trần.
Ngài được phong chân phước năm 1975.
| |
Copyright © 2010 by Nguoi Tin Huu.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét