Trang

Thứ Bảy, 28 tháng 1, 2012

CHÚA NHẬT IV MÙA THƯỜNG NIÊN năm B


Chúa Nhật 4 Quanh Năm Năm B


Bài Ðọc I: Ðnl 18, 15-20
"Ta sẽ gầy dựng một tiên tri và Ta sẽ đặt lời Ta vào miệng người".
Trích sách Ðệ Nhị Luật.
Môsê nói với dân chúng rằng: "Chúa là Thiên Chúa các ngươi, sẽ gầy dựng giữa các ngươi và giữa những anh em các ngươi, một tiên tri như ta: các ngươi sẽ nghe lời người, như các nguơi đã xin cùng Chúa là Thiên Chúa các ngươi ở Horeb khi có cuộc đại hội, và các ngươi nói rằng: Tôi không muốn nghe tiếng Chúa là Thiên Chúa tôi nữa, tôi không muốn thấy ngọn lửa vĩ đại này nữa, kẻo tôi phải chết. Và Chúa phán cùng tôi: sự họ đã nói, là tốt. Ta sẽ gầy dựng giữa anh em của họ một tiên tri như ngươi; Ta sẽ đặt vào miệng người những lời của Ta, người sẽ nói cho họ biết tất cả những điều Ta sẽ truyền cho người. Và nếu kẻ nào không nghe lời của Ta mà người sẽ nói nhân danh Ta, chính Ta sẽ xét xử nó. Nhưng tiên tri nào tự phụ, nhân danh Ta mà nói lời Ta không truyền phải nói, hoặc nhân danh các thần khác mà nói, thì sẽ chết".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 94, 1-2. 6-7. 8-9.
Ðáp: Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: các bạn đừng cứng lòng (c. 8).
Xướng: 1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người. - Ðáp.
2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người. - Ðáp.
3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta". - Ðáp.

Bài Ðọc II: 1 Cr 7, 32-35
"Người nữ đồng trinh lo lắng việc Chúa, để nên thánh".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, tôi ước mong anh em khỏi phải lo lắng. Người không có vợ thì lo lắng việc Chúa, và tìm cách làm đẹp lòng Chúa. Nhưng người đã có vợ thì lo lắng việc đời này, và tìm cách làm đẹp lòng vợ mình, và họ bị chia xẻ. Cũng thế, người phụ nữ không có chồng và đồng trinh thì lo lắng việc Chúa, để nên thánh phần xác và phần hồn. Còn người phụ nữ đã có chồng thì lo lắng việc đời này, và tìm cách làm đẹp lòng chồng mình. Tôi nói thế vì ích lợi cho anh em, chứ không phải để gài bẫy anh em đâu, nhưng là để hướng dẫn anh em đến đời sống đoan chính và hoàn toàn khắng khít với Chúa.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Ga 1, 14 và 12
Alleluia, alleluia! - Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta; những ai đón nhận Người, Người sẽ ban cho quyền làm con cái Thiên Chúa. - Alleluia.


Phúc Âm: Mc 1, 21-28
"Ngài giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
(Ðến thành Capharnaum) ngày nghỉ lễ, Chúa Giêsu vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ.
Ðang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: "Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Ðấng Thánh của Thiên Chúa". Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: "Hãy im đi và ra khỏi người này!" Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy. Mọi người kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Cái gì vậy? Ðấy là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người". Danh tiếng Người liền đồn ra khắp mọi nơi, và lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa.
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Ðức Giêsu vào hội đường giảng dạy, người ta kinh ngạc về giáo huấn của Ngài. Giáo huấn của Ðức Giêsu mới mẻ vì biểu lộ tình yêu thương vô vị lợi. Ngài dạy dỗ như Ðấng có uy quyền: Vì lời Ngài có sức biến đổi, có sức tiêu diệt thần ô uế. Sự hiện diện của Ðức Giêsu làm thần ô uế phải tru trếu lên. Mặc dù đối kháng với Thiên Chúa, nhưng ma quỷ cũng phải tuyên xưng. Ngài là Ðấng Thánh của Thiên Chúa và Ngài đã chiến thắng nó.

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, mà quỷ cũng phải tuyên xưng danh Ngài. Xin cho chúng con cũng biết quyên xưng danh Chúa bằng chính cuộc sống của chúng con. Xin quyền năng Lời Chúa giải thoát chúng con khỏi cám dỗ của ác thần, để chúng con sống và chỉ sống cho Chúa mà thôi. Amen.

 Suy Niệm:
Chúa Nhật IV Thường Niên Năm B
Chúng ta đọc: Thứ luật 18,15-20; Thư 1 Corintô 7,32-35; Tin Mừng Marcô 1,21-28
Tiếp nối tư tưởng của 2 Chúa nhật trước, hôm nay Phụng vụ còn muốn cho chúng ta được nhìn thấy Ðức Yêsu hoạt động ở Galilêa, để không những chúng ta hiểu rõ vai trò cứu thế của Người hơn, nhưng cũng để chúng ta nhìn vào Người mà nhận ra ơn gọi của mình.
Chúng ta sẽ thấy Người vượt xa hình ảnh vị tiên tri mà sách Thứ luật đã nói tới. Việc Người trừ quỷ có một ý nghĩa rất sâu xa. Và vì thế chúng ta được kêu gọi đi vào nếp sống đặc biệt mà Người đã mở ra.

1. Vị Tiên Tri Của Sách Thứ Luật
Chúng ta biết Thứ luật là cuốn sách cuối cùng trong bộ Ngũ thư tức là 5 quyển sách đầu của bộ Cựu Ước. Nó được trình bày như là những lời di chúc của Môsê. Ông sắp lìa trần nên cố gắng nhắn nhủ dân những lời cuối cùng để họ thi hành khi vào đất hứa. Ông lấy lại luật pháp của Giao ước Sinai, quảng diễn ra cho phù hợp với hoàn cảnh của dân sắp đặt chân vào đất Canaan. Chính vì vậy mà các dịch giả bản 70 gọi quyển sách này là Thứ luật, tức là quyển luật pháp thứ 2, quảng diễn luật pháp 10 giới răn đã được ban hành ở núi Sinai, là luật pháp thứ nhất.
Nhưng sự thật không đơn sơ như vậy.
Rất nhiều sách trong bộ Cựu Ước không phải là tác phẩm của một người, viết trong một giai đoạn nào nhất định. Nhiều quyển là kết quả sưu tầm góp nhặt nhiều bản văn ở nhiều thời đại khác nhau về cùng một vấn đề. Sách Thứ luật đây là một thí dụ. Có lẽ nói đã thành hình vào khoảng giữa thế kỷ 7 trước Công nguyên, nghĩa là 5, 6 trăm năm sau khi Môsê từ trần. Nhưng nó có rất nhiều đoạn đã manh nha từ thời Môsê. Và nhất là hết mọi đoạn trong sách này đều căn cứ vào luật pháp Môsê mà nó có ý dẫn giải và áp dụng. Gọi nó là Thứ luật chỉ đúng theo nghĩa đó; chứ không phải hết mọi trang trong sách này đều chú giải luật pháp đâu.
Bài đọc I hôm nay chẳng hạn. Rút từ sách Thứ luật nhưng lại bàn về vấn đề tiên tri, và nói về vị tiên tri mà Thiên Chúa hứa ban cho dân sau khi Môsê lìa trần. Chúng ta có thể hình dung bối cảnh của bài Kinh Thánh này như sau.
Bấy giờ dân Dothái sắp vào hứa địa hay mới vào được ít lâu. Chỗ nào họ cũng gặp tà giáo. Và nơi các dân tộc chung quanh cũng vậy. Những thứ tôn giáo sơ khai này lại có nhiều điều hấp dẫn. Ðặc biệt vai trò của các thầy bói, bà đồng và của các nhà tiên tri thật là quan trọng. Dân chúng mê tín luôn luôn tìm đến những con người tự tôn là giao cảm được với thần minh để biết ý trời và hậu vận. Người có óc khoa học ngày nay coi đó là bịp bợm; và người có đức tin chân chính nghĩ đó là "những việc do ma quỷ bày đặt".
Tác giả sách Thứ luật còn đi xa hơn. Ông thấy có nghĩa vụ phải cảnh giác dân Chúa. Ông để cho Môsê nói với dân rằng: khi ngươi vào Ðất hứa sẽ không được gặp thấy nơi người nào người bói quẻ hay phù chú, người lên đồng lên bóng hay chiêm tinh hoặc chiêu hồn. Ngươi phải hoàn hảo đối với Thiên Chúa. Bù lại, Người sẽ cho xuất hiện từ giữa các anh em ngươi một tiên tri như ta, tức là như Môsê đây. Và sở dĩ Người cho như vậy là vì chính ngươi đã xin khi ở dưới chân núi Sinai. Ngày ấy nghe tiếng Chúa, ngươi đã rụng rời và ngươi nài xin Người đừng nói thẳng với ngươi nữa, một xin Người dùng trung gian một người từ giữa các anh em người để đến nói với ngươi nhân danh Người. Kẻ ấy mới thật là tiên tri, vì người chỉ đến nói nhân danh Chúa. Ngươi phải nghe lời người vì đó là Lời Chúa Còn ngươi sẽ không được nói tự ý mình hoặc nhân danh thần nào khác.
Nội dung bài sách Thứ luật hôm nay là như vậy. Vừa cảnh giác dân vừa hứa hẹn với dân những điều tốt đẹp. Dân đừng bắt chước kẻ ngoại tin vào phù thủy và bói quẻ. Thiên Chúa sẽ ban cho dân những vị tiên tri đích thực: luôn luôn chỉ nói nhân danh Chúa. Và điều này đã xảy ra trong lịch sử dân Chúa. Israel vẫn có các vị tiên tri của Chúa ở giữa mình.
Tuy nhiên Israel vẫn trông chờ một vị tiên tri như Môsê. Và vì thế bài sách Thứ luật hôm nay còn nói về Ðấng Thiên Sai cứu thế sẽ đến. Người sẽ là vị tiên tri trổi vượt trên hết mọi tiên tri. Người chính là Ðức Yêsu Kitô đã khiến người ta phải kinh ngạc như chúng ta vừa nghe đọc trong bài Tin Mừng.

2. Nhà Tiên Tri Ðầy Uy Quyền
Thánh Marcô, tác giả bài Tin Mừng có vẻ lúng túng trước những điều nghe thấy trong hội đường Capharnaum. Ðức Yêsu vừa vào đó với các môn đệ. Chắc là theo như thông lệ chủ hội đường đã mời Người đọc và giải thích Kinh Thánh. Lập tức người ta đã thấy ngay đây là một giáo lý khác thường. Người nói có uy quyền lạ lùng, khác hẳn các luật sĩ xưa nay. Hay Người là vị tiên tri đặc biệt mà sách Thứ luật đã nói? Người ta chưa hết ngạc nhiên thì này có tiếng hét lên. Tiếng quỷ nhập ở trong một người đã công khai thú nhận: "Ngài đến tiêu diệt chúng tôi ư? Tôi biết Ngài là Ðấng Thánh của Thiên Chúa mà!". Ðức Yêsu liền bảo nó câm miệng lại và ra khỏi người đó. Lập tức nói vâng lời. Mọi người lại kinh ngạc. Lời của Người sao mà uy quyền đến thế? Thần ô uế cũng phải vâng theo.
Khi thuật truyện như vậy rõ ràng thánh Marcô chú ý đến cách Ðức Yêsu giảng dạy. Người dùng câu truyện trừ quỷ để minh chứng uy quyền giảng dạy của Ðức Kitô. Người lồng câu truyện đó vào giữa một bài tường thuật mà đoạn đầu và đoạn cuối đều nói về việc người ta kinh ngạc trước lời giảng dạy của nhà tiên tri mới. Chỉ có như vậy mới hiểu được vì sao ma quỷ đã không tru trếu lên ngay khi Ðức Yêsu vừa mới bước chân vào hội đường. Marcô để cho Người lên tiếng dạy dỗ đã, rồi ma quỷ mới được kêu lên, hầu làm chứng Lời của Người có giá trị trừ quỷ. Và như thế Người không phải là vị tiên tri đặc biệt sao?
Ðàng khác, khi mô tả việc trừ quỷ, Marcô đã khéo gói ghém nhiều yếu tố quan trọng... Thường thường vị trừ quỷ phải lên tiếng trước ra lệnh trục xuất thần ô uế ra khỏi người ta. Nhất là nếu có thể, Người phải gọi đích danh quỷ ra, vì biết được tên ai là khống chế được người đó. Nhưng ở đây, chính quỷ lại bị bó buộc tru trếu trước. Nó xưng tên Ðức Yêsu Nadarét và chân tướng của Người ra. Có lẽ nó hy vọng áp đảo được Người. Nhưng Người đã ra lệnh bắt nó phải câm và phải ra khỏi người ta. Người thật là vị trừ quỷ siêu việt. Hơn nữa, có thể nói, Người không cần trừ quỷ. Lời giảng của Người có giá trị xua đuổi nó rồi.
Thành ra chúng ta có thể nhận xét thêm: khi mô tả việc trừ quỷ như trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô dường như một đàng muốn chú trọng đến uy quyền của Ðức Yêsu khi giảng dạy và đàng khác cũng muốn lưu ý chúng ta về uy quyền của Lời Chúa hiện nay đang được rao giảng ở trong Giáo Hội. Nói cách khác, trong bài Tin Mừng này, thánh Marcô vừa muốn giới thiệu Ðức Kitô là nhà tiên tri xuất sắc, vừa muốn nói đến uy quyền của Lời rao giảng Phúc Âm hiện nay. Hình như người muốn khẳng định rằng: cũng như Lời Ðức Yêsu rao giảng ngày trước đã có uy quyền xua đuổi tà thần thế nào, thì hiện nay cũng vậy, Lời rao giảng về Người ở trong Hội Thánh cũng sẽ giải thoát người ta khỏi vòng nô lệ tà thần.
Tuy nhiên thánh Marcô cũng muốn đề phòng mọi lạm dụng. Người không muốn cho người ta kêu tên Chúa Yêsu một cách vô cớ, tức là một cách không xứng đáng. Vì thế sách Tin Mừng của người luôn luôn cấm người ta nói đến danh tánh Ðức Yêsu. Phải đợi đến khi Thánh giá được dựng lên, người ta mới được quyền tuyên xưng Ðức Yêsu là Con Thiên Chúa (15,39). Nghĩa là theo thánh Marcô, chỉ những ai chấp nhận đi qua mầu nhiệm thập giá mới hiểu được Chúa và mới được quyền đọc tên Chúa, mới có Thánh Thần giúp đỡ để kêu tên Yêsu khiến ma quỷ, tội lỗi rời xa.
Do đó ngoài việc giới thiệu Ðức Yêsu là vị tiên tri đặc biệt như bài sách Thứ luật đã gợi lên, và ngoài việc khẳng định Lời Chúa hiện nay vẫn đầy uy quyền ở trong Hội Thánh, bài Tin Mừng hôm nay còn muốn cảnh giác chúng ta, đừng tưởng được nghe Lời Chúa và kêu tên Người là đủ để xua đuổi được tà thần ra khỏi tâm hồn và đời sống của mình; nhưng còn phải cùng Ðức Yêsu đi qua mầu nhiệm thánh giá nữa. Có kết hợp với mầu nhiệm Tử nạn của Người, chúng ta mới có sự sống mới Người đem xuống trần gian. Bấy giờ chúng ta mới dễ chấp nhận lời khuyên của bài thư Phaolô hôm nay.

3. Sống Theo Thần Khí
Bài thư này tiếp nối thư Chúa nhật trước. Thánh tông đồ đang khuyên nhủ giáo dân Côrintô. Người nói thời buổi đã đến lúc sung mãn. Ðức Yêsu Kitô đã giáng thế, tử nạn và phục sinh, tức là đã khai trương một nếp sống mới. Người không đưa môn đệ ra khỏi thế gian nhưng họ không còn thuộc về thế gian nữa, tức là không ở trong luật lệ của tà thần và tội lỗi nữa. Họ có thể vẫn cưới xin và sống bậc gia đình, nhưng đừng để xác thịt làm khổ mình. Hơn nữa ơn của mầu nhiệm phục sinh còn có thể giúp họ sống vượt khỏi các đòi hỏi của xác thịt. Người ta có thể sống bậc đồng trinh và độc thân, và sống như vậy sẽ đỡ nhiều lo âu hơn khi sống có gia đình.
Những lo âu nào? Có phải những lo âu về đời sống vật chất cho gia đình không? Hay là những lo âu về đời sống xã hội? Ở đây, thánh Phaolô không có ý nói đến những lo âu như thế. Ðàng khác ai mến Chúa yêu người mà không phải để tâm săn sóc đến đời sống vật chất và xã hội của người khác? Chính việc săn sóc này, cũng là nghĩa vụ phải chu toàn để đưa Nước Chúa đến chỗ Trời mới và Ðất mới. Ở đây thánh Phaolô nói đến những lo âu về tình yêu, tức là những ràng buộc của lòng mến. Người đồng trinh vì mến Chúa thì chỉ lo đẹp lòng Chúa. Còn người lập gia đình còn phải lo đẹp lòng bạn mình. Một đàng có trái tim toàn khối; còn đàng kia có trái tim chia sẻ. Và chắc chắn như vậy.
Nhưng không phải ai ai cũng được ơn gọi sống độc thân vì Nước Trời. Tuy nhiên ở bậc nào mọi người cũng phải sống đoan chính, và khắng khít với Chúa không hề lơi, bởi vì Chúa phục sinh đang ở giữa chúng ta và chúng ta đang ở trong thời buổi sung mãn.
Như vậy bài thư Phaolô cũng như bài Tin Mừng Marcô. Cả hai đều khẳng định Ðức Kitô đã đến và đem vào thế gian, không những một giáo lý mới, mà còn một uy lực mới, để chúng ta sống xa được sức mạnh của tà thần. Như vậy, Người là vị tiên tri mà sách Thứ luật đã loan báo. Thế nên chúng ta không được tin vào những tiên tri của thế gian. Họ không nói tư tưởng của Chúa mà chỉ đưa ra những ý nghĩ của lòng họ hoặc của các ngẫu tượng họ thờ. Nghe theo lời họ sẽ bị rơi vào vòng kìm hãm của tà thần mà đời sống nặng nề xác thịt là một dấu hiệu. Ðem những lời đó đến so với Lời Chúa giảng dạy trong Hội Thánh, chúng ta sẽ thấy chúng la lên và dằn vặt chúng ta: lúc ấy niềm tin vào Lời Chúa và quyết tâm thi hành thánh ý Người sẽ giải cứu và ban bình an cho chúng ta. Hôm nay, chúng ta thử đưa những lời Thánh Kinh vừa nghe đọc vào lòng xem. Có thể chúng ta sẽ thấy mau mau đến với Chúa trong Thánh Thể để được bình an. Giả có như vậy thì quả thật chúng ta cũng còn có phước và đã được phúc do Thánh lễ này.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

Giữa lo sợ và kinh ngạc

Vượt qua hành động chữa lành, dấu cứu độ, chúng ta nghiêng mình trên những phản ứng của những người cảm nghiệm sự hiện diện của Đức Giêsu. Có hai tiếng vang lên. Tiếng đầu tiên của người bị quỉ ám: "Đức Giêsu Nazarét! Ngài muốn gì ở chúng tôi? Ngài đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết rõ "Ngài là ai." Tiếng thứ hai của người chứng: "Điều này muốn nói lên gì đây? Đây là cách giảng dạy mới lạ, công bố với uy quyền!" Câu đầu là một tuyên xưng đức tín, nói lên căn tính của Đức Giêsu. Câu thứ hai biểu lộ một sự kinh ngạc trước điều không thể giải thích được. Câu đầu diễn tả sự sợ hãi. Câu thứ hai kéo theo một sự phổ biến tiếng tăm Đức Giêsu. Cả hai tiếng nói diễn tả sự phức tạp của con tim chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Ma quỉ sợ "bị tiêu diệt". Đó là hình ảnh sự từ chối của chúng ta. Dưới ánh sáng của Thiên Chúa, người ta thấy sự từ chối cần thiết cho một số gắn kết trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta chống cự! Như người bị trói buộc bằng những xiềng xích ngăn cản chúng ta phục vụ Thiên Chúa. Nhưng con người được giải thoát. Ma quỉ, khi nói lên, tự tỏ lộ chính mình.

Mạo hiểm diễn tả sự sợ hãi và sự phẫn nộ của chúng ta, biểu lộ bạo lực, là một cách thế tỏ ra chính mình. Như vậy, chúng ta cũng liều mình đi vào các hoạt động của Thiên Chúa... Tin Mừng đi vào con đường của con người.

Suy Niệm
Một ông thợ ở Nadarét được mời giảng trong hội đường.
Mác-cô không cho ta biết Ðức Giêsu đã giảng gì.
Chỉ biết nội dung của lời giảng thì mới mẻ,
và cách giảng thì khác hẳn với các kinh sư.
Kinh sư thì giải thích Kinh Thánh với thẩm quyền.
Còn Ðức Giêsu giải thích Kinh Thánh với uy quyền.
Ngài chẳng phải dựa vào sách vở, vào truyền thống có sẵn.
Một cách mới mẻ và đầy uy quyền,
Ðức Giêsu loan báo Triều đại Thiên Chúa đã đến,
triều đại của Xa-tan phải bị đẩy lui.
Quả vậy, sự hiện diện của Ngài trong hội đường ngày hôm ấy
đã khiến cho thần ô uế phải chường mặt ra và khiếp sợ.
Ðức Giêsu ra lệnh: “Hãy câm đi và xuất khỏi người này.”
Thần ô uế chẳng muốn từ bỏ căn nhà nó đã ở.
Nó chỉ ra sau khi đã vật vã người ấy và thét lên.
Ðức Giêsu đã chiến thắng và giải phóng ta khỏi nô lệ.
Ngài khai mở Nước Thiên Chúa trên mặt đất.
Nhưng cuộc chiến với Xa-tan còn kéo dài đến tận thế.
Chúng ta phải cộng tác để Nước Chúa mau thành tựu.
Quỷ thường được vẽ như một con vật xấu xí đáng sợ.
Nếu thế thì ta rất dễ nhận ra nó,
và nó cũng khó lòng cám dỗ được ta.
Trong thực tế, quỷ mang dáng dấp xinh đẹp và hấp dẫn.
Nó tấn công ta bằng những thủ đoạn tinh tế, ngọt ngào.
Nó nắm rõ điểm yếu nhất của từng cá nhân, tập thể.
Xưa nay, người bị quỷ nhập thực sự chắc không nhiều.
Nhưng hẳn nhiều người bị quỷ lèo lái mà không biết.
Kitô giáo không bịa ra quỷ để hù dọa tín đồ.
Quỷ là những mãnh lực xấu xa, cố kéo ta xa Chúa.
Chúng chống lại Thiên Chúa và hạnh phúc đích thực của con người.
Quỷ phỉnh phờ con người bằng thứ hạnh phúc giả tạo.
“Nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, tôi sẽ cho tất cả”.
Làm gì có hạnh phúc vững bền khi ta quay lưng với Thiên Chúa!
Chúng ta tự hào mình không bị quỷ ám.
Nhưng thế giới hôm nay vẫn bị ám ảnh bởi nhiều thứ khác:
tham vọng và dục vọng, sợ hãi và oán thù, ích kỷ và hưởng thụ…
Có những điều vốn không xấu cũng trở thành ngẫu tượng:
tiền bạc, tiện nghi, thời trang, công việc làm ăn, phim ảnh…
Cái ám nào cũng làm ta bớt tự do, bớt là mình.
Cái ám từ ngoài vào, ở lại trong ta và không chịu ra.
Cái ám khi trở thành tuyệt đối thì làm ta trở nên ô uế.
Nó bắt ta phải nghĩ, phải sống như theo một lập trình.
Ta không thể làm khác, không thắng được bản năng và thói quen.
Ta thấy mình bất lực, nên cần Ðấng Thánh của Thiên Chúa.
“Hãy xuất ra khỏi người này”:
Hôm nay Chúa muốn nói với tà thần ở trong tôi như vậy.
Tôi cầu xin Ngài trục xuất khỏi tôi điều gì?
“Hãy xuất ra khỏi thế giới này”:
Nhờ ơn Chúa, tôi cũng phải ra lệnh cho ma quỷ như vậy.
Cầu Nguyện
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
   vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
   mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
    ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
    bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
    dù không phải là người phong…
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
    và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con nhìn thấy chính bản thân chúng con
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Nữ tu Véronique Thiébaut

29/01/2012 CHÚA NHẬT TUẦN 4 TN – B
Mc 1,21-28
*****
UY QUYỀN CỦA CHÚA
“Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi?” (Mc 1,24)
Suy niệm: Thần ô uế không còn tự tung tự tác được nữa, quyền lực của chúng bị đe dọa khi đối diện với Chúa Giêsu. Chúng kịp biết rằng “có chuyện chẳng lành” khi đứng trước uy quyền của Ngài: “Hỡi ông Giêsu, chuyện chúng tôi can gì đến ông?” Lời Chúa đầy uy quyền đã khiến dân chúng kinh ngạc, vì Chúa giảng dạy “không như các luật sĩ,” và uy quyền đó càng biểu lộ rõ hơn khi Chúa dùng Lời truyền cho quỷ xuất khỏi người bệnh. Ngay trong sách Sáng Thế, Ngài được mệnh danh là Lời tạo tác muôn loài. Hằng ngày Lời đang hiện diện, tuy rất âm thầm kín đáo nhưng vô cùng hiệu lực, để dẫn đưa chúng ta về cuộc sống viên mãn.
Mời Bạn: Ngược lại với thần ô uế, chúng ta với Chúa: Lạy Chúa, đúng là có chuyện liên quan giữa chúng con với Chúa: Chúa đến thế gian này không phải để lên án mà để sống với chúng con, đồng hành để cứu chúng con. Uy quyền của Chúa không những không xâm phạm tự do của chúng con, mà còn hơn vậy nữa: khi nhận quyền của Chúa, chúng con phục hồi được tự do đã mất.
Chia sẻ: Có bao giờ bạn thấy hai sức mạnh giao tranh nhau nơi bạn không? Bạn làm gì để Lời Chúa chiến thắng tà thần trên cuộc đời của bạn.
Sống Lời Chúa: Có chuyện gì giữa bạn và người khác không? Chuyện tốt đẹp hay “lấn cấn”? Tìm một người mà bạn đang “có chuyện lấn cấn” để giải hòa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, đời chúng con được thay đổi nhiều khi biết Chúa, xin tiếp tục cho chúng con biết vâng theo Uy Quyền cứu rỗi của Chúa để Chúa hành động trên đời mình và luôn biết thi hành Lời Chúa dạy.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Chúa Nhật IV Thường niên; Đnl 18, 15-20; 1Cr 7, 32-35; Tin Mừng Mc 1, 21-28.
LỜI SUY NIỆM: “Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Caphácnaum. Ngày Sabát, Người vào hội đường giảng dạy.’ (Mc 1, 21).
            Chúa Giêsu đến đâu, thì đám đông dân chúng kéo đến đó, vì những lời Ngài giảng dạy đều có một uy lực và quyền năng, như thể trên Ngài không có ai khác. Đám đông dân chúng khi nghe lời giảng dạy của Ngài đều khâm phục bởi những sự khôn ngoan và đầy thuyết phục của Ngài. Để đón nhận lời của Chúa. Trong đời sống của mỗi tín hữu không chỉ sống một cách bình bình, nhưng phải có những cao điểm để vươn mình lên. Trong một ngày sống cao điểm là Thánh lễ Misa, trong một tuần sống cao điểm của chúng ta là ngày Chúa Nhật và trong một năm sống là Tam Nhật Vượt Qua, chúng ta phải vượt qua mọi trở ngại, mọi sự cản trở để thực hiện cho được những cao điểm đó. Chính những cao điểm này, giúp chúng ta nghe được Lời Chúa. Lời Chúa là sức mạnh là sức sống của thân xác và tinh thần của chúng ta. Nếu chúng ta không biết đón nhận, thì ơn của Chúa, sự sáng soi của Chúa sẽ không đến được với chúng ta. Chúng ta sẽ không có hạnh phúc.
Mạnh Phương
++++++++++++++++
29 Tháng Giêng
Ðứng Núi Này Trông Núi Nọ

Một tác giả nọ đã kể lại một câu chuyện ngụ ngôn về con lừa, con rùa và một con ruồi mà tuổi thọ chỉ vỏn vẹn một ngày như sau: Nhận thấy kiếp sống của mình quá vắn või, con ruồi đã than thân trách phận như sau: "Nếu tôi có được nhiều thì giờ hơn, thì có lẽ mọi sự sẽ dễ dàng hơn. Các bạn cứ nghĩ xem: chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ, tôi phải sinh ra, phải lớn lên, phải học hỏi kinh nghiệm, phải vui hưởng cuộc sống, phải đau khổ, phải già rồi cuối cùng phải chết? Tất cả chỉ diễn ra trong vòng 24 tiếng đồng hồ". 
Con lừa quanh năm ngày tháng chỉ bị đày đọa trong những việc nặng nhọc thì lại than vãn: "Giả như tôi chỉ có 24 tiếng đồng hồ để sinh ra, để sống thì có lẽ tôi sẽ hạnh phúc hơn, bởi vì cái gì tôi cũng nếm thử được một chút và cái gì tôi cũng chỉ phải chịu đựng trong một khoảnh khắc". 
Ðến lượt con rùa, nó phát biểu như sau: "Tôi không hiểu được các bạn. Tôi đã sống được 300 năm nhưng tôi vẫn không thấy đủ giờ để kể hết những kinh nghiệm tôi đã trải qua. Khi được 200 tuổi, tôi chỉ ước mơ được chết cho xong. Tôi thương hại chú ruồi, nhưng tôi lại ghen với ông bạn lừa". 
Sau khi đã kể cho nhau nghe kinh nghiệm sống của mình, xem chừng như không thấy ai thỏa mãn kiếp sống của mình. Người thì than phiền sống quá ngắn, người thì ngán ngẩm vì sống quá lâu. Cuối cùng, ba chú mới rủ nhau đến vấn kế con nhện, vì con nhện vốn được xem là một con vật khôn ngoan. Sau khi nghe mọi lời kể lể, con nhện mới dõng dạc ban cho mỗi con một lời khuyên. Với con rùa, nó nói như sau: "Hỡi lão rùa già, đừng than phiền nữa. Hỏi thử có ai được giàu kinh nghiệm cho bằng lão chưa?". 
Quay sang con ruồi, con nhện ra lệnh: "Hỡi chú ruồi, chú cũng đừng than thân trách phận nữa. Hỏi thử có ai có nhiều trò vui cho bằng chú không?". 
Với chú lừa, thì xem ra lời cảnh cáo của con nhện có vẻ nặng nề hơn cả: "Còn đối với ông bạn lừa, tôi không có lời khuyên nào cho ông bạn cả. Oâng bạn là người bất mãn suốt đời. Oâng bạn vừa muốn được sống lâu như lão rùa lại vừa muốn sống ngắn ngủi như chú ruồi. Trời nào có thể làm vừa lòng chú". 
Câu chuyện ngụ ngôn trên đây có thể nói lên sự bất mãn thường xuyên trong tâm hồn của con người. Thất bại hay thành công, nghèo hèn hay sang trọng, dốt nát hay thông minh, bệnh tật hay khỏe khoắn. Xem chừng như không bao giờ con người cảm thấy hoàn toàn hài lòng với chính mình, với người khác và với cuộc sống. con người dễ dàng đứng ở núi này nhìn sang núi nọ. Tựu trung, có lẽ sự bất mãn là biểu hiện của một thiếu sót lớn lao trong tâm hồn con người: đó là thiếu sót Tình Yêu. Có tình yêu, người ta sẽ không còn bất mãn. Có tình yêu, xem chừng người ta cũng không màng đến thời gian. Một tác giả nào đó đã nói: "Thời gian qúa chậm đối với những kẻ chờ đợi và sợ hãi. Thời gian lại quá dài đối với những kẻ than phiền. Nhưng với những người đang yêu, thì thời gian không còn nữa". 
Phải chăng tình yêu không là liều thuốc để chữa trị căn bệnh bất mãn trong lòng người? Có chấp nhận chính mình, có yêu thương chính mình, chúng ta sẽ không còn phải than thân trách phận nữa. Có yêu thương tha nhân, chúng ta sẽ thấy được tha nhân là nguồn hạnh phúc của mình. Có yêu đời, chúng ta mới đời dễ thương.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật IV Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Deut 18:15-20; I Cor 7:32-35; Mk 1:21-28.
1/ Bài đọc I:
15 Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh em, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em; anh em hãy nghe vị ấy.16 Đó chính là điều mà anh em đã xin với Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, tại núi Khô-rếp, trong ngày đại hội; anh em đã nói: "Chúng tôi không dám nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi nữa, chúng tôi không dám nhìn ngọn lửa lớn này nữa, kẻo phải chết."17 Bấy giờ Đức Chúa phán với tôi: "Chúng nói phải.18 Từ giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng, Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy. 19 Kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta, thì chính Ta sẽ hạch tội nó. 20 Nhưng ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết." 

2/ Bài đọc II:
32 Tôi muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì. Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người.33 Còn người có vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ,34 thế là họ bị chia đôi. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng chồng. 35 Tôi nói thế là để mong tìm ích lợi cho anh chị em, tôi không có ý gài bẫy anh chị em đâu, nhưng chỉ muốn đề nghị với anh chị em một điều tốt, để anh chị em được gắn bó cùng Chúa mà không bị giằng co. 

3/ Phúc Âm:
21 Đức Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy.22 Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.23 Lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên24 rằng: "Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa! "25 Nhưng Đức Giê-su quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này! "26 Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta.27 Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: "Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh! "28 Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Ga-li-lê. 

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Vai trò của ngôn sứ
            Ngôn sứ hay tiên tri là người nói thay cho Thiên Chúa, chứ không phải là những người nói trước về tương lai. Trong Cựu Ước, ngôn sứ chỉ là một thiểu số nhỏ, được Thiên Chúa tuyển chọn giữa dân để nói thay cho Ngài, nhất là trong thời miền Bắc và miền Nam bị rơi vào tay ngọai bang và bị lưu đày.
            Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong vai trò của vị ngôn sứ. Trong Bài Đọc I, tác-giả Sách Đệ Nhị Luật cho biết lịch sử tại sao có ngôn sứ, và vai trò quan trọng trong sứ vụ trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô giải thích cho cộng đòan Corintô biết lý do cụ thể của những người không có gia đình, họ có nhiều thời giờ hơn để làm những chuyện của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu là vị Ngôn Sứ Tối Cao, vì Ngài là chính Lời của Thiên Chúa. Ngài giảng dạy như một ngôn sứ có uy quyền chứ không giống các Kinh-sư; và Ngài có quyền trục xuất thần ô uế ra khỏi con người. 

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Lời tiên tri về vị ngôn sứ Thiên Chúa hứa ban:
           
            1.1/ Sự cần thiết của ngôn sứ: Truyền thống Do-Thái tin khi một người nhìn thấy Thiên Chúa, người đó sẽ phải chết. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa không xuất hiện để nói với dân, nhưng Ngài dùng những nhà lãnh đạo như Moses và Aaron, để thực thi những gì Thiên Chúa muốn. Để chứng nhận uy tín của những người lãnh đạo này, Thiên Chúa cho dân thấy một phần quyền năng của Ngài như khi dân Israel được triệu tập ở Horeb trong ngày đại hội. Nhưng dân chúng không thể chịu đựng nổi, dù chỉ một phần uy quyền của Thiên Chúa, nên họ nói với Moses: "Chúng tôi không dám nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi nữa, chúng tôi không dám nhìn ngọn lửa lớn này nữa, kẻo phải chết."
            Vì lý do này, con người có lời hứa của Thiên Chúa: “Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh em, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em; anh em hãy nghe vị ấy.” Nói cách khác, ngôn sứ là người được chọn giữa con người, để trở thành trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Lời hứa này ám chỉ tất cả các ngôn sứ trong Cựu Ước Thiên Chúa gởi đến cho con người. Tuy nhiên, đó cũng là lời hứa về Đức Kitô, vị Ngôn Sứ tòan hảo của Thiên Chúa. Ngài cũng là người giữa con người, nhưng có uy quyền và sự không ngoan của Thiên Chúa. Ngài là người trung gian hòan hảo giữa Thiên Chúa và con người.
              1.2/ Mối liên hệ bộ ba giữa Thiên Chúa, ngôn sứ, và con người: Một sự hiểu biết về mối liên hệ này sẽ giúp chúng ta nhận ra bổn phận và trách nhiệm của từng người:
            (1) Thiên Chúa và ngôn sứ: Thiên Chúa chọn ngôn sứ và gởi ông đến với dân để giúp họ, ông không tự chọn mình để làm ngôn sứ. Bổn phận của ngôn sứ là nói những gì Thiên Chúa muốn nói với dân như lời Thiên Chúa phán: "Ta sẽ đặt những Lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy.”
            (2) Ngôn sứ và con người: Con người phải vâng nghe những gì ngôn sứ nói với họ; vì “kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta, thì chính Ta sẽ hạch tội nó.” Lời của Thiên Chúa là lời của ngôn sứ; bất tuân lời ngôn sứ là bất tuân Thiên Chúa, và con người sẽ phải chịu trách nhiệm trước Thiên Chúa. Con người dễ khinh thường các ngôn sứ, lý do vì ngôn sứ cũng là người yếu đuối như họ; chẳng lạ gì mà con người hay có thái độ, “gần chùa gọi bụt bằng anh!” Con người không được quên họ là ngôn sứ của Thiên Chúa.
            (3) Ngôn sứ và Thiên Chúa: Ngôn sứ phải nói những gì Thiên Chúa nói; vì “ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết.” Ngôn sứ phải chịu trách nhiệm trước Thiên Chúa, vì ông có trách nhiệm nói Lời của Thiên Chúa. Các ngôn sứ dễ có khuynh hướng không nói Lời của Thiên Chúa, vì những lý do sau:
            - Con người không muốn nghe sự thật vì sự thật mất lòng. Họ thích nghe những gì vui vẻ, tếu táo, không đòi suy nghĩ, và nhất là không khơi dậy mặc cảm tội lỗi nơi những việc họ đang làm. Khán giả cũng không thích ngôn sứ nói đến tội lỗi, chết chóc, chiến tranh, hy sinh, từ bỏ, chịu đau khổ, vác Thánh Giá; vì thế, vị ngôn sứ dễ tránh né những chủ đề này.
            - Sợ những hậu quả xảy ra: không trở nên nổi danh, bị khán giả ghét bỏ, và có thể nguy hiểm đến tính mạng nếu động chạm đến nhà cầm quyền và các thế lực mạnh.
            - Dùng danh Thiên Chúa để mưu cầu lợi lộc: nói khôi hài để được khán giả ưa thích, nói vuốt đuôi để được thăng quan tiến chức, và nói văn chương để tỏ cho khán giả tài năng của mình.

2/ Bài đọc II: Làm đẹp lòng Thiên Chúa hay đẹp lòng người đời?
            2.1/ Ngôn sứ có bổn phận làm đẹp lòng Thiên Chúa: Truyền thống Do-Thái rất chú trọng đến đời sống gia đình, và coi đó như một bổn phận thánh. Chỉ có một trường hợp miễn trừ cho một người không phải kết hôn là để có nhiều thời giờ nghiên cứu Lề Luật của Chúa. Trong cộng đòan tín hữu Côrintô, có lẽ cũng có sự so sánh giữa 2 ơn gọi: độc thân để làm việc cho Chúa và ơn gọi gia đình; ơn gọi nào tốt hơn? Thánh Phaolô cho các tín hữu một cái nhìn thiết thực qua hai ví dụ:
            (1) Các nam tu: “Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa, họ tìm cách làm đẹp lòng Người; còn người có vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, thế là họ bị chia đôi.”
            (2) Các nữ tu: “Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng chồng.”
            Lý luận căn bản của Thánh Phaolô: Vì người độc thân không phải lo nghĩ đến người phối ngẫu nên họ có thời giờ và dành mọi tập trung lo việc của Thiên Chúa. Người có gia đình phải dành thời giờ và lo lắng cho người phối ngẫu, nên họ sẽ có ít giờ hơn để lo việc của Thiên Chúa, và tâm trí họ bị chia đôi. Đấy là chưa kể thời giờ phải lo cho các con nữa.
              2.2/ Hãy chu tòan bổn phận trong ơn gọi của mình: Điều quan trọng không ở chỗ là tranh luận xem ơn gọi nào quan trọng hơn ơn gọi nào; nhưng ở chỗ mọi người hãy chu tòan ơn gọi của mình. Nếu ở bậc độc thân mà không chịu lo việc của Thiên Chúa, cũng chẳng làm lợi gì cho Ngài. Bậc nào cũng phải cộng tác với nhau và góp phần vào việc làm vinh quang Thiên Chúa.

3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu là ngôn sứ kiểu mẫu của Thiên Chúa.
            3.1/ Uy quyền giảng dạy: “Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Capernaum. Vào ngày Sabbath, Người vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.” Trình thuật không nói rõ sự khác biệt giữa Chúa Giêsu và các Kinh-sư, nhưng chúng ta có thể dựa vào những trình thuật khác, nhất là xung đột ý kiến giữa Ngài và họ, để liệt kê một số điều như sau:
            (1) Chúa Giêsu chú trọng đến tâm hồn bên trong như: kính sợ Thiên Chúa, lòng thương xót, thực thi ý Thiên Chúa, và bảo vệ sự sống; trong khi các Kinh-sư chú trọng đến việc giữ các lễ nghi và Lề Luật hời hợt bên ngòai: giữ ngày Sabbath và các luật thanh tẩy (Mk 2:23-24).
            (2) Chúa Giêsu không sợ nói và đối diện sự thật (Mk 3:23-27); trong khi các Biệt-phái và Kinh-sư luôn tìm cách che đậy những toan tính gian ác trong tâm hồn (Mk 3:2-6).
              3.2/ Uy quyền trên các thần ô uế: Truyền thống Do-Thái tin có nhiều quỉ thần trong thế giới, và chúng thường sống trong những nơi nhơ bẩn, hoang dã, và huyệt mả. Chúng thường đe dọa những khách độc hành, đàn bà có thai, cô dâu chú rể, và trẻ em ra ngòai ban đêm. Chúng thường họat động nhiều vào giữa trưa và khỏang thời gian giữa mặt trời lặn và mặt trời mọc. Có nhiều thứ quỉ thần khác nhau, và chúng thường chuyển những tính xấu của chúng tới những người chúng sở hữu như quỉ mù, phong cùi, dâm dục … Chúa Giêsu nhiều lần khai trừ quỉ thần ra khỏi con người như trình thuật hôm nay, và ngày xưa, “chức trừ quỉ” là một trong 7 chức thánh được ban cho các linh mục.
            (1) Chúa Giêsu không sợ áp lực của khán giả: Trình thuật kể ngay sau khi Chúa Giêsu giảng dạy xong; lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: "Ông Giêsu Nazareth, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!" Chúng ta không ngạc nhiên về điều này, vì sứ vụ của Chúa Giêsu và sứ vụ của quỉ thần hòan tòan đối nghịch nhau: Ngài đến để giải thóat con người khỏi mọi quyền lực của tội; trong khi các quỉ thần cố gắng giữ con người làm nô lệ cho tội.
            (2) Chúa Giêsu trục xuất quyền lực ô uế đang ở trong khán giả: Ngài quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này!" Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta. Điều khác biệt giữa Chúa Giêsu và các nhà trừ quỉ khác, Ngài dùng uy quyền của chính Ngài biểu tỏ qua mệnh lệnh ngắn và đơn giản; chứ không nhân danh một thứ quyền lực khác, và phải xử dụng một công thức cố định.
            (3) Khán giả được chữa lành: Khi chứng kiến những gì Chúa Giêsu làm, mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: "Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!"

 ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
            - Chúng ta đều là những ngôn sứ của Thiên Chúa. Bổn phận của chúng ta là phải tìm hiểu, nói, sống, và làm chứng cho sự thật.
            - Chúng ta sẽ phải đương đầu với những quyền lực chống lại sự thật của thế gian và ma quỉ. Hậu quả có thể là không được chấp nhận, phỉ báng, tù đày, và ngay cả nguy hiểm tính mạng.
            - Chúng ta không được sợ hãi, để rồi thay vì nói sự thật của Thiên Chúa, chúng ta nói những gì khán giả muốn nghe. Hãy nhớ chúng ta phải chịu trách nhiệm trước mắt Thiên Chúa; Ngài sẽ đòi nợ máu chúng ta về sự hư đi của những người chúng ta đã không có can đảm nói sự thật cho họ.
            - Chúng ta phải tôn trọng những người có bổn phận rao giảng Tin Mừng, cho dẫu họ nói những gì chúng ta không muốn nghe, nhưng là sự thật của Thiên Chúa.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét