Chúa Nhật 3 Quanh Năm Năm B
Bài Ðọc
I: Gn 3, 1-5. 10
"Dân
thành tin tưởng nơi Chúa: họ công bố việc ăn chay".
Trích sách Tiên tri Giona.
Lời Chúa phán cùng Giona rằng: "Hãy chỗi dậy và đi đến
Ninivê, một thành phố lớn, và rao giảng cho nó điều Ta sẽ nói cho ngươi".
Giona chỗi dậy và đi đến Ninivê theo lời Chúa dạy. Ninivê là một thành phố lớn,
rộng bằng ba ngày đàng, Giona tiến vào thành phố đi một ngày đàng, rồi rao giảng
rằng: "Còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá huỷ". Dân thành tin tưởng
nơi Chúa: họ công bố việc ăn chay và mặc áo nhặm, từ người lớn đến trẻ nhỏ.
Chúa thấy việc họ làm, vì họ bỏ đời sống xấu xa, Chúa bỏ ý định phạt họ, và Người
không thực hiện điều đó.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 24, 4bc-5ab. 6-7bc. 8-9.
Ðáp: Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối
bước của Ngài. (c. 4b).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa,
xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo
con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con. - Ðáp.
2) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội
nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo
người khiêm cung đường lối của Ngài. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng
thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài,
vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Cr 7, 29-31
"Bộ mặt thế gian này đang qua đi".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu
Côrintô.
Anh em thân mến, tôi nói cùng anh em điều này là: Thời giờ
vắn vỏi; còn có cách là những ai có vợ, hãy ở như không có; những ai than khóc,
hãy ăn ở như không than khóc; những kẻ hân hoan, hãy ăn ở như không hân hoan;
những người mua sắm, hãy ăn ở như không có gì; những ai dùng sự đời này, hãy ăn
ở như không tận hưởng, vì chưng bộ mặt thế gian này đang qua đi.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mc 1, 15
Alleluia, alleluia! - Nước Chúa đã gần đến, hãy tin tưởng
vào Phúc Âm. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 1, 14-20
"Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Sau khi
Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa,
Người nói: "Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn
năn sám hối và tin vào Phúc Âm". Ðang lúc đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người
thấy Simon và em là Anrê đang thả lưới xuống biển, vì các ông là những người
đánh cá. Chúa Giêsu bảo các ông: "Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở
thành những kẻ chài lưới người". Lập tức các ông bỏ lưới theo Người. Ði xa
hơn một chút nữa, Người thấy Giacôbê con ông Giêbêđê và em là Gioan đang xếp lưới
trong thuyền, Người liền gọi các ông. Hai ông bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền
cùng với các người làm công, và đi theo Người.
Ðó là lời
Chúa.
Suy Niệm:
Ðức Giêsu
đến loan báo Tin Mừng cứu độ, Ngài kêu gọi con người canh tân, để được đón nhận
vào triều đại nước Thiên Chúa.
Trong
chương trình của Thiên Chúa: Mọi người đều được hưởng ơn cứu độ. Vì thế các
tông đồ, những người kế vị được kêu gọi để cùng với Ðức Giêsu đem Tin Mừng cho
toàn thế giới.
Là người
Kitô hữu, tôi cũng được tuyển chọn để thi hành sứ vụ này: Tôi đã làm gì để đóng
góp vào chương trình của Chúa?
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa
Giêsu, Chúa muốn các tông đồ cộng tác với Chúa trong sứ mệnh loan báo Tin Mừng.
Ngày nay Chúa cũng muốn nơi mỗi Kitô hữu chúng con. Xin cho chúng con có tâm hồn
quảng đại, mau mắn đáp lại lời mời gọi của Chúa. Xin cho chúng con biết sống một
đời Kitô hữu tốt: tốt đạo đẹp đời. Cách sống gương mẫu của chúng con là một lời
loan báo sống động cho Tin Mừng cứu độ. Amen.
Suy Niệm:
Chúa Nhật III Thường Niên Năm B
Chúng ta đọc: Yona 3,1-5.10; Thư 1 Corintô 7,29-31; Tin Mừng
Marcô 1,14-20
Ba
bài đọc Thánh Kinh hôm nay có thể hướng suy nghĩ của chúng ta về việc thống hối
tội lỗi và cải tạo đời sống. Ðó là một đề tài quan trọng và phong phú. Trong
thánh lễ này, chúng ta chỉ để ý đến khía cạnh những người được Chúa gọi phải đổi
mới tâm hồn và đời sống tư tưởng của Chúa nhật trước về ơn gọi.
1. Chúng Ta Ðược Gọi Tin Vào Phúc Âm
Bài
Tin Mừng Marcô chúng ta vừa nghe nói đến việc Chúa Yêsu gọi 4 tông đồ đầu tiên.
Rõ ràng không giống Tin Mừng Yoan đã kể trong Chúa nhật trước. Vì thế chúng ta
lại càng tin chắc hơn: các tác giả đã không quay phim tại chỗ. Việc Chúa gọi
các tông đồ đầu tiên đã được suy nghĩ lâu năm trước khi được đem viết lại thành
văn bản. Và khi được viết ra, nó đã mang nặng chất thần học. Cái hay và cái
khéo của những bản văn này là vẫn giữ lại được cho câu truyện hương sắc mới lạ
của buổi đầu. Ðọc đoạn văn Marcô hôm nay, ai nghĩ ngay là một bản văn đã thần học
hóa những sự kiện xảy ra trong thực tế? Ngược lại, chúng ta có cảm giác thật sự
như thấy Ðức Yêsu đang đi trên bờ biển Galilêa và gọi các tông đồ. Nhưng đối với
thánh Marcô thì khác. Và có lẽ đối với chúng ta sau khi suy nghĩ cũng vậy.
Ðức
Yêsu bấy giờ không phải là chính là Ðức Yêsu hồi mới ra giảng đạo đâu, nhưng là
Ðức Yêsu đã sống lại. Quả vậy, dù muốn dù không, khi viết Tin Mừng, Marcô đã có
một cái nhìn đức tin sâu sắc về Ðấng mà người muốn rao giảng lại cho hậu thế.
Con mắt người có thể nói, đã nhận được những tia sáng phục sinh để nhìn vào Ðức
Yêsu, nên mọi nét tả, mọi lời văn trong sách Tin Mừng của người đều chan chứa đức
tin và mang nặng chất thần học.
Vì
thế, không phải vô lý mà Marcô đã bắt đầu bằng chữ: "Sau khi Yoan bị bắt".
Ông là vị tiền hô của Chúa. Cuộc tử nạn của ông báo trước việc Chúa chịu chết.
Do đó với những chữ mở đầu như trên Marcô có ý gợi lên sự kiện "sau khi thụ
nạn", Chúa Yêsu đã lui về Galilêa. Người bắt đầu gọi lại các tông đồ. Và
như vậy câu truyện Marcô kể bây giờ được bọc trong mầu nhiệm Phục sinh.
Trước
hết, chính Ðức Yêsu bây giờ là nhà truyền giáo lý tưởng. Sứ điệp của Người là nội
dung các tông đồ phải truyền lại. Người giảng ở đất Galilêa (dân ngoại) để Hội
Thánh bắt chước Người đi làm việc ở các dân tộc. Người nói rằng thời buổi đã
mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng!
Ðó
là những lời rất quan trọng và mầu nhiệm. "Thời buổi" ở đây không phải
là thời gian năm tháng tính theo các loại đồng hồ, nhưng là lịch sử, là kỷ
nguyên. Với việc Ðức Kitô chịu chết và sống lại, lịch sử đã đi vào giai đoạn
sung mãn. Thánh Kinh gọi là thời buổi cuối cùng. Từ nay đến tận thế không có gì
mới nữa. Chỉ còn việc ơn cứu độ của Ðức Kitô lan rộng ra khắp không gian và thời
gian.
Vì
thế, "Nước Thiên Chúa đã gần bên". Không ai còn ở xa ảnh hưởng của Ðức
Kitô cứu thế nữa. Do đó, mọi người phải hối cải, tức là từ bỏ con đường mình
đang theo và quay mặt về với Chúa. "Và hãy tin vào Tin Mừng".
Nhưng
Tin Mừng nào?
Ở
đây Marcô dùng một từ ngữ chuyên môn. Thoạt đầu chữ "Tin Mừng" gợi
lên những buổi trọng đại trong đời sống xã hội. Sứ giả của nhà vua được sai đi
thông báo cho toàn dân thiên hạ biết những sự vui mừng có hệ mật thiết đến hạnh
phúc của họ. Nào là việc có một hoàng đế lên ngôi; ngài vừa có một thái tử;
ngài lập đông cung thái tử lên chức kế vị ngai vàng, chẳng hạn... Ðó là những
Tin Mừng vì mật thiết liên hệ đến đời sống ấm no của chư dân. Nhưng phần lớn,
đó chỉ là những tin mừng chủ quan và hạn chế.
Tin
Mừng đích thực cho mọi thời và mọi nơi đúng như lời các thiên sứ đã loan báo
cho mục đồng là Chúa Cứu Thế đã giáng sinh. Thành ra khi sách Tân Ước dùng chữ
Tin Mừng và giục chúng ta tin vào Tin Mừng, thì chúng ta phải hiểu đây chính là
sứ điệp cứu độ: Thiên Chúa đã thi hành kế hoạch cứu thế của Người khi sai Con của
Người đến chịu chết và sống lại cho loài người chúng ta. Ðó là Tin Mừng của
Thiên Chúa công bố trong thời đại cuối cùng. Và nội dung Tin Mừng ấy toàn nói về
Ðức Yêsu Kitô; và cũng chính là Ðức Yêsu Kitô. Rao giảng Tin Mừng của Thiên
Chúa là công bố kế hoạch cứu thế của Người trong Ðức Yêsu Kitô, là công bố đời
sống và sự nghiệp của Ðức Yêsu Kitô, là công bố chính Ðức Yêsu Kitô. Nên Tin Mừng
và Ðức Yêsu Kitô cũng là một.
Vậy
đã có Ðức Yêsu Kitô là sứ giả đặc biệt của Thiên Chúa để rao giảng Tin Mừng;
Người đã đến đất Galilêa dân ngoại để làm chứng Tin Mừng phải được mang đến cho
các dân tộc. Hơn nữa Người đã rao giảng Tin Mừng khi thực hiện việc chịu chết
và sống lại để cứu thế; thì không những từ nay người ta phải hối cải và tin vào
Tin Mừng, và hơn nữa từ nay phải có nhiều người đi rao giảng Tin Mừng ấy.
Thế
nên Chúa Yêsu đã gọi anh em Simon và Anrê, cũng như Yacôbê và Yoan. Họ đang làm
nghề bắt cá. Người bảo họ hãy theo Người đi bắt các linh hồn. Lập tức họ bỏ lưới
chài và tất cả để đi theo Chúa.
Chúng
ta đã nói: Marcô kể khác với Yoan. Ở đây, Marcô có lẽ mô phỏng sách Các Vua
(1,19-21) trong đoạn thuật truyện Êlia gọi Êlisê làm tiên tri. Hôm ấy Êlia đi
đường gặp Êlisê đang bừa ruộng. Ông lại gần, tung chiếc áo choàng ra trên con
người của Êlisê. Ông này hiểu ngay ý nghĩa: nhà tiên tri muốn ông từ nay thuộc
về Ngài. Êlisê xin được phép về nhà hôn cha hôn mẹ, rồi đến nơi bẻ cầy, bẻ bừa
làm củi, thui luôn cả bò và bỏ mọi sự để đi theo Êlia làm tiên tri.
Marcô
đã lấy lại đoạn văn trên. Nhưng ông đã sửa chữa. Thời buổi đã mãn, người ta
không còn được phép về nhà từ gĩa cha mẹ nữa. Người ta phải bỏ ngay mọi sự mà
đi theo Chúa làm tông đồ.
Và
làm tông đồ là làm như Chúa Yêsu và Marcô vừa phác lại chân dung trong những
câu đầu tiên của bài Tin Mừng hôm nay. Người đã qua mầu nhiệm Tử nạn - Phục
sinh. Người đến giữa dân ngoại. Người công bố Tin Mừng của Thiên Chúa, để người
ta hối cải và tin vào Tin Mừng và để người ta cùng Người làm thành cộng đoàn mật
thiết tiếp tục rao giảng Tin Mừng.
2. Chúng Ta Phải Sống Phúc Âm
Không
ai có thể thấy mình ở ngoài sứ điệp trên đây. Tất cả chúng ta đều phải hối cải
và tin vào Phúc Âm. Phụng vụ hôm nay mượn những lời thư Phaolô giúp đỡ chúng ta
đi vào nếp sống mới này.
Thoạt
nghe, có thể chúng ta không thích những lời khuyên loại này. Chúng có vẻ xuất
thế, không hợp thời với đạo nhập thế. Có người còn nhận xét, trong những câu
khuyên này không một lời nào nhắc đến Thiên Chúa và Ðức Yêsu Kitô. Và người ta
kết luận đây là thứ đạo đức học của các môn phái khắc kỷ và yếm thế hơn là của
Kitô giáo.
Nhưng
chỉ cần đọc lại với những tư tưởng mà chúng ta đã thấy trong bài Tin Mừng hôm
nay: lời thánh Phaolô sẽ tỏ ra sâu sắc khác thường. Trước hết, thật khó dịch
cho đúng câu khuyên bảo đầu tiên. "Thời buổi đã co rút lại" nghĩa là
gì? Tựu trung, thánh Phaolô cũng chỉ muốn nói cho Ðức Yêsu trong bài Tin Mừng
hôm nay: thời buổi đã mãn. Tức là lịch sử đã đến lúc cuối cùng. Thiên Chúa đã
thực hiện kế hoạch cứu độ và cứu thế của Người xong rồi, không còn gì để chờ đợi
nữa. Người ta phải nhận hay không nhận. Khất lần, trì hoãn hay dửng dưng là
không nhận rồi. Còn nếu nhận thì phải tin "từ nay" đã có Con Một
Thiên Chúa giáng sinh làm người; Người đã thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa cứu
độ khi chịu chết và sống lại; Người đang ở gần mỗi người và trong mọi lúc cũng
như ở mọi nơi. Người đang rao giảng cho chúng ta Tin Mừng của Thiên Chúa, là
chính Con Người và đời sống của Người. Chúng ta phải bỏ con đường xưa nay vẫn
đi, quay mặt lại với Người là hối cải và tin vào Người.
Khi
ấy suy nghĩ tâm tư, cảm giác, đời sống của chúng ta phải khác. Tất cả đều bị
chi phối bởi sự hiện diện của Ðức Kitô cùng với giáo lý và đòi hỏi của Người. Kẻ
có vợ sẽ như không có, kẻ khóc như không khóc, kẻ vui như không vui, kẻ mua như
không cầm giữ, kẻ hưởng thế gian như không tận hưởng... nghĩa là những kẻ ấy sẽ
không cư xử như khi chưa biết Chúa Yêsu nữa. Họ đã có Người, có giáo lý và tình
yêu của Người, thì họ sẽ sống cách mới mẻ. Suy tư, cảm nghĩ, hành động của họ đều
thâm nhiễm ảnh hưởng của Ðức Kitô. Họ sống nhưng không phải họ, mà là Ðức Kitô
sống trong họ. Họ ở giữa thế gian nhưng không còn thuộc về thế gian, bởi vì
"bộ dạng thế gian" tức là cơ cấu, định luật của thế gian tội lỗi đang
qua đi, tức là đang mất ảnh hưởng đối với họ. Họ vẫn ở trong thế gian, nhưng thế
gian không giữ được họ và bắt buộc được họ làm nô lệ cho mình nữa. Họ đã được
ơn của Ðức Yêsu Kitô giải phóng. Từ nay họ là con cái tự do của Thiên Chúa. Họ
được lại quyền làm chủ vạn vật như Adong trước khi sa ngã. Họ có tự do của tinh
thần để không bị sức mạnh cuả sự dữ khống chế. Hơn nữa nhờ tinh thần được tự do
hoàn toàn ấy, họ khắc phục tiêu diệt được sự dữ luôn luôn làm áp lực trên đời sống
của họ.
Ðó
là nếp sống mà thánh Phaolô khuyên chúng ta phải đi vào cho phù hợp với ơn gọi
của những con người đã tin vào Phúc Âm. Nếp sống này, muốn đầy đủ, phải mở sang
một khía cạnh khác nữa là truyền giáo.
3. Chúng Ta Phảo Rao Giảng Phúc Âm
Chính
bài Tin Mừng Marcô cho chúng ta thấy Chúa Yêsu đã đi rao giảng Tin Mừng, kêu gọi
môn đệ và làm thành với họ một cộng đoàn truyền bá Tin Mừng, là cộng đoàn Hội
Thánh. Chúng ta phải bắt chước Người chứ đừng bắt chước Yona.
Ông
là một người Dothái được Chúa kêu gọi để đi giảng đạo cho Ninivê, ông không chịu.
Vì ông ghét thành này. Ninivê không là thủ đô của đế quốc đã xâm chiếm và tàn
phá quê hương của ông sao? Giảng đạo cho bọn ấy để họ cũng được ơn của Chúa ư?
Không đời nào. Ðàng khác sức mấy mà bọn ấy trở lại! Thủ đô của bọn chúng kiêu kỳ
và tội lỗi, dễ gì chịu nghe ai. Nhất nữa người được sai đi đây lại là Yona, một
anh nhà quê ở một tiểu nhược quốc!
Yôna
không tin ở sứ mệnh Chúa giao phó cho mình. Và ông cũng chẳng muốn thi hành sứ
mệnh ấy, kẻo kẻ thù của ông và của dân tộc ông cũng được phúc. Thế nên thay vì
đi sang tây, hướng về Ninivê, Yona đã lấy tàu đi Tarsis ở phía đông. Ông chọc tức
Chúa, nên Chúa đã nổi lôi đình. Sóng gió nổi dậy. Mọi người trong tàu bắt Yona
ném xuống biển. Một con cá lớn vồ tới, Yona bị nó nuốt trửng. Ở trong bụng cá,
Yona biết tội nên thống hối ăn năn. Ông hứa sẽ vâng lời Chúa. Con cá liền mửa
ông ra bờ. Và ông đã đến Ninivê.
Yona
vừa mới rao giảng, từ vua chí dân đã thực lòng thống hối. Khác hẳn một trường hợp
trước đây. Yêrêmia giảng cho dân Dothái dưới thời Yoakim (Gr 36). Ðã chẳng thống
hối thì chớ, nhà vua lại còn truyền đốt sách của nhà tiên tri! Thật là khác với
câu truyện Yona hôm nay.
Vì
thế đây chỉ là câu truyện mỉa mai người Dothái. Nó được viết vào thời sau lưu
đày. Những người Dothái hồi hương bắt đầu xây lại đền thờ. Các dân chung quanh
đến xin góp phần. Người Dothái lạnh lùng từ chối: bọn các ngươi là dân ngoại,
các ngươi đã cướp đất cướp của của chúng ta, các ngươi lại muốn được chia sẻ hạnh
phúc làm dân Chúa như chúng ta sao? Thái độ ấy thật kỳ cục. Nó hẹp hòi và ích kỷ.
Người ta quên lời hứa với Abraham là muôn dân cũng sẽ được chúc phúc khi họ
"trở lại" và dân Chúa phải có sứ mạng truyền giáo. Cư xử như thế kia
thật còn tệ hơn lương dân nữa.
Câu
truyện Yona ý nghĩa như vậy, nên khi người ta xin Ðức Yêsu một điềm lạ, Người
nói chẳng có thêm điềm lạ nào nữa ngoại trừ điềm lạ Yona. Người khuyên người ta
hãy suy nghĩ về câu truyện này.
Ðến
lượt chúng ta hôm nay cũng phải suy nghĩ. Thái độ của chúng ta đối với lương
dân và những người không chia sẻ đức tin của chúng ta, như thế nào? Chúng ta có
tha thiết cho họ được hạnh phúc như chính chúng ta không? Ðó là chính ý của
Chúa. Người đã khởi sự giảng đạo ở Galilêa. Người dạy Hội Thánh đi đến với
lương dân. Người gọi các môn đệ đầu tiên để làm thành một cộng đoàn truyền
giáo. Hội Thánh của chúng ta phải rao giảng Tin Mừng nhiều hơn. Chúng ta phải
nhiệt tình với lương dân hơn nữa. Và trước tiên như Ðức Kitô đã đi qua mầu nhiệm
Tử nạn - Phục sinh để trở thành Tin Mừng cho các dân tộc, chúng ta cũng phải
đóng đinh xác thịt vào thánh giá để sống cho Thiên Chúa nhiều hơn nữa, như lời
thư Phaolô hôm nay khuyên nhủ chúng ta.
Thánh
lễ này đưa chúng ta vào mầu nhiệm để chúng ta hối cải và tin vào Tin Mừng.
Chúng ta hãy thật lòng thống hối để có nếp sống thật Phúc Âm. Sự hiện diện của
chúng ta giữa xã hội cùng với lời rao giảng Tin Mừng sẽ làm ra những Ninivê mới,
tức là những xã hội hạnh phúc vui mừng vì đã có những nỗ lực cải tạo sâu rộng.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Suy niệm :
Bốn anh thanh niên có gia đình, có nghề nghiệp
lại được Ðức Giêsu mời gọi theo Ngài, bỏ lại tất cả.
Chắc chắn họ không phải là những người nhẹ dạ.
Họ đã từng quen biết Thầy Giêsu và kính nể Ngài.
Ðến lúc nào đó, khi được Ngài hoàn toàn chinh phục,
họ đã sẵn sàng ra đi, nhẹ tênh.
Bốn anh thanh niên có gia đình, có nghề nghiệp
lại được Ðức Giêsu mời gọi theo Ngài, bỏ lại tất cả.
Chắc chắn họ không phải là những người nhẹ dạ.
Họ đã từng quen biết Thầy Giêsu và kính nể Ngài.
Ðến lúc nào đó, khi được Ngài hoàn toàn chinh phục,
họ đã sẵn sàng ra đi, nhẹ tênh.
Nhiều người nghĩ rằng đoạn Tin Mừng này
nói về ơn gọi đi tu của các linh mục tu sĩ.
Thật ra đây là đoạn Tin Mừng
nói về ơn gọi của từng Kitô hữu chúng ta,
Chúa Giêsu vẫn đi ngang qua đời ta mỗi ngày
như xưa Ngài đã dọc theo biển hồ Ga-li-lê.
Ngài thấy ta như Ngài đã thấy bốn môn đệ.
Ngài thấy ta trước khi ta thấy Ngài.
Cái nhìn của Ngài không làm ta bị tê liệt
vì Ngài chấp nhận trọn vẹn con người của ta.
Cả những yếu đuối và tội lỗi cũng được Ngài đón nhận.
Hạnh phúc cho ai được thấy Thiên Chúa.
Nhưng hơn nữa, hạnh phúc cho ai được Thiên Chúa thấy.
nói về ơn gọi đi tu của các linh mục tu sĩ.
Thật ra đây là đoạn Tin Mừng
nói về ơn gọi của từng Kitô hữu chúng ta,
Chúa Giêsu vẫn đi ngang qua đời ta mỗi ngày
như xưa Ngài đã dọc theo biển hồ Ga-li-lê.
Ngài thấy ta như Ngài đã thấy bốn môn đệ.
Ngài thấy ta trước khi ta thấy Ngài.
Cái nhìn của Ngài không làm ta bị tê liệt
vì Ngài chấp nhận trọn vẹn con người của ta.
Cả những yếu đuối và tội lỗi cũng được Ngài đón nhận.
Hạnh phúc cho ai được thấy Thiên Chúa.
Nhưng hơn nữa, hạnh phúc cho ai được Thiên Chúa thấy.
Lúc Ngài thấy ta thì ta vẫn không hay biết.
Ta vẫn mải mê quăng chài hay vá lưới.
Ta vẫn tất bật với những lo toan đời thường,
hay đang miệt mài theo đuổi một ước mơ.
Chính lúc đó, chính lúc ta tưởng mình quá ư ổn định,
và đời mình đã được định hướng quá rõ ràng,
thì tiếng gọi của Ngài vang lên, mạnh mẽ, dứt khoát.
Hãy theo tôi!
Mọi người Kitô hữu đều được mời gọi đi theo Chúa Giêsu.
Ngài không mời ta đi theo một lý tưởng, một ý thức hệ.
Ngài mời ta theo chính con người Ngài, gắn bó với Ngài,
nhận Ngài là nền tảng và chóp đỉnh của cuộc sống.
Ta vẫn mải mê quăng chài hay vá lưới.
Ta vẫn tất bật với những lo toan đời thường,
hay đang miệt mài theo đuổi một ước mơ.
Chính lúc đó, chính lúc ta tưởng mình quá ư ổn định,
và đời mình đã được định hướng quá rõ ràng,
thì tiếng gọi của Ngài vang lên, mạnh mẽ, dứt khoát.
Hãy theo tôi!
Mọi người Kitô hữu đều được mời gọi đi theo Chúa Giêsu.
Ngài không mời ta đi theo một lý tưởng, một ý thức hệ.
Ngài mời ta theo chính con người Ngài, gắn bó với Ngài,
nhận Ngài là nền tảng và chóp đỉnh của cuộc sống.
Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới con
người.
Con người là điều ta phải quan tâm,
vì đó là mối quan tâm lớn nhất của Chúa Giêsu.
Theo Ngài là chia sẻ với Ngài cùng một sứ mạng,
là thao thức và đồng cam cộng khổ với Ngài
trong công việc cứu độ toàn thế giới.
Chúa Giêsu mời ta dấn thân vào cuộc đổi đời,
mời ta định lại hướng đi theo những giá trị mới.
Như thế là chấp nhận đổ vỡ, đoạn tuyệt.
Bốn môn đệ đã bỏ lại biển cả và những người thân yêu.
Vợ con của Simon và cha của Giacôbê sẽ sống thế nào?
Mái nhà nay vắng bóng những người đàn ông cột trụ!
Con người là điều ta phải quan tâm,
vì đó là mối quan tâm lớn nhất của Chúa Giêsu.
Theo Ngài là chia sẻ với Ngài cùng một sứ mạng,
là thao thức và đồng cam cộng khổ với Ngài
trong công việc cứu độ toàn thế giới.
Chúa Giêsu mời ta dấn thân vào cuộc đổi đời,
mời ta định lại hướng đi theo những giá trị mới.
Như thế là chấp nhận đổ vỡ, đoạn tuyệt.
Bốn môn đệ đã bỏ lại biển cả và những người thân yêu.
Vợ con của Simon và cha của Giacôbê sẽ sống thế nào?
Mái nhà nay vắng bóng những người đàn ông cột trụ!
Hôm nay Chúa Giêsu vẫn cần bạn, vì bạn là Kitô hữu.
Ngài vẫn thấy bạn, và mời gọi bạn đáp lại mỗi ngày.
Cần trầm lắng mới nghe được tiếng thì thầm của Chúa.
Bạn có thể sống như một giáo dân bình thường.
lo xây dựng gia đình, sự nghiệp, tương lai.
Nhưng bạn phải sẵn sàng từ bỏ khi cần,
nghĩa là chọn Chúa, đặt Chúa lên trên mọi giá trị đó.
Ngài vẫn thấy bạn, và mời gọi bạn đáp lại mỗi ngày.
Cần trầm lắng mới nghe được tiếng thì thầm của Chúa.
Bạn có thể sống như một giáo dân bình thường.
lo xây dựng gia đình, sự nghiệp, tương lai.
Nhưng bạn phải sẵn sàng từ bỏ khi cần,
nghĩa là chọn Chúa, đặt Chúa lên trên mọi giá trị đó.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội
trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con
theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự:
gia đình, sự nghiệp, người yêu.
theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự:
gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối
viện cớ mình kém đức kém tài.
viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn,
đến những nơi bất ngờ,
vì Chúa cần chúng con ở đó.
đến những nơi bất ngờ,
vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao
Siêu, S.J.
22/01/2012 CHÚA NHẬT TUẦN
3 TN – B
Mc 1,14-20
*****
THEO CHÚA
“Họ bỏ mọi sự và đi theo Người.” (Mc 1,20)
Suy niệm: Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ cứu thế bằng việc rao giảng Tin
Mừng và chiêu mộ môn đệ. Bốn người đầu tiên, ngay khi được kêu gọi, đã từ bỏ mọi
sự để đi theo Chúa. Điều này cho thấy Chúa Giêsu có sức thu hút mãnh liệt, lạ kỳ.
Đồng thời, bốn môn đệ đầu tiên cũng đã đáp lại bằng việc mau mắn dứt khoát theo
Chúa. Để Tin Mừng cứu độ của Chúa đạt hiệu quả, con người phải cảm nhận cách
sâu sắc tiếng mời gọi của Chúa, và đặt niềm tin mến hoàn toàn vào Người, đến nỗi
dám khước từ mọi sự để đi theo Chúa. Tin và yêu là hai động thái không thể thiếu
trong mọi hành trình tôn giáo.
Mời Bạn: Chân phước Foucauld, sau khi hoán cải, đã viết : “Ngay
khi tôi biết được có Thiên Chúa, tôi hiểu rằng tôi chỉ có thể sống vì một mình
Thiên Chúa mà thôi.” Cha đã từ bỏ mọi sự, sống ẩn tu khắc khổ để hoàn toàn thuộc
về Chúa. Gương của ngài mời gọi bạn xét lại niềm tin mến của bạn vào Chúa.
Chia sẻ: Phải chăng bạn tin Chúa là Đấng cứu độ duy nhất của lòng
mình, để rồi mến Chúa thiết tha, đến nỗi không gì cản ngăn bạn theo Chúa suốt đời?
Sống Lời Chúa: Hôm nay khi không biết chọn lựa hay hành động thế
nào trước một người, một sự kiện, bạn hãy chọn Chúa, dù cảm thấy thiệt thòi, vì
tin rằng “Tôi coi mọi sự là thua thiệt, trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức
Kitô và được thuộc về Người” (Pl 3,8).
Cầu nguyện: Lạy Chúa, khi con dám từ bỏ điều ít ỏi con đang “có” để
theo Chúa, chẳng những con không mất gì, mà lại được nhiều hơn, vì có Chúa là
có tất cả. Xin đừng để một lý do nào, một người nào làm con mất Chúa, vì mất
Chúa là con mất tất cả. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Chúa Nhật III Thường Niên; Gn 3, 1-5.10; 1Cr 7, 29-31; Tin Mừng M
1, 14-20.
LỜI SUY NIỆM: “Sau khi ông Gioan bị nộp.
Đức Giêsu, đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói:”Thời kỳ
đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.
(Mc 1, 14-15).
Tin Mừng Chúa Giêsu đã đem đến cho nhân loại đó là qua Ngài để nhận biết Thiên
Chúa. Nhân loại không còn phải mò mẫn, phỏng đoán theo cách của con người. Đem
đến cho nhân loại niềm hy vọng khi sống thánh thiện; không sợ phải thua thiệt với
những kẻ gian ác. Đêm đến cho con người sự bình an trong tâm hồn, khi bị sự ác
và sự thiện đang xâu xé trong mình. Đem đến cho con người sự hiểu biết Thiên
Chúa rộng lòng tha thứ, Ngài luôn yêu thương và trung thành với lời Ngài hứa.
Đem đến một sự cứu rỗi, không những tha hết tội lỗi mà còn xóa đi những hậu quả
của tội đã gây nên, để nhận lại sự sống đời đời trong Nước của Thiên Chúa. Để xứng
đáng nhận lãnh Tin Mừng này, mỗi con người cần phải biết sám hối, những gì là tội
lỗi, xấu xa mà mình đã làm. Không những đón nhận mà còn phải đặt niềm tin vào
Tin Mừng để sống, để được đổi mới con người của mình.
Mạnh Phương
++++++++++++++++
22 Tháng Giêng
Người Hành Khất Quảng Ðại
Sau một ngày làm việc nặng nhọc, một người đàn
ông nọ đi về nhà mình không ngoài một phương tiện nào khác hơn là đôi chân. Người
đàn ông dừng lại dưới một bóng cây và thiếp ngủ. Dáng vẻ của ông tiều tụy đến độ
người qua lại lầm ông với một người hành khất. Không ai bảo ai, kẻ qua người lại
đều dừng lại và bỏ vào chiếc mũ của ông vài đồng xu nhỏ. Không mấy chốc, chiếc
mũ cũ kỹ đầy tiền.
Vừa thức giấc, người đàn ông ngạc nhiên
trước sự quảng đại của khách qua đường. Oâng đếm từng đồng xu nhỏ: số tiền còn
lớn hơn cả một ngày công của ông. Người đàn ông mỉm cười về nghề hành khất bất
đắc dĩ của mình. Chợt nhìn thấy xung quanh mình có nhiều người hành khất đui mù
tàn tật, người đàn ông lặng lẽ đi đến từng người và chia đều cho họ số tiền ông
đã thu được và tiếp tục đoạn đường còn lại.
Adam Smith, kinh tế gia nổi tiếng của Tô
Cách Lan vào thế kỷ thứ 18 đã nói một câu mà K.Marx đã lập lại trong một tác phẩm
của ông. Câu nói đó là: "Một nước giàu có là một nước trong đó có nhiều
người nghèo". Câu định nghĩa về sự phồn thịnh ấy vừa nói lên sự nghèo đói
về mặt tinh thần mà những người sống trong một nước giàu có thể cảm nghiệm được,
nó cũng nói lên những bất công xã hội mà những người nghèo trong một nước giàu
phải gánh chịu.
Bần cùng thường sinh ra đạo tặc. Những nước
nghèo là những nước có nhiều tệ đoan xã hội. Tuy nhiên, cũng chính trong cảnh
nghèo ấy, người ta thường gặp được nhiều tấm lòng vàng. Cảnh nghèo có thể đưa
con người đến chỗ giành giật xâu xé, nhưng cũng có thể khiến cho con người dễ cảm
thông với người khác và san sẻ quảng đại hơn. Nhưng dĩ nhiên, chỉ có ai có tinh
thần khó nghèo đích thực mới hiểu được giá trị của cảnh nghèo và sự thôi thúc của
lòng quảng đại. "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó". Chúa
Giêsu để lại cho chúng ta điều khoản cơ bản ấy của Hiến Chương Nước Trời. Có
khó nghèo thực sự, con người mới cân lường được sự chóng qua của tiền của vật
chất. Có khó nghèo thực sự, con người mới có thể mở mắt để nhìn thấy cảnh nghèo
xung quanh. Có khó nghèo thực sự, con người mới dễ cảm thông và mở rộng quả tim
và lòng bàn tay để trao ban.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật III Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Jon 3:1-5, 10; I Cor
7:29-31; Mk 1:14-20
1/ Bài đọc I:
1 Có lời ĐỨC CHÚA phán với ông Giô-na lần thứ
hai rằng:2 "Hãy đứng dậy, đi đến Ni-ni-vê, thành phố lớn,
và hô cho dân thành biết lời tuyên cáo Ta sẽ truyền cho ngươi."
3 Ông Giô-na đứng dậy và đi Ni-ni-vê, như lời
ĐỨC CHÚA phán. Ni-ni-vê là một thành phố cực kỳ rộng lớn, đi ngang qua phải mất
ba ngày đường.
4 Ông Giô-na bắt đầu vào thành, đi một ngày
đường và công bố: "Còn bốn mươi ngày nữa, Ni-ni-vê sẽ bị phá đổ."
5 Dân Ni-ni-vê tin vào Thiên Chúa, họ công bố
lệnh ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ.
10 Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường
gian ác mà trở lại, Người hối tiếc về tai hoạ Người đã tuyên bố sẽ giáng trên họ,
Người đã không giáng xuống nữa.
2/ Bài đọc II:
29 Thưa anh em, tôi xin nói với anh em điều
này: thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như
không có;30 ai khóc lóc, hãy làm như không khóc; ai vui mừng,
như chẳng mừng vui; ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả;31 kẻ
hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này
đang biến đi.
3/ Phúc Âm:
14 Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến
miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa.15 Người nói:
"Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và
tin vào Tin Mừng."16 Người đang đi dọc theo biển hồ
Ga-li-lê, thì thấy ông Si-môn với người anh là ông An-rê, đang quăng lưới xuống
biển, vì họ làm nghề đánh cá.17 Người bảo họ: "Các anh hãy
theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá."18 Lập
tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.19 Đi xa hơn một
chút, Người thấy ông Gia-cô-bê, con ông Dê-bê-đê, và người em là ông Gio-an.
Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền.20 Người liền gọi các
ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền với những người
làm công, mà đi theo Người.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Thời kỳ đã mãn, hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.
Thời gian có sức biến đổi con người trở nên tốt hay xấu hơn. Nếu biết dùng thời
gian mà nắm lấy cơ hội, con người sẽ đạt được kết quả mong muốn; nếu không biết
nắm lấy thời gian, cơ hội qua đi, con người phải gánh chịu mọi hậu quả xấu,
ngay cả cái chết.
Các Bài Đọc hôm nay đều chỉ cho thấy sự thúc đẩy nghiêm trọng của thời gian.
Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa truyền cho Tiên-tri Jonah phải đi rao giảng cho dân
Thành Nineveh biết cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống trên họ. Tiên
tri mua vé tàu qua Tarshish, với hy vọng có thể trốn khỏi thiên nhan Đức Chúa.
Hậu quả xảy ra là ông bị ném xuống biển. May phước cho ông là được thóat chết.
Thiên Chúa truyền lần thứ hai, lần này ông vâng lệnh đi rao giảng. Dân Thành
Nineveh tin vào sứ điệp ông rao giảng. Họ tuyên bố thời gian chay tịnh trên
tòan nước: vua cũng như dân, từ con người đến súc vật, với hy vọng Thiên Chúa sẽ
đình chỉ những hình phạt mà Ngài sắp giáng xuống trên họ. Hy vọng của họ được
Thiên Chúa nhận lời. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô cũng khuyên các tín hữu
Corintô: Vì thời gian chẳng còn bao lâu nữa là đến Ngày Chúa Quang Lâm, mọi người
hãy chú trọng đến những giá trị vĩnh cửu đời sau, đừng quá chú trọng đến những
giá trị đời này; hãy dùng chúng như không hưởng thụ, vì bộ mặt của thế gian
đang qua đi. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu loan truyền sứ điệp: "Thời kỳ đã mãn,
và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Dân
Nineveh tin vào Thiên Chúa.
1.1/ Đức Chúa phán với ông Jonah lần thứ hai: Điều này giả sử phải có lần thứ
nhất.
(1) Đức Chúa phán với Jonah lần thứ nhất: "Hãy đứng dậy, đi đến Nineveh , thành phố lớn,
và hô cho dân thành biết rằng sự gian ác của chúng đã lên thấu tới Ta."
Ông Jonah đứng dậy nhưng là để trốn đi Tarshish, tránh nhan Đức Chúa. Ông xuống
Joppa và tìm được một chiếc tàu sắp đi Tarshish. Ông trả tiền, xuống tàu để
cùng đi Tarshish với họ, để tránh nhan Đức Chúa. Lý do ông bất tuân lệnh Thiên
Chúa là vì ông ghét người ngọai bang, nhất là người Babylon , người mà Chúa truyền cho ông đi tới.
Hậu quả là thuyền ông bị đắm, ông bị thủy thủ quăng xuống biển, và bị một con
cá voi lớn táp. Như một phép lạ, ông ở trong bụng cá 3 ngày 3 đêm, ông tha thiết
cầu nguyện với Thiên Chúa, Ngài đã nhận lời và làm cho cá vào bờ và nhả ông ra
(Joh 1:1- 2:11).
(2) Đức Chúa phán với Jonah lần thứ hai: "Hãy đứng dậy, đi đến Nineveh , thành phố lớn,
và hô cho dân thành biết lời tuyên cáo Ta sẽ truyền cho ngươi." Có kinh
nghiệm lần trước, ông Jonah không dám bất tuân, ông đứng dậy và đi Nineveh , như lời Đức Chúa
phán. Nineveh
là một thành phố cực kỳ rộng lớn, đi ngang qua phải mất ba ngày đường.
1.2/ Thời
gian khẩn cấp: Ông Jonah bắt đầu vào thành, đi một ngày đường và công bố: “Còn
bốn mươi ngày nữa!” Hậu quả xảy ra: “Nineveh
sẽ bị phá đổ.” Khi nghe tin này, “Dân Nineveh tin vào Thiên Chúa, họ công bố lệnh
ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ. Tin báo đến cho Nineveh
Vua Nineveh; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên
tro. Vua cho rao tại Nineveh :
"Do sắc chỉ của đức vua và các quan đại thần, người và súc vật, bò bê và
chiên dê không được nếm bất cứ cái gì, không được ăn cỏ, không được uống nước.
Người và súc vật phải khoác áo vải thô và hết sức kêu cầu Thiên Chúa. Mỗi người
phải trở lại, bỏ đường gian ác và những hành vi bạo lực của mình. Biết đâu
Thiên Chúa chẳng nghĩ lại, chẳng bỏ ý định giáng phạt, và nguôi cơn thịnh nộ,
khiến chúng ta khỏi phải chết."
Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà trở lại, Người đình chỉ
về tai hoạ Người đã tuyên bố sẽ giáng trên họ, Người đã không giáng xuống nữa.
2/ Bài đọc II: Thời
gian quá ngắn ngủi … Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi.
Có lẽ Thánh Phaolô viết Thư này khi ngài tin tưởng Ngày Chúa Quang Lâm đã gần kề,
nên các tín hữu hãy dồn hết nỗ lực chuẩn bị cho Ngày Chúa Quang Lâm. Tuy nhiên,
đọan văn này cũng có giá trị của nó, cho dẫu Ngày Chúa Quang Lâm chưa tới.
Thánh nhân khuyên:
(1) Người có vợ hãy sống như không có: Vợ chồng là chuyện hệ trọng khi con người
còn sống trong thế gian mà thôi; một khi con người về với Chúa, chuyện vợ chồng
không còn cần thiết nữa. Chúa Giêsu cũng dạy cho con người biết như thế, khi
người ta hỏi Ngài: Trong Ngày Quang Lâm, ai sẽ là chồng của người phụ nữ nếu cả
7 anh em đều kết hôn với người phụ nữ khi còn sống? Chúa trả lời: “Con cái đời
này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống
lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng” (Lk 20:34-35, Mt
22:30).
Xã hội chúng ta đang sống có khuynh hướng quá chú trọng đến chuyện vợ chồng, và
tìm đủ mọi cách để quảng cáo và đề cao nó. Họ quên đi điều quan trọng hơn là
làm sao đạt được mục đích của đời người. Ngay cả trong đời sống gia đình, chuyện
hai người yêu thương nâng đỡ nhau phần linh hồn trong cuộc đời còn quan trọng
hơn những liên hệ vợ chồng phần xác thịt.
(2) Ai khóc lóc, hãy làm như không khóc; ai vui mừng, như chẳng mừng vui: Cảm
xúc vui buồn cũng là những cảm xúc nhất thời, đến rồi đi. Con người đừng đặt
quá nhiều chú ý đến cả việc tìm vui lẫn nỗi lo sợ phải u buồn. Mối phúc thứ ba
của Bát Phúc còn nhấn mạnh: “Phúc cho ai khóc lóc vì họ sẽ được yên ủi.”
Con người thời đại, nhất là giới trẻ hôm nay quá chú trọng đến những party hội
hè. Họ sợ cô đơn thinh lặng một mình; họ chực sẵn điện thọai, chỉ chờ khi nào
nghe tiếng gọi đến party là đi. Họ quên đi một điều là “tiệc vui nào rồi cũng
có lúc tàn.” Họ không thể party cả ngày và đêm, sức khỏe con người có giới hạn,
sớm muộn rồi họ cũng phải đối diện với con người thật của mình. Hơn nữa, sự
thinh lặng sẽ giúp con người thư giãn bình an; thời giờ để tìm hiểu học hỏi sẽ
giúp con người biết nhận ra những giá trị đích thực của cuộc đời.
(3) Ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả: Mua sắm là khi con người cần đến những
gì mình không có; không phải để tích trữ những gì lỡ ra mình cần đến. Con người
hôm nay hầu như không còn hiểu thế nào là cuộc sống đơn giản để đừng làm nô lệ
cho vật chất. Những nguy hiểm của thái độ mua sắm hôm nay:
- Thấy người khác có, mình cũng phải có, hay phải có thứ sang hơn: Mỗi tuần rủ
bạn bè đến nhà mình, hay đi party nhà bạn bè, là lúc để so sánh tài sản của
nhau. Nếu thấy mình thua kém bạn bè, sẽ tìm mọi cách cho bằng hay hơn nữa; nhiều
khi mua mà chẳng nghĩ mình có cần xử dụng nó hay không. Một cuộc chạy đua như
thế sẽ làm giàu cho giới con buôn; và làm cho con người càng ngày càng trở nên
nô lệ cho vật chất: muốn có tiền mua phải kéo cày, cày ngày không đủ tranh thủ
cày đêm; cho đến ngày con người sẽ sáng mắt ra nhìn thấy: hạnh phúc không tùy
thuộc những gì con người có, nhưng trong những gì con người là.
- Mua hàng on sale: Mua sắm đã trở thành thú giải trí: một cuộc đấu trí giữa
con buôn và khách hàng. Khi hàng mới ra, con buôn ra giá kinh hồn; mục đích là
để cho khách hàng biết giá trị của món hàng. Khi nào hàng đã lỗi thời, họ bán với
giá thấp hơn hay giá vốn; lúc đó khách hàng vui mừng vì mua được giá chỉ còn một
nửa. Họ có biết đâu, nhiều khi đó mới là giá trị thật của món hàng.
(4) Kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng: Của cải vật chất
Thiên Chúa dựng nên là để phục vụ con người, không để con người làm nô lệ cho vật
chất. Điều rất nguy hiểm cho con người hôm nay là họ không còn chú trọng đến những
niềm vui tinh thần nữa, chỉ còn chú trọng đến những thú vui vật chất. Ví dụ,
nghỉ hè là dịp để thân xác được nghỉ ngơi và tinh thần được thư giãn. Để đạt được
2 mục đích này, nhiều khi con người chỉ cần đi cắm trại trong rừng vài ngày, cảnh
trí thiên nhiên và bầu khí thinh lặng sẽ giúp con người dễ nâng tâm hồn lên tới
Thiên Chúa. Ngược lại, có nhiều người nghĩ nghỉ hè là phải đi chơi xa, phải tốn
tiền để mua những tiện nghi hưởng thụ; nhiều khi phải tiêu quá nhiều tiền và tốn
quá nhiều thời giờ, làm con người càng lo lắng và mệt mỏi hơn là lúc chưa đi
nghỉ.
3/ Phúc Âm: Lập
tức các ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.
3.1/ Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa: Tin Mừng này gói ghém trong
3 điều chính sau đây:
(1) Thời kỳ đã mãn: Lịch sử Cựu Ước là một chuỗi những thời gian để chuẩn bị
cho Đấng Messiah ra đời. Các Tiên-tri đã loan báo những điều này và chuẩn bị
dân chúng để đón mừng Ngài. Qua lời rao giảng của Chúa Giêsu hôm nay, Ngài muốn
nói cho mọi người biết: thời gian chuẩn bị và chờ đợi đã hết, Ngài chính là Đấng
Messiah mà muôn dân đang mong đợi.
(2) Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần: Truyền thống Do-Thái tin: Khi Đấng Messiah
tới, Ngài sẽ thiết lập triều đại của Thiên Chúa. Chính Ngài sẽ là Vua cai trị mọi
người và dẫn đưa mọi người về với Thiên Chúa. Chúa Giêsu muốn họ hiểu: khi Ngài
đến, triều đại Thiên Chúa bắt đầu.
(3) Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng: Phần con người, để được hưởng những
gì Thiên Chúa hứa, họ phải ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng Đức Kitô rao giảng.
3.2/ Chúa
Giêsu gọi 4 môn đệ đầu tiên: Để Tin Mừng được lan rộng đến mọi người, Chúa
Giêsu mời gọi những môn đệ đầu tiên để huấn luyện họ:
(1) Simon và Anrê: Thấy các ông đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh
cá, Chúa Giêsu mời gọi: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh
thành những kẻ lưới người như lưới cá." Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi
theo Người.
(2) Giacôbê và Gioan: Đi xa hơn một chút, Người thấy ông Giacôbê, con ông
Zebedee, và người em là ông Gioan. Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền. Người
liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Zebedee ở lại trên thuyền với
những người làm công, mà đi theo Người.
Phản ứng mau lẹ và dứt khóat của các ông chứng tỏ các ông đã nhận ra tầm quan
trọng của việc rao giảng Tin Mừng và thời gian cấp bách đòi hỏi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đời người chúng ta chỉ giới hạn trong một thời gian ngắn. Hãy tìm ra mục đích
cuộc đời và cố gắng sống làm sao để đạt được mục đích đó.
- Thiên Chúa dựng nên mọi sự trong trời đất là vì yêu thương con người, và Ngài
đặt muôn sự dưới chân con người. Tôn thờ vật chất như một vị thần là đi ngược lại
với ý định của Thiên Chúa.
- Chinh phục linh hồn con người về cho Thiên Chúa quí trọng hơn tìm kiếm của cải
vật chất. Chúng ta hãy mau mắn cộng tác với tiếng gọi của Thiên Chúa để làm việc
trong cánh đồng truyền giáo.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************
Ngày 22
THÁNH VINH SƠN
Phó Tế, Tử Đạo đầu tiên của Tâybanha.
(-304)
1. Phó tế trung thành: Vinh Sơn sinh tại Saragosse, Tây Ban Nha. Được sống
với giám mục Valerio giáo Phận Sagarosse, được ngài dạy dỗ về đời sống đạo đức, giáo lý và các
môn văn chương khoa học. Nhờ đó, Vinh Sơn được truyền Chức Phó Tế để giúp
việc rao giảng Tin Mừng trong thời cấm đạo.
Khi Dacian, cầm quyền nước Tâybanha, khám phá ra giám mục Valerio tổ chức việc
đạo, ông ta bỏ tù cả giám mục và cả phó tế Vinh sơn. Ông bắt 2 người nhịn đói,
nhưng cả 2 vị vẫn vui tươi, mạnh khoẻ. Nhà vua bắt Vinhsơn nằm trên giường sắt,
sau đó ra lệnh đánh đòn hết sức dã tâm, nhưng ngài vẫn tươi cười, sẵn sàng chịu
cực hình để làm chứng cho Chúa.
2. Vị tử đạo đầu tiên: Nhà vua bảo phó tế Vinh sơn đốt sách
Kinh thánh rồi sẽ được tha, nhưng ngài từ chối. Vua tức như điên, truyền lệnh
nướng phó tế trên giường sắt nung đỏ. Vinhsơn lại sống sót, sau đó ngài bị bỏ
vào ngục đầy những mảnh sành vỡ. Trong ngục, ngài giảng đạo cho người coi tù.
Cuối cùng, Vinhsơn được đua về ngục thường, bạn bè đến an ủi, làm cho ngài cái
giường. Ngài nằm đó chịu đau đớn vì tình yêu Chúa đến chết.
Thánh nhân qua đời ngày 22 tháng giêng năm 304, lúc 22 tuổi. Ngài là vị tử đạo
đầu tiên của nước Tâybanha.
Cùng
Ngày 22/1
1- Thánh Phanxicô Gil De Frederich Tế
2- Thánh Matteô Liciniana Đậu
1- Linh Mục Federich Tế, tử đạo ngày 22-1-1745
Ðứng đầu sổ 117 Thánh
Tử Vì Ðạo Việt Nam là Cha Tế và Cha Ðậu, hai linh mục thừa sai người Tây Ban
Nha thuộc Dòng Ða Minh. Cha Tế có tên Tây Ban Nha là Gil De Federich, sinh năm
1702 tại Tortosa trong một gia đình đạo đức. Khi được rửa tội, cha mẹ đặt cho
nhiều tên thánh khác nhau, tên trong sổ bộ là Francis. Năm 15 tuổi, cậu Gil gia
nhập dòng Ða-Minh và thụ phong linh mục lúc 25 tuổi.
Cha được bề trên gửi
đi Bắc Kỳ và tới nơi ngày 28-8-1735.
Linh mục nhiệt thành: Sau
4 tháng học tiếng Việt tại Lục Thủy, Cha Gil được đặt cho một tên Việt Nam là Tế,
với nhiệm vụ coi sóc 40 họ đạo trong ba huyện Giao Thủy, Chân Ðinh và Vụ Tiên
thuộc trấn Xứ Nam. Tên mà bề trên đặt cho ngài đã trở thành điềm báo cuộc tử đạo,
tế hiến chính mạng sống mình cho Thiên Chúa. Trong thời gian làm việc truyền
giáo Cha Tế tỏ ra rất nhiệt thành, đặc biệt về lòng bác ái. Mỗi khi có người mời
đi kẻ liệt, dù ốm đau hay nguy hiểm, ngài cũng đi ngay.
Bị bắt, bị làm tiền, bắt xúc phạm ảnh tượng, bị nhục: Ngày
3-8-1737, Cha Tế làm lễ kính thánh Ða Minh tại Lục Thủy Hạ, đang khi còn cám ơn
thì có một toán người trong đó có nhà sư tên Tình, ập đến lục soát. Sư Tình ra lệnh trói cha
lại đem xuống thuyền, đem về giam tại nhà mình ở Thủy Nhai, chờ giáo dân
mang món tiền lớn đến
chuộc. Cha Tế không chút sợ hãi, bình thản lợi dụng cơ hội để giảng đạo cho
lương dân.
Giáo dân quyết định
đi thẳng với quan trên bằng món tiền lớn hơn. Quan tỉnh là người quỉ quyệt, muốn làm tiền cả đôi bên. Ông nhận tiền của giáo
dân, hứa sẽ thả Cha Tế trên đường đưa về phủ. Chính quan đến nhà sư Tình để dẫn
giải cha, đồng thời bắt cả cha con đầy tớ sư Tình vì tội chứa chấp đạo trưởng.
Quan tỉnh tra hỏi và trao
cha cho lính canh, họ để cha nằm dưới đất cả lúc trời mưa. Tại đây cha viết vội
mấy lời gửi bề trên: "Con tin rằng Chúa
đã để con bị sốt nặng để chia sẻ với cuộc thương khó của Chúa. Những khốn khổ của
nhà tù con coi là nhỏ mọn. Thay vì buồn, con cảm thấy vui và sẵn sàng đón nhận
những cực khổ như là hồng ơn Chúa gửi đến cho riêng con".
Ít ngày sau, cha được
chuyển sang ngục Ðông. Trên đường, trẻ con lấy cành tre làm thánh
giá, ném dưới chân ngài để chế diễu. Cha Tế chỉ sốt sắng lượm lên hôn
kính. Tại ngục Ðông cha cũng chịu nhiều khốn khó. Các tù nhân cũng tàn bạo với
ngài.
Cuối tháng 10-1737,
tòa án bắt đầu xét xử cha công khai. Cha bị dẫn đi, tay mang xích, cổ đeo gông.
Trên đường đi, trẻ con lại vất những thánh giá bằng
lá tre vào ngài và cười chế nhạo.
Trên đường từ nơi xử về, họ dẫn cha qua đền thờ tổ tiên của quan và bắt
cha lạy. Cha từ chối nên bị họ đánh đập bất tỉnh. Cha lên cơn sốt 15 ngày vì những
vết thương hành hạ.
Một lần, quan cho đặt thánh
giá dưới đất rồi ra lệnh
cho mọi người đạp lên. Dù phản đối, họ cũng khiêng ngài qua. Nhưng cha đã nhấc
thánh giá lên và hôn kính. Sư Tình thì lợi dụng cơ hội này để nhục mạ ảnh đạo,
nhảy nhót trên tượng và đồng thời tố cáo ngài còn giữ nhiều đồ đạo tại nhà tù.
Sau đó quan liền hỏi về các ảnh đạo.
Quan
cầm tượng thánh giá lên hỏi: "Người trên thánh giá này là ai?"
-
"Ðó là hình ảnh của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, đã làm người và chịu chết
trên thánh giá để chuộc tội nhân loại".
- "Còn hình kia là gì?"
- "Ðó là ảnh Mẹ Thiên Chúa, đã cưu mang đấng chịu đóng đinh".
- "Người ta đi đâu sau khi chết?"
- "Khi chết rồi, xác ở dưới phần mộ, còn hồn thì hoặc lên trời hoặc phải xuống địa ngục tùy theo công trạng trong đời sống".
- "Ðiều ông nói về linh hồn chỉ là tưởng tượng. Ai nói rằng sự vật qua đi như thế?"
- "Thiên Chúa đã nói vậy".
- "Thật vậy ư? Ông đã nghe thấy tiếng Chúa chưa?"
- "Mặc dù không nghe chính Thiên Chúa nói, nhưng chắc chắn là ngài đã dậy như vậy".
- "Còn hình kia là gì?"
- "Ðó là ảnh Mẹ Thiên Chúa, đã cưu mang đấng chịu đóng đinh".
- "Người ta đi đâu sau khi chết?"
- "Khi chết rồi, xác ở dưới phần mộ, còn hồn thì hoặc lên trời hoặc phải xuống địa ngục tùy theo công trạng trong đời sống".
- "Ðiều ông nói về linh hồn chỉ là tưởng tượng. Ai nói rằng sự vật qua đi như thế?"
- "Thiên Chúa đã nói vậy".
- "Thật vậy ư? Ông đã nghe thấy tiếng Chúa chưa?"
- "Mặc dù không nghe chính Thiên Chúa nói, nhưng chắc chắn là ngài đã dậy như vậy".
Một tên lính hầu mang
tới một cái gậy, đặt ngay trước mặt cha Tế, cha lại tưởng họ đánh mình nên đưa
đầu gối ra, nhưng quan lại nói: "Gậy không phải để tra tấn. Ta ra lệnh
cho ông cầm lấy và đánh vào những tượng ảnh này".
Cha Tế rùng mình vội
cầm gậy vất đi thật xa. Tên hầu lại lấy về và đặt trước mặt sư Tình. Ông liền cầm
ngay lấy và giơ gậy đánh vào bức ảnh Ðức Mẹ bằng ngà voi. Cha Tế chạy vội lại,
dùng thân mình làm thuẫn cản lại, lấy tay che lên đầu Chúa Giêsu và Mẹ Maria
trong ảnh rồi nói: "Sư Tình, hãy đánh lên tay tôi".
Quan cho lệnh ngừng
cuộc giằng co lại và nói: "Thế thì tượng phải đau vì những cái đánh này
lắm nhỉ?"
- "Ðức Bà
Maria và Con của Ngài ở một nơi không còn đau đớn nữa. Nếu chúng tôi tôn kính ảnh
tượng này cũng chỉ vì đó là hình ảnh nhắc nhở chúng tôi đến các Ngài".
Tại tòa án, các quan
xem xét cỗ tràng hạt của
cha rất kỹ lưỡng. Quan ép cha dầy đạp tràng hạt dưới chân. Cha đã mạnh mẽ
nói là không khi nào cha làm điều lầm lỗi ấy. Lúc ấy quan hỏi sư Tình có làm điều
ấy không? Sư Tình chỉ chờ có thế đã vội vã cầm lấy tràng hạt ném xuống đất, sửa
soạn đạp lên, tức thì Cha Tế lăn xả vào để lấy lại. Một tên lính hầu túm lấy
tóc cha lôi ra. Không làm gì được, Cha Tế hét lên: "Tại sao các ngươi
bách hại đạo Chúa Kitô? Chính các ngươi là căn cớ của bao nhiêu tai họa giáng
xuống trên nước này".
Cách chấm dứt chiến
tranh: Nội chiến Trịnh-Nguyễn
kéo dài ba năm. Một hôm chúa Trịnh chợt có ý muốn hỏi Cha Tế có cách nào chấm dứt
được loạn lạc, với ẩn ý muốn cha nói với người tây phương giúp. Cuối tháng 9,
ông hoàng cậu của vua cho lệnh đưa Cha Tế đến và hỏi: "Tôi thấy đạo của
cha hợp lý, những điều tôi nghe rất phù hợp với sách tôi đã đọc. Chỉ có điều là
đạo không chấp nhận những tôn giáo khác. Ngày mai cha mang đến cho tôi xem cuốn
sách về đức tin Kitô để tôi thấu đáo và có thể nói với chúa Trịnh cho cha. Cha
cũng mang đến một học giả người Việt để có thể giải nghĩa được các chữ Việt".
Ngày hôm sau, cha viết
thư cho ông hoàng: "Theo đức tin của chúng tôi, chỉ có một
phương thế duy nhất chữa trị các cái xấu đó là cầu xin Thiên Chúa cho hòa bình
và hứa rằng chính quyền sẽ không bao giờ bắt bớ đạo thật nữa. Nếu vua muốn chấm
dứt chiến tranh thì hãy thôi bắt bớ giáo dân và đạo thật, vì đấy chính là nguồn
gốc của mọi sự dữ trong nước".
Tiếp tục truyền giáo trong tù: Suốt trong 7 năm bị giam cầm, Cha Tế vẫn tiếp
tục giúp các giáo dân.
Trong thời gian bị
giam tù, Cha Tế đã rửa tội được 122 người.
Ngày 30-5-1744, lính
canh áp giải một tù nhân khác, đó là Cha Ðậu, người cùng Dòng với Cha Tế. Hai
người lính dũng cảm của đức tin hân hoan được gặp nhau, nâng đỡ nhau bằng các
bí tích và cầu nguyện.
Một tín hữu báo tin
là các quan đã làm án ngày 19-1-1745, ngày 21 sẽ công bố, và ngày hôm sau hành
quyết. Giáo dân tính cử đại diện đến gặp chúa Trịnh. Cha Tế rất buồn nói với
các thầy giảng: "Chúng ta phải khuyên bảo giáo dân trở lại và trung
thành với đức tin, nếu trong hoàn cảnh này chúng ta tỏ ra khiếp sợ để cho họ sửa
án và mua chuộc mạng sống bằng tiền bạc thì lương dân họ sẽ thêm tin vào đạo của
họ hơn và giáo dân sẽ không còn muốn chịu khổ vì đức tin nữa".
Dân chúng rất đau buồn,
nhưng cha Tế lại vui mừng hớn hở. Ngài dùng những ngày còn lại để cầu nguyện và
sửa soạn tâm hồn. Sau khi lần hạt chung với họ lần cuối, cha khuyên nhủ: "Anh
chị em quí mến, cũng như Chúa Kitô trong bữa tiệc ly, tôi muốn khuyên anh chị
em theo lời của Chúa, anh chị em hãy yêu thương nhau như ruột thịt, hãy vững mạnh
trong đức tin mà anh chị em tuyên xưng và hãy sẵn sàng chịu mọi sự khó và nhất
là đặt niềm cậy trông vào một Chúa mà thôi. Hãy ước ao những sự trên trời và
hãy khinh chê những của cải vui sướng chóng qua đời này".
Mọi người cúi mình
hôn xiềng xích của ngài. Ngài lại nói với họ: "Tử đạo là một ơn đặc biệt
do Chúa ban nhưng không, chứ không phải do công trạng hay xứng đáng gì".
Ra pháp trường: Khoảng ba giờ sáng, hai cha dâng lễ, rồi đến
chào các lính coi tù cũng như các bạn tù. Giáo dân được phép vào rất đông để
thăm cha lần cuối. Cha Ðậu không được chung một vinh dự nhưng đã xin quan cho
theo ra tới pháp trường. Theo lẽ các tù nhân khi đi ra nơi hành quyết thường được
dẫn qua phủ chúa để có thể kháng cáo lần chót. Cha Tế hân hoan đi đầu vì được
giống Chúa Kitô. Ði ngang qua phủ chúa, Cha Ðậu liền đưa bản kiến nghị. Chúa Trịnh
thấy Cha Ðậu dám bạo gan như thế thì nổi giận ra lệnh xử trảm ngài luôn một lúc
với Cha Tế. Khoảng sau trưa, đoàn người đến Ðồng Mơ, nơi hành quyết. Vừa tới
nơi, hai cha quì xuống hôn mảnh đất. Cha Tế vì yếu sức nên ngồi xuống đất chờ đợi,
trong khi lính sửa soạn việc hành quyết. Hằng ngàn người im lặng đứng xung quanh. Quan giám sát lên tiếng:
"Cụ Tế, tôi rất kính trọng cụ và rất đau buồn phải làm việc này như quan
án đã ra lệnh, xin cụ hiểu cho, tôi không làm gì khác hơn được. Xin cụ quì thẳng
lên để tôi trói vào cọc".
Giây và xích ở tay chân được cởi ra. Hai
tên lính cầm gươm đồng loạt chém đầu hai vị tử đạo. Hôm ấy là ngày thứ Sáu,
22-1-1745.
Thông thường mỗi khi có vụ xử tử, lúc chém
đầu mọi người chạy mất vì sợ hồn kẻ chết nhập vào, nhưng lần này trái lại họ đến
gần hơn và ngay sau đó tuốn vào thấm máu đào, lấy những vật dụng và xiềng xích
của hai vị làm kỉ niệm. Giáo dân phải canh chừng để không ai lấy trộm thi thể
hai đấng thánh.Tuần sau, mộ của các ngài được mở ra để táng trong nhà thờ theo
lệnh của đức giám mục, nhưng lạ thay, xác các ngài không bốc mùi thối gì, giáo
dân còn ngửi thấy thoang thoảng một mùi thơm lạ lùng.
2- Linh Mục Mateo Alonso Liciana
Ðậu, gốc Tây Ban Nha thuộc Dòng Ða Minh, tử đạo ngày 21-1-1745
Ðoàn truyền giáo tới Manila tháng 10-2730.
Cha Mateo được chỉ định đi Bắc Kỳ. Ngày 13-2-1731, cha khởi hành đi với hai tu
sĩ khác bằng tầu buôn Hòa Lan. Ngày 18-1-1732, cha tới Bắc Kỳ và được đưa tới
nhà Ðức Chúa Trời ở Trung Linh để học tiếng Việt trong năm tháng. Tại đây cha
được đặt tên là Ðậu. Trong thời kỳ này giáo dân tại đây đang bị bách hại do sư
Tình cầm đầu. Cha Ðậu phải trốn tránh nay đây mai đó, 7 tháng lưu lạc.
Dù đang cơn bắt bớ, Cha Ðậu rất nhiệt
thành với việc tông đồ. Người chứng thứ mười hai đã làm chứng về lòng nhiệt
thành bất kể gian nguy của ngài rằng có một lần họ khuyên ngài đừng đến một
làng nguy hiểm thì ngài trách mắng và khuyên bảo họ như sau: "Nếu vì sợ
bị bắt mà không đi làm phúc cho bổn đạo thì cha đến xứ này để làm gì? Nếu chúng
con sợ vất vả thì còn làm được cái gì nữa? Nếu sợ chết nữa thì theo cha làm
chi. Cha đi một mình vậy".
Suốt trong 10 năm làm việc tông đồ cha trốn
thoát khỏi tay kẻ thù đến bốn năm lần. Một lần khác, hay tin ở làng Kẻ Bái có một
người chối đạo, tên là Chinh Nam, và trở thành kẻ thù của người Công Giáo, Cha
Ðậu mạnh mẽ đến gặp ông ta và dùng lời lẽ khôn ngoan đã khuyên được ông ta trở
về và làm cho giáo dân ở đó được an tâm.
Ngoài ra tại Bắc Kỳ lúc đó có nhiều thiên
tai và dịch tễ, Cha Ðậu tỏ ra nhiệt thành bác ái không sợ bị bệnh tật nữa. Người
chứng thứ 34 nói về lòng bác ái của cha như sau: "Một
năm tại làng tôi có dịch tễ, Cha Ðậu tới cả ngày cả đêm không kể thời tiết xấu.
Dù bị bệnh, ngài phó thác nơi Chúa, vẫn tiếp tục đi săn sóc các bệnh nhân khác.
Cha Ðậu còn sốt sắng khuyên bảo những người rượu chè và cờ bạc. Ngài có tài
khuyến dụ họ bỏ được các thói xấu đó".
Tóm lại, trong 10 năm
cha vừa trau dồi nhân đức bằng việc cầu nguyện hãm mình, vừa sốt sắng làm việc
tông đồ và xả thân cứu giúp người nghèo khó.
Ngày 29-11-1743, một giáo dân tên là Ðào Tất
Ðạt đã đi tố giác nơi cha ở. Sáng sớm đang khi Cha Ðậu làm lễ thì lính nhà quan
ùa đến Lục Thủy tìm bắt ngài. Cha Ðậu vội cầm mình thánh trốn vào trong thì bị
tên lính túm tóc đánh vào hông làm ngài té xuống đất. Tên này còn đá lên đầu
cha làm máu chảy ra. Mấy tên lính khác lột áo ngài và đem chia nhau. Cha Ðậu bị
trói và dẫn đến nhà quan phủ. Ít ngày sau, quan phủ cho giáo dân hay là sẽ thả
cha nếu họ chịu nộp một số tiền lớn. Giáo dân gom được 90 lạng bạc giao cho
quan. Quan vui vẻ nhận nhưng để mặc giáo dân chờ đợi trong thất vọng. Có một
đêm, một người lính Công Giáo đến đòi bẻ xích để cha trốn đi, nhưng cha đã
không chấp nhận một sự tự do như thế vì nguy hiểm cho người lính. Sau cùng họ
giải cha đi Hà Nội, cha cứ tưởng giờ tử đạo đã đến nên dọn mình suốt cả đêm.
Cha bị dẫn đi trong thành phố như những tên tội phạm, trẻ con và dân chúng hai
bên đường chế diễu.
Cha bị tra vấn tất cả 7 lần, mãi tới
ngày 3-4-1744 cha mới được đưa ra tòa lần đầu tiên cùng với các đồ đạo như
thánh giá, ảnh đạo và sách nguyện mà chúng đã tịch thu. Một trong ba quan án trỏ
vào cây thánh giá hỏi ngài: "Cái gì đây?"
Cha Ðậu trả lời: "Ðó là Chúa Giêsu
Kitô, Con Thiên Chúa, đã xuống trần làm người và chịu khổ để đền tội cho nhân
loại vì tổ phụ con người đã bất tuân lệnh Chúa Trời đất, và vì không ai chuộc
được lỗi tầy trời ấy nên Con Chúa Trời đã làm người chịu chết chuộc tội và có
thể làm cho con người được lên trời".
Ngày 12-4 cha lại bị đem ra trước tòa và
quan án hỏi: "Ông có dám đánh cây thánh giá không?"
- "Bẩm quan tòa, tôi là đạo trưởng đến
đây để rao giảng luật đạo đức chân thật của Chúa, bởi vậy tôi không khi nào chối
đạo và đánh vào ảnh tượng là một trọng tội. Luật mà tôi giảng dậy là chân thật
và công bằng, giúp người ta thoát bỏ con đường tội lỗi để trau dồi đức hạnh
trong việc tôn kính ba bậc cha".
- "Ba bậc cha là những ai?"
- "Trước hết là Thiên Chúa cao cả,
Cha của mọi thần thánh, rồi mỗi nước có vua và các quan, sau cùng là cha mẹ và
các tổ tiên. Con người đã nhận bao nhiêu ân huệ từ ba bậc cha này".
Họ liền bàn luận với nhau về phép Rửa Tội.
Cha Ðậu liền nhân cơ hội nói với họ đầy đủ về các bí tích: "Chúa chúng
tôi là Ðức Giêsu Kitô đã lập ra 7 nghi thức gọi là bí tích, phép Rửa Tội là một
trong 7 bí tích đó. Ðức Kitô đã truyền cho các môn đệ phải đi khắp thế giới để
làm phép Rửa Tội và giảng luật cứu rỗi".
Trong tù, cha ăn mỗi ngày một bữa, tiền còn lại đem
cho người nghèo, đồng thời cha còn dậy ba chú học tiếng Latinh, và giảng dậy
cho những người đến thăm cha, trong một căn nhà riêng cạnh nhà tù. Ngày lễ có tới
150 người đến dự, có khi họ còn bí mật võng cha đi thăm kẻ liệt. Có lần cả hai
cha được đưa đến nói truyện với một quan trong triều về đạo và tặng quan một cuốn
sách.
Khi Cha Tế được tin về án xử thì vui mừng,
còn Cha Ðậu thì buồn. Giáo dân làm bản kiến nghị để tù nhân kháng cáo lần cuối
khi đi qua phủ chúa Trịnh, Cha Ðậu cũng xin đi theo để chứng kiến việc hành quyết
và đồng thời đưa cho quan bản kiến nghị. Trong bản kiến nghị ngài hỏi tại sao bạn
ngài bị chém đầu còn ngài thì không, trong khi cả hai cùng là đạo trưởng, nếu
chém đầu thì phải chém cả hai, còn nếu tha một thì phải tha cả người kia, và cuối
cùng ngài yêu cầu được cùng chung một số phận với người bạn. Chúa Trịnh thấy
hành động táo bạo như vậy liền ra lệnh làm một bản án cho Cha Ðậu cùng bị chém.
Bản án được viết như sau: "Các quan do chúa Trịnh chỉ định, xét lại bản
án do cấp dưới đã trình lên như sau: Tên này trước kia đã bị kết án tử và bây
giờ án được lập lại. Vậy ngoại nhân thứ nhất Francis Gil (cha Tế) là một đạo
trưởng đạo 'Hoa Lang', tên ngoại nhân thứ hai Mateo (cha Ðậu) cũng là đạo trưởng
đạo 'Hoa Lang'. Tên sau này án được chuyển sang tù chung thân nhưng vừa được đổi
thành xử trảm. Ấn ký ngày 10-12 năm thứ năm Minh Vương. Quan án: Phương Hùng,
Nghĩa Hậu, Liêm Ngũ Lục, và Trung Hầu". Thế là hai cha cùng bị đem đi
với 8 tên tội phạm khác ra nơi xử.
Một nhân chứng tường thuật buổi hành quyết
như sau: Hai cha đi vào
chỗ thứ ba và bốn, giữa 8 tên tội phạm khác, bị xích lại với nhau thành một
hàng. Trời mưa đổ xuống trên đầu trần các ngài, thỉnh thoảng các ngài giơ tay
lau nước mưa, nét mặt vẫn hân hoan. Tới nơi các ngài quì xuống cầu nguyện một
lát. Sau đó được đưa tới mô đất có trải chiếu sẵn, các ngài lại nằm phục xuống
một lúc rồi quì lên, nghiêng đầu chờ lệnh xử trảm. Giáo dân xin hai cha ban
phép lành. Các ngài xin họ đọc kinh Tin Kính và sau đó Cha Ðậu tính giảng lần
cuối cùng, nhưng một tên lính ngăn lại nói: "Chúa Trịnh kết án vì giảng
đạo sai lầm này sao ngươi còn muốn tiếp tục?"
Cha Ðậu liền nói: "Tôi đến Bắc Việt
là để giảng đạo của Chúa trời đất để mọi người dân cư trong nước này được biết
Ngài là Chúa thật. Tôi quyết tâm rao giảng vì biết rằng các vị ở đây chưa biết
Chúa trời đất và chưa phân biệt được điều lành điều xấu và không biết cái gì sẽ
xảy ra cho đời sau".
Cha Ðậu lại nói: "Với cái chết vì
đức tin, chúng tôi sẽ được phần thưởng trên nước trời. Cái chết của chúng tôi
làm chứng cho cả thế gian về sự thật và sự thánh thiện của đạo Công Giáo trong
ngày phán xét. Chính vì vậy chúng tôi không sợ hãi gì cách chết này mà người ta
dành cho chúng tôi".
Vào lúc 4:00 giờ chiều ngày 22-1-1745, đầu
của hai vị anh hùng tử vì đạo rơi xuống. Một tên lính thét lên: "Rồi
đây đói kém và thiên tai sẽ đổ xuống trên chúng ta. Tại sao cứ phải giết các đạo
trưởng không hề trộm cắp giết người? Chúng ta đều biết rõ họ là đấng thánh".
Những ơn lạ: Lòng tôn kính các đấng anh hùng tử đạo đã
lôi kéo nhiều người đến mộ các ngài để cầu nguyện và xin ơn. Khi về họ còn mang
theo nắm đất để kính nhớ các ngài. Cả những người lương cũng đến cầu nguyện nữa.
Một người tên là Giuse Can đã thề là kể
chuyện có thật sau đây: "Thầy già Khiêm đã kể cho tôi nghe chuyện tên
lý hình Chân Nhuệ, đã bắt Cha Ðậu trước đây, bị đau ốm lâu dài. Sau khi nghe biết
Cha Ðậu đã chết vì đạo thánh thì ông ta hối cải cầu xin với Cha Ðậu phù hộ, ông
ta được khỏi bệnh cách lạ lùng. Ông ta đã từ bỏ thần phật để theo đạo do Cha Ðậu
rao giảng".
Một trường hợp khác được kể lại là người
giữ chùa bị đau nặng dù đã cầu đảo các thần phật và chạy chữa thuốc men nhưng vẫn
không khỏi. Một người Công Giáo đến thăm, lặng lẽ nhúng miếng vải đã được thấm
máu đào của Cha Ðậu vào ly nước rồi cho bệnh nhân uống mà không nói gì cả. Bệnh
nhân vừa uống hết ly nước thì cảm thấy khỏe mạnh. Ông từ giữ chùa, sau đó mới
được biết liền xin trở lại đạo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét