Trang

Thứ Năm, 13 tháng 2, 2025

14.02.2025: THỨ SÁU TUẦN V THƯỜNG NIÊN - THÁNH SY-RI-LÔ, ĐAN SĨ VÀ THÁNH MÊ-TÔ-ĐI-Ô, GIÁM MỤC - Lễ Nhớ

 

14/02/2025

 Thứ Sáu tuần 5 thường niên.

 Thánh Syrilô, đan sĩ và thánh Mêtôđiô, giám mục.

Lễ nhớ.

 


* Hai anh em Contantinô và Mêtôđiô được thượng phụ giáo chủ Contantinôpôli phái sang Mô-ra-vi-a để loan báo Tin Mừng. Năm 868, hai vị đi Rôma để trình bày với đức giáo hoàng những việc các vị làm, Contantinô qua đời tại đó dưới tên trong đan viện là Syrilô (năm 869).

Còn Mêtôđiô được phong làm tổng giám mục Xiamium, đi loan báo Tin Mừng cho người Xi-la-vô-ni-a (+ năm 885). Ngày 31 tháng 12 năm 1980, đức giáo hoàng Gioan Phaolô II công bố hai thánh Syrilô và Mêtôđiô là bổn mạng châu Âu cùng với thánh Biển Đức.

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 3, 1-8

“Các ngươi sẽ biết thiện ác như thần thánh”.

Bài trích sách Sáng Thế.

Con rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi dã thú mà Thiên Chúa tạo thành. Nó nói với người nữ rằng: “Có phải Thiên Chúa đã bảo: “Các ngươi không được ăn mọi thứ cây trong vườn?” Người nữ trả lời con rắn: “Chúng tôi được ăn trái cây trong vườn; nhưng trái cây ở giữa vườn, thì Thiên Chúa bảo: “Các ngươi đừng ăn, đừng động tới nó, nếu không, sẽ phải chết”. Rắn bảo người nữ: “Không, các ngươi không chết đâu. Nhưng Thiên Chúa biết rằng ngày nào các ngươi ăn trái ấy, mắt các ngươi sẽ mở ra, và các ngươi sẽ biết thiện ác như thần thánh”. Người nữ thấy cây đẹp mắt, ngon lành và thèm ăn để nên thông minh. Bà hái trái cây ăn, rồi lại đưa cho chồng, người chồng cũng ăn. Mắt họ liền mở ra và họ nhận biết mình trần truồng, nên kết lá vả che thân. Bấy giờ hai người nghe tiếng Thiên Chúa đi trong vườn địa đàng lúc chiều mát. Ađam và vợ ông liền núp trong lùm cây trong vườn địa đàng cho khuất mặt Thiên Chúa.

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 31, 1-2.5.6.7

Xướng: Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che đậy! Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có mưu gian.

Đáp: Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm.

Xướng: Tôi xưng ra cùng Chúa tội tôi đã phạm, và lỗi lầm của tôi, tôi đã không che giấu. Tôi nói: “Tôi thú thực cùng Chúa điều gian ác của tôi, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho tôi”.

Xướng: Bởi thế nên mọi người tín hữu sẽ nguyện cùng Chúa, trong thời buổi khốn khó gian truân. Khi sóng cả ba đào ập tới, chúng sẽ không làm hại nổi những người này.

Xướng: Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ tôi khỏi điều nguy khổ, Chúa đùm bọc tôi trong niềm vui ơn cứu độ.

 

Alleluia

Alleluia – Alleluia – Lạy Chúa, xin dạy bảo tôi về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn tôi trong chân lý của Ngài – Alleluia.

 

PHÚC ÂM: Mc 7, 31-37

“Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được”.

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđon đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh. Người ta đem đến cho Người một kẻ điếc và xin Người đặt tay trên kẻ ấy. Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh. Ðoạn ngước mắt lên trời, Người thở dài và bảo: Ephata, nghĩa là “hãy mở ra”, tức thì tai anh được sõi sàng. Chúa Giêsu liền cấm họ: đừng nói điều đó với ai cả. Nhưng Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục, mà rằng: “Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được”. Đó là lời Chúa

 


Chú giải về Sáng thế ký 3,1-8

Hôm nay, một đoạn văn đầy ý nghĩa khi chúng ta nghe về Sự sa ngã của Người đàn ông và Người phụ nữ.

Mọi thứ mà Chúa đã tạo ra đều rất tốt, bao gồm cả Người đàn ông và Người phụ nữ. Ở đây, họ không được đặt tên là "Ađam" và "Eva" như chúng ta tìm thấy ở những nơi khác. Nói một cách nghiêm ngặt, họ không phải là những cá nhân cụ thể; họ là 'Mọi người đàn ông' và 'Mọi người phụ nữ', tức là bạn và tôi. Họ sống trong sự ngây thơ và hạnh phúc hoàn hảo, hoàn toàn không xấu hổ hay bối rối trong sự trần trụi nguyên sơ của họ.

Nhưng bây giờ tội lỗi đã xuất hiện. Nguồn gốc của cái ác nằm ở hình dạng của một con rắn. Nó được mô tả ở đây là "khôn ngoan hơn bất kỳ loài động vật hoang dã nào khác mà Chúa là Đức Chúa Trời đã tạo ra". Có lẽ ít người thực sự thích rắn. Chúng được coi là nhầy nhụa và quanh co và trườn trên mặt đất; chúng có đôi mắt sáng và cái lưỡi độc. Tất nhiên, trên thực tế, nhiều loài rắn khá vô hại và hầu hết không có hứng thú tấn công con người.

Hãy để ý cách cám dỗ diễn ra. Kẻ cám dỗ tiếp cận Người phụ nữ. Có phải vì cô ấy được coi là dễ bị tổn thương hơn, hay thay đổi hơn, ít đáng tin cậy hơn (chỉ là quan điểm của nam giới!)? Nó bắt đầu bằng một câu hỏi vô hại có thể dễ dàng giải quyết: "Có đúng là Chúa đã nói rằng bạn không được ăn bất kỳ loại cây nào trong vườn không?"

Người phụ nữ trả lời:

Ồ không! Chúng ta có thể ăn bất kỳ loại cây nào trong vườn, ngoại trừ một ngoại lệ. Chúng ta không được chạm vào cây biết điều thiện và điều ác, nếu không sẽ bị tử hình.

"Ồ, hãy đến, hãy đến", Kẻ cám dỗ nói. "Các ngươi sẽ không chết đâu. Ngược lại, các ngươi sẽ giống như các vị thần, biết điều thiện và điều ác". Những gì Kẻ cám dỗ nói là đúng, nhưng chỉ đúng một phần. Họ sẽ không chết về mặt thể xác nếu họ ăn trái cây đó, nhưng mối quan hệ của họ với Chúa sẽ chết, và cuối cùng họ sẽ mất đi sự bất tử của cuộc sống trong Vườn Địa đàng.

Và sau đó, họ thực sự có thể phân biệt được điều thiện và điều ác vì giờ đây, tràn ngập tội lỗi và xấu hổ, họ sẽ biết điều ác thực sự là gì, và họ đã đánh mất lòng tốt ban đầu mà họ đã được ban phước như thế nào.

Tuy nhiên, Người phụ nữ nghe những gì cô ấy muốn nghe. Cô ấy nhìn kỹ hơn vào cây cấm và thấy quả của nó cực kỳ hấp dẫn, ngoài mong muốn có được kiến ​​thức đó (nhân tiện, quả không được nêu rõ… không đề cập đến táo!).

Chúng ta có thể nhận thấy ở đây rằng sự cám dỗ thực sự luôn xuất hiện dưới vỏ bọc của điều tốt. Không ai chọn thứ gì đó hoàn toàn xấu xa hay tệ hại. Cho dù chúng ta đánh ai đó, quan hệ tình dục, ăn cắp hay hạ bệ người khác - luôn có điều gì đó tốt đẹp rõ ràng thu hút chúng ta. Ví dụ, "Trả thù" "thật ngọt ngào". Nhưng nó cũng rất sai. "Tình dục thật tuyệt vời", nhưng nó có thể làm mất phẩm giá của cả hai bên.

Người phụ nữ hiểu rõ rằng hái quả là sai, nhưng cô ấy đã bị thuyết phục bởi những điều tốt đẹp mà Kẻ cám dỗ đã chỉ ra cho cô ấy. Chúng quan trọng hơn cả điều răn của Chúa. Sau đó, Người phụ nữ đã đưa ra quyết định của mình, hái một ít quả và ăn. Cô ấy cũng đưa một ít cho Người đàn ông và anh ta, cũng nhận thức được những gì Chúa đã nói, đã ăn một ít.

Trong câu chuyện về chế độ gia trưởng này, có một hàm ý rằng tội lỗi của Người đàn ông bằng cách nào đó, ít hơn một chút. Anh ta có thể không bao giờ bị cám dỗ nếu không có Người phụ nữ. Chính sự quyến rũ của Người phụ nữ là sự sụp đổ của Người đàn ông. Tuy nhiên, vì Người đàn ông là nguồn sống ban đầu, nên chính anh ta, hơn là Người phụ nữ, là người truyền lại thành quả tội lỗi của mình cho con cháu.

Sau đó, những gì Kẻ cám dỗ đã nói đã trở thành sự thật: mắt họ mở ra và họ nhận ra mình trần truồng. Nói cách khác, họ nhận ra điều sai trái mà họ đã làm và tràn ngập cảm giác tội lỗi và xấu hổ. Vì vậy, họ vội vàng cố gắng che giấu sự xấu hổ của mình bằng cách che cơ quan sinh dục của mình bằng lá sung khâu lại với nhau.

Có lẽ đây cũng là một cách giải thích nguồn gốc sự nhạy cảm của chúng ta đối với những bộ phận riêng tư của cơ thể. Đây là một đặc điểm rất đặc trưng của Cựu Ước và đã được cả những người theo đạo Thiên chúa và chắc chắn là cả người Hồi giáo, những người, trong một số nền văn hóa, luôn giữ cho phụ nữ che phủ từ đầu đến chân. Nhưng chúng ta cũng biết rằng, ở một số vùng khí hậu ấm áp hơn, có những người đi lại mà không mặc quần áo và hoàn toàn thoải mái về điều đó.

Nhưng sự xấu hổ của Người đàn ông và Người phụ nữ còn đi xa hơn. Khi Chúa đi dạo trong vườn vào buổi tối mát mẻ (thật là một hình ảnh đẹp!), Người đàn ông và Người phụ nữ không dám đối mặt với Người… họ trốn. Đúng vậy, mắt họ đã mở ra nhưng không theo cách họ mong đợi. "Buổi tối mát mẻ" theo nghĩa đen là "gió của ngày". Vào hầu hết các ngày ở Palestine, một làn gió mát thổi từ biển vào ngay trước khi hoàng hôn.

Đúng vậy, cách thức của Kẻ cám dỗ thực sự rất tinh vi và chúng ta bị mắc bẫy hết lần này đến lần khác. Chủ đề này đã được C. S. Lewis đề cập đến bằng cả sự hài hước và hiểu biết sâu sắc trong The Screwtape Letters.

 


Chú giải về Mác-cô 7,31-37

Chúa Giê-su vẫn còn ở vùng đất của dân ngoại. Bây giờ Ngài đã di chuyển về phía đông từ bờ biển Địa Trung Hải đến vùng đất nội địa, ở phía đông Biển Ga-li-lê, trong khu vực Decapolis (tiếng Hy Lạp có nghĩa là "Mười thị trấn" ‘Thập Tỉnh/Thập Thành’).

Một người đàn ông điếc và câm được đưa đến với Chúa Giê-su để được chữa lành. Ngài kéo người đàn ông sang một bên, đặt ngón tay vào tai người đàn ông, chạm vào lưỡi anh ta bằng nước bọt, ngước mắt lên trời và cầu nguyện, "Hãy mở ra". Ngay lập tức, tai người đàn ông được mở ra, lưỡi anh ta được thả ra và anh ta có thể nói rõ ràng. Như thường xảy ra trong Phúc âm, những người chứng kiến ​​phép lạ được bảo không được nói bất cứ điều gì về điều đó với bất kỳ ai:

... nhưng Ngài càng ra lệnh cho họ, họ càng sốt sắng rao truyền.

Dân chúng "vô cùng kinh ngạc" và họ nói:

Ngài đã làm mọi điều tốt đẹp; Ngài thậm chí còn khiến người điếc nghe được và người câm nói được.

Như thường thấy trong các sách Phúc âm, và đặc biệt là trong sách Mác-cô, những gì chúng ta có ở đây còn hơn cả một câu chuyện phép lạ, tức là chữa lành một căn bệnh về thể xác. Chúng ta đang tiến đến phần cao trào của Phúc âm này, và đoạn văn này dẫn vào đó. Những gì Chúa Giê-su làm với người đàn ông này là điều sẽ xảy ra với tất cả những người theo Người, bao gồm cả các môn đệ trực tiếp của Người.

Tất cả chúng ta cần mở tai để có thể nghe và hiểu trọn vẹn thông điệp của Chúa Giê-su. Thêm vào đó, một khi chúng ta đã nghe và hiểu, hậu quả tự nhiên là chúng ta sẽ ra ngoài và nói công khai với thế giới về những gì chúng ta đã nghe và hiểu. Cả việc nghe và nói đều không thể tách rời đối với môn đệ Ki-tô.

Và vì vậy, trong hình thức nghi lễ rửa tội cũ hơn, người cử hành chạm vào tai của người được rửa tội và bôi nước bọt lên môi (khi đó người ta vẫn tin rằng nước bọt có sức mạnh chữa lành). Nghi lễ này tượng trưng cho ân sủng của bí tích mà qua đó người mới chịu phép rửa tội (khi nói về một người lớn) nghe và chấp nhận Lời Chúa, và đảm nhận trách nhiệm công bố Lời Chúa bằng lời nói và hành động.

Và, như trong câu chuyện hôm nay, khi chúng ta thực sự trải nghiệm được sức mạnh của thông điệp đó và tình yêu của Chúa trong cuộc sống của chính mình, chúng ta không thể không làm những gì người đàn ông đó đã làm - truyền bá nó khắp nơi.

https://livingspace.sacredspace.ie/

 

Hạnh Các Thánh

Ngày 14/2: Thánh Cyrillô, đan sĩ và Thánh Méthôđô, giám mục

Lễ Nhớ

 


1. Ghi nhận lịch sử – Phụng Vụ

Ngày lễ kính thánh Cyrillô và Mêthôđô, được kính như các Tông Đồ dân Slave và được Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II công bố năm 1980, như thánh quan thầy Âu Châu, cùng tước hiệu với thánh Bênêđictô, trùng với ngày qua đời của thánh Cyrillô, khi đến Rôma vào ngày 14.02.869.

Hai anh em Cyrillô và Mêthôđô gốc ở Salonique (Hy Lạp ngày nay). Trước khi đi truyền giáo vùng Moravie, Méthôđô là Tổng trấn một tỉnh người Slave và Cyrillô, nhỏ tuổi hơn, nhưng lại sáng chói hơn, đã chu toàn những sứ vụ tôn giáo và ngoại giao quan trọng. Cả hai nói lưu loát tiếng Slave.

Sứ vụ làm cho hai vị nổi tiếng là sứ vụ do Thượng phụ Photios sai đi từ năm 862-963 với mục đích dạy dỗ và Phúc Âm hóa dân Slave ở Moravie trong ngôn ngữ của họ. Vì thế Cyrillô và Mêthôđô bắt đầu dạy ngữ vựng đầu tiên, được gọi là “Cyrillique” và họ cũng đã dịch các văn bản tôn giáo ra tiếng Slave : Thánh Vịnh, các Phúc Âm, các Thư Tông Đồ, kinh nguyện…

Sau vài năm ở Moravie, Cyrillô và Mêthôđô tiếp tục công tác ở Pannonie (Hungarie và một phần đất Yougoslavie ngày nay), trước khi đến Rôma, nơi họ được Đức Giáo Hoàng Adrien II đón nhận và công nhận các việc họ làm về Phụng Vụ Slave. Tại Rôma, Cyrillô ngã bệnh và qua đời vào ngày 14.02.869, lúc ấy ngài khoảng độ 40 tuổi.

Sau cái chết của người em, Méthôđô được gọi làm giám mục ở Pannonie và sứ thần toà thánh cho dân Slave; ngài gặp nhiều khó khăn do sự chống đối của hàng giáo sĩ Đức; nhưng điều này không ngăn cản được công trình Phúc Âm hoá và hội nhập văn hóa mà ngài đã theo đuổi cho đến chết (885).

Các môn đệ ngài đã rao giảng Tin Mừng miền Bohême, ông hoàng Bozyvojd được rửa tội theo nghi thức Slavon, sau đó là dân Serbie và Lusace (vùng Croatia), tiếp đến là Ba Lan, Bulgarie, Roumanie và vùng Kiev.

Với công trình như thế, chúng ta mới thấy được công khó của hai thánh Cyrillô và Mêthôđô trong việc thiếp lập các cộng đoàn Kitô giáo trong nhiều vùng Đông Âu. Việc này đã tạo một bước tiến để thành lập Âu Châu, không những về mặt tôn giáo, nhưng cả về mặt chính trị và văn hóa.

Mỹ thuật trình bày thánh Cyrillô với bản ngữ vựng, và thánh Mêthôđô với một quyển Phúc Âm mở ra, được ghi bằng tiếng Slavon.

2. Thông điệp và tính thời sự

Thánh Cyrillô ngã bệnh và biết trước giây phút cuối cùng của mình, vẫn nhận ra ơn gọi cao cả: “Xưa tôi chưa hiện hữu, bây giờ tôi đã hiện hữu và tôi sẽ hiện hữu mãi mãi.” Ngài cầu nguyện cùng Thiên Chúa: “Lạy Chúa, xin gìn giữ đàn chiên trung thành này… Xin triển khai Giáo Hội với số lượng cao và qui tụ mọi thành phần vào trong sự hiệp nhất. Xin thu tóm tất cả thành một dân được tuyển chọn, kết hiệp mọi người trong đức tin và giáo lý chính thống…” (Phụng Vụ Giờ Kinh).

Được giao nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô, Cyrillô và Mêthôđô đã giảng dạy “đức tin chân thật và giáo lý chính thống”, nhưng hai ngài còn hoàn tất công tác Phúc Âm hóa khi hội nhập sứ điệp Kitô giáo vào trong văn hóa các dân Slave. Nhờ thế, khi công trình của hai vị được hoàn tất, đã cho phép ngôn ngữ Slave xứng đáng trở thành văn tự phổ biến. Nhờ việc đề cao ngôn ngữ và văn hóa, các dân tộc Slave đã có thể chống cự lại thứ chính trị thống trị và đồng hóa của người German và người Hy Lạp.

Công trình của Cyrillô và Mêthôđô vô cùng to lớn, đánh dấu bằng sự can đảm trí thức và sự khiêm tốn, vì trong thời gian mà người ta chỉ được cầu nguyện ca tụng Thiên Chúa bằng tiếng Hipri, Hy Lạp hay La Tinh, hai vị thánh Tông Đồ của dân Slave đã đáp trả bằng tiếng Slave, và qua đó cho thấy mọi người có thể với Thiên Chúa bằng ngôn ngữ của mình.

Bên cạnh các tác phẩm tôn giáo, cả hai đã dịch và suy diễn “Bộ Luật Justinien”, được xem như bộ luật cổ nhất của Slave (Zakon Sudnyj). Người ta cũng cho rằng thánh Mêthôđô đã dịch quyển Nomokanon, thu tập các luật Giáo Hội và luật dân sự Byzantin.

Phúc Âm được chọn cho Thánh lễ này là dụ ngôn người gieo giống (Mc 4,1-20). Các khó khăn mà vị Tông Đồ đã phải gánh chịu (Mêthôđô cũng đã phải vào tù) không ngăn cản được hạt giống rơi vào đất tốt và mang lại nhiều hoa trái.

Công trình Phúc Âm hóa vẫn chưa kết thúc. Chính vì thế Hội thánh, trong ngày lễ kính hai vị thánh Tông Đồ này, đã hát trong Thánh lễ Thánh Vịnh 95: Từ ngày này sang ngày khác, hãy công bố ơn cứu độ của Người / hãy thuật lại cho muôn dân vinh quang của Người / cho muôn dân kỳ công của Người. Chúng ta có thể nhắc lại những lời cuối cùng của Cyrillô nói với anh mình là Mêthôđô: “Anh ơi, chúng ta đã chia sẻ cùng một số phận, cùng dắt một cái cày trên cùng một luống. Em biết anh vẫn thích Núi thánh của anh (sự cô tịch), nhưng đừng bỏ trách nhiệm giảng dạy để trở về với núi đó. Thật vậy, anh tìm được nơi nào để hoàn tất ơn cứu độ của anh?”

Enzo Lodi

 


Suy Niệm: Hãy mở ra

Michel-Angelo là một trong những danh họa đã để lại nhiều tác phẩm bất hủ nhất, bất hủ vì giá trị nghệ thuật siêu vượt thời gian đã đành, mà còn bất hủ vì sự sống động mà ông đã mặc cho các tác phẩm của ông, điển hình là bức tượng Môsê. Người ta kể lại rằng sau khi hoàn thành bức tượng này, Michel-Angelo đứng chiêm ngắm một cách say sưa, và sự sống động của pho tượng làm ông ngây ngất đến độ ông đã cầm búa gõ vào và thốt lên: "Hãy nói đi".

Quả thật, lời nói là một trong những biểu lộ sống động nhất của sự sống. Khi chúng ta mở miệng thốt ra lời, là lúc chúng ta muốn biểu lộ sự sống, đồng thời nói lên rằng chúng ta đang sống cùng và sống với người khác. Sự hiện diện của chúng ta trong thế giới này cần phải được xác nhận bằng tiếng nói của chúng ta. Những người câm điếc một phần nào bị hạn chế trong sự liên lạc với thế giới xung quanh, sự hiện diện của họ dễ bị người khác quên lãng. Nhưng đáng thương hơn, có lẽ là những người thấp cổ bé miệng, những người mà tiếng nói không được nhìn nhận, những người bị tước đoạt quyền được lên tiếng, quyền sống của họ gần như bị khước từ.

Sống xứng với phẩm giá con người, đó là phải được có tiếng nói. Có lẽ đó cũng là điều mà Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể cũng muốn khẳng định với chúng ta qua cuộc sống và cái chết của Ngài. Phép lạ chữa người câm điếc như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay, không chỉ là một chữa lành bệnh tật thân xác, mà còn là dấu chỉ của một thực tại cao siêu hơn, đó là sự sống đích thực mà Chúa Giêsu muốn mang lại cho con người. Khi phục hồi người câm điếc trong khả năng nghe và nói, có lẽ Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng con người không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng Lời Chúa nữa; con người chỉ có thể sống thực, sống trọn phẩm giá con người, khi nó biết mở rộng tâm hồn đón nhận và sống Lời Hằng Sống của Chúa.

Cử chỉ Chúa Giêsu trong phép lạ chữa lành người câm điếc, đã có một thời được Giáo Hội lặp lại khi cử hành Bí tích Rửa tội. Thật thế, Bí tích Rửa tội cũng là một phép lạ trong đó chúng ta được chữa lành và tái sinh trong đời sống mới. Trong phép lạ này, Chúa Giêsu cũng nói với mỗi người chúng ta: Ephrata, Hãy mở ra. Hãy mở lớn đôi tai để nghe được tiếng Ngài trong từng biến cố, từng giây phút của cuộc sống. Hãy mở rộng con tim và đôi tay để cảm thông và chia sẻ với người khác. Hãy mở miệng để cảm tạ, chúc tụng và loan báo tình thương Chúa; để nói những lời của yêu thương và hòa bình, của cảm thông và tha thứ.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Hằng Sống của Chúa, chính Ngài là lương thực mang lại sự sống đích thực cho chúng ta. Xin cho sự sống ấy tràn ngập tâm hồn chúng ta để chúng ta lớn lên trong tình yêu Chúa và không ngừng yêu thương, liên đới, chia sẻ với mọi người xung quanh.

(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét