Trang

Thứ Tư, 26 tháng 9, 2012

27-09-2012 : THỨ NĂM TUẦN XXV MÙA THƯỜNG NIÊN


Thứ Năm sau Chúa Nhật 25 Quanh Năm
* * *

Bài Ðọc I: (Năm II) Gv 1, 2-11
"Chẳng có chi mới lạ dưới mặt trời".
Trích sách Giảng Viên.
Giảng viên đã nói: Phù vân trên mọi phù vân: phù vân trên mọi phù vân, và mọi sự đều là phù vân. Ích lợi gì cho con người làm lụng vất vả dưới mặt trời? Một thế hệ qua đi, một thế hệ khác lại đến: nhưng địa cầu vẫn đứng vững muôn đời. Mặt trời mọc lên rồi lại lặn xuống, trở về chỗ cũ nơi nó lại mọc lên. Gió thổi về hướng nam, rồi quay về hướng bắc; nó thổi xoay chiều khắp bốn phương, rồi quay về vòng cũ.
Mọi sông ngòi đều chảy ra biển mà biển không đầy tràn: nước sông trở về chỗ cũ rồi lại chảy đi.
Muôn vật đều phải làm việc vất vả, và không ai có thể cắt nghĩa tại sao. Mắt xem mãi cũng không chán, tai nghe hoài cũng không thoả.
Sự đã qua là gì? Chính nó là sự sẽ có. Sự đã xảy ra là gì? Chính nó là sự sẽ xảy ra. Chẳng có chi mới lạ dưới mặt trời, cũng chẳng ai nói được rằng: "Ðây cái này mới". Vì nó đã có từ lâu đời trước chúng ta. Người ta cũng chẳng còn nhớ đến tổ tiên và những con cháu sau này; cũng chẳng nhớ đến những người sẽ đến sau.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 89, 3-4. 5-6. 12-13. 14 và 17
Ðáp: Thân lạy Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia (c. 1).
Xướng: 1) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa khiến con người trở về bụi đất, Ngài phán: "Hãy trở về gốc, hỡi con người". - Ðáp.
2) Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ màng buổi sáng, họ như cây cỏ mọc xanh tươi. Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt, buổi chiều nó bị xén đi và nó héo khô. - Ðáp.
3) Xin dạy chúng con biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ? Xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài. - Ðáp.
4) Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con. Xin cho chúng con được hưởng ân sủng Chúa là Thiên Chúa chúng con, sự nghiệp tay chúng con làm ra, xin Ngài củng cố, xin Ngài củng cố sự nghiệp tay chúng con làm ra. - Ðáp.

* * *

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 9, 7-9
"Ông Gioan đã bị trẫm chém đầu rồi, ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm những điều như thế".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, quận vương Hêrôđê nghe biết tất cả các việc Chúa Giêsu đã làm thì phân vân, vì có kẻ nói rằng: "Ông Gioan đã từ cõi chết sống lại"; còn kẻ khác lại nói: "Ông Êlia đã hiện ra"; kẻ khác nữa nói rằng: "Một tiên tri thời xưa đã sống lại". Nhưng Hêrôđê thì nói: "Ông Gioan trẫm đã chém đầu rồi. Ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm những điều như thế?" và vua tìm cách gặp Người.
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Khi nghe biết những phép lạ, những việc làm đầy quyền năng của Ðức Giêsu. Hêrôđê đã tự đặt câu hỏi về Ngài "Ngài là ai?" Và ông đã tìm cách tiếp xúc với Ðức Giêsu để khám phá ra con người của Ngài.
Chúng ta là những người Kitô hữu, những người có đức tin. Vậy chúng ta có thái độ nào khi ngắm nhìn những kỳ công, sự hùng vĩ của vũ trụ, những phi thường nơi con người, những biến cố trong cuộc sống của chúng ta? Chúng ta có biết hướng về Chúa, kiếm tìm và ao ước gặp Chúa trong cuộc sống hay không?

Cầu Nguyện:
Lạy Cha, Cha không là vị Thần bí ẩn. Cha đang hiện diện và đồng hành với chúng con trong cuộc sống. Thế giới bao la xinh đẹp này là phản ánh vẻ huy hoàng tuyệt vời của Cha. Huyền nhiệm thâm sâu của con người là phản ánh vẻ kỳ diệu muôn mặt của Cha. Hình ảnh của Cha được ghi khắc mọi nơi trong vũ trụ, trong muôn loài. Xin Cha cho chúng con có đôi mắt đức tin trong sáng để chúng con luôn sống trong tâm tình tạ ơn. Xin Cha chúc lành cho chúng con vì danh Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.


(Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)
Dấu Hỏi Cho Người Khác
(Lc 9,7-9)
Suy Niệm:
Dấu Hỏi Cho Người Khác
Trong những dòng cuối cùng của Thông điệp "Hòa Bình Dưới Thế", Ðức Gioan XXIII đã định nghĩa một người Kitô hữu chân chính: Mỗi người Kitô hữu trong thế giới phải là một mảnh sao băng chiếu sáng, là tụ điểm của tình yêu, là men sống động giữa anh em mình. Người Kitô hữu càng đóng trọn vai trò của mình, khi càng sống mật thiết với Chúa. Người Kitô hữu không sống cho mình, nhưng sống cho và vì người khác. Một mảnh sao băng chỉ chợt lóe lên rồi lịm tắt, nhưng cũng đủ thu hút con người về một góc trời nào đó; một chút men bé nhỏ trong khối bột, nhưng cũng đủ làm dậy cả khối bột. Như thế đó, sự hiện diện của người Kitô hữu, có sức thu hút, tạo chú ý, quấy rầy lương tâm người khác, nếu cuộc sống ấy là một cam kết, một dấn thân trọn vẹn.
Tin Mừng hôm nay cũng muốn nhắc nhở chúng ta về chân lý ấy. Qua lời nói, việc làm, và nhất là cuộc sống của Ngài, Chúa Giêsu đã không ngừng là một dấu hỏi cho người đương thời. Mỗi người một câu trả lời, nhưng bất cứ ai cũng được mời gọi để bày tỏ lập trường đối với con người của Chúa Giêsu. Riêng Vua Hêrôđê, ông tiến thêm một bước là muốn đến gặp Chúa Giêsu.
"Còn các con, các con bảo Thầy là ai?" Câu hỏi ấy, Chúa Giêsu không ngừng đặt ra cho chúng ta, và qua chúng ta, Ngài tiếp tục đặt ra cho mọi người. Qua cuộc sống của mình, người Kitô hữu cũng phải là một câu hỏi cho những người chung quanh; và dĩ nhiên câu hỏi càng trở nên dồn dập khi cuộc sống ấy là một hành trình đi ngược dòng đời.
Giữa một xã hội lấy bon chen làm khuôn vàng thước ngọc, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi, nếu họ tiếp tục sống tinh thần nghèo khó. Giữa một xã hội lấy hận thù làm luật sống, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi nếu họ vẫn tiếp tục yêu thương và tha thứ đến cùng. Giữa một xã hội mà nhiều người thường buông xuôi, thất vọng, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là câu hỏi, nếu họ tiếp tục sống lạc quan tin tưởng vào Ðấng luôn hiện diện trong lịch sử nhân loại. Giữa một xã hội mà sự tử tế đối với nhau đã thành một thứ xa xỉ phẩm, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi, nếu họ tiếp tục sống tử tế với mọi người, ngay cả những người thù địch. Sống như thế quả là một đòi hỏi gay go, nhưng đó không chỉ là một cố gắng suông, mà là một thể hiện của một cuộc sống mật thiết với Chúa. Không có ơn Chúa, không sống kết hiệp với Chúa, người Kitô hữu không thể đi đến cùng những cam kết sống chứng nhân của họ.
Xin Chúa ban thêm sức mạnh, để trong cuộc sống chứng tá, chúng ta luôn xác tín rằng chúng ta đang sống nhờ Chúa, với Chúa và cho Chúa.
(Veritas Asia)

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Năm Tuần 25 TN2

Bài đọc: Eccl 1:2-11; Lk 9:7-9.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Lẫn lộn!

Có biết bao nhiêu những lẫn lộn trong cuộc đời: lẫn lộn giữa vàng thật và vàng giả, giữa sự thật và sự dối trá, giữa người lương thiện và kẻ ác nhân… Đã không biết bao lần chúng ta đã phán đóan sai lầm vì không học được chữ ngờ! Bài đọc I hôm nay tập trung trong các lẫn lộn về cuộc đời. Phúc Âm tường thuật những lẫn lộn của nhiều người và của tiểu vương Hêrôđê về Chúa Giêsu.



KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Lẫn lộn về cuộc đời: Đâu là ý nghĩa đích thực của cuộc đời?

(1) Ông Qôhelét mở đầu sách bằng nhận xét của ông về cuộc đời: "Phù vân của mọi phù vân. Phù vân của mọi phù vân. Tất cả là phù vân.” Chữ “phù vân” dịch từ tiếng Do Thái (hebel), có nghĩa là hơi nước hay hơi thở. Chúng thóat ra ngòai, bay lên không, rồi tự tan biến vào không gian mà không ai thấy. Tiếng Hy-Lạp của bản LXX là “mataio,thj,” có nghĩa hư ảo hay không có giá trị gì cả. Cuộc đời của con người giường như cũng thế: mỗi người có mặt trên dương gian trong khỏang một thời gian, cố gắng tạo cho mình một cái gì đó, nhưng rồi cũng qua đi chẳng để lại một vết tích gì cả.



(2) Kết luận trên đến từ những quan sát tỉ mỉ của ông Qôhelet về cuộc đời con người và các biến chuyển của thiên nhiên trong vũ trụ:

- Con người ra sức làm việc để tạo cho mình có một tài sản, nhưng khi xuôi hai tay nằm xuống thì có mang được gì đâu; tất cả đều phải để lại cho người khác hưởng. Con người qua các thế hệ nối tiếp nhau qua đi, nhưng tài nguyên vẫn tồn tại trong thế giới.

- Các biến chuyển của thiên nhiên trong trời đất: “Mặt trời mọc rồi lặn; mặt trời vội vã ngả xuống nơi nó đã mọc lên. Gió thổi xuống phía Nam, rồi xoay về phía Bắc: gió xoay lui xoay tới rồi gió đi; gió trở qua trở lại lòng vòng. Mọi khúc sông đều xuôi ra biển, nhưng biển cũng chẳng đầy. Sông chảy tới đâu thì từ đó sông lại tiếp tục.”

- Chẳng có gì mới lạ dưới ánh mặt trời vì tất cả đều là bổn cũ sọan lại như lời Qôhelet nhận xét: “Chuyện gì cũng nhàm chán, chẳng thể nói gì hơn. Mắt có nhìn bao nhiêu cũng chẳng thấy gì lạ, tai có nghe đến mấy cũng chẳng thấy gì mới.”

Nêu lên tất cả các nhận xét trên đây, ông Qôhelet có mục đích giúp mỗi người chúng ta dừng lại để đặt câu hỏi cho những gì chúng ta đang theo đuổi. Câu hỏi tối quan trọng cho mọi người: Đâu là ý nghĩa đích thực của cuộc đời? Chắc chắn ý nghĩa của cuộc đời không hệ tại ở chỗ có tài sản vì tất cả rồi cũng qua đi. Ý nghĩa của cuộc đời cũng không hệ tại ở chỗ tìm ra các điều mới lạ, vì cái gì con người tưởng mới đã xảy ra trong lịch sử; và con người chẳng làm thay đổi được những gì đã có sẵn trong thiên nhiên. Ý nghĩa của cuộc đời cũng chẳng hệ tại ở chuyện lưu danh cho hậu thế, vì tất cả các việc làm dù có tốt đến đâu rồi cũng bị rơi vào quên lãng.

2/ Phúc Âm: Tiểu Vương Hêrôđê lẫn lộn về Chúa Giêsu: từ chỗ muốn được gặp đến chỗ khinh thường sau khi gặp.

Tiểu vương Hêrôđê Antipas là một trong 3 người con của Vua Hêrôđê Cả và bà Malthrace. Ông được vua cha cho cầm quyền hai vùng: Galilee và Perea. Trong Tân Ước, ông luôn được gọi là người đã tống ngục và chém đầu Gioan (Mat 14:3-12 = Mk 6:17-29; Ant 18.5.2) và chất vấn Chúa Giêsu khi Ngài ra tòa tại Jerusalem (Lk 23:6-12). Hai người con khác của ông là Philip và Archelaus. Philip là tiểu vương vùng phía Đông Jordan, từ Caesarea cho tới Bethabara. Archelaus là tiểu vương của SamariaJudea.

(1) Ông nghe những người khác nói về Chúa Giêsu: Là tiểu vương của vùng Galilee, nơi mà Chúa Giêsu đã làm rất nhiều phép lạ và dùng đa số thời gian của Ngài trong 3 năm để rao giảng; chắc chắn ông đã nghe những lời đồn thổi rất nhiều về Chúa Giêsu. Có người nói: "Đó là ông Gioan từ cõi chết trỗi dậy," vì tính tình của Ngài cũng nhiệt thành và thẳng thắn như Gioan. Kẻ khác nói: "Ông Êlijah xuất hiện," vì Ngài có uy quyền làm phép lạ như tiên tri Elijah. Kẻ khác nữa lại nói: "Đó là một ngôn sứ thời xưa sống lại," vì những lời rao giảng xác tín của Ngài. Nói tóm, tất cả mọi người đều nghĩ Chúa Giêsu là một con người đặc biệt, nhưng không ai nghĩ Ngài là Emmanuel, Thiên Chúa từ trời xuống để ở với con người.

(2) Tiểu vương Hêrôđê băn khoăn suy nghĩ về Chúa Giêsu: "Ông Gioan, chính ta đã chém đầu rồi!” Nếu quả là Gioan từ cõi chết sống dậy thì tiểu vương Hêrôđê có lý do để khiếp sợ Gioan báo thù. Sau đó, ông tìm cách gặp Đức Giêsu để tìm hiểu về Ngài. Trong cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, khi Tổng Trấn Philatô biết Chúa Giêsu là người Galilee, ông liền cho áp giải người đến với Tiểu Vương Hêrôđê, lúc đó cũng đang có mặt tại Jerusalem. Tin Mừng Luca tường thuật: “Khi Vua Hêrôđê thấy Đức Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu vua muốn được gặp Người bởi đã từng nghe nói về Người. Vả lại, vua cũng mong được xem Người làm một hai phép lạ. Nhà vua hỏi Người nhiều điều, nhưng Người không trả lời gì cả. Các thượng tế và kinh sư đứng đó, tố cáo Người dữ dội. Vua Hêrôđê cũng như thị vệ đều khinh dể Người ra mặt nên khoác cho Người một chiếc áo rực rỡ mà chế giễu, rồi cho giải Người lại cho ông Philatô” (Lc 23:8-11).

Cho dẫu tiểu vương Hêrôđê có dịp gặp Chúa Giêsu nơi dinh quan Tổng Trấn Philatô, ông vẫn không nhận ra Chúa là ai, vì ông sống và hành động hòan tòan theo tính xác thịt của con người; nhất là khi thấy Chúa bị đối xử như một tử tội. Ông khác với thánh Phêrô là người được Thiên Chúa soi sáng cho biết đích thực Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa hằng sống.



ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Để biết nhìn đúng và tránh được lẫn lộn, chúng ta đừng chỉ nhìn hời hợt bề ngòai, nhưng phải nghiên cứu và tìm tòi cho đến nơi; nhất là câu hỏi về ý nghĩa của cuộc đời.

- Chúng ta cần chính mình tìm hiểu về Chúa và rút ra kết luận như thánh Phêrô, chứ không chỉ nghe người khác nói lại về Chúa như tiểu vương Hêrôđê.

- Tất cả mọi sự trên đời là phù hoa. Chỉ có một điều vững bền muôn đời là Thiên Chúa. Chỉ có một nguồn Sự Thật đã được mặc khải là qua Đức Kitô, chúng ta biết về Thiên Chúa và về mọi sự xảy ra trong vũ trụ trong mối tương quan với Thiên Chúa.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP

****************

Thứ Năm tuần 25 thương niên
Sứ điệp: Tư tưởng và hành động của Chúa Giêsu đã tạo ra vấn nạn cho người đương thời: Chúa Giêsu là ai? Trải qua các thời đại, cho đến hôm nay, người ta vẫn không ngừng tìm hiểu về Ngài: Bởi vì con người Giêsu là một mầu nhiệm.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, những người Do thái đã gặp gỡ Chúa, đã sống với Chúa, nhưng họ vẫn không biết rõ về Chúa. Vua Hê-rô-đê đã nghe dư luận về Chúa và ông thắc mắc muốn tìm hiểu để biết Chúa là ai. Nhưng cuối cùng ông không được toại nguyện, vì ông chỉ muốn thoả mãn tính hiếu kỳ mà thôi.
Lời Chúa hôm nay nhắc con tự vấn thái độ của con qua những lần con gặp Chúa trong thánh lễ và các bí tích. Khi tìm hiểu lời nói, hành động của Chúa trong Tin Mừng, con ngỡ rằng đã hiểu Chúa nhiều hơn, nhưng thực ra nhiều lần con đã chẳng hiểu gì. Xin Chúa giúp con không bao giờ đóng khung khuôn mặt của Chúa trong những chữ viết, trong những thành kiến, nhưng biết khám phá khuôn mặt Chúa đang sống động trong cuộc đời con, nơi anh em con, nhất là nơi những người nghèo khổ và bất hạnh.
Lạy Chúa, không ai có thể khám phá khuôn mặt Chúa thay con được, nhưng chính con phải tự khám phá trong suốt cả cuộc đời. Xin Chúa giúp con luôn kiên nhẫn kiếm tìm. Xin ban cho con đôi mắt luôn trong sáng để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong từng giây phút của cuộc sống. Xin ban cho con đôi tai luôn biết mở rộng để lắng nghe tiếng Chúa gọi mời. Xin giúp con sống điều Chúa dạy để người khác cũng nhận ra bóng dáng Chúa đáng yêu nơi chính cuộc đời con. Amen.
Ghi nhớ : "Ông Gioan đã bị trẫm chém đầu rồi, ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm những điều như thế".

27/09/12 THỨ NĂM TUẦN 25 TN
Th. Vinhsơn Phaolô, linh mục
Lc 9,7-9


VÂNG NGHE TIẾNG LƯƠNG TÂM

Vua Hêrôđê nói: “Ông Gioan, chính ta đã chém đầu rồi! Vậy thì ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?” Rồi vua tìm cách gặp Đức Giêsu. (Lc 9,9)

Suy niệm: Nghe biết những phép lạ Chúa Giêsu đã làm, Hêrôđê không khỏi phân vân. Phải chăng ông bị cắn rứt vì toà án lương tâm nơi ông vẫn tiếp tục lên tiếng? Thật vậy, khi phạm tội tày trời là cướp vợ anh mình, bị Gioan cảnh báo, “nhà vua rất phân vân nhưng lại cứ thích nghe” (Mc 6,20). Đã thế ông không hối cải mà lại càng lún sâu vào tội lỗi: trong một phút cao hứng lỡ lời ông hứa càn với con gái Hêrôđia, và vì sĩ diện ông đã truyền chém đầu Gioan Tẩy Giả. Phải chăng lương tâm không ngừng cắn rứt ông vì những tội ác đó nên ông lại phân vân và tìm cách gặp Chúa Giêsu? Thế nhưng sự hối hận của nhà vua chỉ là một thoáng phù du. Ông tìm gặp Chúa Giêsu chỉ để kiểm tra xem con người làm nhiều phép lạ đó có phải là Gioan hiện về đòi nợ máu ông hay không. Đáng tiếc cho ông, Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn bị điệu tới trước mặt ông nhưng Ngài chỉ im lặng (Lc 23,8-9).

Mời Bạn: Một nhà thơ đã viết rằng: “Nếu bạn tự thấy tâm an, ở đâu cũng thấy như đang ở nhà.” Tội lỗi làm cho người ta bất an, họ nơm nớp lo sợ bị phát hiện, trả thù… Một tâm hồn bình an là một tâm hồn sạch tội, sống hòa hợp với thiên nhiên và mọi người.

Chia sẻ về một lần bạn không vâng nghe theo tiếng lương tâm; bạn cảm thấy lo sợ bất an như thế nào?

Sống Lời Chúa: Dành ít phút hồi tâm cuối ngày, tạ ơn Chúa về những điều tốt đã làm, xin lỗi Ngài về những lỗi lầm thiếu sót và quyết tâm ngày hôm sau tốt hơn.

Cầu nguyện: Đọc kinh Ăn năn tội.


Ông này là ai ?

 Nhiều người đã đặt câu hỏi: “Ông Giêsu này là ai?” Hôm nay nhân loại vẫn đặt câu hỏi quan trọng đó. Để trả lời, phải bước vào một cuộc hành trình, bỏ lại những thành kiến. 



Suy nim:
Đức Giêsu với các môn đệ của Ngài đã nổi tiếng ở vùng Galilê,
qua các hoạt động rao giảng và chữa bệnh.
Tiếng đồn về Ngài ngày càng lan rộng (Lc 5, 15).
Điều đó hẳn đã đến tai của Hêrôđê (c. 7),
vị tiểu vương cai quản vùng Galilê trong hơn bốn mươi năm (Lc 3, 1).
Hêrôđê bối rối và lúng túng trước những tin mình nhận được.
Ông đã cho chém đầu Gioan Tẩy giả, kẻ được coi là ngôn sứ (c. 9).
Bây giờ lại nổi lên một người khác tên là Giêsu.
Người ta đồn đãi nhiều về nhân vật Giêsu này.
Có một số người nói ông này là Gioan bị chém đầu nay sống lại.
Có những người khác nói đó là ông Êlia tái giáng
sau khi đã được đưa về trời trong cơn gió lốc (2V 2, 11).
Cũng có những kẻ nói Giêsu là một ngôn sứ nào đó thời xưa sống lại.
Quả thật nhìn việc làm, lời giảng và lối sống của Giêsu,
người ta dễ thấy Ngài là một ngôn sứ (x. Lc 7, 16-17).
Mà chính Đức Giêsu cũng nhận mình là ngôn sứ (Lc 4, 24; 13, 33).
“Ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?”
Hêrôđê tò mò muốn biết Ngài là ai.
Ông không tin Đức Giêsu là Gioan bị chém đầu, nay sống lại.
Và ông tìm cách gặp mặt Ngài (c. 9).
Hêrôđê đã được gặp Đức Giêsu trong cuộc Khổ Nạn (Lc 23, 6-12).
Lúc ấy Ngài xuất hiện trong tư cách một phạm nhân.
Dù vậy Hêrôđê cũng vui sướng vì ước ao của mình được thỏa nguyện.
Ông đã nghe Ngài làm được những phép lạ lớn lao,
nên ông ước mong được chứng kiến tận mắt một vài phép lạ.
Tiếc thay Đức Giêsu đã không muốn chiều Hêrôđê.
Ngài đã không trả lời ông, cũng chẳng làm một phép lạ nào.
Ngài thanh thản bình an trước những lời tố cáo của các thượng tế.
Ngài không muốn tránh cái chết mà Ngài biết nằm trong ý định của Cha.
“Ông này là ai ?”, Hêrôđê đã tìm thấy câu trả lời khiến ông bị hụt hẫng.
Giêsu chỉ là một anh khờ dại, chỉ đáng bị khinh bỉ và chế giễu.
Cuộc tìm kiếm với nhiều tò mò của Hêrôđê kết thúc.
Ông chẳng bao giờ biết được Đức Giêsu thật sự là ai.
Nhiều người đã đặt câu hỏi: “Ông Giêsu này là ai?” (Lc 5,21; 7,49; 8,25).
Hôm nay nhân loại vẫn đặt câu hỏi quan trọng đó.
Để trả lời, phải bước vào một cuộc hành trình, bỏ lại những thành kiến.
Tò mò, thích những điều giật gân, muốn thấy những điều lạ thường:
tất cả những điều ấy không giúp ta khám phá mầu nhiệm một con người.
Sự thật về Giêsu có khi lại được nhận ra qua cái im lặng cam chịu,
qua sự bất lực đớn đau trên thập giá hơn là qua sự thi thố quyền năng.
Phải đổi toàn bộ cái nhìn của mình để nhận ra được Giêsu là ai,
để không vội vã đánh giá Ngài dựa trên tiêu chuẩn người đời.
Như Hêrôđê, chúng ta có thể có cơ hội gặp mặt Giêsu,
nhưng vẫn không biết Ngài là ai.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa,
khi đến với Chúa
con tháo bỏ đôi giày: những tham vọng của con
con cởi bỏ đồng hồ: thời khóa biểu của con,
con đóng lại bút viết: các quan điểm của con,
con bỏ xuống chìa khóa: sự an toàn của con,
để con được ở một mình với Ngài,
lạy Thiên Chúa duy nhất và chân thật.
Sau khi được ở với Ngài,
con sẽ xỏ giày vào
để đi theo đường của Chúa,
con sẽ đeo đồng hồ
để sống trong thời gian của Chúa,
con sẽ đeo kính vào
để nhìn thế giới của Chúa,
con sẽ mở bút ra
để viết những tư tưởng của Chúa,
con sẽ cầm chìa khóa lên
để mở những cánh cửa của Chúa.
(Graham Kings)

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

"Ông Gioan đã bị trẫm chém đầu rồi, ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm những điều như thế".
Kinh nghiệm của vua Hêrôđê


Bài Phúc Âm hôm nay nhắc chúng ta nhớ đến mối tương quan giữa Chúa Giêsu và vua Hêrôđê. Vua Hêrôđê là ai? Dựa theo vài chi tiết trong Phúc Âm, chúng ta có thể nói ông là một con người dám làm điều nghịch lại với lương tâm mình vì say mê quyền hành và danh vọng. Dĩ nhiên, ông biết rõ điều gì đúng và điều gì sai, ông biết rằng ông không nên sống với người đàn bà không phải là vợ của mình, ông biết rõ ông không nên chiều theo áp lực của những bạn bè, ông biết rõ ông không được giết người vì sự sống con người là thiêng thánh. Nhưng ông đã làm những điều xấu đó, ông đã hành động nghịch lại với lương tâm vì áp lực xã hội. Khuyết điểm khác nữa cũng của vua Hêrôđê là sau khi đã hành động nghịch lại lương tâm, ông muốn trấn an lương tâm và thuyết phục mình rằng không có gì sai quấy trong việc đã làm. Ông đã giết chết Gioan Tẩy Giả, nhưng khi ông thấy Chúa Giêsu Kitô thì ông tự nhủ là Gioan đã sống lại và như thế thì mình không có lỗi gì và rằng điều xấu ông đã làm đã được đền bù. Vua Hêrôđê đã hành động nghịch lại lương tâm và tệ hại nhất là việc ông không muốn đối diện với yêu cầu của lương tâm, ông đã hành động nghịch lại với lương tâm và muốn che đậy những gì mình đã làm.
Căn bệnh của vua Hêrôđê tiếp tục là căn bệnh của chúng ta. Nhiều người trong chúng ta hành động nghịch lại với lương tâm; chúng ta biết rõ điều gì nên làm nhưng chúng ta lại không làm điều đó, vì chúng ta sợ kẻ khác sẽ nói; chúng ta biết rõ điều gì nên làm nhưng chúng ta lại không làm, bởi vì chúng ta yêu thích những niềm vui nhục dục hơn mọi sự khác; chúng ta biết rõ điều gì nên làm, lương tâm chúng ta dạy chúng ta rằng chúng ta nên sống liêm chính, nhưng chúng ta vẫn gian lận với nhau và lường gạt những kẻ thân yêu nhất, bởi vì rất dễ làm như vậy. Ðiều tệ hại là sau khi đã hành động nghịch lại lương tâm chúng ta che đậy căn bệnh bằng miếng băng cứu thương và giả đò mọi sự vẫn như bình thường. Sau khi hành động nghịch lại lương tâm, chúng ta che đậy tội ác, dường như thể không có gì xảy ra cả.
Thật là khủng khiếp biết chừng nào việc chúng ta phạm tội rồi chối bỏ không nhận tội. Tội nặng nề nhất của thời đại chúng ta là việc chối bỏ điều tội trong chúng ta. Chúng ta hãy trở về lại nơi chúng ta cần phải làm, trở về lại với bản tính tự nhiên của mình. Có lúc vua Hêrôđê khao khát muốn gặp Chúa Giêsu, chúng ta không biết đây là vì tò mò hay là vì tiếng lương tâm thúc đẩy, vì trong nội tâm còn có chút khao khát muốn thoát ra khỏi vòng nô lệ của tội lỗi, nhưng khao khát của vua Hêrôđê có lẽ còn quá yếu ớt và có thể là vì những điều trần tục và những sự đam mê không được phép bóp chết đi.
Chúa Giêsu đã cho vua Hêrôđê được dịp gặp Ngài trong cuộc thương khó và chúng ta biết rõ vua Hêrôđê đã bỏ qua tất cả cơ hội để sống với thực thể thật của Chúa Giêsu, đã bỏ mất cơ hội canh tân đời sống mình. Chúng ta hãy học lấy kinh nghiệm của và từ vua Hêrôđê, ông đã hành động nghịch lại lương tâm và đã che giấu tội ác của mình.
Phần chúng ta, ước chi chúng ta không rơi vào cùng một lỗi lầm như vậy và cũng đừng bóp chết chút khao khát còn sót lại trong tâm hồn sau phút lầm lỗi, để khiêm tốn ăn năn thống hối trở về với tình yêu Thiên Chúa.
Lạy Chúa,
Xin thương hướng dẫn con trở về với Chúa mỗi lần con lầm lỗi, xúc phạm đến Chúa và anh chị em chung quanh. Xin cho con biết lắng nghe lương tâm và thực hành và thực hành điều lương tâm chỉ dạy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Đức Giêsu gây nhiều câu hỏi
“Ông Gio-an ta đây đã chém đầu rồi! Vậy ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?”Rồi vua tìm cách thấy mặt Đức Giêsu. (Lc. 9, 9)
Không phải quá khứ mới đặt câu hỏi về Người. Ngày nay vẫn còn nhiều câu hỏi lúng túng hơn xưa về Đức Giêsu. Lúc còn sinh thời, Người đã có vấn đề. Ông hoàng Hê-rô-đê xứ Galilê nghe tất cả những điều Người nói và làm. Ngay ở một thời, cả khối trung đông không cóvấn đề gì lớn,thế mà ông đã có những thông tín viên săn lùng tin tức cho ông. Tiếng tăm về Đức Kitô lan ra hầu khắp nơi. Những ý kiến về Người: tốt có, xấu có được loan truyền rộng rãi như trong thế giới chúng ta hiện nay.
Phải chọn lựa thế nào? làm sao biết được chính xác về nhân vật kỳ lạ nay?
Những người này coi Người là Gio-an Tẩy Giả đã sống lại. Những người khác cho là Ê-li-a tái xuất hiện. Nhiều kẻ nói: đây là một trong những tiên tri thời xưa sống lại. Họ đã có ý kiến khác xa nhau về cùng một vấn đề, quần chúng dễ tin và hầu như lúc nào cũng thèm khát những điều lạ lùng dễ cảm động. Đức Kitô, qua sứ điệp và cử chỉ cư xử của mình, đã nuôi nấng cái lòng ham thích lẫn lộn của những hạng người nhỏ bé chỉ biết hướng về cái trước mắt và tầm thường.
Hê-rô-đê bối rối về những tin đồn về Đức Giêsu, vì ông không bao giờ có lương tâm yên ổn. Ông không thể quên Gio-an đã bị ông ra lệnh chém đầu. Ông luôn tự vấn, nếu chém đầu một người vô tội và thánh thiện, sẽ bị công lý trừng phạt. Ông cũng muốn gặp Đức Giêsu. Ông mong có ngày sẽ gặp Người, nhưng như với Gio-an, ông sẽ bỏ qua một bên ơn phúc được ban cho ông.
Những người của thế kỷ chúng ta vẫn tiếp tục tra hỏi về Đức Kitô. Những người này khám phá thấy Người là con Thiên Chúa và con Đức Maria. Những người khác chẳng bao giờ đi đến cùng sự thật về căn tính của Người. Bất hạnh thay! Tại sao thế? vì lý lẽ của họ giống như của Hê-rô-đê, không có lòng khiêm tốn cần thiết để chấp nhận những điều khó hiểu của đức tin và họ không có tinh thần từ bỏ mà đức tin yêu cầu. Sự thật về Đức Kitô, theo Tin Mừng của Người là một thách đố phiền phức. Chỉ có những người có tinh thần nghèo khó mới có thể được nâng lên tới đỉnh vinh quang.
GF.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 9
27 THÁNG CHÍN
Được Xức Dầu Là Được Tăng Lực
Đức Giám Mục, chung quanh có các linh mục hữu trách cộng đoàn giáo xứ, kêu xin Chúa Thánh Thần ban cho mỗi người chúng ta ân sủng của Ngài: “Xin ban cho họ… thần trí khôn ngoan và thông hiểu, thần trí lo liệu và sức mạnh, trần trí suy biết và đạo đức, xin ban cho họ đầy lòng kính sợ Chúa”.
Lời cầu nguyện ấy được nối tiếp bởi việc xức dầu thánh. Đức Giám Mục đã kêu xin Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta trở thành đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Thực vậy, Con Thiên Chúa đã làm người để dẫn dắt mọi người đến sự viên mãn của Chúa Thánh Thần, Đấng mà Ngài không ngừng ban tặng cho con cái loài người. Đây là Đức Kitô, Đấng Mêsia, có nghĩa là Đấng được xức dầu. Người là Đấng đầu tiên được Thánh Thần xức dầu và thông ban sức mạnh. Qua Bí Tích Thêm Sức, bằng một cách thế đặc biệt, chúng ta trở thành người thông dự trong Thánh Thần mà Đức Kitô đã mang đến cho chúng ta.
Đức Giám Mục vừa xức dầu trên trán những người lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức vừa cầu nguyện: “Hãy lãnh nhận ấn tín ơn Chúa Thánh Thần”, và từng người đáp lại: “Amen” (ước gì được như vậy). Sau đó Đức Giám Mục chào những người lãnh nhận Bí tích Thêm Sức: “Bình an của Chúa ở cùng con !” (Ga 20,19). Đây chính là những lời mà Đức Kitô Phục sinh đã nói khi Ngài ban Thánh Thần cho các tông đồ. Vâng, chúng ta hãy hoan hỷ trong ân sủng mà Chúa Thánh Thần đang trao ban các bạn trẻ của chúng ta. Chúa Thánh Thần là nguồn suối bình an của Thiên Chúa vọt lên trong con người và đem lại cho họ sự sống đời đời. Hãy chúc tụng Thiên Chúa !
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 27-9
Thánh Vinh Sơn Phaolô, linh mục;
Gv 1, 2-11; Lc 9, 7-9.
LỜI SUY NIỆM: Còn vua Hêrôđê thì nói: “Ông Gioan, chính ta đã chém đầu rồi! Vậy ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?” Rồi vua tìm cách gặp Đức Giêsu.”
          Trong một cuộc vui cao hứng bởi một vũ điệu hấp dẫn, Vua Hêrôđê đã đưa ra một lời hứa thiếu suy nghĩ, và rồi vì thể diện của mình, nhà vua phạm thêm tội: giết chết một người tốt, mà từ thâm tâm ông vẫn kính nể. Để rồi hôm nay phải hối hận và run sợ, mặc dầu đã tự trấn an với lòng mình: là không còn có ông Gioan. Trong đời sống của mỗi con người, đôi khi cũng đã phạm một tội nào đó rồi vẫn áy náy, không yên tâm, làm sao để được tha thứ. Đối với chúng ta là những Kitô hữu chúng ta được một hạnh phúc là có Chúa. Vị Chúa của chúng ta là Đấng hằng yêu thương, và có toàn quyền tha thứ cho tất cả tội nhân. Sau mỗi lần phạm tội, nếu chúng ta biết sám hối, ăn năng dóc lòng chừa và làm việc đền tội. Chúng ta tin là tội của chúng ta đã được tha. Để an tâm sống tốt hơn.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân

NGÀY 27-09 THÁNH VINHSƠN PHAOLÔ - LINH MỤC (1581 - 1660)
Gia đình Phaolô là những nông dân tại Pouy, gần Dax. Vincentê sinh năm 1581 là con thứ ba trong gia đình sáu người con. Trong những ngày còn thơ ấu, Ngài lo chăn cừu cho cha. Giữa miền đồi lộng gió này, Vincentê đã trải qua nhiều giờ trong ngày để chiêm ngắm cảnh đồng quê và hướng lòng lên cùng Chúa. Thời gian này cũng cho Ngài những kinh nghiệm đầu tiên về số phận của người dân quê. Từ đó, lòng bác ái sớm nẩy nở trong tâm hồn Vincentê. Có lần thu góp được 30 xu, số tiền đáng kể đối với Ngài, nhưng Ngài đã tặng tất cả cho những người cùng khốn. Lần khác trên đường tới nhà máy xay Ngài âm thầm lấy một số bột bố thí cho người nghèo.
Thấy con mình có lòng bác ái lại thông minh, ông Gioan đệ Phaolô quyết hy sinh cho Vincentê theo ơn gọi làm giáo sĩ. Vincentê theo học các cha dòng Phanxicô tại Dax. Nhưng để tiếp tục chương trình đại học của Vincentê, cha Ngài đã phải bán bầy cừu lo cho tương lai của con. Dầu vậy, khi học thần học tại Toulouse, Vincentê cũng vừa lo học vừa lo dậy kèm tư gia kiếm tiền bớt gánh nặng cho gia đình.
Sau khi thụ phong linh mục trong hai năm trời Vincentê biến mất. Cho đến ngày nay người ta vẫn không biết rõ trong thời gian này Vincentê ra sao. Người ta kể lại rằng có một góa phụ tại Toulouse đã công đức tất cả tài sản của bà. Trên đường từ Marseille tới Narbonne để nhận gia tài Ngài đã bị bọn cướp bắt bán cho một ngư phủ. Không quên nghề Ngài lại bị bán cho một người hồi giáo làm thợ kim hoàn. Sau cùng Ngài lại bị rơi vào tay một người phản đạo tên là Gautier. Nhờ đời sống thánh thiện cha đã cải hóa được ông. Chính ông đã đưa cha trở lại đất Pháp. Năm sau, ông theo cha đi Roma và vào hội bác ái để đền tội cho đến ngày qua đời.
Từ đây, cha Vincentê bắt đầu thi hành chức vụ linh mục của Ngài. Ngài được chỉ định làm tuyên úy cho nữ hoàng Marguerrite de Valois. Lúc này, cha Vincentê có dịp quen biết cha Phêrô Berulle, Đấng sáng lập dòng giảng thuyết và sau này làm Hồng y. Dưới ảnh hưởng của cha Phêrô Bérulle, cha Vincentê bắt đầu nhiệt tình sống đời hy sinh nhiệt tình. Theo lời khuyên của Ngài, cha Vicente nhận làm tuyên úy cho gia đình Gondi. Hướng dẫn một số một nông dân trong vùng này, Vincentê đã khám phá ra tình trạng phá sản về tôn giáo và luân lý. Chính sự dốt nát và biếng nhác của nhiều giáo sĩ là duyên cớ gây nên tình trạng này. Ngài quyết tâm sửa đổi thực trạng.
Vincentê đã trở nên bạn của người nghèo và dùng mọi phương tiện khả năng có được để hoạt động nhàm tái tạo cuộc sống luân lý và tôn giáo của họ. Một thử nghiệm nhỏ như một linh mục quản sở tại Chatillon les Dober cho Ngài thấy rõ vấn đề còn rộng lớn hơn nhiều. Dầu nỗ lực cải tiến họ đạo, Ngài vẫn ưu tư cho công cuộc được bành trướng rộng rãi hơn. Trở lại Paris với sự trợ giúp của bà Gondi Ngài bắt đầu công cuộc nâng đỡ cảnh khốn cùng bất cứ ở nơi đâu, Ngài tổ chức "hội bác ái" trên khắp đất Pháp cung cấp áo xống thuốc men cho người nghèo khổ hết sức rợ giúp những nô lệ bị bắt chèo thuyền từ Paris tới Marseille. Ngài thành lập một hội dòng Lazarits với mục đích truyền đạo cho dân quê và đào tạo giáo sĩ. Từ hội dòng bác ái ấy còn mọc lên hội nữ tử bác ái mà y phục của họ toàn thế giới biết đến như là biểu tượng của lòng bác ái nối liền với danh hiệu Vincentê.
Một linh mục nhà quê đã trở nên quan trọng đối với toàn quốc từ căn phòng tại xứ thánh Lazane Ngài bành trướng ảnh hưởng ra khắp nước Pháp, tới Balan, Ý, Hebrider Madagascar và nhiều nơi khác nữa. Nữ hoàng Anne d'Austria nhiếp chính cho tới khi vua Luy lên cầm quyền đã hỏi ý Ngài trong việc đặt giám mục chống lại Mazania, Ngài đã không ảnh hưởng được tới đường lối của vị giám mục này lại còn bị khổ vì ông khi nội chiến xảy ra.
Ngài quyên góp để hàn gắn những tàn phá do cuộc chiến xảy ra tại Loraine. Ngài lo chuộc các nô lệ tại Bắc Phi. Các nỗ lực trên cùng với các nhu cầu và việc quản trị hội dòng ngày càng mở rộng đã giam Ngài tại phòng riêng xứ thánh Lazane. Ngày lại ngày bận bịu viết thơ cho các Giám mục lẫn Linh mục nghèo khổ, cho biến cố vị vọng lẫn nhu cầu nghèo khổ trong nước. Các thư tín của Ngài hợp thành một tuyển tập làm say mê người đọc vì trong đó pha trộn những ưu tư cho nước Chúa lẫn đức bác ái ngập tình người.
Các thư tín và các bài giảng thuyết của Vincentê cho thấy Ngài là một trong những nhà phục hưng của Giáo hội Pháp thế kỷ XVI. Những cuộc tĩnh tâm Ngài tổ chức tại St. Lazane cho các tiến chức và những cuộc tĩnh tâm hàng tháng Ngài tổ chức cho các giáo sĩ tại Paris (có cả những khuôn mặt lớn tham dự như De Rotz, Bossuet...) cho thấy ảnh hưởng sâu rộng của Ngài trong cuộc chấn hưng đạo đức .
Năm 1660, cha Vincentê ngã bệnh liệt giường và đau đớn vì bệnh tật Ngài vẫn vui tươi tin tưởng : - Chúa còn phải chịu hơn tôi gấp bội.
Đối diện với cái chết Ngài bình tĩnh : - 18 năm qua, mỗi tối tôi vẫn dọn mình chết. Ngày 27 tháng 9 năm 1660, cha Vincentê từ trần và được tuyên thánh năm 1737.
 (daminhvn.net)
++++++++++++++++++
27 Tháng Chín
Tuyên Úy Của Tù Nhân
Hôm nay là ngày kính nhớ thánh Vinh Sơn đệ Phaolô. Vào khoảng giữa thế kỷ thứ 17, linh mục Vinh Sơn được cử đi làm tuyên úy cho các tù khổ sai bị trói vào những cột chèo lớn trên các thuyền buồm của đế quốc Pháp. Với bản chất nóng nảy, hiếu thắng, cục mịch... cộng với những phản ứng thô lỗ mà có lẽ vị linh mục tuyên úy đã bị tiêm nhiễm trong suốt thời kỳ ở với tù nhân, cha Vinh Sơn đã được một nữ bá tước ra mời làm trưởng nhóm của một số linh mục đang phục vụ như những thừa sai giữa giới nghèo trong khắp nước Pháp... Cha Vinh Sơn đã chấp thuận lời đề nghị.
Một khúc quanh lịch sử không những bắt đầu với cha mà còn cho cả Giáo Hội nữa: các linh mục dòng thánh Vinh Sơn đệ Phaolô mà chúng ta thường gọi là các cha Lazaristes đã ra đời từ đó. Ngoài ba nhân đức thông thường ma các tu sĩ phải khấn giữ, họ còn cam kết phục vụ hoàn toàn cho giới nghèo.
Thời gian sau, với sự cộng tác của chị Louise de Marillac, cha Vinh Sơn đã thiết lập dòng Nữ Tử Bác Ái cũng đeo đuổi cùng một mục đích: đó là phục vụ người nghèo... Cha Vinh Sơn đã định nghĩa dòng nữ này như sau: nhà dòng của họ là nhà thương, nhà nguyện của họ là nhà thờ giáo xứ, khu nội cấm của họ là các ngả đường phố xá.
Chúc thư và cũng là tinh thần của thánh Vinh Sơn đệ Phaolô được chứa đựng trong các lá thư của ngài. Chúng ta hãy đọc qua một đoạn sau đây: "Hãy cố gắng bằng lòng ngay giữa những điều làm cho chúng ta bất mãn. Hãy giải thoát tâm trí con khỏi những điều đang làm con giao động. Chúa sẽ lo liệu cho mọi sự... Cha van xin con, hãy tín thác nơi Chúa. Con sẽ có mọi sự tâm hồn con khao khát".
Chúa Giêsu đã bắt đầu bằng con số không: Ngài nghèo đến nỗi không có nơi gối đầu. Thế nhưng ngày nay, khi nhìn vào Giáo Hội, người ta nghĩ ngay đến quốc gia Vatican, với một bảo tàng viện phong phú nhất, với những vương cung thánh đường lộng lẫy, với những cuộc biểu dương rầm rộ. Người ta cũng có thể nhìn vào các tòa giám mục đồ sộ.
Các vị sáng lập dòng cũng thường bắt đầu với con số không. Nhưng ngày nay, có ai chối cãi được rằng những cơ sở lớn mà người ta thường thấy trong các đô thị lại thuộc về các hội dòng.
Giáo Hội và cách riêng các hội dòng có phục vụ người nghèo và có thuộc về người nghèo không?... Có lẽ, nhiều hội dòng mà mục đích nguyên thủy là phục vụ người nghèo và sống nghèo, cần phải đấm ngực tự thú rằng mình đã quá đi xa tinh thần của Ðấng sáng lập... Sống nghèo trước hết đó là sống tín thác vào Chúa quan phòng. Có thể nói đó là nhân đức trỗi vượt và cũng là mẫu số chung của các vị thánh: phó thác hoàn toàn vào Tình Yêu của Chúa.
Chúa kêu mời chúng ta chớ có lo lắng thái quá về ngày mai. Càng lo lắng, con người càng nuôi dưỡng sự tham lam và càng thiếu lòng tin tưởng vào Chúa. Lòng tin của chúng ta được đo lường bằng chính sự phó thác vào Chúa.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Ngày 27
Thánh Vinh Sơn Phaolô, linh mục

Phúc cho những ai hiểu rằng, đôi mắt tôi bắt đầu bị che khuất bởi nhiều ý tưởng đang lẫn lộn. Phúc cho những ai đã giúp làm sống lại mùa thu trong cuộc đời tôi.

Chùm nho vẫn luôn là biểu tượng giàu ý nghĩa trong niềm tin kitô giáo của chúng ta. Các ngôn sứ xưa đã so sánh chùm nho với Đấng Messia sẽ đến và bị nghiền nát trong bồn ép nho thế nào, thì Ngài cũng sẽ bị ngược đãi như vậy cho đến chết, để ép nên rượu nồng cho cuộc sống. Chính Chúa Giêsu đã dùng rượu như dấu chỉ món quà của chính Mình Ngài trong Bí Tích Thánh Thể.
Chùm nho, là sự kết tinh của bao hoa màu. Chùm nho là sự đa dạng của các kitô hữu trong sự hiệp nhất của đức tin. Cuối cùng, các vị tử đạo kitô giáo đầu tiên được ví như những chùm nho đang ở trong máy ép.

Chấp nhận chính mình là trở thành chùm nho trong máy ép, chịu tan biến cho hết mọi người và từ từ chuyển tải qua nhũng người khác một chút niềm vui của chúng ta thuộc về Đức Kitô.

L. Sintas s.j.
Hạnh Các Thánh

Ngày 27 tháng 9
THÁNH VINH SƠN PHAOLÔ, HIỂN TU

Các thánh là những người đã tâm niệm và sống hoàn toàn giới luật “mến Chúa yêu người”. Các thánh hiểu hơn ai hết rằng: “Làm vinh danh Chúa là tìm hạnh phúc cho tha nhân”. Vì thế, chúng ta không lạ gì thấy vòm trời Giáo hội lung linh nhiều ngôi sao bác ái! Thánh Vinh Sơn mà chúng ta đọc truyện hôm nay là một trong những ngôi sao đặc biệt ấy!…
Thánh nhân chào đời ngày 24 tháng 4 năm 1581 tại làng Rouy, một làng nhỏ xinh xinh gần kề bên thành phố Dax. Thánh nhân thuộc gia đình trung nông, cha là Gioan Phaolô, và mẹ là Betran Moras. Cả hai là những công dân uy tín, những tín hữu đầy đức tin. Vì thế, dù hoàn cảnh kinh tế chật vật, ông bà cũng gây nên một gia đình hạnh phúc với sáu mặt con, hai trai bốn gái mà Vinh Sơn là con thứ ba.
Vinh Sơn lớn lên với tinh thần đơn sơ, để thông cảm với mọi người, nhất là cảnh tần tảo sớm hôm của cha mẹ. Đó phải chăng là mầm non bác ái Chúa đã sớm trồng vào tâm hồn cậu. Vì thế cậu không ngần ngại giúp đỡ cha mẹ trong những công việc vừa sức. Chưa đầy tám tuổi, cậu đã dẫn chiên đến những đồng cỏ non xanh, rạch nước suối trong. Dẫn chiên về, cậu giúp mẹ thu xếp việc nhà, như nhào bột, kín nước… Song đối lại với tinh thần trọng việc xác, Vinh Sơn còn có một trí khôn minh mẫn, nhiều sáng kiến, trổi vượt hơn anh chị em và các bạn cùng tuổi. Thấy cậu có tư chất thông minh, ông bà Phaolô không ngần ngại hy sinh công việc và tiền bạc cho con theo học. Trí đã sáng lại cần mẫn, Vinh Sơn học chưa đầy sáu tháng đã chiếm giải nhất và trổi vượt các bạn. Nhưng để bảo đảm việc học, để giúp phần nào số chi tiêu của gia đình, Vinh Sơn đã đánh bạo xin một chân làm việc trong xưởng đóng giầy…
Trí thông minh và đời sống nhân đức của Vinh Sơn mỗi ngày một sáng tỏ như ánh bình minh buổi đẹp trời. Nhờ đó, dù mới 15 tuổi, ngài đã được cha hiệu trưởng thuộc dòng thánh Phanxicô giới thiệu với đức giám mục, xin cho nhập hàng giáo sĩ và chịu phép cắt tóc. Ngày 23.9 năm 1600, vừa lúc Vinh Sơn 19 tuổi, Bề trên gọi thầy chịu chức linh mục. Sau đó, cha Vinh Sơn vẫn được tiếp tục học tại Đại học đường Saragossa và Tôlôsa. Suốt mười năm cần cù với sách vở, cha chuyên nghiên cứu khoa giáo sử, thần học, Kinh thánh và xã hội học.
Cha Vinh Sơn chịu chức linh mục vào giữa thời Giáo hội Pháp suy đồi: bản phúc trình của Đức Hồng Y đặc sứ Rêđixiđê đệ lên Đức Clêmentê VIII (1592-1605), cũng đủ cho chúng ta thấy rõ tình trạng Giáo hội Pháp bấy giờ đã đồi bại đến mức nào! Thêm vào đó, cảnh nghèo đói và tội ác mỗi ngày một lan tràn, thay thế cho tình thương và nghĩa cử. Trước thảm cảnh điêu tàn và vô luân ấy, những người có tâm hồn bác ái làm sao khỏi mủi lòng! Tinh thần bác ái của Phúc âm lúc này dâng cao trong tâm hồn cha Vinh Sơn. Thông cảm nỗi khổ cực của dân chúng, nhận thức đời sống quá tầm thường của giáo sĩ, cha Vinh Sơn buộc mình không sống xa hoa, hay chạy theo mốt của thời đại. Cha nỗ lực hoạt động xin Chúa thay đổi tình trạng đau thương…
Trước khi cha Vinh Sơn bắt tay vào việc cải cách đời sống các linh mục, người ta kể rằng Chúa Quan phòng đã dun dủi cho một góa phụ thành Tôlôsa cống hiến cho cha tất cả gia tài. Với món tiền đó, cha Vinh Sơn bắt đầu cuộc hành trình sang Phi châu truyền giáo và cứu đỡ những người bị quân Thổ Nhĩ Kỳ bắt. Trên đường vượt trùng dương, cha phải vượt qua nhiều gian lao, bão táp và nguy hiểm. Dầu vậy vẫn không thoát, con thuyền của cha vô tình lọt vào ổ phục kích của quân cướp. Cha Vinh Sơn bị bắt bán cho một ngư ông. Nhưng vì cha không quen nghề, ngư ông lại bán cha cho một chủ hãng luyện kim khí, là một tín đồ trung thành của Hồi giáo.
Mấy tháng sau, ông chết, vợ ông lại bán cho một người Pháp tên là Gautier, một linh mục phá giới và hiện sống với ba vũ nữ. Thời gian vắn vỏi nhưng đời sống của cha Vinh Sơn đã có nhiều ảnh hưởng trong gia đình chủ nô. Khâm phục đời sống thánh thiện của cha, ông Gautier đã hối hận về cuộc đời quá khứ và quyết trở về với Thiên Chúa. Chính ông đã xuất của đem cha Vinh Sơn trở lại đất Pháp. Sau hai năm lưu lạc, sống vất vưởng nơi quê người, cha Vinh Sơn sung sướng trở về Pháp và được tháp tùng Đức Khâm sứ sang Motôriô, sang Rôma. Ngài lưu lại đấy học thêm thần học và triết lý.
Nhưng học chưa hết chương trình thì Đức Hồng Y Ossat gọi cha về Paris. Kỳ này dù bị bệnh, cha Vinh Sơn cũng không ngừng việc truyền giáo. Cha đã khuất phục được nhiều chúa trùm thệ phản trở lại đạo công giáo. Nhiều phụ nữ quí tộc, nghe lời cha cởi áo đời xin vào tu viện. Hơn thế, công chúa Magarita Valois, con vua Henri II, nhận cha làm cha linh giám. Nhờ sự dìu dắt của cha, công chúa mỗi ngày một thêm thánh thiện và bác ái. Công chúa đã giúp cha nhiều tiền bạc để thực hiện công tác xã hội như giúp đỡ người nghèo, các bệnh nhân và cô nhi quả phụ…
Thời này, cha Vinh Sơn giao tiếp thân mật với Đức Hồng Y Berulle và cha Bourdoise. Với tình tri kỷ theo tinh thần Chúa Kitô và nhờ ơn Chúa, sau những lần tĩnh tâm, ba vị quyết tâm giúp nhau truyền giáo theo ba phương diện: Đức Berulle kiên tâm lập dòng “Anh em rao giảng” (Oratores); cha Bourdoise hiến thân làm tông đồ cho chính hàng giáo sĩ Pháp, và sau cùng lập một cộng đồng ở nhà xứ Nicôla. Riêng cha Vinh Sơn, cha đã đáp lại trung thành ơn kêu gọi đi giúp những người nghèo khổ. Địa điểm hoạt động đầu tiên của cha là Clichy, một xứ đạo vừa bé nhỏ vừa rất khô khan. Nhưng nhờ sự tận tâm và gương sáng của Cha, xứ Clichy dần dần tăng tiến về cả tinh thần lẫn vật chất. Ai có thể kể được những kết quả truyền giáo cha Vinh Sơn đã gặt hái được tại đây! Địa điểm thứ nhì của cha vừa rộng rãi hơn, vừa thuận lợi hơn cho công việc hoạt động là Chantillon. Hưởng ứng lời cha kêu gọi, nhiều gia đình quí phái dâng nhà cửa để cha lập cơ sở cải huấn những người xấu nết, làm bệnh viện thâu nhận các bệnh nhân, và mở hội quán dạy giáo lý cho những người tân tòng.
Cán bộ của cha hầu hết là những thanh nữ thuộc gia đình trâm anh thế phiệt, hay những thanh niên đã đứng tuổi và có hạnh kiểm tốt. Tại Clichy cũng như tại Chantillon, họ là những đoàn viên tiên khởi và cốt cán của hội “Bác ái” mà ngày 22.9.1623, Cha Vinh Sơn được Đức Tổng Giám mục Paris cho phép thành lập. Nhờ ơn Chúa, hội phát triển mau lẹ sang các miền lân cận. Hai tiểu tổ ở Clichy và Chantillon ví được như hai rạch khe nhỏ chảy trên sườn đồi mà ngày nay, nhờ ơn Chúa Quan phòng, đã thành con sông lớn toả ra nhiều nhánh, mang nước bác ái thấm nhuần mọi dân tộc, mọi tầng lớp nhân loại…
Theo ý muốn của cha Vinh Sơn, phận sự của hội là thương giúp người nghèo, lấy Chúa Giêsu làm bổn mạng, với khẩu hiệu căn bản: “Hãy thương yêu như Cha Ta hằng thương yêu”.
Hoạt động bác ái của cha Vinh Sơn khiến nhiều người phải thán phục. Trong số những người có cảm tình sâu xa nhất, ta phải kể ông Philippe Emmanuel Gondi, tổng giám đốc trại tù khổ sai ở Pháp. Ông giúp cha có đủ điều kiện lui tới viếng thăm đám người trong ngục tù. Cha cầm lòng sao được trong cảnh sống thiếu vệ sinh, thiếu cơm ăn áo mặc, thiếu những nhu cầu cần yếu để sống xứng đáng nhân phẩm và địa vị người con của Thiên Chúa. Cha nỗ lực hoạt động, với sự cộng tác của đoàn con bác ái và sự ủng hộ nhiệt liệt của các người hảo tâm. Thiên Chúa và các đấng thay quyền Người tỏ ra rất bằng lòng với công việc truyền giáo của cha. Theo lời yêu cầu của nhiều công chức cao cấp, ngày 7.11.1619, Hoàng đế Luy ký sắc lệnh chính thức cử cha Vinh Sơn làm tổng tuyên úy các trại giam. Cha có đặc quyền lựa chọn các cha tuyên úy khác cho mỗi trại. Bằng nhẫn nại, hy sinh, và bác ái, cha Vinh Sơn đã chu toàn nhiệm vụ, đem về cho Chúa nhiều linh hồn.
Một đối tượng nữa lôi cuốn tâm hồn bác ái của cha Vinh sơn là tình trạng sa sút của Giáo hội Pháp đương thời. Theo các sử gia, tình trạng ấy xảy ra là do hàng linh mục hầu như mất tinh thần trách nhiệm. Gia nhập hàng giáo sĩ đối với các vị không có nghĩa là để chấp nhận những mệt nhọc phiền toái, mà là để được thuộc về “giai cấp thứ nhất trong vương quốc Pháp”. Các vị đó không được đào tạo kỹ lưỡng: trình độ chỉ ở mức biết đọc biết viết, thêm vào đó một vài khái niệm về các nghi thức. Các vị chỉ học những nghi thức ấy để làm những cử chỉ, chứ không để có một phong cách sống xứng chức linh mục. Thành ra, tại các thành phố, các linh mục và đan sĩ tràn ngập, sống nhàn rỗi, trở nên có thể nói là sa đoạ. Chỉ tại Paris đã có đến mười nghìn linh mục như thế! Tại các làng mạc miền quê, bao vị chủ chăn gây gương mù gương xấu, dốt nát, lười biếng. Các vị nổi tiếng vì nết xấu hơn là nhân đức: có những lần các vị được khiêng từ quán rượu về nhà xứ vì đã quá chén. Cho nên giáo hữu không được học hỏi về đức tin, không biết thế nào là bổn phận kitô hữu. Ngay trong các trường học công giáo nội trú, cũng có học sinh lên rước lễ lấy bánh thánh làm keo dán...
Trước tình trạng đó, cha Vinh sơn rất đau lòng. Sau khi bàn bạc với thánh Giám mục Phanxicô Salê, Hồng Y Désulle, linh mục Olien. Cha quyết định tụ tập một số linh mục đạo đức, có tâm huyết, có học thức tương đối về thần học, lập thành một tu hội truyền giáo (Congrégatin de la mission). Tu hội thành hình vào năm 1625, và phát triển khả quan. Ngày 12.6.1633, Toà thánh gửi sắc chỉ “Salvatonin nostri” đặt nền tảng pháp lý cho tu hội. Mục đích của tu hội là huấn luyện thanh niên thành những linh mục tốt, có nhân đức và khả năng, để truyền giáo trong dân chúng. Trung tâm tu hội đặt tại giáo xứ Saint Lajare, do đó các thành viên có tên gọi là Lajaristes.
Dầu bận bịu với tu hội, cha cũng không quên giới nghèo khổ và bệnh nhân. Cha tìm cách kéo dài công việc cha đã làm cho họ. May mắn, cha gặp được cô Louise de Marilla, một phụ nữ quý phái ở Paris. Gọi là cô nhưng thật ra Lonise là một quả phụ. Cô nhận cha Vinh sơn làm linh hướng: một bà quý phái Paris làm con thiêng liêng một linh mục giai cấp quê mùa chất phác. Nhưng cả hai đã làm nên một công trình ngoại hạng. Đó là dòng tu Nữ Tử Bác Ái (Filles de la Charité). Hội dòng nhóm lên từ năm 1633 và được công nhận năm 1655. Khác với các dòng nữ đương thời phải tu trong nội vi kín, dòng Nữ Tử Bác Ái dấn thân vào đời săn sóc bệnh nhân, người nghèo khổ, trẻ em bị bỏ rơi. Đó là dòng nữ đầu tiên vào đời, không nội vi kín trong Giáo hội. Dòng thành công mỹ mãn vì hợp với nhu cầu thời đại và con người muôn thuở. Hiện nay dòng có trên 40.000 nữ tu và hoạt động tại gần 80 quốc gia trên thế giới. Trên danh nghĩa, thánh nữ Lonise de Marilla là nhà sáng lập dòng Nữ Tử Bác Ái, nhưng thực chất dòng lại là công trình của thánh Vinh sơn Phaolô. Cho đến nỗi, qua bốn thể kỷ, người ta vẫn gọi đó là dòng của thánh Vinh sơn Phaolô.
Ngoài hai hội dòng đó, tinh thần bác ái của cha Vinh sơn còn trải sang ba tổ chức bác ái gây tiếng vang khá rộng. Đó là tu hội Anh em thánh Vinh sơn Phaolô (Frères de Saint Vincent de Paul), tu hội Bác ái (Fils de la Charité) và hội bác ái thánh Vinh sơn Phaolô (Conférence de Saint Vincent de Paul). Hội này dành cho giáo dân thực thi bác ái trong quần chúng, cũng đã lan tràn khắp thế giới.
Nhiệm vụ truyền giáo, nêu cao ngọn đèn bác ái và hướng dẫn lớp người đau khổ về với Chúa đã khiến cha Vinh Sơn hết dẻo dai: sinh lực cha mỗi ngày một mòn yếu, thêm vào đó cha còn phải mang chứng bệnh phong thấp bất kham. Lúc đầu con bệnh còn nhẹ, cha có thể làm lễ và chủ tọa các buổi họp đoàn “con bác ái”; nhưng năm 1660, bệnh trở nên trầm trọng, cha Vinh Sơn nằm liệt trên giường, chỉ rước Mình Chúa như của ăn đàng. Thấy cha quá đau yếu vì cơn bệnh cốt khí với những ung nhọt mọng nước vàng, nhiều người đến thăm tỏ dấu thương hại, nhưng cha Vinh Sơn vẫn tươi tỉnh, điềm nhiên nói với họ: “Ôi! Chúa còn chịu đau đớn hơn tôi gấp ngàn vạn lần”. Cha chịu như thế cho đến chiều ngày 27.9.1660, thì được Chúa cất về trời cách êm ái. Cha hưởng thọ 84 tuổi. Tiếng chuông báo tử ngân vang khắp xứ, gợi lên trong lòng mọi người một nỗi buồn thấm thía. Ngày 28.9, ngày lễ an táng di hài cha Vinh Sơn, quang cảnh phố xá vô tình trở nên nhộn nhịp. Trên các nẻo đường từng đoàn người chen nhau đến viếng xác và mộ cha. Họ tin tưởng vào lời bầu cử của cha trên nơi vĩnh cửu.
Mà thực, lòng chân thành ước nguyện của họ đã được đáp lại bằng nhiều phép lạ. Ở đây chỉ xin đan cử vắn tắt vài trường hợp: Một chị dòng thánh Biển Đức là Monmiraille phải chứng nhọt kinh niên rất đau đớn và thối tha. Chị đã được khỏi cách lạ lùng nhờ lời cầu nguyện và quyền phép của cha Vinh Sơn. Ông Phanxicô Richer, một thương gia ở Paris, bị bệnh đau màng óc lâu năm. Ông chạy chữa đã nhiều nhưng vẫn không khỏi, thế mà chỉ sau một giờ cầu nguyện bên mộ cha Vinh Sơn, ông đã được khỏi hoàn toàn.
Chuẩn nhận lòng sùng kính cha Vinh Sơn mỗi ngày một phổ biến trong giáo dân, Giáo hội, năm 1727, nhằm ngày lễ Chúa Ba Ngôi, Đức Giáo Hoàng Clêmentê XII truyền ghi Á Thánh Vinh Sơn vào sổ các vị Hiển Thánh. Sau cùng Đức Giáo Hoàng Lêô XIII, năm 1885, lại đặt thánh Vinh Sơn làm bổn mạng các phong trào từ thiện.
Giáo hội đã đặt cha Vinh sơn lên bàn thờ, đã tôn cha làm bổn mạng các phong trào từ thiện không những vì nhận thấy huân công xứng đáng của cha, nhưng còn muốn cho mọi người theo gương thánh nhân, thực hiện bác ái, như ngài đã noi gương chính Chúa Kitô vậy.
Thứ Năm 27-9

Thánh Vinh-sơn Phao-lô

(1580?-1660)
Thánh Vinh-Sơn Phao-lô

C
ảnh một người hầu hấp hối xưng tội trên giường bệnh như đã mở mắt Vinh-sơn để nhìn thấy nhu cầu tâm linh của vùng quê nước Pháp thời bấy giờ. Ðó là giây phút quan trọng trong cuộc đời của một người xuất thân từ nông trại nhỏ ở Gascony, nước Pháp, mà bấy giờ, việc đi tu làm linh mục không có gì lớn lao hơn là có được một cuộc sống tiện nghi.
Chính nữ Bá Tước de Gondi (có người đầy tớ được Vinh-sơn giúp đỡ) đã thúc giục chồng bà cung cấp tiền bạc và hỗ trợ một nhóm truyền giáo có khả năng và hăng say muốn hoạt động cho người nghèo, người hầu và tá điền. Lúc đầu Cha Vinh-sơn quá khiêm tốn nên không nhận làm người lãnh đạo cho nhóm này, nhưng sau một thời gian hoạt động cho các tù nhân khổ sai ở Balê, ngài trở nên nhà lãnh đạo thực sự của tổ chức mà bây giờ được gọi là Hội Thừa Sai, hay tu sĩ Dòng Thánh Vinh-sơn. Các linh mục này, với lời thề khó nghèo, khiết tịnh, vâng phục và bền vững, tận tụy làm việc cho dân chúng ở các thành phố nhỏ hay làng mạc.
Sau này Cha Vinh-sơn tổ chức các nhóm bác ái để trợ giúp tinh thần cũng như thể chất của những người nghèo trong mỗi xứ đạo. Từ sinh hoạt này, với sự trợ giúp của Thánh Louis de Marillac, xuất phát tổ chức Nữ Tử Bác Ái, "mà tu viện là bệnh xá, nhà nguyện là nhà thờ của giáo xứ và khuôn viên là đường phố." Ngài huy động các bà giầu có ở Balê để quyên góp tài chánh cho chương trình truyền giáo, xây bệnh viện, giúp đỡ nạn nhân chiến tranh và chuộc lại khoảng 1,200 người nô lệ da đen. Ngài hăng hái tổ chức tĩnh tâm cho giới tu sĩ khi sự sao nhãng, lộng hành và ngu dốt lan tràn trong giới này. Ngài là người tiên phong trong việc huấn luyện tu sĩ và thúc đẩy sự thiết lập các chủng viện.
Ðáng để ý nhất, Vinh-sơn là một người hay cáu kỉnh -- ngay cả bạn hữu của ngài cũng công nhận điều ấy. Ngài cho biết, nếu không có ơn Chúa ngài sẽ "rất khó khăn và lạnh lùng, cộc cằn và gắt gỏng." Nhưng ngài trở nên một người dịu dàng và dễ mến, rất nhạy cảm trước nhu cầu của người khác.
Ðức Giáo Hoàng Leo XIII đã đặt ngài làm quan thầy của mọi tổ chức bác ái. Nổi bật nhất trong các tổ chức này, dĩ nhiên, là Dòng Thánh Vinh-sơn, được thành lập năm 1833 bởi Chân Phước Frederic Ozanam, là người rất ái mộ Thánh Vinh-sơn.

Lời Bàn

Giáo Hội là của mọi con cái Thiên Chúa, dù giầu hay nghèo, nông dân hay trí thức, thượng lưu hay bình dân. Nhưng hiển nhiên điều Giáo Hội lưu tâm nhất là những người cần sự giúp đỡ -- đó là những người trở nên cô thế bởi bệnh tật, nghèo đói, ngu dốt và sự tàn ác. Thánh Vinh-sơn Phao-lô rất thích hợp là quan thầy cho mọi Kitô Hữu ngày nay, khi người đói ngày càng nhiều, và lối sống xa hoa của người giầu ngày càng đối chọi với tình trạng sa sút về thể chất và tâm linh của con cái Thiên Chúa.

Lời Trích

"Hãy cố gắng vui lòng chấp nhận sống với những điều kiện khiến bạn bất mãn. Hãy giải thoát tâm trí mình khỏi những điều làm bạn phiền hà, Thiên Chúa sẽ lo lắng mọi sự. Khi bạn vội vàng lựa chọn bạn sẽ làm buồn lòng Thiên Chúa, vì Người thấy bạn không tôn kính Người đầy đủ với sự tin tưởng thánh thiêng. Hãy tin tưởng vào Người, tôi nài xin bạn, và bạn sẽ được no đầy những gì mà tâm hồn bạn khao khát" (Thánh Vinh-sơn Phao-lô, Thư Từ).

Bài đọc 2 
Ngày 27 tháng 9: Thánh Vinh-sơn Phao-lô, linh mục. Lễ nhớ
Thánh nhân sinh năm 1581 tại Gát-côn, nước Pháp. Người làm linh mục, rồi đi Pa-ri phục vụ một giáo xứ. Người sáng lập Tu Hội Thừa Sai để giúp đào tạo các giáo sĩ và nâng đỡ những người nghèo. Được thánh nữ Lu-y Ma-ri-lắc cộng tác, người đã lập tu hội Nữ Tử Bác Ái. Người là gương mẫu hoàn hảo về việc sống đức bác ái như Chúa Kitô dạy, luôn sẵn sàng cứu giúp những người cùng khốn. Người nhận ra khuôn mặt của Chúa Kitô nơi bất cứ ai đang gặp đau khổ. Người qua đời tại Pa-ri năm 1660.
Phải ưu tiên phục vụ người nghèo
Trích bút ký của thánh Vinh-Sơn Phao-lô cho các Nữ tử Bác ái.

Chúng ta không được nhìn một nông dân nghèo hay một phụ nữ nghèo theo dáng vẻ bên ngoài của họ, hay cảm nghĩ của chúng ta về trình độ hiểu biết của những người ấy, nhất là nhiều khi hầu như họ không có bộ mặt và khối óc của những người được ăn học. Nhưng nếu nhìn những người đó dưới ánh sáng của đức tin, chị em sẽ thấy rằng họ là hiện thân của Con Thiên Chúa, Đấng đã muốn là người nghèo, Đấng chẳng còn dáng vẻ của một con người trong cuộc thương khó, Đấng đã bị lương dân coi là điên rồ, bị người Do-Thái coi là cớ vấp phạm; với tất cả những điều đó, Người tự xưng là Đấng loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo: Đức Chúa đã sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Chính chúng ta cũng phải cảm nghiệm điều đó, và phải xử sự như Đức Ki-tô là quan tâm đến người nghèo túng, an ủi, giúp đỡ và bảo lãnh cho họ. 
Quả thật, Đức Ki-tô đã muốn sinh ra là người nghèo, đã kết nạp những người nghèo làm môn đệ. Người đã trở thành kẻ phục vụ người nghèo, nên đã chia sẻ thân phận của họ; vì thế, bất cứ điều gì tốt hay xấu làm cho kẻ nghèo, Người cũng coi như làm cho chính mình. Khi Thiên Chúa yêu thương những người nghèo túng thì cũng yêu thương cả những ai yêu thương họ, vì khi ai thân thiết với một người nào thì cũng yêu thương cả bạn hữu của người ấy hoặc những kẻ giúp đỡ người ấy. Bởi thế, chúng ta hy vọng, vì người nghèo, Thiên Chúa sẽ thương yêu chúng ta. Vậy khi thăm nom người túng thiếu hay nghèo khổ, chúng ta hãy cố gắng hiểu hoàn cảnh của họ mà thông cảm với họ sao cho tâm hồn chúng ta cũng rung động như thánh Phao-lô tông đồ, khi người nói : Tôi trở nên tất cả cho mọi người. Vì thế, một khi thực sự rung cảm trước những ưu tư và khốn cùng của tha nhân, chúng ta hãy cố gắng nài xin Thiên Chúa tuôn đổ tình lân tuất và lòng xót thương vào tâm hồn chúng ta. Và xin Người giữ mãi cho luôn đầy tràn. 
Phải ưu tiên phục vụ người nghèo, không được trì hoãn. Nếu trong giờ nguyện ngắm ban mai, chị em phải đi phát thuốc hay giúp một người nghèo túng nào đó, thì cứ yên tâm mà đi đến với họ, và dâng cho Thiên Chúa việc phải làm như lo nguyện ngắm vậy. Đừng băn khoăn hay mặc cảm là mình có tội vì đã bỏ nguyện ngắm mà giúp người nghèo. Quả thật, Thiên Chúa không bi lơ là nếu vì Thiên Chúa mà người ta tạm rời xa Người, nghĩa là bỏ công việc của Thiên Chúa là cầu nguyện mà làm một công việc khác tương đương.
Vậy khi chị em bỏ đọc kinh cầu nguyện để giúp đỡ người nghèo thì hãy nhớ rằng chị em phục vụ Thiên Chúa. Chắc hẳn đức ái cao trọng hơn bất cứ lề luật nào và tất cả đều phải hướng về đức ái. Vì đức ái là bà chúa tuyệt vời, nên phải chu toàn điều bà truyền dạy. Vậy chúng ta hãy phục vụ người nghèo với một tâm tình đổi mới, và hãy ra sức tìm kiếm những kẻ bị bỏ rơi, vì họ đã được ban cho chúng ta như để làm chủ chúng ta.
Lời nguyện 
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh Vinh-sơn Phao-lô linh mục, mọi đức tính xứng bậc tông đồ để thánh nhân phục vụ người cùng khốn và đào tạo hàng giáo sĩ. Xin cho chúng con biết nghe lời người dạy, bắt chước việc người làm mà xả thân vì bác ái. Chúng con cầu xin...
(trích giờ kinh sách lễ nhớ  thánh Vinh-Sơn Phao-lô-bản dịch của nhóm CGKPV)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét