Trang

Thứ Năm, 19 tháng 1, 2012

THỨ SÁU TUẦN II MÙA THƯỜNG NIÊN


THỨ SÁU TUẦN II MÙA THƯỜNG NIÊN


BÀI ĐỌC I: 1 Sm 24, 3-21

"Tôi sẽ không ra tay sát hại người, vì người là Đấng xức dầu của Chúa".
Trích sách Samuel quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Saolê đem ba ngàn người được tuyển chọn trong toàn dân Israel và đi tìm Đavít và các người theo ông, cho đến những mỏm đá cao dốc rất hẻo lánh, nơi chỉ có những con dê rừng lui tới. Ông đến các chuồng chiên ở vệ đường. Nơi đây có một cái hang, Saolê vào đó đi việc cần. Đavít và những người theo ông đang núp phía trong hang.
Các người đầy tớ nói với Đavít rằng: "Đây là ngày Chúa phán cùng ông: Ta trao thù địch của ngươi cho ngươi, để ngươi đối xử với hắn thế nào tuỳ ý ngươi". Vậy Đavít đứng lên, lén cắt một mảnh chiến bào của Saolê. Sau đó Đavít hối hận, vì đã cắt áo chiến bào của Saolê. Ông nói với các người theo ông rằng: "Xin Chúa thương tôi, đừng để tôi làm việc này cho chủ tôi, đấng Chúa xức dầu, là ra tay sát hại vua, vì vua là đấng xức dầu của Chúa". Đavít ngăm đe những người theo ông không được phép xông vào Saolê. Saolê đứng lên ra khỏi hang và tiếp tục cuộc hành trình. Đavít cũng đứng dậy đi theo Saolê ra khỏi hang và gọi giật sau lưng vua rằng: "Tâu đức vua". Saolê nhìn lại đàng sau, Đavít sấp mình kính lạy và nói cùng Saolê rằng:
"Tại sao bệ hạ lại nghe những lời người ta đồn thổi rằng: Đavít toan làm hại bệ hạ. Đây hôm nay chính mắt bệ hạ thấy rằng: trong hang, Chúa đã trao bệ hạ vào tay tôi. Tôi đã tưởng giết bệ hạ, nhưng tôi thương hại bệ hạ, vì tôi đã nói: Tôi không ra tay sát hại chủ tôi, vì người là đấng xức dầu của Chúa. Hơn thế nữa, cha ôi, hãy nhìn xem mảnh chiến bào của bệ hạ trong tay tôi, vì khi xén vạt chiến bào của bệ hạ, tôi không muốn ra tay sát hại bệ hạ. Xin bệ hạ hãy nhận biết rằng tay tôi không làm điều ác và bất công, tôi không phạm đến bệ hạ, nhưng bệ hạ cứ âm mưu hãm hại mạng sống tôi. Xin Thiên Chúa xét xử cho bệ hạ và tôi, và xin Chúa báo thù cho tôi. Nhưng tay tôi sẽ không phạm đến thân bệ hạ. Như ngạn ngữ xưa có nói "Ác giả ác báo", nhưng tay tôi cũng sẽ không phạm đến bệ hạ. Hỡi vua Israel, bệ hạ bắt bớ ai? Bệ hạ bắt một con chó chết, một con bọ chét sao? Xin Chúa làm quan án và xét xử cho tôi và bệ hạ, xin Chúa nhìn xem và xét xử vụ này mà giải thoát tôi khỏi tay bệ hạ".
Đavít vừa dứt lời, Saolê liền nói: "Hỡi Đavít con ta, có phải tiếng đó là tiếng của con không?" Saolê cất tiếng khóc và nói cùng Đavít rằng: "Con công chính hơn cha, con làm ơn cho cha mà cha trả oán cho con. Hôm nay con vạch rõ, con đối xử nhân đạo với cha, vì mặc dầu Chúa đã trao cha vào tay con mà con cũng không giết cha. Nào có ai gặp kẻ thù mà để nó đi yên lành không? Vậy xin Chúa báo đáp lại cho con về ân huệ mà con đã làm cho cha trong ngày hôm nay. Nay cha biết chắc rằng con sẽ làm vua, và con sẽ nắm mãi mãi trong tay con vương quốc Israel".
 Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 56, 2. 3-4. 6 và 11

Đáp: Nguyện xót thương con, lạy Chúa, nguyện xót thương con (c. 2a).
Xướng: 1) Nguyện xót thương con, lạy Chúa, nguyện xót thương con, vì linh hồn con tìm đến nương tựa Ngài. Con nương nhờ bóng cánh của Ngài, cho tới khi cơn hoạn nạn qua đi. - Đáp.
2) Con kêu lên Thiên Chúa Tối Cao, Thiên Chúa thực hiện cho con điều lành. Nguyện Chúa tự trời thi ân và cứu độ con, làm cho những người bách hại con phải nhục nhã, nguyện Chúa tỏ ra ân sủng và lòng trung tín của Ngài. - Đáp.
3) Lạy Chúa, xin Ngài hiện ra cao cả trên trời, xin tỏ vinh quang Ngài ra trên toàn cõi đất, vì đức từ bi Chúa cao tới cõi trời, và lòng trung tín Ngài chạm ngàn mây. - Đáp.

ALLELUIA: Ga 10, 27

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta". - Alleluia.

PHÚC ÂM: Mc 3, 13-19

"Người gọi những kẻ Người muốn gọi để họ ở cùng Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi và gọi những kẻ Người muốn gọi, và họ đến cùng Người. Người chọn mười hai vị để theo Người, và sai các ông đi giảng và ban cho các ông quyền trừ quỷ. Mười hai vị ấy là: Simon mà Người đặt tên là Phêrô, Giacôbê con ông Giêbêđê, và Gioan là em Giacôbê, (cả hai được Người đặt tên là Boanerges, nghĩa là con của sấm sét), rồi đến Anrê, Philipphê, Bartôlômêô, Matthêu, Tôma, Giacôbê con ông Alphê, Tađêô, Simon nhiệt tâm, và Giuđa Iscariô là kẻ nộp Người.
 Đó là lời Chúa.

 Cầu nguyện chung trong trái tim Chúa Kitô

Lạy Chúa! tâm hổn con thâ't vọng dưới sửc nặng buồn thảm và chia rẻ giữa các Kitô hữu. Lạy Chúa Kitô! Con tin tưởng vào Chúa vì Chúa đã thắng thế gian. Chỉ tình yêu mới sản sinh một sự tin tường say đắm vào người mình yêu. Sự tin tưởng của con vào Chúa vô bờ bến, chỉ vì Chúa là Đâhg Toàn Năng. Lạy Chúa! Để tâm hồn con có thể đến gần Chúa, nó sẽ bước đi mà không hiểu gì cả, nhưng chính lúc đó nó sẽ học hiểu biết.

Lạy Chúa Kitô! Niềm tin tưởng của con vào Chúa, thúc đẩy con tiến vào tình yêu của Chúa, chính nơi đó con gặp được lời cầu nguyện của Chúa: "Lạy Cha! Xin cho chúng nên một, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con. Lạy Cha! Xin cho họ được hoàn toàn nên một" (Ga 17,21-23). Lời cầu nguyện của con là một tội nhân, lời cầu nguyện của Chúa thuộc về Chúa và lời cẩu nguyện của Chúa là phương thuôc làm dịu tâm hổn conẽ Lúc nào? khi nào thì có sự hiệp nhất? Những chướng ngại nào cần phải vượt lên? Đó là việc của Chúa; niềm tin của con chỉ dạy con phải cầu nguyện với Chúa, trong Chúa, để đi đến sự hiệp nhất của Chúa, đó là điều mà Chúa luôn khao khát, điều mà Chúa luôn theo đuôi, điều mà Chúa đã chuẩn bị, điều mà Chúa đã thực hiện từ lâu rồi nếu như tất cả, tâ't cả với Chúa, là điều sáng chói của sáng tạo, nhờ Kitô hữu có thể hướng đen Chúa, và điều gì thuộc về Chúa có thể bước xuông trần gian.

Paul Couturier
Suy Niệm:
Ðức Giêsu tuyển chọn Nhóm Mười Hai để Ngài huấn luyện và trao cho họ tiếp tục sứ mệnh của Ngài. Nhóm Mười Hai này sẽ là cột trụ là nền tảng cho Giáo Hội Ngài sẽ thiết lập sau này. Vì thế Ðức Giêsu phải để các ông ở luôn với Ngài, cận kề với Ngài. Giữa Ðức Giêsu và Nhóm Mười Hai có liên hệ thân tình gắn kết. Ngài tin tưởng họ và trao cho họ sứ mệnh cao cả.

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa, lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Xin Cha ban cho Giáo Hội con nhiều ơn thiên triệu. Xin Cha ban Thánh Thần của Cha xuống trên các vị truyền giáo, đặc biệt là Ðức Giáo Hoàng và các Ðức Giám Mục để các ngài chu toàn nhiệm vụ của Cha giao phó. Còn riêng mỗi người Kitô hữu chúng con cũng được Cha tin tưởng và sai đi. Chúng con tạ ơn Cha, xin Cha cho chúng con nhiệt tâm với sứ vụ để danh Cha được hiến thánh và các tâm hồn được hạnh phúc.
Chúng con cầu xin, nhờ Ðức Giêsu, Chúa chúng con. Amen.
Suy Niệm:
Giáo Hội là một Mầu Nhiệm
Nếu thời Cựu Ước đã có những tiên tri cung đình, chuyên phụ họa cho vua chúa, thay vì nói lời của Chúa; thì ngày nay cũng không thiếu những tiên tri như thế: thay vì nói Lời Chúa, lên tiếng tố cáo bất công, người ta lại chỉ làm tiên tri để công kích và chỉ trích Giáo Hội của mình. Dù sao, đây cũng là dịp để các Kitô hữu suy nghĩ và đào sâu về bản chất của Giáo Hội.
Ðiều cơ bản nhất mà chúng ta cần phải tuyên xưng trước tiên khi nói về Giáo Hội, đó là Giáo Hội là một mầu nhiệm, do đó chúng ta không thể so sánh hay xếp Giáo Hội vào bất cứ một tổ chức trần thế nào. Giáo Hội không là một thể chế quân chủ chuyên chế hay quân chủ lập hiến. Giáo Hội cũng không hề là một chế độ tập quyền hay Bô lão trị; Giáo Hội lại càng không phải là một chế độ dân chủ. Giáo Hội thiết yếu là một mầu nhiệm, do đó mà không có một tên gọi nào diễn tả và múc cạn mầu nhiệm ấy. Giáo Hội được gọi là Hiền thê của Chúa Kitô, Giáo Hội được gọi là thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, Giáo Hội được gọi là Dân Chúa; mỗi kiểu nói này bày tỏ một khía cạnh, nhưng không thể nào nói hết về Giáo Hội.
Tin Mừng hôm nay như muốn đưa chúng ta vào trong bản chất mầu nhiệm ấy của Giáo Hội. Chúa Giêsu thiết lập nhóm Mười Hai để các ông ở với Ngài và được Ngài sai đi rao giảng. Ngài trao ban cho các ông quyền năng mà chính Ngài đã từng sử dụng: chỉ có các Tông Ðồ mới có quyền trừ quỷ, mới có quyền cử hành các Bí Tích, và chỉ những ai được các ông trao quyền cho mới được cử hành các Bí Tích. Chúa Giêsu trao phó cho các Tông Ðồ kho tàng mạc khải, chỉ có các ông mới có khả năng và có quyền giải thích kho tàng ấy và giảng dạy đúng ý muốn của Chúa. Trong Nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu đặt Phêrô làm thủ lãnh để cai trị và trở thành mối giây hữu hình trong Giáo Hội, Ngài hứa ở với Giáo Hội mỗi ngày cho đến tận thế: như Ngài đã ở với các Tông Ðồ ngay từ buổi đầu, thì hơn 2,000 năm qua, Ngài vẫn tiếp tục ở với và trong Giáo Hội.
Giáo Hội chính là thân thể Chúa Kitô. Thuộc về Giáo Hội chính là chấp nhận lời rao giảng của Chúa Giêsu được ủy thác cho các Tông đồ và những người mà các ông cắt đặt để thay thế và tiếp tục sứ mệnh của mình. Thuộc về Giáo Hội một cách cụ thể, là đón nhận và sống giáo huấn của chính các Tông đồ được ủy thác cho Giáo Hội và những người kế vị các ông. Giáo Hội không phải là một thể chế dân chủ, nhưng Giáo Hội chưa hề cưỡng bách ai phải gia nhập Giáo Hội; nhưng nếu đã thuộc về Giáo Hội thì không thể không chấp nhận quyền bính của Giáo Hội. Dù vậy, ngay cả khi một Kitô hữu không chấp nhận quyền giáo huấn của Giáo Hội, thì Giáo Hội cũng không phải dùng đến võ lực hoặc nhà tù để đe dọa và trừng phạt.
Hằng năm, Giáo Hội dành một tuần lễ để cầu cho sự hiệp nhất của các Kitô hữu, một tuần lễ để đi sâu vào mầu nhiệm của Giáo Hội, một tuần lễ để hoán cải. Chúng ta hãy cầu xin bằng chính lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: "Xin cho chúng nên một như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha, ngõ hầu thế gian tin rằng Cha đã sai Con".


Suy nim:
Đức Giêsu đã cần mười hai bạn trẻ cộng tác với mình,
để làm mục tử cho đàn chiên, làm thợ gặt cho mùa lúa chín vàng,
làm tông đồ cho một nước Paléttin nhỏ bé.
Ngài chia sẻ cho họ uy quyền mình có và sứ vụ mình làm (c. 1).
Con số mười  hai gợi nhớ mười hai chi tộc Ítraen ngày xưa.
Giáo Hội Ngài thiết lập sẽ là Ítraen mới, đặt nền trên mười hai bạn trẻ.
Chúng ta khó hình dung khuôn mặt riêng của mỗi vị tông đồ,
nhưng ta biết tên của họ qua các sách Tin Mừng, dù có chút dị biệt.
Họ có cá tính và cuộc đời riêng, nhưng đều được gọi bởi Thầy Giêsu,
và được Thầy sai đến với dân tộc mình là Ítraen (c. 6).
Tin Mừng Mátthêu kể tên nhóm Mười Hai theo từng cặp.
Simôn Phêrô đứng đầu danh sách, còn Giuđa Ítcariốt thì đứng cuối.
Chỉ sau này ta mới biết Simôn sẽ chối Thầy và Giuđa sẽ phản bội.
Có những cặp anh em ruột: Simon và Anrê, Gioan và Giacôbê.
Có người làm nghề thu thuế cho quân đô hộ: Mátthêu.
Có người lại muốn dùng vũ trang giải phóng đất nước: Simôn nhiệt thành.
Có ba người được coi là môn đệ thân tín: Phêrô, Gioan và Giacôbê.
Nói chung đa số là những người ít học thức, làm nghề đánh cá.
Được sai đi thật là một thách đố đối với họ.
Họ có làm nổi những việc Thầy giao không?
Vào thời Đức Giêsu, rao giảng “Nước Trời đã đến gần” là điều không dễ.
Để người ta tin chuyện đó, cần phải minh chứng bằng hành động cụ thể,
như chữa lành bệnh hoạn và khử trừ thần ô uế.
Vào thời nay, rao giảng Tin Mừng Nước Trời lại càng không dễ.
Rao giảng vẫn phải đi kèm với các việc phục vụ con người.
Lập một bệnh xá, bắc một cây cầu, đào một giếng nước,
giúp trẻ em nghèo đến trường, đưa người cai nghiện về lại với cộng đoàn,
cho các cô gái lầm lỡ có chỗ sinh con và nuôi con…
Giáo Hội đã làm nhiều việc và vẫn còn bao nhu cầu mới mẻ.
Nhưng có một việc mà xã hội hôm nay không biết là mình đang cần,
đó là được giải phóng khỏi những thần ô uế mới đang ám ảnh con người.
Mười Hai tông đồ ngày xưa đã đi khắp mảnh đất Paléttin,
và đã đặt chân đến những vùng đất mới.
Thế giới hôm nay rộng hơn và phẳng hơn xưa.
Chúng ta được Đấng Phục sinh sai đến mọi dân tộc (Mt 28, 20).
Các phương tiện truyền thông ngày nay giúp ta dễ dàng làm chuyện đó.
Nhưng chúng ta vẫn không được quên, trên quê hương Việt Nam
gần 80 triệu đồng bào chưa đón nhận Tin Mừng.
Cầu nguyn:
Lạy Cha,
Cha muốn cho mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý,
chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa nhận biết Đức Giêsu,
họ cũng là những người đã được cứu chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
khát vọng truyền giáo,
khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,
niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,
và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực
trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất
để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến
với những người bạn gần bên,
giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,
qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.
Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng của chúng con
sinh nhiều hoa trái. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

20/01/2012 THỨ SÁU TUẦN 2 TN
Th. Phabianô, giáo hoàng tử đạo
Mc 3,13-19
*****
Ở VỚI CHÚA VÀ ĐƯỢC SAI ĐI
Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng. (Mc 3,14)
Suy niệm: Làm môn đệ Đức Giêsu bao hàm hai nhịp liên hoàn: ở với Người và được Người sai đi. 1/ Đầu tiên, phải sống thân mật với Chúa đã, để kinh nghiệm về Người và để thấm đượm tinh thần của Người. Muốn biết Chúa bằng cái đầu, có thể qua sách vở, chữ nghĩa, qua nghiên cứu; song để biết Chúa bằng trái tim, nhất thiết phải sống với Người ... 2/ Rồi mới có thể ra đi làm chứng nhân cho Người, rao giảng về Người bằng tất cả nhiệt tình và xác tín – là điều kiện để có được lời chứng thuyết phục, nhất là đối với con người thời đại hôm nay...
Mời Bạn: Có một sự cải thiện trong đời sống cầu nguyện, phụng vụ và bí tích, trong việc lắng nghe và suy niệm Lời Chúa. Một khi bạn thực sự yêu Chúa, thì cả cuộc sống bạn là một lời chứng sáng tỏ, hùng hồn, đầy mãnh lực cuốn hút người ta. Bạn sẽ không phải quá băn khoăn về việc nói gì và nói cách nào để rao giảng về Chúa ...
Sống Lời Chúa: Thường xuyên kết hợp với Chúa bằng những lời nguyện tắt – chẳng hạn: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?” – trước mỗi khi bắt đầu một công việc hay một cuộc tiếp xúc.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trong công cuộc xây dựng Nước Trời, Chúa đã cần đến sự cộng tác của các môn đệ. Chúa đã mời gọi các môn đệ đến ở với Chúa trước khi sai các ông đi rao giảng. Ngày nay, Chúa cũng chờ đợi sự cộng tác của chúng con. Xin cho chúng con biết trân trọng đời sống cầu nguyện, biết gặp gỡ Chúa thực sự qua phụng vụ và bí tích – để được Chúa biến đổi. Và chúng con sẽ thành muối men âm thầm thấm đượm vào thế giới này. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Thánh Fabianô, Giáo Hoàng, Tử Đạo, Thánh Sêbastianô, Tử Đạo; 1Sm 24, 3-21;
Tin Mừng theo Thánh Mc 3, 13-19.
LỜI SUY NIỆM: “Rồi Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người. Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng với quyên trừ quỷ.” (Mc 3,13-15).
            Đã đến thời điểm quan trọng của cuộc sống cũng như sứ điệp của Chúa cần được loan báo rông khắp và được tiếp tục loan báo cho toàn thể nhân loại. Chúa Giêsu đã gọi những kẻ Chúa muốn. Ngài đã lập Nhóm Mười Hai. Đây là những Giám Mục tiên khởi, chính những vị Giám Mục này đã được Chúa Giêsu muốn và đã chọn để thay mặt Chúa trên trần gian này, để tiếp tục loan báo sứ điệp của Ngài. Ngày hôm nay chúng ta cũng có những vị Giám Mục ở giữa chúng ta. Các ngài đang chăm sóc đời sống của chúng ta, không những chỉ riêng người Ki-tô hữu, mà gồm tất cả những con người đang sống trong địa phận của ngài. Trong đời sống hiện tại của mỗi chúng ta phải biết tôn trọng các ngài, vì các ngài đều đã được Xức Dầu là đấng thay mặt Chúa Giêsu trên trần gian này; chúng ta phải biết vâng nghe những giáo huấn của các ngài; bởi những giáo huấn này sẽ giúp chúng ta đi đúng con đường dẫn về Nước Trời, đồng thời cũng phải biết đem hết nhiệt tâm cọng tác với các ngài trong sứ vụ truyền giáo. để Ơn Cứu Độ đến được với mọi người trong nhân loại hôm nay.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 20-01
Thánh SÊBASTIANÔ
Tử Đạo (Thế kỷ III)
Thánh Sêbastianô là công dân của hai thành phố vì cha Ngài quê quán tại Nac-bon (Narbonne) và mẹ Ngài quê quán tại Milanô. Năm 283 Ngài gia nhập quân đội. Thánh Sêbastianô nói rằng : sự hiền lành, khôn ngoan, tài khéo, quảng đại, ngay thẳng và cả trăm đức tính khác khiến triều đình sớm biết tới thánh nhân. Hoàng đế Điôclêtiano quí mến và đặt Ngài làm đại úy phòng vệ của ông. Vai trò này giúp cho thánh nhân dễ dàng đến với các nhà tu để an ủi khích lệ đức tin của các Kitô hữu bị bách hại.
Dịp may đã đến cho Ngài thi thố lòng nhiêt hành của mình khi Marcô và Marcelinô, hai hiệp sị bị kết án tử hình vì danh Chúa. Lúc ấy họ suýt bị lung lay đức tin vì những dòng nước mắt của cha mẹ già yếu lẫn vợ con. Thánh nhân đã có mặt kịp thời để khuyến khích họ,
Ngài nói : - Hỡi các chiến sĩ Chúa Kitô, các bạn hy sinh linh hồn bất tử cho thân xác bùn đất sao ? Các bạn chối bỏ đức tin, phản bội Thiên Chúa, hiến thân cho ma quỉ và từ khước triều thiên sắp sáng chói trên đầu các bạn sao ?
Đang khi nói những lời này, một ánh sáng chói lòa tràn ngập ngôi nhà của người giữ ngục. Vợ của người giữ ngục tên là Zoê được khỏi bệnh câm. Lời nói của thánh Sêbastianô với vài phép lạ kèm theo đã khơi dậy lòng can đảm nơi các vị tử đạo, cải hóa cha mẹ họ và khoảng sáu mươi lương dân khác.
Nhưng cuộc trở lại cảm kích nhất là cuộc trở lại của Crô-mat (Cromace), viên tổng trấn Roma. Ong ta bị bệnh lậu và nghe biết rằng thánh Sêbastianô, nhờ sức mạnh thầm kín nào đó, có thể chữa lành nhiều bệnh tật. Ông đến xin thánh nhân cầu khẩn trời cao cho mình được lành bệnh, thánh nhân nhận lời : - Tôi rất muốn, nhưng với điều kiện là ông phải thiêu hủy các ngẫu tượng và theo đạo đã.
Đầu tiên ông không chịu nhưng rồi cũng ưng theo. Ông phá hủy một số lớn các ngẫu tượng. Nhưng bệnh lại trầm trọng hơn. Ông than thở với thánh nhân : - Nghe lời ông tôi đã pahá hủy các tựơng thần. Ông đã hứa cho tôi hết bệnh. Bây giờ tôi lại khổ cực hơn bao giờ hết .
Thánh Sêbastianô trả lời: - Thưa hoàng công, việc Ngài phá hủy các tượng chẳng nhằm gì nếu Ngài còn cố giữ lại một tượng thôi. Hãy tiêu hủy nó đi hết và Ngài sẽ được toại nguyện.
Crô-mat tuân theo và ông đã hết bịnh. Ong và cả gia đình đã theo đạo. Từ chức, ông về miền quê và nhà ông đã trở thành nơi nương náu cho các Kitô hữu bị đánh hại.
Năm 286, ngọn lửa bách hại bùng lên dữ dội. Phần đông các Kitô hữu trốn về miền quê. Thánh Sêbastianô xin đức giáo hoàng cho phép ở lại Rôma để hướng dẫn và nâng đỡ những người còn lại. Đức giáo hoàng đã trả lời ngay: - Hỡi con hãy ở lại chiến trường để giúp đỡ các chiến sĩ và hãy tỏ ra là một chiến sĩ gan dạ bảo vệ đức tin.
Một kẻ bội giáo đã tố giác Ngài với hoàng đế, giận dữ, Điôcletianô triệu vời Ngài tới ngay. Thánh nhân vừa tới, hoàng đế nói liền : - Sêbastianô, ta đã quí mến ngươi, ta cho ngươi ở trong hoàng cung và coi ngươi như người nhà mà bây giờ ngươi thù nghịch với hoàng đế và các thần linh sao ?
Sêbastianô khiêm tốn trả lời rằng: mình chỉ có thể phục vụ hoàng đế và tổ quốc khi thờ phượng một Thiên Chúa chân thật và khinh bỏ các ngẫu tượng bằng gỗ đá. Tức giận, hoàng đế truyền lập tức trói thánh nhân lại và bắn tên cho đến chết. Khi thân thể Ngài đầy ngập thương tích, người ta tưởng Ngài đã chết và bỏ mặc tại chỗ. Ban đêm, một góa phụ tên là Irênê đến lấy xác Ngài để mai táng. Nhưng thật lạ lùng khi thấy Ngài còn sống. Bà liền đưa về nhà săn sóc cho đến khi thánh nhân bình phục hoàn toàn.
Lúc ấy các Kitô hữu khuyên Ngài nên tìm đường lẩn trốn. Nhưng sau khi cầu nguyện, Ngài quyết định đến trước Điôcletianô tuyên xưng đức tin một lần nữa. Trước mặt hoàng đế, Ngài nói: - Các thày cả thờ ngẫu thần làm cho nhà vua coi các Kitô hữu như là kẻ thù của tổ quốc. Nhưng đó chỉ là vu khống. Trái lại phải coi như là người xây dựng tổ quốc mới đúng, bởi vì họ không ngừng cầu nguyện cho tổ quốc được cứu rỗi và nên phồn thịnh.
Ngạc nhiên không biết có phải là Sêbastianô ông đã ra lệnh giết không, ông hỏi lại cho chắc. Khi đã biết chắc, ông truyền đem thánh nhân ra pháp trường đánh đòn cho chết rồi vất xác xuống rãnh. Một mệnh phụ tên là Lucina đã chôn cất Ngài vào một nghĩa địa ở dưới hầm.
Từ đó nơi này được mệnh danh là hang toại đạo thánh Sêbastianô và ngày nay cũng tại nơi này có xây một đại thánh đường lấy tên là vương cung thánh đường thánh Sêbastianô .
(Daminhvn.net)
++++++++++++++++
20 Tháng Giêng
Chuyện Một Khu Rừng

Một câu chuyện có thật đã được kể về nguồn gốc của một khu rừng như sau: Một ông lão người Pháp nọ, sau khi vợ qua đời, đã mang đứa con trai duy nhất của ông đến một vùng đất khô cằn nhất của Miền Trung nước Pháp để lập nghiệp. Thật ra, người đàn ông chỉ muốn quên đi cái quá khứ khó khăn vất vả. 
Vùng đất khô cằn nơi ông đặt chân đến chỉ còn vỏn vẹn năm ngôi làng nhỏ với rất ít dân cư sống trong những căn nhà siêu vẹo đổ nát, đa số đã bỏ lên những thành phố lớn để tìm công ăn việc làm. Oâng lão trên 60 tuổi đưa mắt nhìn khung cảnh xung quanh và đi đến kết luận: nếu không có cây cối, chỉ trong vòng một thời gian ngắn, cả vùng này sẽ trở thành sa mạc hoang tàn. Sau khi đã dọn chỗ cho đàn cừu và một số gia súc khác, ông lão bắt đầu đi bộ dọc theo các lối đi và nhặt từng hạt dẻ. Oâng chọn những hạt dẻ tốt để riêng và ngâm vào nước. Khi mặt trời vừa lên, ông dùng một thanh sắt nhọn moi những lỗ nhỏ và đặt cứ mỗi lỗ một hạt dẻ.
 Ngày ngày như thế, trong liên tiếp 3 năm, ông lão đã trồng được 100 ngàn cây dẻ con. Oâng hy vọng rằng ít nhất 10 ngàn cây còn sống sót. Oâng cũng hy vọng rằng Chúa sẽ cho ông sống được thêm vài năm nữa để làm cho xong công tác trồng cây này. 
Ông qua đời năm 1947, hưởng thọ 89 tuổi. Từ những hạt dẻ ông đã cặm cụi moi từng lỗ bỏ vào, nay nước Pháp đã có được một trong những khu rừng đẹp nhất thế giới. Trong ba khóm rừng mỗi khóm dài 11 cây số, những cây dẻ xanh tươi cao lớn đã có mặt để giữ nước mưa, làm cho cây cối xung quanh được xanh tươi và biến khu đồi khô cằn ngày xưa thành những dòng suối róc rách. Chim chóc đã trở lại. Sự sống cũng chớm nở. Dân chúng từ từ trở lại các ngôi làng cũ để xây nhà và làm lại cuộc đời.
 Sự sống của thiên nhiên thường giúp con người bớt cô đơn. Ðồng ruộng, cây cỏ xanh tươi, tiếng chim ca hót thường khơi dậy niềm vui sướng trong lòng người. Ðó là lý do khiến cho những người sống ở thôn dã dễ có tâm hồn thanh thản và lạc quan vui sống hơn người thành thị. 
Lớn lên ở thôn dã, chứng kiến cảnh gieo trồng của người nông dân, Chúa Giêsu đã mượn những hình ảnh của những sinh hoạt thôn dã ấy để nói về Nước Trời. Người gieo trồng nào cũng có niềm tin và sự lạc quan. Gieo hạt giống vào lòng đất là đặt tất cả niềm tin tưởng phó thác của mình vào thiên nhiên. Có hạt rơi xuống đất tốt, có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trong bụi gai. Nhưng kết quả cuối cùng vẫn là vụ mùa tươi tốt. Có những hạt rơi vào đất tốt, có những hạt rơi bên vệ đường, có những hạt rơi vào bụi gai. Có những kết quả trông thấy, có những âm thầm đau khổ, có những bách hại dữ dội, nhưng cuối cùng Giáo Hội của Ðức Kitô vẫn tồn tại và sinh ra được nhiều hoa trái của niềm Hy Vọng.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu, Tuần II TN
Bài đọcHeb 8:6-13; I Sam 24:3-21; Mk 3:13-19.

1/ Bài đọc I (năm lẻ):
6 Nhưng hiện nay, Đức Giê-su được một tác vụ cao trọng hơn, bởi vì Người là trung gian của một giao ước tốt đẹp hơn; giao ước này căn cứ vào những lời hứa tốt đẹp hơn. 7 Thật vậy, giả như giao ước thứ nhất đã hoàn hảo rồi, thì chẳng cần phải tìm giao ước thứ hai để thay thế. 8 Quả thật, Thiên Chúa khiển trách Dân rằng: Đức Chúa phán: Này sắp đến những ngày Ta hoàn thành một Giao Ước Mới với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa.
9 Giao ước đó sẽ không như giao ước Ta đã thiết lập với cha ông của chúng, trong ngày Ta cầm tay dẫn chúng ra khỏi Ai-cập. Bởi vì chúng đã không trung thành với giao ước của Ta, nên Ta cũng đã bỏ mặc chúng, Đức Chúa phán: 10Đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó, Đức Chúa phán: Ta sẽ ghi vào lòng trí chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng lề luật của Ta; Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là Dân của Ta. 11 Không ai còn phải dạy đồng bào mình, không ai còn phải dạy anh em mình rằng: "Hãy học cho biết Đức Chúa," vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta. 12 Ta sẽ dung thứ những điều gian ác chúng làm, sẽ không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa. 13 Khi Thiên Chúa nói đến Giao Ước Mới, Người làm cho giao ước thứ nhất hoá ra giao ước cũ; và cái gì cũ kỹ, lỗi thời, thì sắp tan biến đi.

2/ Bài đọc I (năm chẵn):
3 Vua Sa-un lấy trong toàn thể Ít-ra-en ba ngàn quân tinh nhuệ, và lên đường để tìm bắt ông Đa-vít và người của ông, ở phía đông các Mỏm Đá Sơn Dương.
4 Vua đến các bãi quây chiên dê bên đường. Ở đó có một cái hang và vua Sa-un vào đó để đi việc cần. Ông Đa-vít và người của ông đang ngồi ở cuối hang. 5 Người của ông Đa-vít nói với ông: "Đây là ngày Đức Chúa phán với ông: "Này ta trao kẻ thù của ngươi vào tay ngươi, ngươi sẽ đối xử với nó thế nào tuỳ ý." Ông Đa-vít đứng dậy và cắt vạt áo khoác của vua Sa-un. 6 Sau đó, ông Đa-vít áy náy trong lòng vì đã cắt vạt áo của vua Sa-un.
7 Ông bảo người của ông: "Xin Đức Chúa đừng để tôi làm điều này cho chúa thượng của tôi, đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong, là tra tay hại vua, vì người là đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong." 8 Nhờ những lời ấy, ông Đa-vít đã ngăn chặn người của ông, không để cho họ xông vào vua Sa-un. 9 Sau đó, ông Đa-vít đứng lên, ra khỏi hang và kêu đằng sau vua Sa-un rằng: "Thưa đức vua là chúa thượng con! " Vua Sa-un ngoái lại đằng sau. Ông Đa-vít sấp mặt sát đất mà lạy.
10 Ông Đa-vít nói với vua Sa-un: "Tại sao cha lại nghe lời người ta nói rằng Đa-vít đang tìm cách hại cha? 11 Hôm nay đây, chính mắt cha thấy Đức Chúa đã trao cha vào tay con, hôm nay, trong hang; người ta nói đến chuyện giết cha, nhưng con đã thương hại cha và nói: "Tôi sẽ không tra tay hại chúa thượng tôi, vì người là đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong. 12 Thưa cha, xin nhìn xem, vâng, xin nhìn xem vạt áo choàng của cha trong tay con. Vì con đã cắt áo choàng của cha và không giết cha, thì xin cha biết và thấy cho rằng tay con không làm điều ác, điều lỗi, và con đã không phạm tội hại cha, trong khi cha mưu toan lấy mạng sống con. 13 Xin Đức Chúa phân xử giữa con và cha và xin Đức Chúa phạt cha để trả thù cho con, nhưng tay con sẽ không đụng đến cha. 14 Như tục ngữ người xưa có nói: "Điều ác từ kẻ ác mà ra," nên tay con sẽ không đụng đến cha. 15 Đức vua Ít-ra-en đã ra trận để đánh ai? Cha đuổi theo ai? Một con chó chết! Một con bọ chét! 16 Đức Chúa sẽ là trọng tài, Người sẽ phân xử giữa con và cha. Xin Người nhìn xem và biện hộ cho con, xin Người phân xử để con thoát khỏi tay cha!"
17 Khi ông Đa-vít nói với vua Sa-un những lời đó xong, thì vua Sa-un hỏi: "Đa-vít con cha, có phải tiếng của con đấy không?" Rồi vua Sa-un oà lên khóc. 18 Vua nói với ông Đa-vít: "Con công chính hơn cha, vì con xử tốt với cha, còn cha thì xử ác với con. 19 Hôm nay con đã tỏ ra là con làm điều tốt cho cha, vì Đức Chúa đã nộp cha vào tay con mà con đã không giết cha. 20Có ai gặp kẻ thù của mình mà cứ để nó đi yên lành không? Xin Đức Chúa thưởng con vì điều tốt con làm cho cha hôm nay. 21 Giờ đây cha biết rằng chắc chắn con sẽ làm vua và vương quyền Ít-ra-en sẽ vững mãi trong tay con.''

3/ Phúc Âm:
13 Rồi Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người. 14 Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, 15 với quyền trừ quỷ.
16 Người lập Nhóm Mười Hai và đặt tên cho ông Si-môn là Phê-rô,
17 rồi có ông Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê, và ông Gio-an em ông Gia-cô-bê - Người đặt tên cho hai ông là Bô-a-nê-ghê, nghĩa là con của thiên lôi -, 18 rồi đến các ông An-rê, Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Tô-ma, Gia-cô-bê con ông An-phê, Ta-đê-ô, Si-môn thuộc nhóm Quá Khích,
19 và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt là chính kẻ nộp Người.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Khi cái hoàn hảo tới, cái bất toàn phải qua đi.

Con người thường có khuynh hướng tiếc nuối những huy hoàng của quá khứ và từ chối không tiếp nhận những thay đổi trong cuộc sống hiện tại. Họ quên đi nhân loại càng ngày càng phải phát triển để tiến bộ hơn, trong đời sống xã hội cũng như tôn giáo. Tục ngữ Việt-nam có rất nhiều câu khuyên mọi người phải bỏ thái độ thủ cựu, nắm giữ quyền hành: "Tre già, măng mọc" hay "Con hơn cha, nhà có phúc." Trong Kế Hoạch Cứu Độ cũng thế, Thiên Chúa không dựng nên con người toàn hảo hay mặc khải mọi sự cho con người ngay từ đầu; nhưng muốn con người từ từ tiến đến chỗ hoàn hảo và càng ngày càng thấu hiểu về Thiên Chúa và Kế Hoạch Cứu Độ của Ngài. Vì thế, con người cần có sự khôn ngoan và tâm hồn cởi mở để đón nhận những thay đổi trong cuộc sống; chứ không ích kỷ nắm giữ quá khứ.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh sự tiệm tiến của những gì Thiên Chúa đã làm cho con người. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác giả Thư Do-thái so sánh hai giao ước cũ và mới mà Thiên Chúa thiết lập với dân: vì giao ước cũ bất toàn nên mới có giao ước mới; giao ước mới hoàn hảo hơn giao ước cũ vì đặt căn bản trên những lời hứa tốt đẹp hơn của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, vua Saul phải công nhận David là người công chính và xứng đáng làm vua của Israel hơn ông; vì trong khi Vua luôn tìm cơ hội để thủ tiêu David, còn David luôn tìm dịp để giúp đỡ và tha chết cho Vua. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu thiết lập Nhóm Mười Hai để các ông ở với Ngài và được huấn luyện, trước khi Ngài sai các ông đi rao giảng Tin Mừng và tiếp tục sứ vụ của Ngài trên trần gian.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I (năm lẻ)Chúa Giêsu là trung gian của một giao ước tốt đẹp hơn.
1.1/ Quan niệm về giao ước: Thông thường, giao ước là một hợp đồng giữa hai bên, đồng ý thỏa thuận về một số những điều mà hai bên đồng ý giữ. Nếu một bên không chịu giữ hợp đồng, giao ước ấy sẽ trở nên vô hiệu. Từ ngữ Hy-Lạp thường dùng để chỉ giao ước là suntheke. Điều đáng chú ý trong đọan văn này, tác giả không dùng suntheke, mà dùng diatheke; từ ngữ này được dùng để chỉ một lời hứa mà một người ở cấp bậc cao hơn hứa với một người dưới mình. Trong giao ước của Thiên Chúa với con người, Thiên Chúa là nguồn gốc và là nguyên nhân của những lời hứa.

1.2/ Giao ước mới toàn hảo hơn giao ước cũ:
(1) Giao ước cũ: là giao ước Thiên Chúa thiết lập với Israel qua trung gian của Moses trên núi Sinai. Theo giao ước này, Thiên Chúa hứa sẽ thương yêu và săn sóc Israel nếu họ tuân giữ cẩn thận các giới răn của Ngài (Deut 4:23).
(2) Giao ước mới: là giao ước Thiên Chúa thiết lập với Giáo Hội qua trung gian của Đức Kitô. Tác giả thư Do-thái nêu bật những đặc điểm của giao ước mới:
- Hoàn hảo hơn giao ước cũ: Tác giả dẫn chứng lời đã được tiên báo bởi tiên-tri Jeremiah 31:31-34: “Quả thật, Thiên Chúa khiển trách Dân rằng: Đức Chúa phán: Này sắp đến những ngày Ta hoàn thành một Giao Ước Mới với nhàIsrael và nhà Judah. Giao ước đó sẽ không như giao ước Ta đã thiết lập với cha ông của chúng, trong ngày Ta cầm tay dẫn chúng ra khỏi Ai-cập. Bởi vì chúng đã không trung thành với giao ước của Ta, nên Ta cũng đã bỏ mặc chúng, Đức Chúa phán.” Tác giả dùng tĩnh từ kainos để chỉ mới cả về thời gian lẫn phẩm giá: “Nhưng hiện nay, Đức Giêsu được một tác vụ cao trọng hơn, bởi vì Người là trung gian của một giao ước tốt đẹp hơn; giao ước này căn cứ vào những lời hứa tốt đẹp hơn.”
- Lý do hiện hữu: vì sự bất toàn của giao ước cũ. “Thật vậy, giả như giao ước thứ nhất đã hoàn hảo rồi, thì chẳng cần phải tìm giao ước thứ hai để thay thế.” Tác giả lý luận: “Khi Thiên Chúa nói đến Giao Ước Mới, Người làm cho giao ước thứ nhất hoá ra giao ước cũ; và cái gì cũ kỹ, lỗi thời, thì sắp tan biến đi.”
- Sự khác biệt nền tảng giữa 2 giao ước: Thập Giới của giao ước cũ được khắc ghi trong 2 bia đá; trong khi Lề Luật của giao ước mới sẽ được Thiên Chúa: “ghi vào lòng trí chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng lề luật của Ta; Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là Dân của Ta.”
Con người giữ Lề Luật không chỉ vì bắt buộc, nhưng vì yêu thương Đấng dạy dỗ mình.
- Mọi người đều biết Thiên Chúa, chứ không còn chỉ giới hạn trong vòng dân Do Thái mà thôi: “Không ai còn phải dạy đồng bào mình, không ai còn phải dạy anh em mình rằng: "Hãy học cho biết Đức Chúa", vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta.”
- Hoàn toàn tha thứ mọi tội lỗi cho dân: “Ta sẽ dung thứ những điều gian ác chúng làm, sẽ không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa.”

2/ Bài đọc I (năm chẵn)Saul thú nhận với David: "Con công chính hơn cha, vì con xử tốt với cha, còn cha thì xử ác với con.''
2.1/ Phản ứng của David: Ông biết Saul muốn tìm dịp hại ông vì ghen tị, không muốn ông làm Vua Israel. Dịp may để hạ sát vua Saul đã tới tại En-Gedi, cạnh Biển Chết, khi Saul vào trong một hang đá để làm việc cần cá nhân. Lúc đó David và người của ông đang ngồi ở cuối hang. Người của ông David nói với ông: "Đây là ngày Đức Chúa phán với ông: "Này ta trao kẻ thù của ngươi vào tay ngươi, ngươi sẽ đối xử với nó thế nào tùy ý.""
David có thể triệt hạ Saul lúc đó để khỏi phải lo chạy trốn mãi; nhưng ông sợ động tới người Thiên Chúa đã xức dầu tấn phong. Ông cũng ngăn cấm người của ông không được đụng tới vua Saul; ông chỉ nhẹ nhàng đi tới chỗ Saul treo áo choàng và cắt vạt áo của vua Saul. Hành động cắt vạt áo choàng có lẽ là một biểu tượng để nhắc lại chuyện vua Saul đã vô ý giật rách áo choàng của ngôn-sứ Samuel trong trình thuật 15:27-28.
Sau đó, David ra khỏi hang và kêu lớn tiếng đằng sau vua Saul rằng: "Thưa đức vua là chúa thượng con!" rồi sấp mặt sát đất mà lạy. David nói với vua Saul: "Tại sao cha lại nghe lời người ta nói rằng David đang tìm cách hại cha? Hôm nay đây, chính mắt cha thấy Đức Chúa đã trao cha vào tay con, hôm nay, trong hang; người ta nói đến chuyện giết cha, nhưng con đã thương hại cha và nói: "Tôi sẽ không tra tay hại chúa thượng tôi, vì người là đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong. Thưa cha, xin nhìn xem, vâng, xin nhìn xem vạt áo choàng của cha trong tay con. Vì con đã cắt áo choàng của cha và không giết cha, thì xin cha biết và thấy cho rằng tay con không làm điều ác, điều lỗi, và con đã không phạm tội hại cha, trong khi cha mưu toan lấy mạng sống con.'' David cầu xin Thiên Chúa phân xử mối liên hệ giữa ông và Saul: trong khi David luôn đối xử tốt lành với Saul, thì Saul lại luôn tìm cách hãm hại David vì ghen tị. David tin Đức Chúa sẽ giải quyết xung đột giữa hai người; chứ ông không dám ra tay hại người Đức Chúa đã xức dầu tấn phong.

2.2/ Phản ứng của Saul: Khi ông David nói những lời đó xong, thì vua Saul Saul oà lên khóc. Vua nói với David: "Con công chính hơn cha, vì con xử tốt với cha, còn cha thì xử ác với con. Hôm nay con đã tỏ ra là con làm điều tốt cho cha, vì Đức Chúa đã nộp cha vào tay con mà con đã không giết cha. Có ai gặp kẻ thù của mình mà cứ để nó đi yên lành không?" Công chính là tiếp tục sống đúng mối liên hệ của mình, cho dù tha nhân đã không sống đúng mối liên hệ đó.
Vua Saul cũng nhận ra David là người xứng đáng lãnh nhận vương quyền để cai trị Israel, ông cầu chúc cho David: "Xin Đức Chúa thưởng con vì điều tốt con làm cho cha hôm nay. 21 Giờ đây cha biết rằng chắc chắn con sẽ làm vua và vương quyền Israel sẽ vững mãi trong tay con.''

3/ Phúc ÂmChúa Giêsu thành lập Nhóm Mười Hai.
3.1/ Sứ vụ của Nhóm Mười Hai: “Rồi Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người. Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ.” Tại sao phải lập Nhóm Mười Hai?
(1) Để tiếp tục thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng: Chúa Giêsu biết rõ những gì sẽ xảy đến cho Ngài trong tương lai, vì thế Ngài cần những người tiếp tục công việc của Ngài. Người lãnh đạo giỏi là người biết nhìn đến tương lai, và biết huấn luyện những người có khả năng để thay thế mình sau này; vì nếu không huấn luyện người để thay thế, tất cả những cố gắng của mình, cho dù hay đến đâu chăng nữa, cũng sẽ rơi vào quên lãng.
(2) Để Tin Mừng đựơc loan báo sâu rộng và nhiều người được chữa lành hơn: Phương tiện truyền thông duy nhất thời đó là loan báo bằng miệng, và phương tiện di chuyển thịnh hành nhất là đi bộ. Chúa Giêsu băn khoăn làm sao để Tin Mừng có thể đạt tới mọi người, và không còn cách nào hiệu quả hơn là mời gọi nhiều người cộng tác để huấn luyện, và rồi sai họ đi thi hành sứ vụ. Đó là lý do tại sao Ngài không chỉ huấn luyện một, mà 12 Tông-đồ; bên cạnh đó, Ngài còn huấn luyện rất nhiều các môn đệ đi theo Ngài. Điều này dạy chúng ta, để Tin Mừng có thể lan tràn đến mọi người, chúng ta cần sự cố gắng và cộng tác của rất nhiều người, chứ không giới hạn trong một thiểu số có tài năng hay kiến thức mà thôi.
(3) Chúa Giêsu gọi các ông để ở với Ngài: Cách huấn luyện hiệu quả nhất của người thời xưa là cho ở với Thầy; mục đích không những là để cho các trò học tất cả những gì nơi Thầy: sự khôn ngoan cũng như cách cư xử, nhưng còn là cơ hội cho Thầy quan sát các trò của mình và sửa sai những tính xấu cho họ.

3.2/ Thành phần của Nhóm Mười Hai: “Người lập Nhóm Mười Hai và đặt tên cho ông Simon là Phêrô, rồi có ông Giacôbê con ông Zebedee, và ông Gioan em ông Giacôbê - Người đặt tên cho hai ông là Boarneghese, nghĩa là con của thiên lôi - rồi đến các ông Anrê, Philípphê, Barthôlômêô, Mátthêu, Tôma, Giacôbê con ông Anphê, Tađêô, Simon thuộc nhóm Quá Khích, và Giuđa Iscariot là chính kẻ nộp Người.” Nhìn qua danh sách của 12 Tông-đồ, một người có những nhận xét như sau:
(1) Không có ai nổi bật: về danh giá, quyền thế, cũng như về kiến thức. Ngược lại, đa số là những ngư phủ thất học tầm thường. Các ông có thành công và trung thành với sứ vụ hay không là do cách Chúa Giêsu huấn luyện.
(2) Là những con người yếu đuối, tội lỗi: Matthew là người thu thuế, và được xem là tội lỗi thường xuyên và công khai. Judah Iscarioth là người sẽ nộp Chúa. Hai con ông Zebedee, Gioan và Giacôbê, là người nhắm địa vị “ngồi bên tả và bên hữu” Chúa Giêsu trong vương quốc của Ngài. Phêrô chối Chúa 3 lần, và hầu hết các Tông-đồ đều bỏ Chúa trong Cuộc Thương Khó của Ngài. Điều này cho chúng ta thấy việc huấn luyện con người không dễ.
(3) Tính khí rất khác nhau: Simon, người thuộc Nhóm Quá Khích, có khuynh hướng bảo vệ quốc gia Do-Thái, rất ghét những người cấu kết với ngọai bang để bóc lột dân như Matthew, người thu thuế. Thế mà Chúa Giêsu chọn hai ông để sống chung với nhau, dẹp bỏ sự khác biệt, và cùng chung lo một sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Phêrô rất nhanh nhẩu đến nỗi làm mà không chịu suy nghĩ, để ở với Gioan, người luôn thâm trầm và cẩn thận suy nghĩ trước khi làm. Nói tóm, sự huấn luyện của Chúa Giêsu và cuộc sống chung đã làm các ông phải dẹp bỏ những khác biệt cá nhân để cùng hy sinh cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Trong sự quan phòng và Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, Ngài không dựng nên mọi sự hoàn hảo và tốt đẹp ngay từ đầu; nhưng một cách tiệm tiến, mọi sự dần dần trở nên hoàn thiện. Ngài muốn chúng ta đừng tiếc nuối và níu kéo quá khứ; nhưng biết dùng trí khôn và mở lòng để đón nhận những mặc khải mới, và cố gắng để càng ngày càng trở nên tốt hơn.
- Sự ghen tị là lý do ngăn cản đà tiến của nhân loại, chúng ta đừng để nó làm mờ mắt đến nỗi chúng ta không nhận ra thánh ý của Thiên Chúa; nhất là làm chúng ta mù quáng đến độ muốn tiêu diệt sự thật và giết hại những người lành.
- Chúng ta hãy tin tưởng hoàn toàn nơi Chúa Giêsu, vì Ngài là trung gian của một giao ước hoàn hảo. Ngài luôn yêu thương và lo lắng mọi sự cho chúng ta.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP

Ngày 20 Tháng Giêng
Thánh Sebastianô, Quân Nhân Tử Ðạo (+ 303)

Chúng ta không được rõ về năm sinh của thánh Sebastianô, nhưng chắc chắn rằng ngài thuộc gia đình quyền quý và đã sống sung túc.
Năm 283, Sebastianô gia nhập quân đội. Nhờ lòng can đảm và trí thông minh, ngài đã được các bậc chỉ huy tín nhiệm và nhất là được hoàng đế Ðiôclêtianô quý mến. Bởi đó, ngài được vinh thăng đại úy trong lữ đoàn phòng vệ, tuy nhiên hoàng đế vẫn không biết ngài là người Công Giáo.
Với chức vụ sẵn có, ngài đem tất cả nghị lực thời gian, len lỏi vào các trại giam để nâng đỡ an ủi các tín hữu bị bắt giữ, sẵn sàng hy sinh tới giọt máu cuối cùng. Ðồng thời, ngài cũng đã làm những phép lạ nhân danh Ðức Kitô, khiến nhiều người từ bỏ tà thần tin theo Thiên Chúa nhân lành.
Cơn giông tố phũ phàng nhất xảy đến cho Giáo Hội: hoàng đế ra lệnh thanh trừng gắt gao những người giữ đạo (300). Các tín hữu lần lượt ngã gục dưới lưỡi gươm của lý hình, và những hành động của Sebastianô cũng không thoát khỏi cặp mắt canh chừng của bọn công an. Họ tố cáo ngài với hoàng đế. Lúc đầu hoàng đế không tin, nhưng cũng cho đòi ngài đến điều tra. Trước mặt hoàng đế ngài đã mạnh dạn tuyên xưng là người Công Giáo. "Thà vâng lời Thiên Chúa còn hơn vâng lời loài người" (CvSđ 5, 29). Khi thì hoàng đế hứa ban thưởng, lúc lại đe dọa, nhưng vẫn không lay chuyển đức tin kiên vững của ngài. Tức giận, hoàng đế giao cho các tiểu đội bắn cung thi hành việc xử tử.
Họ điệu ngài ra ngoài thành, lột áo và trói ngài vào cột. Thân xác ngài trở nên bia hứng trọn những mũi tên bay tới. Nhưng ngài vẫn chưa chết, và ban đêm được một tín hữu đem về nhà cứu sống. Sau khi bình phục, ngài lẻn vào hoàng cung để phản đối những hành động dã man của hoàng đế. Hoàng dế ra lệnh đánh đòn, chém đầu và quăng xác xuống hồ. Bà Lucine, một người đạo đức và sốt sắng đã đem xác ngài về chôn cất tại một hang toại đạo và thế kỷ IV, người ta đã xây cất trên mộ ngài một thánh đường nguy nga.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét