Trang

Thứ Năm, 12 tháng 1, 2012

Thứ Sáu Tuần I Mùa Thường Niên Năm II


THỨ SÁU TUẦN I MÙA THƯỜNG NIÊN

BÀI ĐỌC I: 1 Sm 8, 4-7. 10-22a

"Các ngươi sẽ ca thán vì nhà vua, nhưng Chúa sẽ không nhậm lời các ngươi, vì các ngươi đã xin ban cho các ngươi một nhà vua".
Trích sách Samuel quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, tất cả các kỳ lão Israel tập họp lại và đến cùng Samuel ở Ramtha, và nói với người rằng: "Nay ông đã già rồi và con cái ông không đi trong đường lối của ông; vậy ông hãy đặt lên cho chúng tôi một nhà vua, để xét xử chúng tôi, như tất cả các dân tộc khác".
Lời ấy làm cho Samuel phật lòng, vì họ đã nói: "Ông hãy cho chúng tôi một nhà vua, để xét xử chúng tôi". Samuel cầu nguyện cùng Chúa. Và Chúa phán cùng ông rằng: "Ngươi cứ nghe theo dân trong những gì họ sẽ nói với ngươi, vì không phải họ khinh bỉ ngươi, mà là khinh bỉ Ta, để Ta không còn cai trị họ nữa".
Vậy Samuel đã nói tất cả những lời Chúa cho dân nghe khi họ xin một nhà vua. Người nói: "Đây là quyền bính của vua sẽ cai trị các ngươi: Ông sẽ bắt con trai các ngươi xung vào đoàn chiến xa và đoàn kỵ binh, và họ sẽ chạy trước xa giá của ông. Ông cắt đặt người thì chỉ huy một ngàn, người thì chỉ huy năm mươi binh lính, kẻ thì cày ruộng gặt lúa, người thì chế tạo quân cụ và chiến xa. Còn con gái các ngươi, ông sẽ bắt làm thợ sản xuất dầu thơm, nấu ăn và làm bánh. Còn đồng ruộng các ngươi, vườn nho, vườn ô liu tốt nhất của các ngươi, ông sẽ tịch thu và ban cho các đầy tớ của ông. Ông sẽ đánh thuế một phần mười vào mùa màng và vườn nho các ngươi, để nuôi các vị thái giám và đầy tớ của ông. Ông sẽ bắt tôi tớ trai gái, các thanh niên cường tráng và cả lừa của các ngươi mà xung vào công việc của ông. Ông sẽ đánh thuế một phần mười vào đoàn vật của các ngươi, và chính các ngươi sẽ trở thành nô lệ của ông. Trong ngày đó, các ngươi sẽ ca thán vì nhà vua mà các ngươi tuyển chọn, nhưng Chúa sẽ không nhậm lời các ngươi, vì các ngươi đã xin ban cho các ngươi một nhà vua!"
Nhưng dân không muốn nghe lời Samuel, và nói với người rằng: "Không, chúng tôi phải có vua, chúng tôi phải giống như mọi dân tộc khác; nhà vua sẽ xét xử chúng tôi, sẽ đi trước chúng tôi, và sẽ đánh giặc cho chúng tôi". Samuel nghe tất cả những lời dân nói, và thưa lại cùng Chúa. Nhưng Chúa nói cùng Samuel rằng: "Ngươi cứ nghe họ và thiết lập cho họ một nhà vua".
Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 88, 16-17. 18-19

Đáp: Tôi sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (c. 2a).
Xướng: 1) Phúc thay dân tộc biết hân hoan, lạy Chúa, họ tiến thân trong ánh sáng nhan Ngài. Họ luôn luôn mừng rỡ vì danh Chúa, và tự hào vì đức công minh Ngài. - Đáp.
2) Vì Chúa là vinh quang, quyền năng của họ, nhờ ân huệ Chúa, uy quyền của chúng tôi được suy tôn. Bởi chưng khiên thuẫn chúng tôi là của Chúa, và vua chúng tôi thuộc về Đấng Thánh của Israel. - Đáp.

ALLELUIA: Tv 118, 27

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.

PHÚC ÂM: Mc 2, 1-12

"Con Người có quyền tha tội dưới đất".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Sau ít ngày, Chúa Giêsu lại trở về Capharnaum; nghe tin Người đang ở trong nhà, nhiều người tuôn đến đông đảo, đến nỗi ngoài cửa cũng không còn chỗ đứng, và Người giảng dạy họ. Người ta mang đến cho Người một kẻ bất toại do bốn người khiêng. Vì dân chúng quá đông, không thể khiêng đến gần Người được, nên họ dỡ mái nhà trên chỗ Người ngồi một lỗ to, rồi thòng chiếc chõng với người bất toại xuống. Thấy lòng tin của họ, Chúa Giêsu nói với người bất toại rằng: "Hỡi con, tội lỗi con được tha". Lúc ấy, có một ít luật sĩ ngồi đó, họ thầm nghĩ rằng: "Sao ông này lại nói thế? Ông nói phạm thượng. Ai có quyền tha tội, nếu không phải là một mình Thiên Chúa". Chúa Giêsu biết tâm trí họ nghĩ như vậy, liền nói với họ: "Tại sao các ông nghĩ như thế? Nói với người bất toại này: 'Tội lỗi con được tha' hay nói: 'Hãy chỗi dậy vác chõng mà đi', đàng nào dễ hơn? Nhưng (nói thế là) để các ông biết Con Người có quyền tha tội dưới đất". - Người nói với kẻ bất toại: "Ta truyền cho con hãy chỗi dậy, vác chõng mà về nhà". Lập tức người ấy đứng dậy, vác chõng ra đi trước mặt mọi người, khiến ai nấy sửng sốt và ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Chúng tôi chưa từng thấy như thế bao giờ".
Đó là lời Chúa.


 

13/01/2012 THỨ SÁU TUẦN 1 TN
Th. Hilariô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh
Mc 2,1-12
*****
NHẬN BIẾT MÌNH ĐƯỢC THỨ THA
Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giêsu bảo người bại liệt: “Này con, con đã được tha tội rồi.” (Mc 2,5)
Suy niệm: Người bại liệt không đi được, phải khiêng. Người khiêng không chen vào được, phải trổ mái nhà để có thể đặt bệnh nhân xuống trước mặt Đức Giêsu. Thật là vất vả. Lòng khao khát mong được Đức Giêsu chữa bệnh thật lớn biết bao! Nhưng sự đáp ứng của Người thoạt xem dường như ‘trật khớp’: thay vì chữa bệnh, Người lại...tha tội! Có lẽ không chỉ những kinh sư mà cả bệnh nhân lẫn đám đông có mặt ở đấy đều bị bất ngờ. Và đây là một sứ điệp lớn mà Tin Mừng muốn chuyển đạt:
1- Lành bệnh là điều quan trọng, nhưng được giải phóng khỏi tội lỗi là điều quan trọng hơn nhiều. Chính tội lỗi là căn nguyên của đau khổ, bệnh tật, và sự chết.
2- Đức Giêsu là Đấng tha tội, bởi Người chính là Thiên Chúa.
Mời Bạn: Tự vấn về cảm thức tội lỗi nơi mình. Bạn có nhận ra mình có tội, mình là tội nhân không? Bạn cảm nhận mình thống khổ đến mức nào khi vướng vào tình trạng tội lỗi, chẳng hạn, so sánh với những nỗi khổ do nghèo túng, bệnh tật, cô đơn...)? Giữa bao nhiêu vấn đề cần giải quyết hiện nay trong đời sống của bạn, vấn đề khẩn cấp nhất là tội lỗi. Bạn hãy đến với Chúa Giêsu. Chỉ có Người mới có thể giải phóng cho bạn khỏi sự ràng buộc do tình trạng tội nơi mình.
Sống Lời Chúa: Khi nhận ra mình có tội bạn thành tâm sám hối về tội lỗi mình và quyết tâm đổi mới cuộc sống ngay không trì hoãn. Đồng thời bạn sẵn sàng để lãnh bí tích Hòa Giải sớm hết sức có thể.
Cầu nguyện: Đọc Kinh Ăn Năn Tội cách chậm rãi và với tâm tình xứng hợp.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Thánh Hilariô, Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh; 1Sm 8, 4-7.10-22a; Tin Mừng Mc 2, 1-12.
LỜI SUY NIỆM: Trong câu chuyện người bại liệt được bốn người khiêng đến với Chúa Giêsu để được chữa lành. “Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giêsu bảo người bại liệt: “Này con, con đã được tha tội rồi.” (Mc 2,5).
            Trong thời của Chúa Giêsu, người Do-Thái có quan niệm, bệnh tật là hậu quả do phạm tội. Người bại liệt này cũng đang mang trong mình một mặc cảm tội lỗi đó. Chúa Giêsu đã thấu hiểu nổi khổ đau đó, Ngài cũng thấy được đức tin của anh ta và bốn người bạn của anh ta. Nên trong việc chữa lành này. Chúa Giêsu đã đã lấy quyền năng của Ngài tha tội cho anh ta, bằng dấu chỉ là anh ta đứng dậy, và lập tức vác chõng đi ra trước mặt mọi người. Hình ảnh này cho chúng ta thấy, mỗi khi chúng ta phạm tội, trong tâm hồn của chúng ta không có sự bình an, sự tội đó cứ ám ảnh. Muốn thoát ra khỏi tình trạng này, trước tiên chúng ta phải có ước muốn được chữa lành. Tin vào lòng nhân từ hay thương xót của Chúa. Rồi sám hối, nếu cần, chúng ta nên mời thêm và người thân, đang  cảm thông hoàn cảnh hiện tại của chúng ta, giúp lời cầu nguyện. Đê chúng ta sớm được chữa lành
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 13-01
 Thánh HILARIÔ
Giám Mục Tiến Sĩ (khoảng 320-368)
Thánh Hilariô chào đời tại Poa-tu (Poitou) Ngài là con một nhà quí tộc làm nghị viên và được giáo dục đầy đủ. Các môn học mà thánh nhân ưa thích là văn chương, thi ca, nhất là triết lý. Việc học tập của Ngài luôn được đào sâu cho tới cùng là Thiên Chúa, Ngài nhận định rằng: hạnh phúc thật của con người không phải bị những thú vui đời này, dù chúng thanh cao đến mấy đi nữa. Trái lại hạnh phúc là được sống cho chân lý ở một cuộc sống khác với cuộc sống tạm trên trần gian này. Ngài nói: - "Tôi khóc lên vì vui sướng mỗi khi nghĩ đến thân xác này chỉ được tiền định để phải chết đi".
Nhưng làm thế nào mà thánh nhân đã gặp được chân lý, gặp được Thiên Chúa mà các triết gia và các tôn giáo thường nói tới một cách mù mờ ? Chính thánh nhân kể lại cuộc khám phá của mình: - "Từ môi trường ngoại giáo, Chúa đã dẫn đưa tôi tới nguồn sáng chân thực. Giữa bao nhiêu hệ thống triết lý và tư tưởng khác nhau, tôi vẫn ưu tư tìm đến Chúa bằng con đường ngay thật, chắc chắn hữu thể thần linh vĩnh cửu phải là đơn thuần và độc nhất, không có gì là không bắt nguồn tự Ngài, vạn vật đều phải thờ phượng Ngài".
Xác tín rằng phải có Chúa, Ngài còn suy nghĩ về các phẩm tính thần linh của Chúa.
- "Nếu một công rình vượt quá trí khôn chúng ta, thì nhà nghệ sĩ thần linh còn trổi vượt công trình đó thế nào ? Vậy phải nhận biết rằng, Thiên Chúa tuyệt mỹ và chúng ta chỉ cảm nhận mà chúng ta không thể thấu hiểu nổi".
Trong khi còn miên man suy nghĩ như vậy. Thánh nhân bỗng gặp được một cuốn kinh thánh. Ngài đọc được đoạn văn trên Chúa hiện ra với Môsê và tự bày tỏ: "Ta là Đấng hiện hữu".
Ngài sung sướng với khám phá này : - "Tôi vui thỏa với danh hiệu mà Thiên Chúa đã tỏ ra cho Môsê. Thánh danh ấy vừa biểu lộ một quan niệm sâu xa về Thiên Chúa, lại vừa tầm với trí óc con người.
Từ đó thánh nhân say mê nghiên cứu thánh kinh, nhất là các sách tiên tri với những đoạn loan báo về Đấng thiên sai. Trong các sách Tin Mừng, Ngài thích nhất tự ngôn của Tin Mừng theo thánh Gioan. - "Trí tôi học biết và Thiên Chúa vượt quá điều nó dám ước mong... lòng tôi run rẩy bồn chồn vì vui sướng trước giáo thuyết về Thiên Chúa Ba Ngôi và trước lời mời gọi tái sinh nhờ đức tin".
Thế là thánh nhân đã lãnh nhận phép rửa tội và cảm thấy hạnh phúc lạ lùng. Ngài đã lập gia đình và có được một người con gái. Rồi đây Ngài sẽ đưa cả vợ con về với đức tin. Khi Ngài muốn trở thành linh mục, vợ Ngài chỉ còn gặp lại Ngài tại bàn thánh và coi Ngài như một người anh. Nhân đức và trí khôn ngoại hạng còn đưa Ngài tới chức giám mục cai quản địa phận Pcachie (Poutiers) năm 350.
Lúc ấy lạc giáo Ariô nổi lên như vũ bão trong Giáo hội. Vua Constantiô ủng hộ lạc giáo và tiếp tay cho cuộc bách hại. Thánh Athanasiô bị bắt đi lưu đày. Thánh Hilariô đứng lên lãnh đạo công cuộc bảo vệ đức tin chân chính. Ngài triệu tập một công đồng để lên án hai giám mục theo lạc giáo. Cộng đồng còn cử Ngài đi thương thuyết với nhà vua. Nhưng lòng can đảm của Ngài đã bị trừng phạt bằng cuộc lưu đày năm 356, chấp nhận gian khổ, Ngài tuyên bố:
- "Người ta có thể bắt các giám mục lưu đày, nhưng có thể trục xuất chân lý được không ?"
Cuộc hành trình tới Phrygia nằm ở cuối miền Tiểu Á thật dài và đầy gian khổ. Nhưng thánh nhân đã không hề phàn nàn mà vẫn bình thản sống mật thiết kết hợp với Chúa. Đầy dũng cảm, Ngài vẫn tiếp tục làm rung chuyển thế giới bằng công việc viết lách của mình.
Ngài nói : - "Dầu bị lưu đày, chúng tôi vẫn tiếp tục nói bằng sách vở, bởi vì người ta không thể giam hãm lời Chúa".
Ngài đã viết 12 khảo luận bàn về Chúa Ba Ngôi, và đưa giáo thuyết chân chính của công giáo với những tư tưởng kinh tế của Hylạp vào thổ ngữ. Ngài tiếp tục điều khiển giáo phận bằng thư tín. Cũng vào thời này, thánh nhân diụ dàng hướng dẫn Ebra, người con gái của mình tới đời sống thánh thện. Một bức thư Ngài viết trong buổi lưu đày còn sót lại có khuyên nhủ nàng tận hiến cho Chúa như sau:
- "Con thân yêu, con là đứa con duy nhất của cha, cha muốn thấy con đẹp nhất và đẹp nhất trong các phụ nữ. Người ta nói với cha về một thanh niên có một viên ngọc quí và một bộ áo quí giá đến nỗi ai mà có được những thứ đó thì sẽ là người giàu có hơn hết mọi người".
Và thánh nhân kể lại rằng: phải khó khăn lâu ngày, Ngài mới gặp được người thanh niên này để xin Người ban viên ngọc và chiếc áo ấy cho Ebra. Bên chiếc áo này, tuyết hết trắng, không có một vết niơ nào có thể bôi bẩn, không một tai nạn nào có thể xé rách. Còn viên ngọc, không vật nào chịu nổi vể rực rỡ huy hoàng, chẳng bao giờ tàn sắc, ai mang được sẽ hết khổ và không phải chết.
Và Ngài tiếp : - "Đấy là những món trang sức mà cha ước ao, những thứ ban ơn cứu rỗi và hạnh phúc vĩnh cửu".
Ngài còn gửi cho cô những khúc thánh thi để cô ca nguyện sớm chiều. Ebra sớm theo ước nguyện của người cha nhưng cũng sớm lìa trần.
Bốn năm trôi qua, Hoàng đế cho triệu tập công đồng Sêlêucia. May mắn Ngài cũng được mời dự. Tại đây Ngài đã dùng hết tài hùng biện và trí thông minh để chống lạc giáo, bảo vệ đức tin chân chính. Không chịu nổi ảnh hưởng của Ngài. Bọn theo lạc giáo đã can thiệp để Ngài về quê hương cho rảnh rợ. Thế là năm 360, Đức Giám mục Hilariô được trở về Poa-chi-ê.
Cuộc hồi hương của thánh nhân là niềm vui cho toàn dân chứ không riêng gì cho giáo phận Poa-chi-ê. Thánh Hiêrônumô đã nói : "Toàn dân Gôn (Gaules) ôm hôn vị anh hùng tay mang ngành vạn tuế trở về".
Trong đoàn người đông đảo đón mừng người cha già, phải kể đến một người lính trẻ tên là Martinô. Lúc ấy Martinô đang sống ẩn dật ở Ganlinaria và sau này sẽ làm thánh giám mục. Ngày về của vị giám mục già cả còn được ghi dấu bằng một phép lạ nhãn tiền. Một bà mẹ khóc lóc ôm một đứa con mới chết gặp Ngài. Bà tha thiết xin thánh nhân cứu sống con mình, ít ra để nó được rửa tội. Cảm tưởng nỗi niềm đau đớn của người thiếu phụ, Ngài quì gối cầu nguyện và da thịt đứa trẻ dần dần đỏ hồng rồi sống lại.
Tuổi già sức yếu nhưng thánh nhân vẫn nhiệt thành chỉnh đốn lại những tàn phá do bè rối gây nên. Lòng nhiệt thành đã đưa Ngài tới tận Milan khiến bọn lạc giáo kinh hoàng và làm áp lực bắt Ngài phải trở lại Poa-chi-ê. Ngày 13 tháng giêng năm 386 Ngài đã qua đời. Người ta kể lại rằng: lúc thánh nhân tử trần, một luồng chói chang khắp phòng.
Ngày 10 tháng giêng năm 1852, theo lời thỉnh cầu của nhiều vị giám mục. Đức giáo hoàng phong Ngài lên bậc Tiến sĩ Hội Thánh. Ngài là vị thánh tiến sĩ đầu tiên ở Gôn.
(Daminhvn.net)
++++++++++++++++
13 tháng Giêng
Tiếng Chó Sủa

 Những người có chức vụ và quyền hành trong bất cứ xã hội nào cũng thường bị chỉ trích và chống đối.
 Có một nhà lãnh đạo quốc gia kia thường bị những người đối lập tấn công và thóa mạ một cách bất công, nhưng lúc nào ông ta cũng tỏ ra bình thản như không có gì xảy ra. Một hôm, có người bạn hỏi lý do tại sao ông có thể tỏ ra bình tĩnh được trước không biết bao nhiêu khiêu khích của người khác, ông đã giải thích như sau:
 "Tôi đã học được bí quyết giữ bình tĩnh ngay từ lúc nhỏ. Chúng tôi sống bên cạnh một nhà láng giềng có nuôi một con chó khó tính. Cứ mỗi lần trăng tròn, con chó lại sủa một cách giận dữ vô căn cứ, có khi cơn sủa của nó kéo dài đến cả tiếng đồng hồ. Tất cả những người xung quanh đều tỏ ra bực bội đối với con vật khó tính ấy, chỉ trừ có người chủ của nó. Ông không bao giờ tỏ ra bực bội, bởi vì ông ta là một người điếc.
 Tất cả bí quyết của tôi nằm ở đó. Trăng sáng, con chó sủa. Một lúc sau, nó lại mỏi mệt và thôi sủa mặc dù trăng vẫn cứ sáng".
 Kiên nhẫn chịu đựng thường bị xem như một thể hiện của tính thụ động, tiêu cực. Có người còn gọi đó là nhân đức của người nghèo. Thế nhưng, trong cuộc sống, nhất là trong hoàn cảnh hiện tại, có lẽ chúng ta cần đến nhân đức này hơn bao giờ hết.
 Thiên Chúa là đấng kiên nhẫn. Kiên nhẫn vẫn là nét đặc thù trong công trình sáng tạo của Ngài. Chúng ta có biết rằng trái đất của chúng ta có bao nhiêu tuổi chưa? Các nhà địa chất nói với chúng ta rằng trái đất đã được cấu tạo qua từng thời kỳ kéo dài đến cả triệu triệu năm. Ðịa chất học quả thực là môn học của sự kiên nhẫn của Thượng Ðế. Thiên Chúa luôn tỏ ra kiên nhẫn đối với con người. Toàn bộ Cựu Ước là một quyển ký lục về những nhẫn nhục chịu đựng của Thiên Chúa đối với sự yếu đuối, khờ dại cũng như hung bạo của con người. Ngài phải chờ đợi đến cả trăm năm để cho lụt Hồng Thủy trút xuống trên con người. Ngài chờ đợi đến cả mười năm mới trừng phạt vua Saolô.
 Tân Ước lại càng cho chúng ta cảm nhận được bằng xương thịt. Tình yêu thương nhẫn nhục, chịu đựng của Thiên Chúa. Chúng ta hãy chiêm ngắm sự nhẫn nhục của Chúa Giêsu đối với các môn đệ, đối với kẻ thù của Ngài và nhất là đối với đám đông nghèo khổ, lạc lõng. Nhưng nhất là những đau khổ, bách hại mà chính bản thân mình gánh chịu, Chúa Giêsu chỉ biết giữ thinh lặng, thinh lặng không phải của căm hờn, oán trách mà là của yêu mến, tha thứ cho đến cùng.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần I TN2
Bài đọc: I Sam 8:4-7, 10-22a; Mk 2:1-12.

1/ Bài đọc I (năm chẵn):
4 Toàn thể các kỳ mục tập hợp lại và đến với ông Sa-mu-en ở Ra-ma.
5 Họ nói với ông: "Ông coi, ông già rồi, và các con ông lại không đi theo đường lối của ông. Vậy bây giờ, xin ông lập cho chúng tôi một vua để vua xét xử chúng tôi, như trong tất cả các dân tộc."
6 Ông Sa-mu-en bực mình vì lời họ nói: "Xin ông cho chúng tôi một vua để xét xử chúng tôi." Và ông Sa-mu-en đã cầu nguyện với Đức Chúa. 7 Đức Chúa phán với ông Sa-mu-en: "Ngươi cứ nghe theo tiếng của dân trong mọi điều chúng nói với ngươi, vì không phải chúng gạt bỏ ngươi, mà là chúng gạt bỏ Ta, không chịu để Ta làm vua của chúng.'' 10 Ông Sa-mu-en nói lại mọi lời của Đức Chúa cho dân bấy giờ đang xin ông một vua. 11 Ông nói: "Đây là quyền hành của nhà vua sẽ cai trị anh em. Các con trai anh em, ông sẽ bắt mà cắt đặt vào việc trông coi xe và ngựa của ông, và chúng sẽ chạy đàng trước xe của ông. 12 Ông sẽ đặt chúng làm người chỉ huy một ngàn và chỉ huy năm mươi, sẽ bắt chúng cày đất cho ông, gặt lúa cho ông, chế tạo vũ khí cho ông và dụng cụ cho xe của ông. 13 Các con gái anh em, ông sẽ bắt vào làm thợ chế nước hoa, nấu ăn và làm bánh.
14 Đồng ruộng, vườn nho, vườn cây ô-liu tốt nhất của anh em, ông sẽ lấy mà cho bề tôi của ông.
15 Lúa thóc và vườn nho của anh em, ông sẽ đánh thuế thập phân mà cho các thái giám và bề tôi của ông. 16 Các tôi tớ nam nữ, các người trai tráng khá nhất của anh em, các con lừa của anh em, ông sẽ bắt mà dùng vào việc của ông. 17Chiên dê của anh em, ông sẽ đánh thuế thập phân. Còn chính anh em sẽ làm nô lệ cho ông. 18 Ngày ấy, anh em sẽ kêu than vì vua của anh em mà anh em đã chọn cho mình, nhưng ngày ấy Đức Chúa sẽ không đáp lời anh em."
19 Nhưng dân không chịu nghe theo tiếng ông Sa-mu-en. Họ nói: "Không! Phải có một vua cai trị chúng tôi! 20 Cả chúng tôi cũng sẽ giống như mọi dân tộc. Vua chúng tôi sẽ xét xử chúng tôi, sẽ dẫn đầu chúng tôi và sẽ lãnh đạo các cuộc chiến của chúng tôi." 21 Ông Sa-mu-en nghe tất cả những lời của dân và nói lại những lời ấy cho Đức Chúa nghe. 22 Đức Chúa phán với ông Sa-mu-en: "Hãy nghe theo tiếng chúng, và hãy đặt một vua cai trị chúng."

2/ Phúc Âm:
1 Vài ngày sau, Đức Giê-su trở lại thành Ca-phác-na-um. Hay tin Người ở nhà,
2 dân chúng tụ tập lại, đông đến nỗi trong nhà ngoài sân chứa không hết. Người giảng lời cho họ.
3 Bấy giờ người ta đem đến cho Đức Giê-su một kẻ bại liệt, có bốn người khiêng. 4 Nhưng vì dân chúng quá đông, nên họ không sao khiêng đến gần Người được. Họ mới dỡ mái nhà, ngay trên chỗ Người ngồi, làm thành một lỗ hổng, rồi thả người bại liệt nằm trên chõng xuống.
5 Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giê-su bảo người bại liệt: "Này con, con đã được tha tội rồi."
6 Nhưng có mấy kinh sư đang ngồi đó, họ nghĩ thầm trong bụng rằng: 7 "Sao ông này lại dám nói như vậy? Ông ta nói phạm thượng! Ai có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa?"
8 Tâm trí Đức Giê-su thấu biết ngay họ đang thầm nghĩ như thế, Người mới bảo họ: "Sao trong bụng các ông lại nghĩ những điều ấy? 9 Trong hai điều: một là bảo người bại liệt: "Con đã được tha tội rồi", hai là bảo: "Đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi," điều nào dễ hơn?
10 Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội, Đức Giê-su bảo người bại liệt, 11 Ta truyền cho con: Hãy đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi về nhà!"
12 Người bại liệt đứng dậy, và lập tức vác chõng đi ra trước mặt mọi người, khiến ai nấy đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa. Họ bảo nhau: "Chúng ta chưa thấy vậy bao giờ!"

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Phải lắng nghe, hiểu thấu, và thực hành Lời Chúa.

Thiên Chúa luôn dạy dỗ và hướng dẫn con người trong mọi sự, ngày xưa cũng như thời nay; nhưng rất ít người chịu lắng nghe, tìm hiểu, và mang ra thực hành. Vì thế, không lạ gì mà con người vẫn tiếp tục cuộc sống triền miên đau khổ trong tội lỗi của mình.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc con người cần lắng nghe và đáp trả Lời Chúa. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác-giả Thư Do-Thái nhấn mạnh đến việc: nếu con người không chịu tuân giữ Lời Chúa dạy, họ sẽ không được vào chốn yên nghỉ của Người. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, con cái Israel xin ngôn-sứ Samuel chọn cho họ một vị vua như bao quốc gia khác để cai trị họ, vì họ đã mất tin tưởng nơi ông, và không còn muốn nghe lời hướng dẫn của Thiên Chúa qua ông nữa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dùng uy quyền chữa lành để chứng minh Ngài có quyền tha tội; và như một hậu quả, Ngài đến từ Thiên Chúa.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm chẵn): "Hãy nghe theo tiếng chúng, và hãy đặt một vua cai trị chúng."
1.1/ Con người không thấu hiểu điều mình xin: "Đứng núi này trông núi kia" luôn là ảo tưởng của con người. Họ thường không bao giờ bằng lòng với hoàn cảnh hiện tại và cảm nhận được hạnh phúc trong những gì họ đang có; nhưng luôn mong muốn, tìm tòi, và cầu xin cho được những gì họ nghĩ phải có thì mới hạnh phúc. Kết quả là họ chẳng bao giờ có được bình an và hạnh phúc như lòng mong muốn. Trình thuật hôm nay là một ví dụ điển hình.
(1) Dân chúng không muốn nghe lời ông Samuel, ngôn sứ của Thiên Chúa: Toàn thể các kỳ mục tập hợp lại và đến với ông Samuel ở Ramah. Họ nói với ông: "Ông coi, ông già rồi, và các con ông lại không đi theo đường lối của ông. Vậy bây giờ, xin ông lập cho chúng tôi một vua để vua xét xử chúng tôi, như trong tất cả các dân tộc."
(2) Dân chúng không muốn Thiên Chúa làm vua cai trị họ: Ông Samuel rất bực mình với lời yêu cầu và ông cầu nguyện với Đức Chúa cho biết phải giải quyết cách nào. Đức Chúa phán với ông Samuel: "Ngươi cứ nghe theo tiếng của dân trong mọi điều chúng nói với ngươi, vì không phải chúng gạt bỏ ngươi, mà là chúng gạt bỏ Ta, không chịu để Ta làm vua của chúng.''
1.2/ Con người phải lãnh nhận hậu quả của những gì mình mong muốn.
(1) Thiên Chúa báo trước hậu quả: Dân chúng không đủ khôn ngoan để tiên liệu trước những gì sẽ xảy ra do việc có vua cai trị; vì thế, Thiên Chúa phải báo trước những hậu quả do việc có vua: "Đây là quyền hành của nhà vua sẽ cai trị anh em: Các con trai anh em, ông sẽ bắt mà cắt đặt vào việc trông coi xe và ngựa của ông, và chúng sẽ chạy đàng trước xe của ông... Các con gái anh em, ông sẽ bắt vào làm thợ chế nước hoa, nấu ăn và làm bánh. Đồng ruộng, vườn nho, vườn cây ô-liu tốt nhất của anh em, ông sẽ lấy mà cho bề tôi của ông... Các tôi tớ nam nữ, các người trai tráng khá nhất của anh em, các con lừa của anh em, ông sẽ bắt mà dùng vào việc của ông. Chiên dê của anh em, ông sẽ đánh thuế thập phân. Còn chính anh em sẽ làm nô lệ cho ông. Ngày ấy, anh em sẽ kêu than vì vua của anh em mà anh em đã chọn cho mình, nhưng ngày ấy Đức Chúa sẽ không đáp lời anh em."
(2) Dân chúng chấp nhận hậu quả: Nếu những người có khôn ngoan đủ, họ sẽ nhận ra điều các kỳ mục xin là rồ dại, vì những lý do sau: Thứ nhất, làm sao kiếm được một vị vua nào cai trị dân khôn ngoan hơn Thiên Chúa? Thứ hai, họ được tự do khi Thiên Chúa cai trị; nhưng họ và con cháu họ phải làm nô lệ khi có vua. Thứ ba, họ phải đóng đủ mọi thứ thuế để có tiền trang trải cho những nhu cầu của nhà vua. Sau cùng, nếu họ đã lựa chọn có vua, họ sẽ phải lãnh nhận mọi hậu quả; lúc đó, họ có kêu trách, cũng đã quá muộn.
Nhưng dân vẫn cứng đầu, không chịu nghe theo những lời cắt nghĩa của ông Samuel. Họ nói: "Không! Phải có một vua cai trị chúng tôi! Cả chúng tôi cũng sẽ giống như mọi dân tộc. Vua chúng tôi sẽ xét xử chúng tôi, sẽ dẫn đầu chúng tôi và sẽ lãnh đạo các cuộc chiến của chúng tôi." Ông Samuel nghe tất cả những lời của dân và nói lại những lời ấy cho Đức Chúa nghe. Đức Chúa phán với ông Samuel: "Hãy nghe theo tiếng chúng, và hãy đặt một vua cai trị chúng."

2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu là Thiên Chúa vì Ngài làm được những việc Thiên Chúa làm.
2.1/ Chúa Giêsu có uy quyền chữa bệnh: Trình thuật kể: “Đang khi Người giảng dạy cho họ, người ta đem đến cho Đức Giêsu một kẻ bại liệt, có bốn người khiêng. Nhưng vì dân chúng quá đông, nên họ không sao khiêng đến gần Người được. Họ mới dỡ mái nhà, ngay trên chỗ Người ngồi, làm thành một lỗ hổng, rồi thả người bại liệt nằm trên chõng xuống.” Mái nhà của người Do-Thái không xuôi ra hai bên như mái nhà chúng ta, mà phẳng như hình chữ nhật để người ta có thể dùng làm sân thượng để hóng mát. Vì thế, việc dỡ mái nhà xuống cũng đơn giản và ít gây thiệt hại. Khi thấy cách biểu lộ niềm tin của họ, Chúa Giêsu bảo người bại liệt: "Này con, con đã được tha tội rồi." Tội này có thể là tội dỡ mái nhà hay tội của người bại liệt.
2.2/ Chúa Giêsu có quyền tha tội:
(1) Tội lỗi và hình phạt: Theo truyền thống Do-Thái, hình phạt là hậu quả của tội lỗi: có thể của cá nhân hay của cha mẹ (Job 4:7, Jn 9:2). Các Rabbi có câu: “Không người bệnh nào được lành bệnh cho tới khi tất cả tội lỗi của anh được tha thứ.”
(2) Lý luận của Chúa Giêsu: Khi Ta tha hình phạt qua việc chữa lành, là Ta tha tội, nguyên nhân của hình phạt.
(3) Lý luận của các Kinh-sư: Trong đám đông, có nhiều các Kinh-sư đến không phải để nghe Thiên Chúa giảng, nhưng để bới lá tìm sâu để có thể kết án Chúa, và họ nghĩ họ đã tìm ra lý do để kết án Chúa phạm thượng: " Sao ông này lại dám nói như vậy? Ông ta nói phạm thượng! Ai có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa?"
(4) Chúa Giêsu dùng lý luận của các Kinh-sư và việc chữa lành để chứng minh cho họ biết Ngài là Thiên Chúa: “Tâm trí Đức Giêsu thấu biết ngay họ đang thầm nghĩ như thế, Người mới bảo họ: "Sao trong bụng các ông lại nghĩ những điều ấy? Trong hai điều: một là bảo người bại liệt: "Con đã được tha tội rồi," hai là bảo: "Đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi," điều nào dễ hơn?” Dĩ nhiên điều dễ làm hơn là bảo “Con đã được tha tội rồi;” vì không ai có thể kiểm chứng được, còn điều khó làm là bảo "Đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi;" phải là người có uy quyền mới làm được và mọi người đều kiểm chứng.
“Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội, Đức Giêsu bảo người bại liệt, Ta truyền cho con: Hãy đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi về nhà!" Người bại liệt đứng dậy, và lập tức vác chõng đi ra trước mặt mọi người, khiến ai nấy đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa. Họ bảo nhau: "Chúng ta chưa thấy vậy bao giờ!"

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Nghe giảng là để dẫn tới đức tin hay làm cho đức tin tăng trưởng hơn, chứ không phải nghe cho qua lần chiếu lệ. Cả người rao giảng lẫn các tín hữu, chúng ta phải tôn trọng lúc lắng nghe và chia sẻ Lời Chúa.
- Nếu chúng ta khinh thường hay không chịu chuẩn bị, chúng ta đã hoang phí thời giờ của người rao giảng cũng như người nghe; và nhất là không đạt được mục đích của cuộc đời: được sống với Thiên Chúa muôn đời.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
Ngày 13
THÁNH HILARIO
Giám Mục Tiến Sĩ
Người Pháp (315?-368?)
             1. Thân thế: Là con một gia đình ngoại giáo, Hilariô sinh năm 320 tại Poitiers, nước Pháp.  Không ai có thể đoán được, sau này Hilariô bị đi đày và bênh vực đức tin như thế nào. Sau khi học xong, Hilariô kết hôn, vợ chồng có được một con gái tên Afra.
            Mọi người biết Hilariô đều nói ngài tử tế, thân thiện, bác ái. Học hỏi đưa Hilariô tới thích đọc Kinh thánh, nhờ đó người tìm ra chân lý. Người xác tín rằng: Chỉ có một Chúa và Con Chúa đã làm người, chết, sống lại và cứu chuộc loài người. Từ đó người và vợ con xin chịu phép Rửa tội.
            Dân thành Poitiers cảm kích lối sống đạo đức của Hilariô, nên đã chọn làm giám mục năm 250.
            2. Chống bè rối Ariô, dù bị đi đày: Lúc đó, bè rối Ariô rất mạnh. Bè này không nhận Chúa Kitô là Thiên Chúa nên giám mục Hilariô chống cách mãnh liệt. Hoàng Đế Constantinô 2 muốn giám mục  Hilariô ký tên kết án giám mục Athanasiô (người cũng chống bè Ariô), nhưng giám mục Hilariô không ký, nên vua bắt đi đày ở Phrygia.  Trong 3 năm lưu đày, người làm nhiều chuyên hay hơn: rao giảng, viết sách, chịu khổ vì đức tin. Người còn muốn mở cuộc tranh luận với các giám mục theo bè Ariô. Nên các giám mục này xin vua cho giám mục Hilariô được về lại. Đối với các giám mục này, Hilariô tỏ ra đầy tình bác ái, cho họ thấy những sai lầm và đưa họ trở về với giáo hội.
            Người nói :"Tôi không bảo vệ đức tin bằng lời giảng dạy, thì tôi rao truyền Chúa Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật bằng sách vở".
            Những năm cuối đời,  thánh nhân dành thời giờ để cầu nguyện và sám hối.  
            Người k
hông bao giờ bước lên dâng lễ mà không xưng tội trước. Người nói : "Ngày nào không xưng tội được, tôi thấy bất xứng, không đáng dâng lễ. Những ngày đó đối với tôi là những ngày tang chế sầu buồn".
            Thánh nhân qua đời ngày 13 tháng giêng năm 386.  Năm 1852,  Người được phong làm tiến sĩ Giáo Hội.
****************
Cùng ngày 13/1
3 thánh trong một gia đình, người làng Quần cống, Bùi chu:
1- Đaminh Nguyễn Trọng Khảm, quan án
2- Giuse Phạm Trọng Tả, cai tổng
3- Luca Phạm Trọng Thìn, cai tổng

1/ Thánh Đaminh Phạm Trọng Khảm, quan án, dòng ba Ðaminh
 (bị bắt tháng 7-1858, bị thắt cổ 13-1-1859 tại Nam Ðịnh)

            1. Giáo dân tốt lành: Sinh khoảng năm 1780, tại làng Quần Cống, Tỉnh Nam Định.  Lúc còn nhỏ, ngài được cha mẹ chuyên cần dạy dỗ, nên ngài rất đạo đức, hiếu thảo.  Năm lên 18 tuổi, ngài kết hôn với một thiếu nữ đạo đức trong họ đạo. Vợ chồng sống hòa thuận và hy sinh cho nhau, sốt sáng thờ phượng Chúa, nhiệt thành giúp việc trong xứ, và hết lòng yêu thương mọi người, nhất là người nghèo khổ bệnh tật.
            Cụ giầu lòng bác ái, cụ thích "ngồi ăn chung với những người kẻ khó, Cụ không chịu ăn nếu không mời được họ"
            Vào lúc các quan đang bắt đạo cách dữ dằn , ông bà tận tâm che giấu các Giám mục, Linh mục và khích lệ những người đồng đạo can đảm chịu chết vì Chúa.  Mỗi lần binh lính đến bao vây bắt bớ người có đạo, ông bà báo tin cho mọi người và khuyến khích họ sống chết trung thành theo Chúa.  Đối với những người nhút nhát, ông bà dọa cho họ sợ mà can đảm bền chí :"Kẻ nào trong anh chị em đạp lên Thánh Giá, khi quan về, tôi sẽ đuổi ra khỏi làng, sẽ không có chỗ mà chôn xác đâu". Nhờ đó nhiều người nhát đảm vẫn cương quyết chịu chết vì Chúa.
                        2. Kiên gan đến cùng: Binh lính lục soát nhưng không bắt được người nào, nên quan ra lệnh cho bắt cụ Khảm, Cai Tả và Cai Thìn dẫn về Nam Định tống ngục.  Sau nhiều lần dụ dỗ, đe doạ, hành hạ, các ngài vẫn trung thành theo Chúa.
Ngày 13 tháng giêng năm 1859 các ngài bị đưa ra pháp trường Bảy Mẫu (nơi này hiện còn rất nhỏ hẹp, và không có ghi tích gì!).  Đến nơi binh lính xô các ngài xuống đất, trói tay chân vào cột, tròng dây vô cổ kéo thật mạnh cho đến khi các ngài tắt thở. Quân lính lấy lửa đốt mặt, chân và tay ngài. Ngài thọ quãng 80 tuổi.

2/ Thánh Giuse Phạm Trọng Tả, cai tổng
(bắt tháng 7-1858, bị thắt cổ 13-1-1859 tại Nam Ðịnh)
Các nhân chứng không biết gì nhiều về thân thế của Thánh Giuse Tả, chỉ biết rằng ngài làm phó tổng làng Quần Cống. Khi quân của tỉnh Nam Ðịnh về vây làng Quần Cống vì có tin báo thừa sai đang trốn ở đây. Ông Giuse Tả cùng bị bắt một lượt với Thánh Ða Minh Khảm. Ngài đã có vợ nhưng vợ đã chết trước.
Gia phả ghi:" Đầy tớ ông rất đông, chưa Tết ông đã đi thăm viếng từng nhà và cho tiền mừng tuổi rất hậu. Số tiền ấy thường gấp đôi số quà cáp họ biếu ông trong năm. Tiền thóc gia nhân vay mượn ông thường cho một nửa, nếu túng quá thì cho luôn. Công nợ của dân trong làng cũng hay được châm chước như thế. Khi bà Cai lên tiếng cằn nhằn, ông thản nhiên trả lời: Mình quên nợ người, Chúa quên tội mình".
Khi bị bắt ra đình làng điểm danh và ép buộc đạp ảnh, ông Giuse Tả đã can đảm xưng đạo. Về tỉnh Nam Ðịnh, Giuse Tả còn bị đem ra tòa ép buộc chối đạo ba lần, nhưng ngài vẫn một mực chống lại lời dụ dỗ, quyết một lòng chịu chết vì Chúa. Chính tay ngài đã viết một tờ tuyên xưng như sau: "Tôi là Giuse Tả, không bao giờ muốn chối đạo vì đó là điều ghê sợ đối với tôi. Tôi sẵn lòng chịu mọi thứ cực hình hơn là làm việc phản bội Chúa tôi". Ngài bị giam tù bốn tháng rưỡi.
Ngày 13-1-1859, ông Giuse Tả, 60 tuổi, cùng với Án Khảm và Cai Thìn bị đem ra pháp trường Bảy Mẫu ở Nam Ðịnh xiết cổ cho chết.

3/ Thánh Luca Phạm Trọng Thìn, Cai Tổng,
            Người làng Quần Cống, Bùi chu. Tử đạo lúc 40 tuổi.
(gương: ăn năn cải thiện đời sống thật, đền tội bằng thực hành bác ái và cái chết của mình)
- Con trai cụ Án Khảm.
Nhà giầu nên ngài được học hành đến nơi đến chốn, làm chánh tổng mới có 30 tuổi. Khi làm chánh tổng, ông có bê bối thờ ơ sống đạo, có vợ bé, nhưng biết nghe lời khuyên của cha mẹ, của cha giải tội, ông đã thành tâm thống hối cải thiện,
- Trở thành gia trưởng đạo đức, hội viên dòng Ba thánh Đaminh tốt, quan chức tốt.
- Đền tội chân thành: Ba lần ra trước tòa, ông cương quyết không bước qua thập giá. Những người ngoại đạo trong tù khuyên ngài chối đạo để giữ của cải và mạng sống. Ngài nói: "Xin các bạn để tôi yên và đừng nói với tôi điều này nữa, tôi thà mất của cải, chịu mọi cực khổ dữ dằn nhất hơn là đang tâm phạm đến ảnh thánh của Chúa tôi. Tôi tuyên xưng rằng tôi không có gì khác hơn là ước muốn được đổ máu ra vì đạo thánh của tôi".
Khi quan bảo ông viết cảm nghĩ lên giấy, ông viết như sau: "Tôi là một Kitô hữu, tôi sẵn sàng chấp nhận mọi cực hình, kể cả cái chết đớn đau nhất, hơn là phạm một lỗi nhỏ nhất trong đạo tôi thờ. Chính tay tôi viết điều này. Luca Thìn".
- Trên đường ra nơi xử, cùng với cha là quan Khảm, chú là Tổng Tả và 7 giáo dân cùng làng Quần cống, các ngài lớn tiếng  đọc kinh Tin, Cậy, Mến, Kính mừng, ăn năn tội, tên Chúa Giêsu. Các ngài bị hình phạt thắt cổ tới chết.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét