Thứ Bảy sau Chúa nhật II Phục Sinh
Cv 6,1-7
; Tv 32 ; Ga 6,16-21.
Bài đọc Cv
6,1-7
1
Thời đó,
khi số môn đệ thêm đông, thì các tín hữu Do-thái theo văn hoá Hy-lạp kêu trách
những tín hữu Do-thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các
bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên. 2 Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói
: "Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều
không phải. 3
Vậy, thưa
anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí
và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. 4 Còn chúng tôi, chúng tôi
sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa." 5 Đề nghị trên được mọi
người tán thành. Họ chọn ông Tê-pha-nô, một người đầy lòng tin và đầy Thánh Thần,
cùng với các ông Phi-líp-phê, Pơ-rô-khô-rô, Ni-ca-no, Ti-môn, Pác-mê-na và ông
Ni-cô-la, một người ngoại quê An-ti-ô-khi-a đã theo đạo Do-thái. 6 Họ đưa các ông ra trước
mặt các Tông Đồ. Sau khi cầu nguyện, các Tông Đồ đặt tay trên các ông.
7
Lời Thiên
Chúa vẫn lan tràn, và tại Giê-ru-sa-lem, số các môn đệ tăng thêm rất nhiều, lại
cũng có một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin.
Đáp ca Tv 32,1-2.4-5.18-19 (Đ. c. 22)
Đáp :
Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa,
như chúng con
hằng trông cậy nơi Ngài.
Hoặc:
Đáp : Ha-lê-lui-a.
1 Người
công chính, hãy reo hò mừng Chúa,
kẻ ngay lành, nào cất tiếng
ngợi khen.
2 Tạ
ơn Chúa, gieo vạn tiếng đàn cầm,
kính mừng Người, gảy muôn
cung đàn sắt. Đ.
4 Vì
lời Chúa phán quả là ngay thẳng,
mọi việc Chúa làm đều đáng
cậy tin.
5 Chúa
yêu thích điều công minh chính trực,
tình thương Chúa chan hoà
mặt đất. Đ.
18 Chúa
để mắt trông nom người kính sợ Chúa,
kẻ trông cậy vào lòng Chúa
yêu thương,
19 hầu
cứu họ khỏi tay thần chết
và nuôi sống trong buổi cơ
hàn. Đ.
Tung hô Tin Mừng
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a.
Đức Ki-tô nay đã phục sinh,
chính Người đã tạo thành vạn vật
và xót thương cứu độ loài người. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng Ga 6,16-21
16 Chiều đến, các
môn đệ xuống bờ Biển Hồ, 17 rồi xuống thuyền
đi về phía Ca-phác-na-um bên kia Biển Hồ. Trời đã tối mà Đức Giê-su chưa đến
với các ông. 18 Biển động, vì gió thổi mạnh. 19 Khi đã chèo được
chừng năm hoặc sáu cây số, các ông thấy Đức Giê-su đi trên mặt Biển Hồ và đang
tới gần thuyền. Các ông hoảng sợ. 20 Nhưng Người bảo
các ông : "Thầy đây mà, đừng sợ !" 21 Các ông muốn rước
Người lên thuyền, nhưng ngay lúc đó thuyền đã tới bờ, nơi các ông định đến.
(Bản văn theo UB.Kinh
Thánh/HĐGMVN)
Suy Niệm:
"Trời tối và Ðức Giêsu chưa đến với họ. Biển động vì cuồng phong đốc
thổi". Thuyền của các môn đệ chao đảo giữa mù tối và sóng gió.
Con thuyền Giáo hội đang vật lộn giữa vòng xoáy của cuộc sống hôm hay: Giữa
những giáo thuyết sai lạc và luân lý suy đồi. Cuộc sống của mỗi chúng ta, gia
đình của chúng ta cũng lao đao khốn đốn giữa dòng chảy cuộc đời nếu không có
Chúa đồng hành.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết đặt Ngài làm trung tâm cuộc sống
của chúng con. Xin cho chúng con biết tìm Chúa khi đời chúng con dậy sóng. Vì đến
muôn đời Chúa vẫn là bến bờ hạnh phúc và an vui. Amen.
(Lời Chúa trong giờ kinh gia
đình)
Chúa Ði Trên Biển
Biến cố Chúa đi trên biển cũng được mô tả trong Phúc Âm Nhất Lãm (Mt 14 và
Mc 6), nhưng tường thuật của Gioan xem ra nhấn mạnh những chi tiết khác, ngài
muốn làm nổi bật một ý nghĩa khác. Thánh sử Gioan không nói đến việc Chúa đến để
trợ giúp cho các Tông Ðồ đang lúc gặp khó khăn, cũng không nói gì về việc làm
cho sóng gió im lặng. Thay vì nhắc chi tiết làm sóng gió im lặng, ngài nhắc đến
việc chiếc thuyền đến bờ bình an. Nhưng khi nhắc đến chi tiết này, tác giả xem
ra cũng không chú ý nhiều đến nó, mà chỉ chú ý đến chi tiết qui về Chúa Giêsu
nhiều hơn.
Tác giả muốn cho chúng ta nhìn thấy một Chúa Giêsu Kitô đầy quyền năng,
không tùy thuộc vào những giới hạn thiên nhiên áp đặt. Chúa Giêsu đi trên mặt
nước không bị chìm, không bị nguy hiểm bởi sóng to gió lớn trên mặt biển. Lúc
đó, quyền năng Chúa Giêsu được diễn tả bằng lời xác nhận của Ngài: "Thầy
đây đừng sợ". Trong Phúc Âm Gioan thì nói: "Ta đây". Ðó là cách
nói diễn tả thực thể Thiên Chúa, nhắc đến Giavê Thiên Chúa mạc khải chính mình
cho Môisê như là Ðấng "Ta là: Ego sum qui sum". Chúa Giêsu đi trên mặt
biển đến với các Tông Ðồ để mạc khải cho các ông nhận ra Ngài là thực thể Thiên
Chúa, là Ðấng "Ta là". Như thế, sau phép lạ Chúa làm cho năm chiếc
bánh và hai con cá hoá nhiều để nuôi sống 5,000 người, thì biến cố đi trên mặt
biển giữa sóng gió được mạc khải rõ hơn về thực thể Thiên Chúa quyền năng
"Ta là".
Ðáp lại, thái độ của dân
chúng nhìn thấy Chúa chỉ như một tiên tri, một con người phi thường và muốn tôn
Chúa lên làm vua. Họ hiểu sai thực thể Chúa là ai. Trong biến cố Chúa đi trên mặt
nước chứng tỏ cho các môn đệ nhìn thấy thực thể đúng thật của Ngài, Ngài là
Thiên Chúa, là Ðấng "Ta là".
Như thế, qua lời nói trấn an
các tông đồ "Thầy đây đừng sợ", mạc khải này chuẩn bị thêm cho việc
Chúa Giêsu giảng dạy về Bánh Hằng Sống nơi hội đường Caphanaum, Bánh ấy chính
là Ngài. Hơn nữa, trong hội đường khi rao giảng về Bánh Hằng Sống, Chúa Giêsu
được tường thuật năm lần khi dùng đến lời quả quyết "Ta là" để diễn tả
thực thể Ngài là Thiên Chúa: "Ta là Bánh Hằng Sống". Như thế phần nào
chúng ta thấy lý do tại sao Phúc Âm Gioan nhắc đến dấu lạ này sau phép lạ bánh
và cá hoá nhiều và liền trước bài giảng về Bánh Hằng Sống.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ðấng
cứu rỗi hiện diện giữa loài người, Như thế, có thể kết luận rằng nhận Chúa
Giêsu là Thiên Chúa để có thể tin nhận mạc khải của Chúa về Bí Tích Thánh Thể,
về Bánh Hằng Sống. Hai việc này luôn đi đôi với nhau: tin Chúa Giêsu Kitô là
Thiên Chúa thì sẽ tin nhận bí tích Thánh Thể. Ngược lại, nếu không tin Chúa
Gêsu Kitô là Thiên Chúa thì cũng không thể tin vào Thánh Thể, và nếu không tin
vào Thánh Thể thì cũng không tin vững mạnh vào Chúa Giêsu là Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng
con được nhìn thấy những dấu lạ Chúa vẫn thực hiện hôm nay và tin nhận Chúa là
Thiên Chúa, từ đó tin nhận những gì Chúa mạc khải cho chúng con để cứu rỗi
chúng con. Xin cho chúng con được luôn tín thác vào Chúa, nhất là khi gặp những
nghịch cảnh thử thách. Chúa hiện diện trong Thánh Thể để đến với chúng con và
trấn an chúng con "Thầy đây đừng sợ", xin cho chúng con biết đến với
Chúa trong Thánh Thể để nghe Chúa nói "Thầy đây đừng sợ". Amen.
(Veritas
Asia)
Suy niệm:
Vào thời Đức Giêsu, người ta
chờ Thiên Chúa sai đến một vị vua.
Vị Vua này chính là một Đấng Mêsia hùng mạnh, toàn thắng,
Đấng sẽ giải phóng dân khỏi ách nô lệ của người Rôma.
Sau khi Đức Giêsu cho dân chúng được ăn no nê một cách kỳ diệu,
họ nghĩ ngay Ngài chính là người họ mong đợi từ lâu.
Họ toan bắt Ngài để tôn làm vua,
làm người đứng lên lãnh đạo phong trào cách mạng (Ga 6, 15).
Nhưng Đức Giêsu đã chối từ sự mong mỏi của dân chúng.
Ngài trốn lên núi một mình.
Đức Giêsu biết mình không phải là một Mêsia đầy quyền lực,
để giải phóng dân Israel khỏi ách của người Rôma.
Nhưng Ngài sẽ là một Mêsia như người Tôi Trung đau khổ,
chịu chết ô nhục và sống lại để giải phóng nhân loại khỏi ách tội lỗi.
Vị Vua này chính là một Đấng Mêsia hùng mạnh, toàn thắng,
Đấng sẽ giải phóng dân khỏi ách nô lệ của người Rôma.
Sau khi Đức Giêsu cho dân chúng được ăn no nê một cách kỳ diệu,
họ nghĩ ngay Ngài chính là người họ mong đợi từ lâu.
Họ toan bắt Ngài để tôn làm vua,
làm người đứng lên lãnh đạo phong trào cách mạng (Ga 6, 15).
Nhưng Đức Giêsu đã chối từ sự mong mỏi của dân chúng.
Ngài trốn lên núi một mình.
Đức Giêsu biết mình không phải là một Mêsia đầy quyền lực,
để giải phóng dân Israel khỏi ách của người Rôma.
Nhưng Ngài sẽ là một Mêsia như người Tôi Trung đau khổ,
chịu chết ô nhục và sống lại để giải phóng nhân loại khỏi ách tội lỗi.
Dân chúng hẳn đã bị hụt hẫng khi thấy Đức Giêsu trốn đi.
Các môn đệ chắc đã tiếc ngẩn tiếc ngơ,
vì Thầy bỏ qua cơ hội ngàn năm một thuở để tỏ mình cho dân Israel,
và chính họ cũng mất đi một cơ hội để tiến thân.
Tin Mừng của thánh Gioan không nói cho ta biết tại sao sau đó
các môn đệ lại chèo thuyền qua Caphácnaum, ở bờ bên kia (c. 16).
Nhưng theo Tin Mừng Marcô, Đức Giêsu đã bắt buộc họ (Mc 6, 45).
Ngài rõ ràng không muốn họ dính dáng vào chuyện chính trị này.
Các môn đệ chắc đã tiếc ngẩn tiếc ngơ,
vì Thầy bỏ qua cơ hội ngàn năm một thuở để tỏ mình cho dân Israel,
và chính họ cũng mất đi một cơ hội để tiến thân.
Tin Mừng của thánh Gioan không nói cho ta biết tại sao sau đó
các môn đệ lại chèo thuyền qua Caphácnaum, ở bờ bên kia (c. 16).
Nhưng theo Tin Mừng Marcô, Đức Giêsu đã bắt buộc họ (Mc 6, 45).
Ngài rõ ràng không muốn họ dính dáng vào chuyện chính trị này.
Bị Thầy bắt qua lại bờ bên kia khi chiều đã sụp tối,
trong khi dân chúng và Thầy còn ở bờ bên này,
điều ấy chẳng dễ chịu chút nào cho các môn đệ.
Họ muốn ở lại hưởng chút dư vị của thành công vang dội vừa rồi.
Dù sao các môn đệ đã biết vâng phục.
Chuyến đi qua biển hồ cũng không suôn sẻ gì.
Họ phải chiến đấu với trận cuồng phong bất ngờ gây biển động.
Con thuyền bé nhỏ lênh đênh giữa sóng gió gào thét.
Cả nhóm gặp nguy hiểm mà không có Thầy trong thuyền.
Họ đã cố chèo được chừng năm, sáu cây số.
Có thể họ tự hỏi: tại sao Thầy lại vội sai mình ra khơi giữa đêm đen?
trong khi dân chúng và Thầy còn ở bờ bên này,
điều ấy chẳng dễ chịu chút nào cho các môn đệ.
Họ muốn ở lại hưởng chút dư vị của thành công vang dội vừa rồi.
Dù sao các môn đệ đã biết vâng phục.
Chuyến đi qua biển hồ cũng không suôn sẻ gì.
Họ phải chiến đấu với trận cuồng phong bất ngờ gây biển động.
Con thuyền bé nhỏ lênh đênh giữa sóng gió gào thét.
Cả nhóm gặp nguy hiểm mà không có Thầy trong thuyền.
Họ đã cố chèo được chừng năm, sáu cây số.
Có thể họ tự hỏi: tại sao Thầy lại vội sai mình ra khơi giữa đêm đen?
Cuối cùng Thầy Giêsu cũng đến với họ như họ mong ước.
Nhưng Thầy không đến trên một chiếc thuyền như họ nghĩ.
Thầy đi trên mặt biển mà đến gần thuyền các ông (c. 19).
Cách đến của Thầy thật khác thường khiến họ hoảng sợ.
Có thể họ chưa nhận ra khuôn mặt của Thầy vì trời tối.
“Thầy đây mà, đừng sợ!”, Đức Giêsu vội vã trấn an.
Nhưng Thầy không đến trên một chiếc thuyền như họ nghĩ.
Thầy đi trên mặt biển mà đến gần thuyền các ông (c. 19).
Cách đến của Thầy thật khác thường khiến họ hoảng sợ.
Có thể họ chưa nhận ra khuôn mặt của Thầy vì trời tối.
“Thầy đây mà, đừng sợ!”, Đức Giêsu vội vã trấn an.
Giáo Hội hôm nay cũng có kinh nghiệm như nhóm môn đệ ngày xưa,
vất vả một mình chống chọi với sóng gió, khi không có Thầy ở bên.
Nhưng khi Chúa đến, chúng ta lại hoảng sợ, không nhận ra Ngài.
Thật ra Chúa chẳng bỏ chúng ta, dù có lúc Ngài để chúng ta một mình.
Phải tập quen dần với những cách xuất hiện mới mẻ của Chúa
để nhận ra Ngài vẫn có mặt trong thế giới hôm nay.
vất vả một mình chống chọi với sóng gió, khi không có Thầy ở bên.
Nhưng khi Chúa đến, chúng ta lại hoảng sợ, không nhận ra Ngài.
Thật ra Chúa chẳng bỏ chúng ta, dù có lúc Ngài để chúng ta một mình.
Phải tập quen dần với những cách xuất hiện mới mẻ của Chúa
để nhận ra Ngài vẫn có mặt trong thế giới hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị thử thách:
những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu Lời Chúa;
những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương;
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương;
những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng còn trong tinh thần nữa,
bằng cách thực thi lời hy vọng này:
“Điều mà ngươi làm
cho người bé mọn nhất trong anh em
là làm cho chính Ta”
xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị thử thách:
những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu Lời Chúa;
những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương;
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương;
những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng còn trong tinh thần nữa,
bằng cách thực thi lời hy vọng này:
“Điều mà ngươi làm
cho người bé mọn nhất trong anh em
là làm cho chính Ta”
(Chân phước Têrêxa Calcutta)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu,
SJ
21/04/12 THỨ BẢY TUẦN 2
PS
Th. Ansenmô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh
Ga 6,16-21
Th. Ansenmô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh
Ga 6,16-21
TIẾP THÊM NIỀM TIN
…Biển động vì gió thổi mạnh… Các ông hoảng sợ. Nhưng Người bảo các ông: “Thầy đây mà, đừng sợ !” (Ga 6,18-20)
Suy niệm: Dấu lạ Chúa Giêsu hóa nước thành rượu tại Cana, chữa người đau ốm 38 năm ở hồ Bếtdatha, hóa bánh ra nhiều... vẫn chưa đủ sức thuyết phục các môn đệ tin vào Ngài. Vì thế, khi “Chúa Giêsu đi trên mặt biển” đến thuyền các ông, các ông đã “hoảng sợ,” thay vì nhận ra ngay đó là Chúa. Tin nằm ở một trật tự khác với thấy. Có người phải thấy mới tin, nhưng tự bản chất, tin không đòi hỏi phải thấy mà trước hết là một hành vi nội tâm, một ơn ban vô điều kiện của Thiên Chúa. Bao lâu chưa đạt tới tầm vóc này, Chúa vẫn có thể thực hiện một số dấu lạ để tiếp thêm lòng tin của con người. Đó là điều Ngài đã làm cho các môn đệ hôm nay.
Mời Bạn: Có khi nào ta đòi dấu lạ để tin chưa? Thật ra khi ta đòi điều kiện, Chúa có thể sẽ đáp ứng, nhưng cứ đòi mãi thì còn gì là tin, bởi đức tin là sáng kiến của chính Thiên Chúa. Tin vào sáng kiến không thể sai lầm của Ngài chính là hành vi của đức tin vậy.
Chia sẻ: Hiện tại đức tin của ông, bà, anh, chị… hệ tại điều gì? Ơn Chúa ta nhận được, thử thách ta vượt qua, tình yêu ta cảm nhận hay còn phải đợi chờ dấu lạ của Chúa?
Sống Lời Chúa: Giữa cơn khủng hoảng đang làm chao đảo con thuyền Hội Thánh, mỗi tín hữu hãy nhớ lại Lời Chúa hôm nay: “Thầy đây, đừng sợ!”
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin tiếp thêm sức mạnh cho chúng con, giúp chúng con vững tin vào những việc Chúa đang làm, nhất là trong những hoàn cảnh éo le của cuộc đời. Xin cho chúng con nhận ra Chúa Phục Sinh đang hiện diện với chúng con, bảo đảm cho sự trợ giúp của Chúa. Amen.
…Biển động vì gió thổi mạnh… Các ông hoảng sợ. Nhưng Người bảo các ông: “Thầy đây mà, đừng sợ !” (Ga 6,18-20)
Suy niệm: Dấu lạ Chúa Giêsu hóa nước thành rượu tại Cana, chữa người đau ốm 38 năm ở hồ Bếtdatha, hóa bánh ra nhiều... vẫn chưa đủ sức thuyết phục các môn đệ tin vào Ngài. Vì thế, khi “Chúa Giêsu đi trên mặt biển” đến thuyền các ông, các ông đã “hoảng sợ,” thay vì nhận ra ngay đó là Chúa. Tin nằm ở một trật tự khác với thấy. Có người phải thấy mới tin, nhưng tự bản chất, tin không đòi hỏi phải thấy mà trước hết là một hành vi nội tâm, một ơn ban vô điều kiện của Thiên Chúa. Bao lâu chưa đạt tới tầm vóc này, Chúa vẫn có thể thực hiện một số dấu lạ để tiếp thêm lòng tin của con người. Đó là điều Ngài đã làm cho các môn đệ hôm nay.
Mời Bạn: Có khi nào ta đòi dấu lạ để tin chưa? Thật ra khi ta đòi điều kiện, Chúa có thể sẽ đáp ứng, nhưng cứ đòi mãi thì còn gì là tin, bởi đức tin là sáng kiến của chính Thiên Chúa. Tin vào sáng kiến không thể sai lầm của Ngài chính là hành vi của đức tin vậy.
Chia sẻ: Hiện tại đức tin của ông, bà, anh, chị… hệ tại điều gì? Ơn Chúa ta nhận được, thử thách ta vượt qua, tình yêu ta cảm nhận hay còn phải đợi chờ dấu lạ của Chúa?
Sống Lời Chúa: Giữa cơn khủng hoảng đang làm chao đảo con thuyền Hội Thánh, mỗi tín hữu hãy nhớ lại Lời Chúa hôm nay: “Thầy đây, đừng sợ!”
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin tiếp thêm sức mạnh cho chúng con, giúp chúng con vững tin vào những việc Chúa đang làm, nhất là trong những hoàn cảnh éo le của cuộc đời. Xin cho chúng con nhận ra Chúa Phục Sinh đang hiện diện với chúng con, bảo đảm cho sự trợ giúp của Chúa. Amen.
Làm sao để giải quyết các khó khăn trong cuộc đời?
Bài đọc: Acts 6:1-7; Jn 6:16-21.
Khó khăn và xung đột
ý kiến xảy ra ở mọi nơi và mọi thời; nói cách khác, hễ có sống chung, là có đụng
nhau. Làm thế nào để giải quyết khi phải đương đầu với những khó khăn hay xung
đột? Người khó khăn nóng tính sẽ la hét, chửi rủa, làm cho ra lẽ; rồi sau đó muốn
ra sao thì ra. Người thâm trầm ít nói sẽ lặng lẽ rút lui, và chép miệng thở
dài: thôi thì đường ai nấy đi cho đẹp cả đôi bên. Nhưng cả hai cách giải quyết
đều không đẹp ý Chúa và giúp ích cho tha nhân;vả lại, có đi đâu chăng nữa, con
người vẫn phải đương đầu với vấn đề “chung đụng.”
Các Bài Đọc hôm nay
giúp chúng ta giải quyết vấn đề cách đẹp lòng Chúa và giúp ích cho tha nhân.
Trong Bài Đọc I, Sách CVTĐ tường thuật các khó khăn của cộng đồng các tín hữu
sơ khai, họ cũng phải đương đầu với thiên vị và ghen tị giữa các tín hữu
Do-thái theo văn hóa Hy-lạp và các tín hữu Do-thái bản xứ. Thay vì trốn tránh vấn
đề, hay tìm cách ly khai, các Tông-đồ chọn thêm bảy Phó-tế để giúp các ngài lo
cho các bà góa Do-thái theo văn hóa Hy-lạp. Mọi người đều vui vẻ với giải quyết
khôn ngoan này. Trong Phúc Âm, khi phải đương đầu với phong ba bão tố, các
Tông-đồ hỏang sợ, và càng sợ hãi hơn khi thấy một bóng người lướt trên nước tới
thuyền của họ, vì các ông tưởng là ma; nhưng Chúa Giêsu lên tiếng trấn an các
ông: “Chính Thầy đây! Đừng sợ!”
I. KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Biết khôn ngoan
giải quyết vấn đề.
1.1/ Vấn đề thiên vị
và ghen tị xảy ra trong cộng đòan: “Thời đó, khi số môn đệ thêm đông, thì các
tín hữu Do-thái theo văn hoá Hy-lạp kêu trách những tín hữu Do-thái bản xứ, vì
trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ
quên.”
(1) Nhận định vấn đề:
Thói quen của con người là bảo vệ những người thân quen mình trước, rồi mới đến
những người xa hơn. Vấn nạn trên xảy ra giữa những người Do-thái, nhưng theo những
văn hóa khác nhau: các bà góa người bản xứ được cung cấp lương thực đầy đủ hơn
những bà góa theo văn hóa Hy-lạp. Nếu không biết cách giải quyết vấn đề, tình
trạng thiên vị và ghen tị sẽ ngày càng trầm trọng hơn, sẽ đưa đến việc tách rời
giữa hai nhóm, sẽ gây thiệt hại cho sự đòan kết, và sẽ làm gương mù cho các tín
hữu khác.
(2) Cách giải quyết:
“Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: "Chúng tôi
mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải. Hãy
tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi
chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó.”
Một người không thể
làm hết, và cũng không tốt để làm hết, vì sẽ không mang lại kết quả tốt đẹp bằng
nhiều người cộng tác. Hơn nữa, việc mở mang Nước Chúa là bổn phận của tất cả mọi
người, chứ không phải chỉ là bổn phận của giới lãnh đạo mà thôi. Các Tông-đồ biết
sắp xếp các thứ tự ưu tiên: việc rao giảng Tin Mừng là bổn phận hàng đầu không
thể xao lãng. Để có người lo cho các nhu cầu của cộng đoàn, cần tuyển thêm các
Phó-tế có những đức độ cần thiết. Các Tông-đồ để cho các tín hữu tham gia vào
việc tìm kiếm các ứng viên; sau đó các ngài sẽ chuẩn y bằng việc đặt tay, và hướng
dẫn họ trong việc phục vụ cộng đoàn.
1.2/ Phẩm trật Hội
Thánh dần dần được hình thành: “Đề nghị trên được mọi người tán thành. Họ chọn
ông Stephanô, một người đầy lòng tin và đầy Thánh Thần, cùng với các ông
Philíp, Prochorus, Nicanor, Timon, Parmenas và ông Nicolaus, một người ngoại
quê Antioch đã theo đạo Do-thái. Họ đưa các ông ra trước mặt các Tông Đồ. Sau
khi cầu nguyện, các Tông Đồ đặt tay trên các ông.” Đây là 7 Phó-tế đầu tiên của
Hội Thánh. Phó-tế Stephanô là thánh tử đạo đầu tiên làm chứng cho Chúa Giêsu
trong trình thuật mà chúng ta sẽ được nghe ít ngày nữa.
Số các tín hữu càng
đông, phẩm trật của Hội Thánh càng phải được nới rộng để đáp ứng nhu cầu của cộng
đoàn và của các tín hữu. Dưới sự hướng dẫn của các Tông-đồ và hoạt động của
Chúa Thánh Thần, “Lời Thiên Chúa vẫn lan tràn, và tại Jerusalem , số các môn đệ tăng thêm rất nhiều,
lại cũng có một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin.”
2/ Phúc Âm: Đừng sợ hãi khi
phải đương đầu với các khó khăn trong cuộc sống.
Khó khăn trong cuộc
sống không thể thiếu trong tiến trình thăng tiến và làm cho con người trưởng
thành. Những khó khăn có thể do Thiên Chúa gởi đến để thử thách đức tin hay do
tha nhân gây ra qua cuộc sống chung đụng. Trình thuật trong Tin Mừng hôm nay nhấn
mạnh đến trường hợp thứ nhất.
2.1/ Biển động làm
các ông hỏang sợ: Trình thuật này xảy ra sau khi phép lạ Bánh hóa nhiều và dân
chúng muốn tôn Chúa Giêsu làm vua của họ. Chúa Giêsu truyền cho các Tông-đồ qua
bờ bên kia trước, còn Ngài lên núi cầu nguyện. Đứng trên núi của vùng Tiberias,
Chúa Giêsu có thể quan sát rõ ràng thuyền của các ông trong Biển Hồ. Nhiều tác
giả của các bài thánh ca đã so sánh Giáo Hội và cuộc đời con người như chiếc
thuyền lênh đênh trên biển cả trong hành trình tiến về quê trời; ví dụ: Lạy Mẹ
là ngôi sao sáng. Chúa Giêsu có thể đã nhìn thấy trước những khó khăn mà các
Tông-đồ phải đương đầu với khi các ông phải hướng dẫn con thuyền Giáo Hội sau
này; nên Ngài chuẩn bị cho các ông bằng biến cố biển động hôm nay.
Từ Tiberias, nơi
các Tông đồ khởi hành khởi hành, đến Capernaum, nơi các ông muốn tới không xa lắm;
nhưng đêm ấy biển động vì gió thổi mạnh. Khi đã chèo được chừng năm hoặc sáu
cây số, các ông thấy Chúa Giêsu đi trên mặt Biển Hồ và đang tới gần thuyền. Điều
này làm các ông hoảng sợ, vì từ trước tới giờ, các ông chưa từng được chứng kiến
một con người đi trên nước. Chỉ có ma quỉ với làm được việc ấy. Vì thế, nỗi lo
sợ các ông tăng gấp đôi.
2.2/ Chúa Giêsu trấn
an các ông: "Thầy đây! Đừng sợ!" Các ông muốn rước Người lên thuyền,
nhưng ngay lúc đó thuyền đã tới bờ, nơi các ông định đến. Nhiều lần trong cuộc
đời công khai rao giảng, Chúa Giêsu đã nói những lời tương tự với các môn đệ:
Khi hiện ra với các Tông-đồ sau khi sống lại, Chúa nói với các ông: “Đừng sợ!”
(Mt 28:10). Những lời từ giã cuối cùng của Ngài với các ông: “Thầy để lại bình
an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không
theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.” (Jn 14:27).
Hay khi chọn Phêrô
để xây dựng Giáo Hội, Ngài đã nói với ông “Phêrô! Con là đá, và trên đá này Thầy
sẽ xây Giáo Hội của Thầy. Thầy sẽ trao cho con chìa khóa Nước Trời và quyền lực
của hỏa ngục cũng không thắng được” (Mt 16:18). Một khi sống trong sự bảo vệ của
Ngài, con người không có gì phải sợ hãi nữa.
II. ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG:
- Khi phải đương đầu
với khó khăn và xung đột, cả hai thái độ tức giận chửi rủa và từ chối rút lui đều
phải tránh. Chúng ta cần phối hợp cả hai: sự trợ giúp tinh thần của Chúa và sự
tế nhị trong cách đối xử, để giải quyết vấn đề cách khôn ngoan và bác ái.
- Tất cả các tín hữu
đều có bổn phận góp phần trong việc mở mang Nước Chúa. Những nhà lãnh đạo cần
biết khôn ngoan hướng dẫn để mọi thành phần của Dân Chúa đều có cơ hội đóng góp
tùy khả năng và hoàn cảnh của họ.
- Khi những khó
khăn xảy đến, đừng sợ! Hãy bình tĩnh, cầu nguyện, và tìm cách đối phó.
Anthony Đinh Minh Tiên, OP.
Lời Chúa Trong Gia Đình
Thánh Anselsô, giám mục tiến sĩ Hội Thánh;
Cv 6,1-7; Ga: 6, 16-21.
LỜI SUY NIỆM: Chiều đến, các môn đệ
xuống bờ Biển Hồ, rồi xuống thuyền đi về phía Caphácnaum bên kia Biển Hồ. Trời
đã tối mà Đức Giêsu chưa đến với các ông. Biển động, vì gió thổi mạnh. Khi đã
được chừng năm hoặc sáu cây số, các ông thấy Đức Giêsu đi trên mặt Biển Hồ và
đang tới gần thuyền. Các ông hoảng sợ. (Ga 6, 16-19)
Từ trên đỉnh
đồi Chúa Giêsu vẫn trông chừng các ông, Ngài không quên họ. Ngài không vì quá bận
rộn với Chúa Cha mà quên nghĩ đến họ.
Trong cơn
biển động, vì gió thổi mạnh, các ông đầy lo lắng và đã đem hết sức mình ra
để vật lộn với hiểm nguy. Chúa đã đến giúp các môn đệ Ngài trong nổ lực cuối
cùng của họ để cập bến an toàn.
Trong cuộc
sống của chúng ta cũng lắm lúc gặp những gian nan, tưởng chừng như bị Chúa bỏ
rơi. Nhưng thực ra trong mọi hoàn cảnh của chúng ta luôn có Chúa hiện diện.
Chúa luôn quan tâm, và sắp đặt cho chúng ta cách tốt nhất để chúng ta vượt thắng
những khó khăn và gặp được bình an
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 21-04:
Thánh ANSELMÔ
Giám mục, Tiến Sĩ (1033 - 1109)
Thánh Anselmô chào đời năm 1033 tại Aosta, trong
một gia đình quí phái. Mẹ Ngài, một người rất đạo đức lãnh trách nhiệm huấn luyện
Ngài theo đàng nhân đức. Từ nhỏ, Ngài đã được theo học những bậc thầy danh tiếng.
Bởi thế, Ngài đã mau mắn tiến triển cả về học vấn lẫn đức hạnh. Vào tuổi 15,
thánh nhân đã biết chán ghét danh vọng giả trá thế trần và quyết theo đuổi đời
sống tu trì, nhưng cha Ngài chống lại ý muốn này, thánh nhân buồn rầu ngã bệnh.
Nhiệt tình theo đuổi đời sống tu trì không kéo dài bao lâu, nhất là bà mẹ đạo đức
qua đời.
Anselmô rơi vào tình trạng nguội lạnh, nhiệt
tình tuổi trẻ bị lôi cuốn vào những hấp dẫn thế trần. Cho đến lúc này, Anselmô
vẫn còn thần tượng của cha Ngài, nhưng Thiên Chúa đã tha phép cho tình âu yếm của
ông biến thành cay cú, đòi hỏi và cứng cỏi, đến nỗi Anselmô đã phải bỏ nhà trốn
đi. Ngài từ giã không phải khỏi nhà cha mẹ mà thôi, nhưng còn bỏ luôn quê hương
xứ sở cho tới tận miền Bourgogne .
Tại đây, Ngài lấy lại nhiệt tình ban đầu. Ba năm sau, Ngài đến thụ huấn với tu
viện trưởng Lanfrane ở Bec.
Một ngày kia, Anselmô xét thấy mình đã khổ cực để
nên thông thái nhiều hơn là để nên đạo đức. Ngài đến quì dưới chân thày và nói
: - Con có ba đường để theo : hoặc là trở thành tu sĩ phải Bec, hoặc sống ẩn
tu, hoặc ở giữa thế gian để phân phát cho người nghèo gia sản của cha con để lại.
Đức Tổng giám mục giáo phận Rouen khuyên Ngài theo đuổi đời sống tu trì.
Thế là Anselmôgia nhập tu viện Bec. Lúc ấy Ngài được 27 tuổi, Ngài đã dồn nỗ lực
để nghiên cứu thần học và đời sống khiêm tốn vâng phục. Năm 1072, Đức Đan viện
phụ Lanfrane được đặt làm tổng giám mục Canterbury .
Anselmô được cử lên thay thế làm tu viện trưởng rồi làm Đan viện phu.
Sự đơn sơ và nhân hậu của Ngài đã đánh tan mọi
ghen tương nghi kỵ. Hơn nữa sự thánh thiện và trí thông minh của thánh nhân đã
khiến cho Ngài trở thành danh tiếng không những đối với các vị vua Chúa và các
đức giám mục mà cả với thánh giáo hoàng Grêgôriô nữa. Tu viện Đức Bà ở Bec trở
thành nơi trung tâm của phong trào trí thức thế kỷ XI năm 1087. Vua Willian I
nước Anh từ trần. William Rufus lên kế vị. Nhà độc tài này không muốn có những
chủ chăn mới và sang đoạt được nhiều tài sản của Giáo hội, nên khi Đức tổng
giám mục Lanfrane qua đời, tòa giám mục Canterbury bị trống ngôi, năm 1093 khi
thánh Anselmô viếng thăm Anh quốc, Rufus trong cơn trọng bệnh đã xin thánh nhân
lãnh nhiệm vụ cai quản giáo phận Canterbury. Thánh nhân đã từ chối, nhưng rồi
cũng phải lãnh nhận vì sự nài nỉ của các giám mục và nhất là vì sự chỉ định của
đức Giáo hoàng Urbanô II.
Nhưng rồi khi nhà vua bình phục, ông hối tiếc vì
việc sám hối của mình. Khi bị Đức Anselmô buộc phải chấp nhận quyền của Đức
Urbanô, ông đã gây áp lực để truất phế đức tổng giám mục. Đức Giáo hoàng không
nhận những giáo dân có thế giá cho biết sẽ không tha thứ cho việc truất phế
thánh nhân, nhưng rồi năm 1097, sau nhiều cuộc cãi vã liên tục và vô hiệu,
thánh Anselmô tự ý xin đi lưu đày, Rufus ưng thuận.
Thánh Anselmô trở về Roma và được khen ngợi vì sự
can đảm của Ngài sau khi tham dự cộng đồng Bari và Roma. Thánh nhân tìm về đời sống tu
viện tại dãy núi Apennins. Nơi đây Ngài hoàn thành tác phẩm: tại sao Thiên Chúa
làm người. Ngài tuân thủ từng chi tiết của lề luật như một tập sinh. Ngài nói :
- Cuối cùng tôi gặp được chốn nghỉ ngơi.
Năm 1100, Rufus qua đời trong một cuộc đi săn.
Henri em vua lên kế vị, nhà vua mới triệu vời vị tổng giám mục trở về giáo phận.
Năm 1106 Ngài trở về điều khiển Giáo hội tại Anh quốc.
Trải qua biết bao thăng trầm thánh nhân vẫn giữ
được tâm hồn bình lặng. Ngài không bỏ qua công cuộc tìm kiếm thần học. Bởi đó,
Ngài đã thành chiến sĩ đầu tiên của Giáo hội sau những thế kỷ đen tối. Luận chứng
của Ngài nhằm chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa nay vẫn còn được biết đến.
Thần học của Ngài là một phần linh đạo đặt trên sự cảm thông với những đau khổ
của Chúa Kitô.
Với tư cách Tổng giám mục Canterbury Ngài đã chấm
dứt việc bôi nhọ các thánh quê mùa của nước Anh quốc và góp phần khơi dậy cảm
tình những gì truyền thống nước Anh từ xưa để lại. Đây là việc làm có giá trị
lâu bền vì sửa lại được tình cảm phân rẽ và cuộc chinh phục của William gây
nên.
Năm 1109, thánh Anselmô qua đời. Một con người
đã luôn biết tìm kiếm Chúa. "Tôi không tìm hiểu để tin nhưng tin để mà hiểu
biết", cuối cùng Ngài đã tìm về được ánh sáng vĩnh cửu.
(Daminhvn.net)
+++++++++++++++++
21
Tháng Tư
Món
Quà Sinh Nhật
Một
bác nông phu tên là Donningos sinh sống bên Brazil bằng nghề trồng bắp. Một buổi
sáng nọ, trên con đường đi ra đồng làm việc, ông được đứa con trai mừng sinh nhật
thứ 10 chạy theo căn dặn: "Ðừng quên mang về hai con chim nhỏ làm quà sinh
nhật cho con cha nhé!". Người cha vốn rất vui tính và thương con nở nụ cười
tươi, gật gù dưới chiếc nón rộng vành cho con yên dạ.
Sau
một ngày lao động mệt nhọc trên cánh đồng, thấy mặt trời chưa lặn hẳn, bác
Donningos vội đi qua cánh rừng gần đấy gom một mớ củi. Ðang lúc bó củi, bỗng
bác nhớ lại lời hứa mang đôi chim về làm quà sinh nhật thứ 10 cho con. Bác bỏ vội
bó củi bên đường, tiến sâu vào rừng, trèo nhanh lên gành đá của một ngọn đồi,
nơi chim thường làm tổ. Tìm được một tổ chim có tiếng chim con kêu, bác cẩn thận
luồn tay vào, nhưng vừa đụng những chim con, bác vội rụt tay về, vì nghe đau
nhói như bị kim đâm. Nhìn kỹ đó là vết thương hai lỗ có máu rỉ ra. Chưa định thần
thì một con rắn đầu có hình chữ thập trườn ra ngoài, vươn đôi mắt ngê rợn chực
tiếp tục tấn công. Ðó là con rắn nổi tiếng được dân địa phương gọi là
"uturu des sétao". Nổi tiếng vì nọc nó vô phương cứu chữa.
Bác
nông phu vội rút chiếc dao cán dài ra khỏi thắt lưng, nhắm đầu rắn chặt nhanh.
May cho bác, nhát dao giết chết được con rắn, nhưng bàn tay bị rắn cắn bỗng vụt
sưng lên. Không chần chừ, bác kê tay lên gốc cây và mạnh tay chặt luôn hai
nhát, cắt lìa bàn tay. Buộc xong vết thương bằng chiếc áo và dùng răng phụ chiếc
tay còn lại xiết chặt, bác dùng sức tàn chạy nhanh về nhà, nhưng vẫn không quên
cầm hai chú chim làm qua sinh nhật cho con.
Bạn có tin câu chuyện có
thực này không? Nếu bạn không tin thì làm sao bạn tin được một sự thật khác còn
to lớn hơn: Thiên Chúa chúng ta, không những cho chúng ta bàn tay của người,
nhưng đã trao ban cho chúng ta trọn Con Một yêu dấu của Người.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Ngày 21
Thánh Anselmô, Giám mục và tiến sĩ Hội Thánh
Thánh Anselmô, Giám mục và tiến sĩ Hội Thánh
Hỡi bà Maria, Thiên Chúa ở cùng bà!
Hỡi Đấng đầy ân sủng. Hỡi Trinh Nữ được Thiên Chúa chúc phúc và chúc phúc thật tuyệt vời. Người Con mà Thiên Chúa yêu thương như chính mình, chỉ vì Người là Hữu thể được sinh ra từ muôn thuở. Thiên Chúa đã ban Người Con này cho Maria; người Con được Đức Maria sinh ra, không phải ai khác, nhưng cũng là một người, vì mang bản thể của Người Con duy nhất, vừa chung với Thiên Chúa vừa chung với Đức Maria. Mọi thụ tạo đều là của Thiên Chúa, và Thiên Chúa được Đức Maria sinh ra. Thiên Chúa sáng tạo tất cả và Đức Maria đã sinh Thiên Chúa! Thiên Chúa Đấng làm ra tất cả, đã tự nhận mình nơi Đức Maria, và như thế Người tái tạo tất cả những gì Người đã dựng nên. Người là Đấng có thể làm nên thánh từ hư không, nay Người không muốn tái tạo lại sáng tạo đã bị tục hóa mà không có Đức Maria.
Thiên Chúa là Cha vũ trụ được tạo thành, và Đức Maria là Mẹ của vũ trụ được tái tạo, Thiên Chúa là Cha dựng nên vạn vật và Đức Maria là mẹ của sự tái tạo. Đức Maria đã sinh ra Đấng cứu độ muôn loài.
Hỡi Đấng đầy ân sủng. Hỡi Trinh Nữ được Thiên Chúa chúc phúc và chúc phúc thật tuyệt vời. Người Con mà Thiên Chúa yêu thương như chính mình, chỉ vì Người là Hữu thể được sinh ra từ muôn thuở. Thiên Chúa đã ban Người Con này cho Maria; người Con được Đức Maria sinh ra, không phải ai khác, nhưng cũng là một người, vì mang bản thể của Người Con duy nhất, vừa chung với Thiên Chúa vừa chung với Đức Maria. Mọi thụ tạo đều là của Thiên Chúa, và Thiên Chúa được Đức Maria sinh ra. Thiên Chúa sáng tạo tất cả và Đức Maria đã sinh Thiên Chúa! Thiên Chúa Đấng làm ra tất cả, đã tự nhận mình nơi Đức Maria, và như thế Người tái tạo tất cả những gì Người đã dựng nên. Người là Đấng có thể làm nên thánh từ hư không, nay Người không muốn tái tạo lại sáng tạo đã bị tục hóa mà không có Đức Maria.
Thiên Chúa là Cha vũ trụ được tạo thành, và Đức Maria là Mẹ của vũ trụ được tái tạo, Thiên Chúa là Cha dựng nên vạn vật và Đức Maria là mẹ của sự tái tạo. Đức Maria đã sinh ra Đấng cứu độ muôn loài.
Thánh Anselme
Thứ Bảy 21-4
Thánh Anselm
(1033-1109)
à một
thanh niên lãnh đạm với tôn giáo, Thánh Anselm đã trở nên một trong những nhà
lãnh đạo và thần học gia vĩ đại của Giáo Hội. Ngài có danh xưng "Ông
Tổ Phái Kinh Viện" vì những cố gắng phân tích và làm sáng tỏ các
chân lý đức tin qua sự hỗ trợ của lý lẽ.
Thánh
Anselm sinh trong một gia đình quyền quý ở Aoust, thuộc
Khi 15
tuổi, Anselm muốn gia nhập một đan viện, nhưng bị từ chối vì người cha phản đối.
Sau thời gian mười hai năm sống trong sự thờ ơ tôn giáo và theo thói đời, sau
cùng ngài đã trở thành một đan sĩ như lòng mong ước. Ngài gia nhập đan viện
Bec ở Normandy, ba năm sau ngài được bầu làm đan viện trưởng, và 15 năm sau
ngài được bầu làm viện phụ.
Ðược
coi là một nhà tư tưởng độc lập và độc đáo, Ðức Anselm được mọi người thán phục
vì sự kiên nhẫn, hiền hòa và tài giảng dạy của ngài. Quả thật, ngài hiểu biết
nhiều về thực chất và sự đam mê của con người đến độ dường như ngài đọc được
tư tưởng và hành động của họ, bởi đó ngài nhìn thấy các nhân đức cũng như tật
xấu của họ và khuyên bảo họ một cách thích hợp. Dưới sự lãnh đạo của ngài,
Ðan Viện Bec trở nên trường đào tạo các đan sĩ, có ảnh hưởng đến các tư duy
triết học và thần học thời ấy.
Trong
những năm này, theo lời yêu cầu của cộng đoàn, Ðức Anselm bắt đầu công bố các
công trình thần học của ngài, có thể sánh với các văn bản của Thánh
Augustine. Công trình nổi tiếng nhất của ngài là cuốnCur Deus Homo ("Tại Sao Thiên Chúa Làm Người").
Khi 60
tuổi, ngài được bổ nhiệm làm Ðức Tổng Giám Mục của
Sau
cùng Ðức Anselm phải đi lưu đầy cho đến khi Rufus từ trần năm 1100. Ngài được
gọi về nước Anh bởi Henry I, là em và là người kế vị Rufus. Tuy nhiên, Ðức
Anselm lại bất đồng với Henry về việc nhà vua nhúng tay vào các vấn đề của
hàng giám mục, do đó ngài lại phải đi lưu đầy ba năm ở Rôma.
Không
chỉ lưu tâm đến hàng quý tộc, Ðức Anselm còn để ý và lo lắng cho người nghèo.
Ngài là người đầu tiên trong Giáo Hội chống đối việc buôn nô lệ. Và ngài đã
được Hội Ðồng Quốc Gia Westminster thông qua đạo luật cấm buôn bán con người.
Ngài từ
trần ở
Lời Bàn
Thánh
Anselm, cũng như bất cứ môn đệ trung kiên nào khác của Ðức Kitô, đã phải vác
thập giá của mình, nhất là dưới hình thức chống đối và xung đột với những người
đang nắm quyền chính trị. Mặc dù bản tính là một người hiền hòa và yêu chuộng
hòa bình, Thánh Anselm không nhượng bộ trước sự đàn áp và mâu thuẫn với các
nguyên tắc đang bị đe dọa.
Lời
Trích
"Trên
thiên đàng không ai có sự khao khát nào hơn là thánh ý Thiên Chúa; và sự khao
khát của một người sẽ là sự khao khát của mọi người; và sự khao khát của mọi
người cũng như mỗi người sẽ là sự khao khát của Thiên Chúa" (Thánh
Anselm, Opera Omnis, Thư 112).
|
|
Copyright © 2010 by
Nguoi Tin Huu.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét