Trang

Thứ Hai, 17 tháng 9, 2012

17-09-2012 : THỨ HAI TUẦN XXIV MÙA THƯỜNG NIÊN


THỨ HAI TUẦN XXIV THƯỜNG NIÊN


BÀI ĐỌC I: 1 Cr 11, 17-26

"Anh em họp nhau lại thì không phải là để ăn bữa tối của Chúa".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, tôi truyền dạy điều này: tôi chẳng khen anh em, vì anh em hội nhau, không phải để được ích lợi hơn, nhưng là để ra tệ hơn. Trước tiên, tôi nghe đồn rằng: khi anh em họp nhau trong cộng đoàn, thì có sự chia rẽ giữa anh em, và tôi cũng tin phần nào. Vì cần phải có phe phái, để những người đã được thử thách, được tỏ rõ giữa anh em. Vậy khi anh em họp nhau lại thì không phải là để ăn bữa tối của Chúa, vì mỗi người đều lo đem bữa ăn riêng của mình đến để ăn. Vì thế người thì đói, người khác lại say sưa. Chớ thì anh em không có nhà để ăn uống sao? Hay là anh em khinh miệt Cộng Đoàn Thiên Chúa, và làm nhục những kẻ không có gì? Tôi phải nói thế nào với anh em? Khen anh em ư? Về điều này, tôi chẳng khen anh em.
Vì chưng, phần tôi, tôi đã lãnh nhận nơi Chúa điều mà tôi đã truyền lại cho anh em, là Chúa Giêsu trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: "Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta". Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén và phán: "Chén này là Tân Ước trong Máu Ta; mỗi khi các con uống, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta". Vì mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến.
Vậy hỡi anh em, khi anh em họp nhau để dùng bữa, anh em hãy chờ đợi nhau. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 39, 7-8a. 8b-9. 10. 17

Đáp: Anh em hãy loan truyền việc Chúa chịu chết cho tới khi Chúa lại đến 
(1 Cr 11, 26b).
Xướng: 1) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai con. Chúa không đòi hỏi lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến". - Đáp.
2) Như trong Quyển Vàng đã chép về con: lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật của Chúa ghi tận đáy lòng con. - Đáp.
3) Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong đại hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi. - Đáp.
4) Hãy mừng vui hoan hỉ trong Chúa, bao nhiêu kẻ tìm Chúa, và luôn luôn nói: Chúa thực là cao cả! Bao nhiêu kẻ mong ơn phù trợ của Người. - Đáp.

ALLELUIA: Gc 1, 18

Alleluia, alleluia! - Do ý định của Thiên Chúa, Người đã sinh chúng ta bằng lời sự thật, để chúng ta nên như của đầu mùa các tạo vật. - Alleluia.

PHÚC ÂM: Lc 7, 1-10

"Cả trong dân Israel, Ta cũng chẳng thấy lòng tin mạnh mẽ như vậy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, lúc Chúa Giêsu đã nói với dân chúng xong, Người vào Capharnaum. Bấy giờ một viên sĩ quan có tên đầy tớ thân tín bị bệnh gần chết. Nghe nói về Chúa Giêsu, ông sai vài người kỳ lão Do-thái đi xin Người đến cứu chữa đầy tớ ông. Họ đến gần Chúa Giêsu và van xin Người rằng: "Ông ta đáng được Thầy ban cho ơn đó, vì thật ông yêu mến dân ta, và chính ông đã xây cất hội đường cho chúng ta". Chúa Giêsu đi với họ, và khi Người còn cách nhà viên sĩ quan không bao xa, thì ông này sai mấy người bạn đến thưa Người rằng: "Lạy Thầy, không dám phiền Thầy hơn nữa, vì tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi, cũng như tôi nghĩ tôi không xứng đáng đi mời Thầy, nhưng xin Thầy phán một lời, thì đầy tớ tôi được lành mạnh. Vì tôi cũng chỉ là một sĩ quan cấp dưới, (tuy nhiên) tôi có những lính dưới quyền tôi, tôi bảo người này đi, thì nó đi; bảo người khác lại, thì nó lại; và bảo đầy tớ tôi làm cái này, thì nó làm".
Nghe nói thế, Chúa Giêsu ngạc nhiên và quay lại nói với đám đông theo Người rằng: "Ta nói thật với các ngươi, cả trong dân Israel, Ta cũng chẳng thấy lòng tin mạnh mẽ như vậy". Và những người được sai đi, khi về tới nhà, thấy tên đầy tớ lành mạnh. Đó là lời Chúa.


Thứ Hai tuần 24 thương niên
Sứ điệp:Nhận biết mình hèn kém bất xứng và hết lòng tin tưởng cậy trông vào Chúa, đó là niềm tin của viên đại đội trưởng mà Chúa Giêsu đã khen ngợi và mời gọi ta bắt chước.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trong quãng đời mục vụ của Chúa, con nghĩ một trong những điều làm cho Chúa vui thích đó là câu chuyện hôm nay: một viên sĩ quan lương dân đã bày tỏ niềm tin nơi Chúa, một niềm tin đơn sơ, khiêm nhường và mạnh mẽ. Chúa đã khen ngợi và đáp lời ông cầu xin.
Con tự hỏi, đối với con là người theo đạo Chúa, con thực sự có được một  niềm tin như thế chưa?
Lạy Chúa, con phải thú nhận rằng đức tin của con còn quá yếu kém, bởi vì con chưa nhận ra mình là kẻ tội lỗi rất cần đến lòng thương xót của Chúa. Con thiếu lòng cậy tin vào Chúa, bởi vì con vẫn tin vào quyền lực  của tiền bạc và địa vị hơn là chính Chúa. Con cầu xin không được như ý là bởi vì con chưa khiêm nhường đủ, thiếu kiên nhẫn và đầy ích kỷ.
Lạy Chúa, trong thánh lễ hằng ngày, con bắt chước viên sĩ quan để thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh.”
Xin Chúa đến với con dù con bất xứng. Xin Chúa thương xót con vì con tội lỗi. Xin Chúa dùng con như khí cụ bình an của Chúa dù con chỉ là tôi tớ mọn hèn. Và trong những cơn gian nan thử thách, những khi cô đơn tuyệt vọng, những lần ê chề sa ngã, xin cho con vẫn một niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, vì con tin rằng chính những lúc con yếu đuối nhất, lại là những lúc con mạnh mẽ nhất trong ơn Chúa. Amen.
Ghi nhớ : "Cả trong dân Israel, Ta cũng chẳng thấy lòng tin mạnh mẽ như vậy".

17/09/12 THỨ HAI TUẦN 24 TN
Th. Rôbetô Bellarminô, giám mục, tiến sĩ HT 
Lc 7,1-10

NIỀM TIN ĐI ĐÔI VỚI LÒNG MẾN

“Nhưng xin Ngài cứ nói một lời, thì đầy tớ của tôi được khỏi bệnh.” (Lc 7,7)

Suy niệm: “Đức tin là tin điều ta không thấy; và phần thưởng cho niềm tin này là thấy điều ta tin” (Th. Âutinh). Các sách Tin Mừng và Công Vụ Tông Đồ luôn nói đến các đại đội trưởng Roma với nhiều thiện cảm. Nơi viên đại đội trưởng này, ngoài đức tính can đảm, khôn ngoan của các đại đội trưởng Roma, ông còn là người yêu thương đầy tớ, đang khi thời ấy đầy tớ bị coi như một đồ vật! Với Đức Giêsu, ông tỏ ra rất khiêm tốn: xin Ngài đừng đến nhà mình vì biết người Do Thái không được phép đến nhà người ngoại giáo. Ông còn chứng tỏ một niềm tin mạnh mẽ: là sĩ quan, ông hiểu rằng mệnh lệnh của ông phải được thi hành ngay tức khắc, huống chi lệnh truyền của Đức Giêsu! Rốt cuộc, ông đã nhìn thấy kết quả điều mình tin: người đầy tớ được chữa lành.

Mời Bạn: “Đức tin làm cho mọi sự có thể, còn tình yêu làm mọi sự trở nên dễ dàng.” Sở dĩ viên đại đội trưởng Roma ấy hạ mình đến với một thầy rápbi Do Thái vì ông thương mến người đầy tớ. Sở dĩ người đầy tớ được lành bệnh vì chủ của anh có một niềm tin mãnh liệt. Với lòng tin và lòng mến Chúa, mọi sự sẽ trở nên có thể và dễ dàng với bạn.

Sống Lời Chúa: Trong thánh lễ mỗi khi đọc: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con...” tôi khiêm tốn ý thức sự bất xứng của mình và xác tín quyền năng chữa lành bệnh tật tâm hồn mình của Thánh Thể Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa kinh ngạc trước một người ngoại giáo có niềm tin mãnh liệt, lòng khiêm tốn thẳm sâu, tình yêu thương chân thành. Xin cho chúng con cũng có được những tâm tình như viên đại đội trưởng này mỗi khi chúng con rước Chúa. Amen.




Cứ nói một lời.
 Có khi chúng ta đã đánh mất ý thức về sự linh thánh khi rước Chúa. Có khi chúng ta chẳng tin mấy vào quyền năng của Lời Ngài. Xin có được lòng tin đơn sơ như một người dân ngoại.
Suy nim:
Viên đại đội trưởng ở đây là người coi một trăm quân.
Ông đã nghe đồn về khả năng chữa bệnh của Đức Giêsu.
Nhưng ông chẳng hề dám gặp mặt Ngài,
vì ông biết mình là dân ngoại, bị người Do Thái coi là nhơ uế.
Bởi tình thương đối với anh nô lệ mà ông yêu quý,
ông đã mạnh dạn nhờ các kỳ mục Do Thái xin Đức Giêsu đến nhà ông
để cứu sống anh nô lệ đang bệnh nặng gần chết (cc. 2-3).
Sau khi nghe kể lại những điều tốt đẹp viên sĩ quan Rôma này đã làm,
Đức Giêsu liền lên đường đến nhà ông ấy để chữa bệnh (cc. 4-6).
Khi Đức Giêsu còn trên đường, vị sĩ quan này đã suy nghĩ và đổi ý.
Ông chẳng những thấy mình không đáng đến gặp mặt Ngài
mà còn không đáng đón Ngài vào nhà mình nữa,
căn nhà vẫn bị coi là ô uế của một người dân ngoại (c. 6).
Ông muốn ngăn Ngài lại trước khi Ngài đến nhà ông,
nên đã sai một số bạn hữu ra gặp Ngài trên đường (c. 6).
Nơi ông bùng cháy một niềm tin mạnh mẽ.
Ông tin rằng chẳng cần Ngài vào nhà ông và gặp anh nô lệ sắp chết.
Chỉ cần Ngài nói một lời cũng đủ làm cho anh ta lành mạnh (c. 7).
Viên đại đội trưởng tin vào sức mạnh của lời Đức Giêsu.
Đối với ông, lời ấy có uy lực như một mệnh lệnh.
Là một sĩ quan trong quân đội Rôma
ông hiểu thế nào là sự phục tùng của lính tráng dưới quyền.
“Tôi bảo người này: “Đi !” là nó đi; bảo người kia: “Đến !” là nó đến;
và bảo người nô lệ của tôi: “Làm cái này !” là nó làm.” (c. 8).
Lệnh được ban ra là phải thi hành.
Viên đại đội trưởng tin rằng lời của Đức Giêsu cũng thế.
Chỉ cần một lời cũng đủ làm cơn bệnh nguy tử phải thoái lui.
Đức Giêsu ngỡ ngàng trước một lòng tin mạnh mẽ như vậy.
Khó lòng tìm thấy lòng tin đó nơi cộng đoàn dân Ítraen (c. 9).
Ngài đã không đến nhà viên sĩ quan,
chẳng gặp mặt ông, cũng chẳng nói lời nào.
Chỉ biết là sau đó anh nô lệ đã được khỏi (c. 10).
Ở đâu ta cũng gặp những người như viên sĩ quan Rôma.
Họ có thể là mẫu mực cho các Kitô hữu về sự khiêm hạ và tín thác.
Nhiều con người hôm nay, có tấm lòng thật tốt như viên sĩ quan,
nhưng vẫn ngại chưa dám mời Chúa vào nhà,
chưa dám trực tiếp gặp mặt Chúa,
chỉ dám nói chuyện với Ngài qua trung gian.
Nhưng họ có thể đã mang trong mình một niềm tin kiên vững
và đã có kinh nghiệm về sự chữa lành kỳ diệu của Ngài.
“Tôi không đáng được Ngài vào nhà tôi, chỉ xin Ngài nói một lời…”
Có khi chúng ta đã đánh mất ý thức về sự linh thánh khi rước Chúa.
Có khi chúng ta chẳng tin mấy vào quyền năng của Lời Ngài.
Xin có được lòng tin đơn sơ như một người dân ngoại.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa,
xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
Xin cho con đức tin sáng suốt
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Đấng Vô hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh,
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
Xin cho con đức tin vui tươi,
hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp
qua những cọ xát đau thuong của phận người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


"Cả trong dân Israel, Ta cũng chẳng thấy lòng tin mạnh mẽ như vậy".
Sức mạnh của Lời Chúa
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm về lời quyền năng của Chúa. Thông thường, Chúa Giêsu chữa trị bằng cách đặt tay hoặc sờ đến bệnh nhân. Cũng có trường hợp Ngài làm một cử chỉ hay chỉ nói một lời, như được ghi lại trong trình thuật chữa bệnh cho người đầy tớ của viên bách quản.
"Xin Ngài chỉ nói một lời". Lời thỉnh cầu của viên bách quản gợi lại câu Thánh vịnh 106: "Thiên Chúa sai lời của Ngài đi chữa trị". Qua lời thỉnh cầu này, viên bách quản mặc nhiên nhìn nhận Chúa Giêsu thực sự đến từ Thiên Chúa và lời của Ngài là lời quyền năng và hữu hiệu. Lời thỉnh cầu của viên bách quản thể hiện một niềm tin sâu sắc, đến độ đã được Giáo Hội lặp lại mỗi ngày trong Thánh lễ, để nhắc nhở chúng ta về sức mạnh của lời Chúa, cũng như bổn phận rao truyền lời Chúa trong cuộc sống chúng ta.
Thế giới ngày nay đang bước vào kỷ nguyên của thông tin. Lời nói xem chừng tràn ngập khắp nơi, nhưng liệu con người có nghe được lời quyền năng có sức chữa trị và giải phóng con người không? Các phương tiện truyền thông đại chúng càng gia tăng và tinh vi, thì lời nói càng được tung ra, nhưng tác hại không kém. Có những lời đường mật dụ dỗ người trẻ sa vòng trụy lạc, nô lệ; có những lời dối trá của chính trị gia; có những lời thất vọng, chán chường của những tiên tri chỉ biết loan báo thảm trạng. Ngược lại, cũng không thiếu những hình thức tước đoạt quyền tự do tư tưởng và phát biểu của con người.
Trong một hoàn cảnh như thế, những người mà niềm tin được xây dựng trên lời quyền năng của Thiên Chúa, hẳn phải nói lên lời của Ngài hơn bao giờ hết. Ngày nay, có biết bao viên bách quản đang chờ đợi một lời nói can đảm, chân thật và hữu hiệu từ các Kitô hữu. Trong một xã hội chỉ có những lời của hận thù, đố kỵ, thì lời của các Kitô hữu phải là lời của yêu thương, hòa giải và tha thứ. Lời của Chúa là lời chân thật và hữu hiệu, lời ấy không chỉ được các Kitô hữu nói bằng môi miệng, mà còn phải được nhập thể vào cuộc sống của họ.
Nguyện xin Chúa, Ðấng nói một lời thì linh hồn chúng ta được lành mạnh, ban sức mạnh, để chúng ta can đảm sống và nói lời Ngài, nhờ đó những người xung quanh nhận ra phép lạ của Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Sức mạnh của niềm tin

Năm 2002, Trước khi Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận qua đời, trong thời gian ngài bị bệnh, không riêng gì người công giáo Việt Nam mà có lẽ cả thế giới công giáo đều quan tâm theo dõi và cầu nguyện cho sức khỏe của Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận, Chủ tịch hội đồng Tòa Thánh Công Lý Hòa Bình. Trước khi lên bàn mổ lần thứ hai, Ðức cố hồng y đã đi hành hương đến mồ thánh Piô năm dấu, người vừa được Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh ngày 16/6/2002. Phép lạ về phương diện y khoa cho tới giờ phút này vẫn chưa xảy ra nhưng nụ cười vẫn không bao giờ tắt trên môi Ðức hồng y, đó là điều mà nhiều người xem như một phép lạ. Ðức cố hồng y xem những tháng ngày trên giường bệnh là một ơn đặc biệt Chúa ban cho ngài. Phải chăng đây không là sự hoàn tất của con đường thập giá mà Ðức Mẹ đã báo trước cho ngài? Ðức cố Hồng y Phanxicô X. Nguyễn Văn Thuận không những đã làm vẻ vang Giáo Hội và dân tộc Việt Nam mà ngài còn là một mẫu mực đức tin cho chúng ta. Ðức tin, đó là ơn trọng đại nhất mà chúng ta phải không ngừng cầu xin.
Trong câu chuyện phép lạ được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đề cao lòng tin của viên sĩ quan người La Mã. Người sĩ quan này không đòi hỏi Chúa Giêsu phải đến tận nhà ông mà chỉ xin Chúa phán một lời thì cũng đủ sức chữa lành người đầy tớ của ông. Lời của viên sĩ quan này biểu lộ một niềm tin sâu sắc đến độ đã được Giáo Hội mượn làm lời tuyên xưng của chúng ta trước khi đến rước Chúa vào lòng.
Quả thật, chúng ta cần được Chúa chữa trị tâm hồn. Sức khỏe phần xác là điều cần thiết cho cuộc sống nhưng sức khỏe của linh hồn mới là điều quan trọng hơn. Có tất cả mọi sự, có sức khỏe thể xác nhưng linh hồn bại hoại thì được ích gì.
Nguyện xin Chúa cứu chữa tâm hồn chúng ta để giữa bệnh tật khổ đau và mất mát trong cuộc sống chúng ta vẫn một lòng tin tưởng nơi tình yêu quan phòng của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Một đức tin lạ lùng
Một viên đại đội trưởng kia có một người nô lệ bệnh nặng gần chết. Ông ta yêu quý người ấy lắm. Khi nghe đồn về Đức Giêsu, ông cho mấy kỳ mục của người Do-thái đi xin Người đến cứu sống người nô lệ của ông. (Lc. 7, 2-3)
Đây không chỉ là một đức tin tuyệt vời mà Đức Kitô gặp thấy ở vị đại úy xin Người cứu chữa kẻ nô lệ của ông, đây còn là một đức tin lạ lùng làm kinh ngạc chúng ta khiến chúng ta phải thán phục chừng nào.
Vì thế Đức Giêsu đã quả quyết Người chưa gặp thấy lòng tin nào mạnh như thế, ngay cả trong dân Is-ra-el. Một đại úy của đế quốc Rô-ma có một kẻ nô lệ đau nặng, ông nghe đồn về một Đức Giêsu đầy quyền năng và lòng nhân hậu. Ông không dám đến gặp Người, hẳn ông ý thức rõ về địa vị của ông trong đế quốc đang thống trị dân Do-thái, không đáng đón nhận một ân huệ cho những kẻ thuộc quyền ông, dù Người cởi mở và hiếu khách. Nghĩ thế, nên ông đã nhờ những kỳ mục Do-thái làm trung gian dễ gần gũi Đức Kitô hơn. Các ông này có địa vị khá cao nên đến xin Đức Giêsu nhận lời xin của vị đại úy là người yêu quý dân Do-thái, chính ông đã xây hội đường Ca-pha-na-um bằng chính tiền của ông.
Chúa không từ chối lời cầu. Lập tức, Người lên đường. Người không kỳ thị dân tộc. Người làm ơn cho hết mọi dân tộc. Người sẽ đến đó để giúp đỡ và lắng nghe. Lúc đó lại xảy ra một biến cố đáng ngạc nhiên: viên đại úy nhờ các bạn hữu của ông đến thưa với Chúa: “Thưa Ngài, không dám phiền Ngài quá như vậy, vì tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi. Đó là lý do tôi nghĩ mình không xứng đáng đến gặp Ngài, nhưng xin Ngài cứ phán một lời thì đầy tớ tôi được khỏi”.
Câu nói vắn gọn lạ lùng đó, chúng ta đã lập lại mỗi khi lên rước Mình Thánh Chúa Giêsu, có làm cho chúng ta tin mạnh mẽ sâu thẳm như vị đại úy đó không? Ông không ở gần Đức Giêsu, nhưng ngay lập tức ông đã tin mạnh mẽ lạ lùng. Đức Giêsu đã ngây ngất thán phục trước đức tin của ông và đón nhận ông như môn đệ của Người.
Còn chúng ta, có thực, đức tin có liên kết chúng ta với Đức Kitô không? có thực, đức tin có giúp chúng ta tận hiến cho Người không?.
GF.

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 9
17 THÁNG CHÍN
Thánh Thần, Đấng Dẫn Dắt Chúng Ta
Hội Thánh, được sinh ra từ Thập Giá và cuộc Phục Sinh của Đức Kitô, vẫn không ngừng được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần. “Chúa Thánh Thần, Đấng mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, sẽ dạy cho anh em mọi sự và làm cho anh em nhớ lại tất cả mọi điều [Thầy] đã nói với anh em” (Ga 14,26).
Hội Thánh trên trần gian vẫn không ngừng được dẫn dắt bởi Thánh Thần của Đức Kitô Phục Sinh để đào sâu chính chân lý mà Hội Thánh đã nhận lãnh trực tiếp từ môi miệng của Thầy. Trải qua bao thế kỷ, Hội Thánh đã thấu hiểu hơn chân lý ấy nhờ sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần. Đó là con đừơng giúp Hội Thánh ngày càng nhận hiểu Đức Kitô nhiều hơn. Sự hiểu biết có sức cứu độ này đã thật sự được sở đắc bởi Hội Thánh khải hoàn, là “Giêrusalem trên trời” (Gl 4,26). Chúa Thánh Thần khích lệ Hội Thánh tại thế bằng viễn cảnh huy hoàng của Hội Thánh vinh quang.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 17-9
Thánh Robertô Bellarminô, giám mục tiến sĩ Hội Thánh;
1Cr 11, 17-26.33; Lc 7, 1-10.
LỜI SUY NIỆM: Một viên đại đội trưởng kia có người nô lệ bệnh nặng gần chết. Ông ta yêu mến người ấy lắm. Khi nghe đồn về Đức Giêsu, ông cho mấy người kỳ mục của người Do-thái đi xin Người đến để cứu sống người nô lệ của ông. (Lc 7,2).
          Trong câu chuyện này Luca cho chúng ta thấy một viên sĩ quan, dưới tay ông có cả một đại đội, đối với một tên nô lệ trong thời bấy giờ chỉ xem như là một đồ vật của ông chủ. Nhưng ông ta đã yêu quí người nô lệ này như là người thân trong gia đình “quá dễ thương” Điểm thứ hai ông ta biết ông là một người ngoại giáo, không có phép được tiếp xúc với người Do-thái sợ liên lụy đến cho Chúa Giêsu, nên ông đã nhờ qua trung gian mấy kỳ mục của người Do-thái, và khi Chúa muốn đến tận nhà ông, ông cũng đã xác nhận nhà của ông không xứng đáng được Chúa đi vào; và ông Khẳng định chỉ cần một lời Chúa phán thì người đầy tớ của ông sẽ lành mạnh. Trong mọi Thánh lễ khi chúng ta đọc lên: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh.” Chúng ta có tin thật như vậy?
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
NGÀY 17-09 THÁNH RÔBERTÔ BELLARMINÔ (1452 - 1621)

Thánh Rôbertô Bellarminô sinh ngày 4 tháng 10 năm 1452 tại Montepulcianô. Cha Ngài là Vinconzo Bellarminô. Mẹ Ngài là Cynthia Cervini. Em Đức giáo hoàng Marcellô II. Ngay khi còn là một học sinh tại trường các cha dòng Tên. Ngài đã tỏ ra thông minh đặc biệt. Cha Ngài đã định cho Ngài theo học y khoa. Dầu vậy năm 1560, Ngài xin gia nhập dòng Tên và đã được cha mẹ ưng thuận.
Theo học triết tại Roma, Ngài đã tỏ ra là một học sinh nổi bật. Từ Roma Ngài đã được gởi đi dạy học trong các trường của dòng Tên trong 4 năm tại Florence và Modevi. Lúc này Ngài đã thông thạo tiếng Hy lạp và được chỉ định dạy cho các bạn cùng lớp. Dầu chưa làm linh mục, Ngài thường được mời đi giảng và được coi như là nhà giảng thuyết từ bẩm sinh. Ngài học thần học trước hết ở Padua, rồi sau ở Louvain và thụ phong linh mục tại đây năm 1570. Các bài giảng của Ngài tại Louvain mang lại thành công đăc biệt. Anh em Tin Lành tại Anh cũng tìm đến nghe Ngài và nhiều người đã trở lại. Với dáng nhỏ bé, Ngài thường đứng trên ghế đẩu từ bục giảng.
Là giáo sư thần học tại Louvain, Ngài rất mộ mến các tác phẩn của thánh Tôma. Trong các bài diễn thuyết, Ngài đã chống lại một cách hữu hiệu nhưng đầy tình thương với các giáo thuyết khơi nguồn cho thuyết Giansenisme sau này. Thánh Robertô cũng thúc đẩy các sinh viên học tiếng Do thái và đã soạn cho họ một cuốn văn phạm ngắn gọn. Ngài đọc nhiều về các giáo phụ và các văn sĩ khác trong Giáo hội, một nỗ lực còn ghi lại trong tác phẩm "về các văn sĩ trong Giáo hội" (xb năm 1623).
Sau thời kỳ ở Louvain, Ngài được trao phó thi hành một công việc khó khăn là làm giáo sư phụ trách các cuộc tranh luận tại Roma. Các cha dòng Tên đã tổ chức việc diễn giảng này nhằm trả lời bằng ngôn ngữ thời đại đối với các cuộc tấn công của anh em tin lành. Suốt 11 năm, thánh Robertô đã nỗ lực cho công cuộc này với sự thành công rực rỡ. Nhiều sinh viên của Ngài đã trở thành thừa sai tại Anh và tại Đức. Một số người đã đổ máu vì đức tin tại Anh.
Các bài diễn thuyết của Ngài được xuất bản lần đầu tại Ingolstudt, từ năm 1586 - 1593 dưới tựa đề "các cuộc tranh luận về đức tin công giáo chống lại các người theo lạc giáo thời nay". Có 20 ấn bản khi Ngài còn sống và nhiều ấn bản sau này nữa. Đây là một công trình bảo vệ đức tin đầy đủ nhất của Giáo hội có được và suốt ba thế kỷ liền nó là áo giáp cho các nhà giảng thuyết và các văn sĩ.
Những trách vụ khác thánh Robertô đảm nhận thời kỳ này là tu chính tác phẩm chú giải của Salmeron, một bạn dòng, làm việc trong ủy ban tu chính nghi thức phụng vụ Roma và bản kinh thánh phổ thông. Ngài cũng góp phần lớn cho Đức Sixtô V trong việc ấn hành các tác phẩm của thánh Ambrosiô.
Với vai trò thần học gia của Đức Hồng y Goetni. Vị đặc sứ của Đức giáo hoàng tại Pháp năm 1589, thánh Robertô chứng tỏ rằng: Ngài là một nhà ngoại giao lẫn một học giả có khả năng. Việc đại diện tại Paris thật nặng nhọc. Nhưng thử thách lớn lao nhất lại đến từ một phía khác. Đức giáo hoàng Sixtô V quyết định đặt cuốn I trong bộ những cuộc tranh luận vào sổ sách bị cấm. Đức giáo hoàng không bằng lòng với chủ trương của thánh Robertô, cho rằng uy quyền của giáo hoàng trực tiếp trong các vấn đề vật chất, và nếu có thì chỉ qua uy tín tinh thần mà thôi. Chủ trương này đã trở nên thông thường trong Giáo hội ngày nay. Nhưng Đức Sixtô đã qua đời và Đấng kế vị Ngài đã rút lại quyết định. Dầu bị thử thách nhưng thánh Robertô đã góp phần vào ấn bản Kinh thánh thời Đức Sixtô và đã viết tựa cho ấn bản cũ được vạch ra với một tinh thần bác ái.
Thánh Robertô liên tiếp làm cha tinh thần và viện trưởng của học viện Roma, rồi làm bề trên tỉnh dòng Naples. Tại Roma Ngài hướng dẫn một thánh trẻ dòng Tên là Luy Gonzaga. Tại Naples, chính Ngài được một cha dòng Tên khác là thánh Bernadiô Realinô sau này gọi là thánh.
Bị ép buộc nhận chức Hồng y năm 1599, từ đó Ngài lo các việc cho toàn thể Hội Thánh, chẳng hạn như vụ án Galilêô và cuộc tranh luận về ơn thánh giữa các cha dòng Daminh và dòng Tên.
Ngài làm Tổng giám mục Capua trong ba năm, rồi chấm dứt những ngày hạnh phúc ấy vào năm 1605 khi Ngài được triệu về Roma và cầm viết bênh vực Giáo hội. Liên tiếp Ngài dàn xếp với Fra Sarpi miền Venice, với vua Giacôbê I nước Anh và với văn sĩ Pháp Guillaume Barchony.
Thánh Robertô qua đời ngày 17 tháng 9 năm 1621, được tuyên thánh năm 1928 và được đặt làm tiến sĩ Hội Thánh năm 1931.
 (daminhvn.net)
++++++++++++++++++
17 Tháng Chín
Lời Nói Không Mất Tiền Mua
Mahatma Gandhi, người đ xướng ch trương tranh đu bt bo đng, đến Phi Châu. Ông vào dùng ba trong mt quán ăn bình dân. Sau khi dùng ba, ông tr tin và nói vi người giúp bàn: "Xin cám ơn vì s t tế ca anh". Người giúp bàn tr li: "Thưa ngài, tôi s không bao gi quên ngài. T 25 năm phc v đây, tôi chưa bao gi nghe được mt tiếng cám ơn".
"Li nói không mt tin mua. La li mà nói cho va lòng nhau". Mt tiếng cám ơn, mt li chào hi, nếu được thc thi vi tt c chân tình là mt biu l ca mt lòng tin sâu sc. Nói mt tiếng cám ơn, biu l mt c ch thân thin vi người khác là mun nói lên rng tình liên đi gia con người là mt điu thiết yếu và ta cn có người chung quanh đ sng vi. Nói mt tiếng cám ơn vi người nào đó là khng đnh giá tr và nhân phm ca người đó. Nhưng đi, có ai mà không cho ta mt món quà hay không dy ta bt c bài hc nào đó.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Ngày 17
Thánh Roberto Bellarminô, 
giám mục, tiến sĩ Hội thánh


Chúa Thánh Thần là chứng nhân đầu tiên giữa chúng ta, Ngài ở trong trái tim và trí khôn của chúng ta, Ngài là chứng nhân của Chúa Kitô hằng sống. Chính Thánh Thần đã xóa bỏ mọi khoảng cách giữa Chúa Giêsu thành Nazareth và tất cả chúng ta. Không có Ngài, Chúa Giêsu không trở thành nhân vật đi vào lịch sử nhân loại. Qua chúng ta, Chúa Thánh Thần làm chứng về thế giới sự hiện diện mới của Chúa Kitô hằng sống, của chân lý và mọi thông điệp thời sự. Ngài làm chứng cho chúng ta. Ngài là ánh sáng, sự dũng mạnh và năng động của sứ mệnh Giáo Hội và mọi kitô hữu.
 
Chúa Thánh Thần là "Thần Khí của sự thật" bởi vì Ngài làm chứng về Chúa Giêsu khi Ngài đã nói: "Ta là sự thật", là mặc khải chân lý của Thiên Chúa. Sự Thật không phải là cái gì trừu tượng nhưng là một con người sống động, chính Chúa Giêsu đã tiết lộ qua lời nói và trong hành động về bản tính của Thiên Chúa. Thánh Thần là nhân chứng đầu tiên của Chúa Giêsu. Chính Ngài đã làm cho chúng ta tin vào sự thật của Chúa Giêsu. Do đó, Chúa Thánh Thần là suối nguồn của niềm tin chúng ta, niềm tin nội tâm. Người kitô hữu không dựa trên sự chắc chắn trí tuệ nhưng trên lời chứng của Chúa Thánh Thần.
Michel Hubaut
Hạnh Các Thánh

Ngày 17 tháng 9
THÁNH RÔBERTÔ BELLAMINÔ, GIÁM MỤC TIẾN SĨ
(1649-1721)

Thánh Rôbertô Bellaminô sinh ngày 04 tháng 10 năm 1642 tại Montepulcianô, nước Ý.
Sau khi đã thụ huấn xong bậc tiểu học trong tư gia, cậu Rôbertô đến theo học trường của các cha dòng Tên ở tỉnh nhà. Trong thời gian học tập ở đây, cậu là một học sinh xuất sắc nhất trường cả về đức dục và trí dục. Đặc biệt hơn cả cậu lại tỏ ra có thiên khiếu âm nhạc. Qua ban trung học, cậu Rôbertô theo lời cha khuyên đi học y khoa ở đại học Pađova rồi xin gia nhập hội Anh em Chúa Giêsu năm 1660. Sau một thời gian thụ tập, thầy Rôbertô được gửi đi học triết lý ở Rôma. Học xong triết lý thầy lại để bốn năm chuyên về văn chương và nghiên cứu sâu xa về thần học. Vì thế, tuy vẫn còn là sinh viên nhưng thầy đã làm cho các bạn phải kính phục về tài uyên bác của mình. Nói đến thầy Rôbertô, không sinh viên nào không nhớ đến những cuộc tranh biện văn chương triết lý do thầy Rôbertô đảm nhiệm. Suốt ba ngày trời trình bày luận đề, Rôbertô đã làm cho nhiều người cảm phục trí khôn thông minh, thiên tài hùng biện và tinh thần khiêm tốn của mình.
Năm 1669, Bề trên dòng lại gửi thầy theo học tại Đại học đường Louvain. Ngoài nhiệm vụ tham khảo thần học, Rôbertô còn có sứ mệnh truyền giáo giữa đám dân trí thức tại đại học đường. Cuối năm 1669, ngài được chịu chức linh mục. Với trí thông minh uyên bác, sau khi mãn khóa, cha Rôbertô được bổ làm giáo sư thần học ngay tại đại học đường Louvain. Ngài giữ ghế giáo sư đó trong sáu năm liền (1669-1676).
Vì điều kiện sức khoẻ không bảo đảm nên sau đó ngài xin phép về quê hương nghỉ ít lâu. Nhưng vì ở đại học mỗi tuần thường có tổ chức cuộc tranh luận mà bề trên không tìm được ai xứng đáng, nên lại triệu ngài về và giao cho nhiệm vụ chủ tọa các lớp tranh luận đó. Trong dịp này, cha Rôbertô đã phải đương đầu với nhiều cuộc tranh luận thuộc đủ mọi vấn đề. Nhưng bao giờ ngài cũng nắm vững được tư tưởng và giải đáp thông thạo. Nhân dịp đó, ngài đã sáng tác nhiều tác phẩm minh giáo danh tiếng. Từ năm 1680, ngài đặc biệt chú trọng đến công việc huấn dụ thiêng liêng cho những người muốn trở lại đạo công giáo và cả những người đã có một căn bản khá.
Năm 1694, cha được làm bề trên tỉnh dòng Tên ở Napôli. Ngài điều khiển cách sáng suốt và khôn ngoan khiến dòng tiến bộ rất nhanh. Năm 1696, ngài được Đức Giáo Hoàng Clêmentê VIII triệu vời về Rôma làm trưởng ban nghi lễ và cố vấn thần học. Để tán thưởng tài đức của cha Rôbertô, Đức Giáo Hoàng muốn phong cho ngài làm Hồng Y, nhưng vì đức khiêm nhường và theo thủ tục dòng, ngài nhất quyết không mang sắc phục. Bề ngoài ngài vẫn ăn mặc đơn sơ, và tinh thần khiêm nhường bác ái vẫn là bạn đường trung thành của thánh nhân. Năm 1702, ngài được phong làm Tổng Giám mục thành Capadoue. Được trao phó bất cứ nhiệm vụ nào, ngài vẫn hăng hái và tận lực hoạt động. Làm Tổng Giám mục thành Capadoue, ngài mang hết tài năng mở rộng nước Chúa bằng giảng thuyết, làm phúc bố thí, trùng tu nhà thờ và củng cố tinh thần đạo đức của mọi giới trong Giáo hội. Thật, ngài xứng đáng là một vị Tổng Giám mục gương mẫu.
Năm 1705, khi Đức Giáo Hoàng Clêmentê VIII băng hà, ngài được triệu về Rôma để dự cuộc hội nghị các Hồng Y, ngày ngài ra đi, ai nấy đều bùi ngùi cảm động, vì dự đoán ngài sẽ không trở về. Quả thực lời dự đoán của họ đã thành sự thực. Khi vừa lên ngôi Giáo hoàng, Đức Phaolô V đã cử ngài vào ban cố vấn và kiêm giữ nhiều chức vụ quan trọng trong các bộ Lễ nghi và bộ Truyền giáo… Để phụng sự Giáo hội một cách đắc lực hơn và để thi hành đức khiêm nhường, ngài đệ đơn xin từ chức Tổng Giám mục. Với đức khôn ngoan lạ thường và kiến thức sâu sắc, thánh Rôbertô đã giải quyết được nhiều khó khăn trong Giáo hội đương thời.
Năm 1706, thánh nhân tranh luận với một thượng nghị sĩ ở Vênitia để bênh vực quyền tối cao của Đức Giáo Hoàng. Tuy vấn đề chưa giải quyết dứt khoát, nhưng ít ra thánh nhân đã làm sáng tỏ vấn đề một phần nào và chinh phục được nhiều đối thủ của Giáo hội. Ngoài ra thánh nhân còn phải đương đầu trong những cuộc tranh luận gay go hơn với Hoàng đế Giacôbê I nước Anh. Hoàng đế cương quyết không nhận quyền của Toà thánh Rôma, bách hại giáo hữu công giáo. Sau khi bị Đức Giáo Hoàng Phaolô V lên án tuyệt thông, nhà vua đã viết một cuốn sách mục đích bài xích quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng. Để tranh đấu với Hoàng đế rối đạo, Đức Giáo Hoàng giao việc này cho thánh Rôbertô. Thánh nhân hăng hái giải đáp minh bạch từng vấn nạn của đối thủ. Ngài xuất bản nhiều sách với mục đích minh chứng quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng là hữu lý và có nền tảng Kinh thánh. Trong thời gian này, ngài không quản khó nhọc thức khuya, dậy sớm nghiên cứu sách vở để bênh vực Hội thánh. Ngoài nhiệm vụ minh giáo, thánh nhân còn được Đức Giáo Hoàng bổ làm Hồng Y Tổng truởng bộ Lễ nghi, và chính ngài đã lập án phong thánh cho nhiều vị như: Raymond Pénafort, Phanxicô Rôma, Borômêô Giám mục thành Milanô và thánh Inhaxiô sáng lập dòng Tên v.v…
Dưới đời Đức Giáo Hoàng Phaolô V, còn xảy ra một cuộc tranh luận sôi nổi giữa các nhà thần học về giáo thuyết Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội. Một số nhà thần học đả phá học thuyết đó, trái lại, một số khác chủ trương công bố thành tín điều. Giữa cuộc tranh luận quá sôi nổi, Đức Giáo Hoàng giao nhiệm vụ giải quyết cho thánh Rôbertô. Trong dịp này thánh nhân cũng đã đem hết tài hùng biện và lý chứng khôn ngoan ra bênh vực giáo thuyết chủ trương Đức Mẹ Vô Nhiễm tội, ngài tâu trình Đức Giáo Hoàng nên công bố giáo thuyết đó, nhưng vì hoàn cảnh chưa thích nghi nên mãi đến ngày 08 tháng 12 năm 1854, Đức Giáo Hoàng Piô IX mới tuyên bố thành tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Ngoài ra, ngài còn lĩnh nhiệm vụ điều khiển dòng Célestin. Tuy công việc bề bộn nhưng ngài vẫn tiếp tục sáng tác sách vở chuyên về minh giáo và tu đức.
Cuối tháng 8 năm 1621, thánh nhân theo thường lệ dành vài ngày đầu tháng 9 mỗi năm để đến tĩnh tâm tại nhà dòng thánh Anrê. Nhưng không ai ngờ lần này là lần cuối cùng kết liễu đời Hồng Y của ngài. Ngài bị sốt nặng cửu tử nhất sinh. Nghe tin ngài lâm bệnh, giáo hữu xúc động lũ lượt kéo đến thăm ngài. Chính Đức Giáo Hoàng Grêgôriô cũng tới thăm và ban phép lành Toà thánh cho ngài.
Thánh Rôbertô qua đời ngày 17 tháng 9 năm 1624, hưởng thọ 79 tuổi. Ngay sau khi ngài mệnh chung, người ta đã tôn kính ngài như một vị thánh. Họ tranh nhau lấy các vật dụng của ngài mang về kính tại tư gia. Năm 1930, Đức Giáo Hoàng Bênêdictô XV phong ngài lên bậc hiển thánh, và tháng 9 năm 1931, Đức Giáo Hoàng lại truyền phong ngài làm tiến sĩ của Giáo hội. Sau nhiều lần thuyên chuyển, hiện nay xác thánh ngài nằm bên mộ thánh Louis Gonzaga tại nhà thờ thánh Inhaxiô bên Ý.
Thánh Rôbertô quả là một nhân vật lỗi lạc đã phụng sự Giáo hội đến hơi thở cuối cùng. Phải chăng, nếu mỗi người chúng ta biết noi theo gương mẫu của ngài để lại mà hoạt động tông đồ và bênh vực Giáo hội, thì có lẽ Giáo hội sẽ còn được thêm vinh quang và nước Chúa còn lan rộng đến chừng nào!
Emmanuel Nguyễn Văn Triệu (1756 – 1798)
Thánh Emmanuel Nguyễn văn Triệu


Emmanuel Nguyễn Văn Triệu, Sinh năm 1756 tại Thợ Ðức, Phú Xuân, Huế, Linh mục, bị xử trảm ngày 17/09/1798 tại Bãi Dâu dưới đời vua Cảnh Thịnh, Đức Lêo XIII suy tôn Chân Phước cho cha Emmanuel Nguyễn Văn Triệu ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh. lễ kính vào ngày 17/09.
Là một linh mục giáo phận Đông Đàng Ngoài, vốn biết bao bận rộn vì công tác mục vụ, nhưng cha Emmanuel Nguyễn Văn Triệu vẫn không quên người mẹ già ở quê nhà. Năm 1798 giữa cơn bách hại gay gắt của vua Cảnh Thịnh, nhất là tại kinh đô, cha đã xin phép Bề trên về Phú Xuân thăm mẹ, và ở lại gần ba tháng để gầy dựng cho bà một mái nhà nhỏ xinh. Chính vì muốn trọn đạo hiếu với mẫu thân mà linh mục đã bị bắt.
Emmanuel Nguyễn Văn Triệu sinh năm 1756 tại làng Kim Long, Phú Xuân (nay là Huế). Thân phụ cậu là ông Cai Lương, Nguyễn Văn Lương, một võ quan Công Giáo phò chúa Nguyễn đã bị tử trận trong một cuộc chiến với Tây Sơn. Sớm mồ côi cha, cậu Triệu sống với mẹ ở Thợ Đúc, gia nhập quân đội năm 1771 khi mới 15 tuổi. năm 1774, anh cùng các bạn gia nhập quân đội của vua Lê chúa Trịnh, chiếm được Phú Xuân. Đến khi Tây Sơn từ phía Nam đánh lên, trở thành chủ nhân ông mới của Phú Xuân, vệ binh Nguyễn Văn Triệu đành theo Trịnh Khải rút về Thăng Long (1786).
Tháng 6 năm đó, quân Tây Sơn thừa thắng xông lên, tiến ra Bắc lấy cớ phò Lê diệt trịnh. Trịnh Khải phải mổ bụng tự tử. Rồi vua Lê Cảnh Hưng băng hà, Lê Chiêu Thống lên ngôi, miền Bắc lại xảy ra nội chiến giữa hai phe Trịnh Lệ và Trịnh Bồng. Chính bối cảnh nhiễu nhương thay ngôi đổi chúa đó đã làm cho anh vệ binh Triệu phải suy nghĩ và đi đến quyết định dứt khoát cho cuộc đời mình.
Ba mươi tuổi đời, mười lăm năm binh nghiệp với biết bao thăng trầm, Emmanuel Triệu bước vào một khúc quanh mới, giã từ vũ khí để phụng vụ Vua trên trời và qua đó phục vụ tha nhân cách đích thực hơn. Mới đầu, anh được một linh mục dòng Tên ở Hà Nội hướng dẫn, nhưng sau anh được Đức cha Obêlar Khâm giáo phận Đông đàng Ngoài nhận vào học tại trường thần học Trung Linh. Và năm 1793, Đức cha Anlonsô Phê truyền chức linh mục. Khi đó cha Triệu đã 37 tuổi.
Nhờ nền giáo dục chu đáo từ nhỏ, cùng với những kinh nghiệm lâu năm trong đời sống quân ngũ, và nhất là ơn Chúa giúp, cha Emmanuel Triệu trở thành một mục tử hăng say nhiệt tình và làm việc có phương pháp. Sáu năm phục vụ trong giáo phận Đông, cha đã thu hoạch được nhiều kết quả và được các bề trên quý mến.
Dưới thời vua Cảnh Thịnh (1792–1802) tình hình chính trị trong nước ngày càng phức tạp. Nguyễn Ánh (vua Gia Long sau này) tổ chức quân đội ngày càng mạnh, hùng cứ ở Gia Định, hằng năm cứ đến mùa gió nồm lại đem quân ra đánh Huế. Hỗ trợ cho Nguyễn Anh có một số quân Pháp do Đức cha Bá Đa Lộc chiêu mộ. Do đó, vua Cảnh Thịnh sinh ra ác cảm với đạo, nhất là cuối năm 1797, khi bắt được lá thư của Nguyễn Anh gửi Đức cha Labartatte Bình (Giám mục Đàng Trong) ở Phú Xuân, nhà vua càng nghi ngờ đạo Công Giáo tiếp tay cho giặc.
Một quan văn có đạo, quan Thượng Hồ Cung Điều nhiều lần thanh minh trước mặt nhà vua rằng: "Đạo dạy trung quân vương, hiếu phụ mẫu, chớ có phải đạo dạy làm giặc đâu". Vua nghe nói thì chần chừ. Nhưng viên quan nội hầu tên Lợi, cứ gièm pha mãi, nên cuối cùng, tháng 8.1798, một chiếu chỉ cấm đạo được ban hành.
Trước đó ba tháng, cha Emmanuel Triệu vì thương nhớ mẹ già, nên trở về khu Chợ Đúc, Phú Xuân (Huế). Thật bùi ngùi cảm động sau 12 năm xa cách, hai mẹ con lại gặp nhau. Giờ đây mái tóc của người mẹ đã bạc phơ, còn con nay đã 42 tuổi và là linh mục của Chúa. Cha Triệu thấy xót xa trước cảnh mẫu thân mình phải ăn nhờ ở đậu nhà người khác. Cha quyết định ở lại, cùng với bà con lối xóm, dựng cho mẹ một mái nhà nhỏ để có nơi nương thân. Thời gian này cha Triệu nhân thể cũng đi thăm viếng và dâng lễ tại các họ đạo gần đó. Cha được các tín hữu ở dây thương mến nhiều.
Ngày 07.08.1798, theo chiếu chỉ nhà vua mới ban hành, bốn cơ binh (mỗi cơ 50 quân) bất thần bao vây bốn giáo xứ vùng kinh đô. Tại xứ Thợ Đúc, quan quân có ý tìm cha chính xứ, cha Nhơn, nhưng nhờ quan Thượng Điều đã báo tin, nên ngài đã trốn thoát kịp. Còn cha Triệu thì mới về, nên quan không biết, quan quân bắt một số giáo hữu trong đó có cha Triệu và tra hỏi về các linh mục. Cha Triệu tự nguyện cung khai, nhận mình là người mà họ lùng bắt. Quân lính liền trói tay cha lại dẫn đi. Khi thấy mẹ già khóc lóc thảm thiết, cha Triệu dừng lại nói ít câu từ giã: "Thiên Chúa đã cho con vinh dự làm chứng cho Ngài. Xin mẹ đừng khóc nữa. Mẹ hãy vui lòng vâg theo ý Chúa".
Tiếp theo đó là 40 ngày đêm thử thách trong cảnh ngục tù. Cổ mang gông, tay chân bị xiềng xích, cha còn bị đưa ra tòa nhiều lần, chịu ba trận đòn dữ dội. Khi các quan thẩm tra lý lịch, cha nói rõ mình sinh quán Phú Xuân, vì hoàn cảnh khó khăn mới phải ra Đàng Ngoài để làm ăn, rồi được học giáo lý trong đạo và làm linh mục. Quan hỏi: "Thày có vợ con ở đây hay ở Đàng Ngoài? Cha đáp: "Tôi không lấy vợ, vì là linh mục nên tôi sống độc thân".
Ngày 17-8 các quan định kết án voi giày nhưng một viên quan không đồng ý nên vụ án được trì hoãn.
Thời gian ở trong ngục, cha Triệu vẫn giữ được niềm vui vẻ và tin tưởng vào Chúa. Điều an ủi cha nhất, là được một linh mục cải trang vào thăm và giải tội. Thân mẫu cha nhiều lần cũng đến thăm. Cha an ủi bà, xin bà cầu nguyện nhiều cho mình được trung kiên. Ngoài ra, cha tranh thủ mọi giờ rảnh rỗi để chuẩn bị tâm hồn lãnh phúc tử đạo.
Ngày xử án được ấn định là 17.9.1798. sáng sớm hôm đó, các quan hỏi cha lần cuối: "Thày có muốn bỏ nghề đạo trưởng trở về quê quán sinh sống không? Nếu thày đồng ý, ta sẽ xin vua tha cho". Cha Triệu khẳng khái trả lời : "Thưa không, tôi là đạo trưởng, tôi thà chết chứ không bỏ việc giảng đạo". Thế là đến gần 10 giờ sáng cha Triệu bị điệu ra pháp trường cùng với sáu tên trộm cướp cũng bị tử hình hôm đó. Cha bước đi bình tĩnh, trang nghiêmnhư một chiến sĩ thận trọng trước giờ lâm chiến. Các tín hữu nghe tin lũ lượt đi phía sau. Đàng trước cha, một người lính cầm thẻ bài đọc ghi bản án:
"Tên Triệu, con nhà Nguyễn Văn Lương, chuyên giảng đạo Hoa Lang, quyến rũ dân chúng theo đạo đáng ghê tởm ấy. Vậy y phải trảm quyết".
Tại Bãi Dâu, nơi thi hành án, cha Triệu quỳ xuống cầu nguyện. Theo thói lệ, quan phát cho mỗi tử tội một quan tiền để ăn uống trước khi chết. Cha từ chối, viên quan liền nói : "Của vua ban không được coi thường". Cha trả lời : "Vậy xin ai đó cầm tiền giúp tôi, gởi cho người nghèo". Một người lính thấy thế liền tát vào mặt Ngài một cái. Viên quan nổi giận mắng anh ta: "Chưa đến giờ xử mà mi dám ngạo ngược như thế sao ?" Rồi ông quay qua mời vị chứng nhân đức tin ngồi và nói : "Khi nào đến giờ, tôi sẽ báo cho thày". Cha Triệu liền ngồi và tiếp tục cầu nguyện.
Đúng giờ ngọ (12 giờ trưa), viên quan nói với vị linh mục : "Giờ đã đến rồi". Cha Triệu quỳ lên giơ cổ cho lý hình chém. Thi hài vị tử đạo được các tín hữu an táng tại họ Dương Sơn, sau được cải vào nhà thờ Dương Sơn.
Đức Lêo XIII suy tôn Chân Phước cho cha Emmanuel Nguyễn Văn Triệu ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.
Nguồn từ Thư viện Đa Minh
 

Trường Thi Tử Đạo

Nguyễn Văn Triệu sinh năm Bính Tý (1756)
Tại Kim Long tỉnh lỵ Thừa Thiên
Gia đình Công giáo tài hiền
Cha làm quan võ quy thiên Nguyễn Triều

Mười lăm tuổi chú Triệu vô lính
Ngự lâm quân triều chính cùng quê
Tây Sơn đánh phá tứ bề
Triều Ðình phải trốn bỏ về miền Nam

Quan miền Bắc đứng làm thủ trưởng
Triệu tháp tùng dưới trướng điều binh
Ði theo như bóng với hình
Quan chuyển về Bắc đem mình đi theo

Cuộc sống mới gieo neo vất vả
Triệu nghĩ suy nên đã đổi thay
Ði tu ý muốn trình bày
Dòng Tên đón nhận đưa ngay đăng trình

Rồi sau đó chuyển Ðaminh Tu Viện
Vị Thừa sai đại diện Rôma
Ðưa thầy Triệu gặp Ðức Cha
Sáu năm thần học sau đà thụ phong

Ơn Thiên Triệu quan phòng Linh mục
Ðược sai đi tiếp tục giảng rao
Giáo lương tình nghĩa dạt dào
Người nghèo giúp đỡ đổi trao nghĩa tình

Cha phục vụ hy sinh năm tháng
Ðược về thăm bóng dáng mẹ hiền
Tuổi già đau ốm triền miên
Nhờ bà đạo đức trong miền giúp cho

Ngài về Huế để lo công việc
Trao lá thư đặc biệt Ðức Cha
Hai ngày trở lại mẹ già
Làm căn nhà nhỏ cho bà an cư

Mấy bà cháu rất ư vui vẻ
Trong căn nhà mát mẻ sống chung
Nhà vua cấm đạo truy lùng
Bắt tìm đạo trưởng khốn cùng khắp nơi

Cha ngoại quốc kịp thời trốn trước
Riêng Cha Triệu phép được thăm quê
Quân quan vây bọc tứ bề
Giáo dân đâu biết để về báo Cha

Ngài bị bắt tại nhà Thợ Ðúc
Ông Trùm Quyên đúng lúc đi xa
Lính bắt ngài chúng hỏi tra
Nhận ngay đạo trưởng chính ta đó mình

Chúng đánh đập thất kinh hai trận
Dòng nữ tu kế cận tiến vào
Tịch thu đồ đạc bỏ bao
Ba mươi chị bắt giải vào kinh đô

Người hiểu biết tiến vô can thiệp
Trả tự do đặc biệt quý Soeurs
Nhà dòng phá hủy chỏng chơ
Cả nhà Cha Triệu nửa giờ phá tan

Bắt Cha Triệu liên can Thầy giảng
Cha với Thầy không nản vẫn vui
Quan Thượng hỏi người trốn chui
Vào Nam giảng đạo ngọt bùi dối đâu

Cha Triệu nói Phú Xuân quê cũ
Bố của tôi Quan Phủ Nguyễn Triều
Hai mươi năm đói tiêu điều
Bỏ nhà ra Bắc từ nhiều năm qua

Tôi may mắn gặp Cha Cố đạo
Ngài giảng rao loan báo niềm tin
Tôi đi theo học sưu tìm
Thấm nhuần đạo Chúa khắc in trong lòng

Rồi sau đó thụ phong Linh mục
Người Tông đồ tiếp tục giảng rao
Lâu năm thăm mẹ trở vào
Tôi là đạo Truởng Chúa trao loan truyền

Quan Thượng hỏi cảm phiền có vợ
Ở đàng ngoài hay ở đàng trong
Cha Triệu nói tôi tu dòng
Ðộc thân phải giữ thật lòng chân tu

Quan ra lệnh nhốt tù nghiêm ngặt
Cổ đeo gông chân chặt xích xiềng
Bốn mươi ngày biệt giam riêng
Ðánh đòn ba trận nát liền trên lưng

Cơm chỉ có muối vừng qua bữa
Ðựng mo cau khe cửa đút vô
Lính canh ăn nói côn đồ
Nản lòng sợ hãi khát khô nước thèm

Quan tra hỏi nhiều phen dọa nạt
Cha trả lời chẳng khác giảng rao
Hùng hồn can đảm tự hào
Thánh Linh phù trợ ban trao cho ngài

Cha Lộc tới bá vai giải tội
Vào thăm tù lính hối đuổi ra
Hôm sau Cha bị hầu toà
Các quan xúi giục hãy đà nghe ta

Bỏ đạo Chúa vua đà trọng thưởng
Về thế gian thụ hưởng thiếu chi
Cha cương quyết chết tức thì
Vẫn theo chân Chúa tử quy Nước Trời

Lính giải ngài đến nơi để chém
Cha quỳ thẳng lính vén tóc lên
Ðầu rơi xuống đất ngay bên
Giáo dân ào đến kêu tên khóc ngài

Chôn cất dấu mấy ai hay biết
Tại một nơi giữa miệt lương dân
Thời gian thuận tiện tới gần
An táng trọng thể mộ phần của Cha

Năm tử đạo chính là Mậu Ngọ (1798)
Thánh năm này tuổi thọ bốn hai
Roma phong thánh cho Ngài
Suy tôn Canh Tý (1900) trần ai mấy người

Lời bất hủ: Trước khi xử tử quan hỏi cha Triệu: "Thầy có muốn bỏ nghề đạo trưởng trở về quê quán sinh sống không? Nếu Thầy đồng ý, ta sẽ xin vua tha cho". Cha Triệu khẳng khái trả lời: "Thưa không, tôi là đạo trưởng tôi thà chết chứ không bỏ việc giảng đạo".

Thứ Hai 17-9

Thánh Robert Bellarmine

(1542-1621)
Khi Robert Bellarmine thụ phong linh mục năm 1570, vấn đề học hỏi lịch sử Giáo Hội và các Giáo Phụ bị lãng quên một cách đáng buồn. Ngay từ thời thanh niên ở Tuscany, ngài đã có triển vọng là một học giả nổi tiếng, vì ngài dành nhiều thời giờ nghiên cứu về những đề tài nói trên, cũng như Kinh Thánh, để hệ thống hóa học thuyết Công Giáo nhằm đương đầu với các cuộc tấn công của Tin Lành. Ngài là linh mục dòng Tên đầu tiên làm giáo sư ở Louvain.
Công trình nổi tiếng nhất của ngài là bộ sách Tranh Luận về Những Mâu Thuẫn trong đức tin Kitô Giáo. Ðặc biệt nhất là các đoạn nói về thế quyền của đức giáo hoàng và vai trò của giáo dân. Ngài chọc tức cả nước Anh và nước Pháp khi chủ trương rằng thần quyền của các vua chúa không thể tồn tại. Ngài khai thác học thuyết về thẩm quyền gián tiếp của đức giáo hoàng trong các giao tế nhân sự; mặc dù ngài bảo vệ đức giáo hoàng chống với triết gia Barclay, ngài cũng bị Ðức Giáo Hoàng Sixtus V tức giận. 
Bellarmine được Ðức Giáo Hoàng Clement VIII tấn phong hồng y là vì "ngài chưa được những gì xứng với tài học." Trong khi sống ở Vatican, Bellarmine không thua gì các nhà tu khổ hạnh. Ngài giới hạn các chi tiêu cá nhân tới mức tối đa chỉ còn những gì thật cần thiết, ngài ăn các thực phẩm dành cho người nghèo. Ðược biết là ngài đã chuộc một người lính bị sa thải khỏi quân đội, và dùng các màn cửa trong dinh cơ của ngài để may quần áo cho người nghèo, vì theo ngài nói, "Các vách tường không thể bị cảm lạnh được."
Một trong những công việc của ngài là trở nên thần học gia của Ðức Giáo Hoàng Clement VIII, và chuẩn bị hai bộ giáo lý có ảnh hưởng rất lớn trong Giáo Hội.
Sự khó khăn sau cùng lớn nhất trong đời Bellarmine là năm 1616 khi ngài phải khiển trách người bạn của ngài là Galileo, người mà ngài rất khâm phục. Bellarmine đại diện cho Tòa Thánh chuyển trao văn thư cảnh cáo, mà trong đó quyết định rằng lý thuyết về thái dương hệ của Galileo thì trái với Phúc Âm. Sự khiển trách chung quy là một lời cảnh cáo đừng đề cao các lý thuyết chưa được hoàn toàn chứng minh -- khác với giả thuyết. Ðây là một thí dụ điển hình cho thấy các thánh vẫn có thể sai lầm.
Bellarmine từ trần ngày 17-9-1621. Tiến trình phong thánh cho ngài được bắt đầu năm 1627 nhưng bị đình hoãn cho đến năm 1930 vì lý do chính trị, phát xuất từ các văn bản của ngài. Vào năm 1931, Ðức Giáo Hoàng Piô XI tuyên xưng ngài là Tiến Sĩ Hội Thánh.

Lời Bàn

Sự canh tân Giáo Hội mà Công Ðồng Vatican II theo đuổi thì thật khó cho nhiều người Công Giáo. Trong sự thay đổi, nhiều người cảm thấy thiếu xót một hướng dẫn vững chắc từ giới có thẩm quyền. Họ mong muốn có những lý luận chính truyền vững như bàn thạch, và một mệnh lệnh cứng cỏi có xác định thẩm quyền hẳn hoi. 
Trong văn kiện Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay, Công Ðồng Vatican II đảm bảo chúng ta rằng, "Có nhiều thực thể không thay đổi và có nền tảng thực sự từ Ðức Kitô, Ðấng hôm qua cũng như hôm nay, và mãi mãi."
Thánh Robert Bellarmine đã hy sinh cuộc đời để nghiên cứu Kinh Thánh và học thuyết Công Giáo. Các văn bản của ngài giúp chúng ta hiểu rằng, không chỉ có nội dung đức tin là quan trọng, mà còn chính con người sống động của Ðức Giêsu Kitô--như được biểu lộ qua sự sống, sự chết và sự sống lại của Người--đó là nguồn gốc của ơn cứu độ.
Nguồn gốc thực sự của đức tin không chỉ là mớ lý thuyết nhưng đúng hơn là con người của Ðức Kitô hiện đang sống động trong Giáo Hội ngày nay.
Khi từ giã các tông đồ, Chúa Giêsu đảm bảo với họ về sự hiện diện sống động của Người: "Khi Thần Khí của chân lý đến, Ngài sẽ dẫn dắt anh em đến chân lý toàn vẹn" (x. Gioan 16:30).

Lời Trích

"Chia sẻ mối quan tâm với tất cả giáo hội, các giám mục hành xử quyền bính của mình, mà họ đã lãnh nhận qua lễ tấn phong, trong sự hiệp thông với Ðức Giáo Hoàng Tối Cao và dưới quyền của người. Tất cả kết hợp thành một tập thể hay thân thể để giảng dạy về Giáo Hội hoàn vũ của Thiên Chúa và để điều hành giáo hội như các mục tử" (Sắc Lệnh về Nhiệm Vụ Mục Vụ của Các Giám Mục, 3).


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét