Trang

Thứ Ba, 18 tháng 3, 2025

19.03.2025: THỨ TƯ TUẦN II MÙA CHAY - THÁNH GIU-SE, BẠN TRĂM NĂM ĐỨC MARIA - LỄ TRỌNG

 

19/03/2025

 Thứ Tư tuần 2 Mùa Chay.

 THÁNH GIUSE, BẠN TRĂM NĂM ĐỨC MARIA.

Lễ trọng. Lễ HỌ. Cầu cho giáo dân.

 


"Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền".

 

* Thánh Giuse, bạn trăm năm của Đức Maria, có sứ mạng “chăm sóc Đức Giêsu như một người cha”. Nhưng Chúa đã muốn người chủ Thánh Gia ở Nagiarét tiếp tục sứ mạng ấy trong Hội Thánh, thân thể của Chúa Kitô.

Đức Maria là Mẹ của Hội Thánh thì thánh Giuse là Đấng che chở Hội Thánh.

 

Bài Ðọc I: 2 Sm 7, 4-5a. 12-14a. 16

“Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu của Ðavít, tổ phụ Người”.

Trích sách Sa-mu-en quyển thứ hai.

Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Na-than rằng: “Hãy đi nói với Ða-vít tôi tớ Ta rằng: Khi ngày của ngươi đã viên mãn, ngươi sẽ yên nghỉ với các tổ phụ ngươi; sau đó, Ta sẽ cho miêu duệ ngươi lên kế vị và Ta sẽ làm cho triều đại người được vững bền. Chính người sẽ xây cất một ngôi nhà để kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngôi báu triều đại người được củng cố đến muôn đời. Ta sẽ là Cha của người, và người sẽ là con Ta. Nhà của ngươi và triều đại của ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta, ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi”.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 88, 2-3. 4-5. 27 và 29

Ðáp: Miêu duệ người tồn tại đến muôn đời

Xướng: Tôi sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời; qua mọi thế hệ, miệng tôi loan truyền lòng trung thành Chúa. Vì Ngài đã phán: “Tình thương của Ta đứng vững muôn đời”; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín.

Xướng: Ta đã ký minh ước cùng người ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Ða-vít là tôi tớ của Ta rằng: “Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ”.

Xướng: Chính người sẽ thưa cùng Ta: “Chúa là Cha con, và Thiên Chúa là Ðá Tảng cứu độ của con”. Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì.

 

Bài Ðọc II: Rm 4, 13. 16-18. 22

Mặc dầu tuyệt vọng, ông vẫn tin”.

Trích thư Thánh Phao-lô Tông đồ gửi tín hữu Rô-ma.

Anh em thân mến, không phải nhờ lề luật mới có lời hứa ban cho Áp-ra-ham hay dòng dõi của ông trở nên kẻ thừa kế thế gian, nhưng là nhờ sự công chính của đức tin. Vì thế, do đức tin, được coi như là theo ân sủng, lời hứa cho mọi dòng dõi được vững bền, không phải chỉ cho kẻ sinh bởi lề luật, mà còn cho kẻ sinh bởi đức tin của Áp-ra-ham, tổ phụ của mọi người chúng ta, (như có lời chép rằng: Ta đã đặt ngươi làm cha nhiều dân tộc) trước mặt Thiên Chúa, Ðấng ông đã tin, Ðấng cho kẻ chết sống lại, và kêu gọi cái không có như có. Mặc dầu tuyệt vọng, ông vẫn tin rằng mình sẽ trở thành cha nhiều dân tộc, như có lời đã phán với ông rằng: “Dòng dõi ngươi sẽ như thế”. Vì vậy, ông đã được kể như sự công chính.

Ðó là lời Chúa.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm

Alleluia. Alleluia. Lạy Chúa, phúc cho những ai ngụ nơi nhà Chúa, họ sẽ khen ngợi Chúa đến muôn đời. – Alleluia.

 

PHÚC ÂM: Mt 1, 16. 18-21. 24a

“Giu-se đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền”.

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Mát-thêu.

Gia-cóp sinh Giu-se là bạn của Ma-ri-a, mẹ của Chúa Giê-su gọi là Ðức Ki-tô. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Ma-ri-a đính hôn với Giu-se, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giu-se bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì Thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: “Hỡi Giu-se con vua Ða-vít, đừng ngại nhận Ma-ri-a về nhà làm bạn mình, vì Ma-ri-a mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giê-su: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội”. Khi tỉnh dậy, Giu-se đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền.

Ðó là lời Chúa.

– – – – – – – – – – – – – –

Hoặc: Lc 2, 41-51a

“Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con”.

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Lu-ca.

Hằng năm cha mẹ Chúa Giê-su có thói quen lên Giê-ru-sa-lem để mừng lễ Vượt Qua. Lúc bấy giờ Chúa Giê-su lên mười hai tuổi, cha mẹ Người đã lên Giê-ru-sa-lem, theo tục lệ mừng ngày lễ Vượt Qua. Và khi những ngày lễ đã hoàn tất, hai ông bà ra về, trẻ Giê-su đã ở lại Giê-ru-sa-lem mà cha mẹ Người không hay biết. Tưởng rằng Người ở trong nhóm các khách đồng hành, hai ông bà đi được một ngày đàng, mới tìm kiếm Người trong nhóm bà con và những kẻ quen biết. Nhưng không gặp thấy Người, nên hai ông bà trở lại Giê-ru-sa-lem để tìm Người.

Sau ba ngày, hai ông bà gặp thấy Người trong đền thờ đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ, nghe và hỏi các ông. Tất cả những ai nghe Người nói, đều ngạc nhiên trước sự hiểu biết và những câu Người đáp lại. Nhìn thấy Người, hai ông bà ngạc nhiên, và mẹ Người bảo Người rằng: “Con ơi, sao Con làm cho chúng ta như thế? Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con”. Người thưa với hai ông bà rằng: “Mà tại sao cha mẹ tìm con? Cha mẹ không biết rằng con phải lo công việc của Cha con ư?” Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói. Bấy giờ Người theo hai ông bà trở về Na-da-rét, và Người vâng phục hai ông bà.

Ðó là lời Chúa.

 


Người Công Chính

"Ông Giuse, bạn bà là kẻ công chính và không muốn làm ố danh bà, nên đã định bỏ bà cách kín đáo".

Ðây là câu chuyện duy nhất trong Tân Ước diễn tả trực tiếp về con người của vị thánh mà Giáo hội mừng kính hôm nay: Thánh Giuse, bạn Ðức Trinh Nữ Maria, bổn mạng Giáo Hội Việt Nam.

Ðược Tân Ước gọi là "công chính", Thánh Giuse không những là người đã giữ đức công bình và trung thành chu toàn mọi bổn phận của một người chồng và một người cha.

Ðược gọi là "công chính", theo ý nghĩa của Kinh Thánh, là được Thiên Chúa công chính hóa, được Thiên Chúa cho tham dự vào sự công chính, sự thánh thiện của Người. Vì thế, người được công chính hóa xứng đáng để Thiên Chúa yêu thương, thương yêu thật sự vì Thiên Chúa không bao giờ đóng kịch, giả vờ như người nào đó đáng được thương yêu nhưng trong thực tế không phải thế.

Trong chiều hướng tư tưởng này, gọi thánh Giuse là kẻ công chính, Kinh Thánh muốn nói là: Ngài được Thiên Chúa công chính hóa và được Thiên Chúa yêu thương vì thật sự Ngài xứng đáng. Lần giở lại những trang Tân Ước có liên quan đến Thánh Giuse, chúng ta có thể khám phá ngay những đặc tính làm cho Ngài xứng đáng được Thiên Chúa yêu thương.

Trước tiên, là đặc tính hoàn toàn vâng phục Thánh ý Chúa. Trong trường hợp cuộc đời Thánh Giuse, Tân Ước diễn tả Thiên Thần là người thông báo cho Ngài biết ý Chúa. Vì thế, nghe lời Thiên Thần truyền, Thánh Giuse đã bỏ ý định ly dị Ðức Maria cách kín đáo. Ngược lại, Giuse đã trỗi dậy ngay trong đêm khuya để đem Con Trẻ và Mẹ Người trốn sang Ai Cập cũng như đem Con Trẻ và Mẹ Người về nước Israel, đến sinh sống tại thành Nagiaréth và âm thầm nhưng ân cần lấy sức lao động nuôi sống gia đình trải qua những tháng năm dài sau đó.

Tiếp đến Tân Ước nhắc đến Thánh Giuse trong biến cố thất lạc và tìm gặp Ðức Giêsu trong đền thánh. Qua đó chúng ta khám phá ra một đặc tính khác của Ngài hay nói đúng hơn một đặc tính mà các thánh ký viết Phúc Âm chú ý nhấn mạnh nơi Thánh Giuse: Không một lời nói nào của Ngài được ghi lại trong Tân Ước. Nhưng Thánh Giuse đã hùng hồn nói trong hành động, những hành động xem ra vô lý và đầy nguy hiểm, nhưng Ngài đã khiêm tốn, can đảm và kiên trì làm để thực hiện hoàn toàn thánh ý của Thiên Chúa.

Qua đó, Thánh Giuse xứng đáng là chủ gia đình của Nagiaréth, một gia đình thánh thiện, vì gồm ba tâm hồn luôn sẵn sàng lắng nghe và thực hành những gì Thiên Chúa muốn. Và cũng qua đó, Thánh Giuse trở nên công chính, được Thiên Chúa thực sự yêu thương.

Chúng ta hãy dâng lời cảm tạ Chúa đã trao tặng Thánh Giuse cho gia đình Nagiaréth và đặc biệt cho Giáo Hội Việt Nam. Nhờ lời cầu bàu cho Thánh cả Giuse, xin Chúa chúc lành cho những người chồng, cho những người cha, giúp họ can đảm và kiên tâm chu toàn bổn phận trong gia đình. Xin Chúa cũng chúc lành cho mọi gia đình và Giáo Hội Việt Nam, giúp mọi người sống xứng đáng với ơn gọi làm chứng nhân cho tình yêu Chúa.

--‘Lẽ Sống’--R. Veritas

 


Lưu ý: Bài chú giải này tập trung vào đoạn Phúc âm trong sách Mát-thêu.

Chú giải về 2 Sa-mu-en 7,4-5.12-14.16; Rôma 4,13.16-18.22; Mát-thêu 1,16.18-21.24 (hoặc Lu-ca 2,41-51)

Bài ca nhập lễ hôm nay tóm tắt kết quả cuộc gặp gỡ của Thánh Giuse với thiên thần Gabriel:

Chúa đã trao cho tôi tớ trung thành của Người quản lý gia đình Người.

Khi chúng ta đọc Phúc âm Mát-thêu hôm nay, chúng ta thấy rằng Giu-se đang ở trong một tình thế tiến thoái lưỡng nan khủng khiếp nhất. Người phụ nữ mà ông đính hôn đã mang thai trước khi họ đến với nhau để sống như một người chồng và một người vợ. Ông không biết rằng việc thụ thai là công trình của Chúa Thánh Thần và chắc chắn không biết rằng Cha của đứa con của Maria chính là Thiên Chúa.

Một lễ đính hôn của người Do Thái là một mối quan hệ ràng buộc hơn nhiều so với lễ đính hôn hiện đại của chúng ta. Cặp đôi này đã có thể được gọi là 'chồng' và 'vợ', như Mát-thêu đã làm trong Phúc âm của mình. Trên thực tế, cuộc hôn nhân đã bắt đầu. Lễ đính hôn chỉ có thể bị phá vỡ bằng một sự từ chối chính thức hoặc một loại ly hôn.

Đồng thời, không có mối quan hệ thân mật nào giữa cặp đôi trong thời gian này. Vì vậy, người ta có thể thấy tình thế tiến thoái lưỡng nan khủng khiếp mà Giu-se đang gặp phải. Ông đã hứa hôn với Maria, nhưng có vẻ như—và đây là kết luận tự nhiên duy nhất mà ông có thể đưa ra—cô ấy đã không chung thủy. Trong thời gian này, tình huống của một người phụ nữ ngoại tình là một vấn đề rất nghiêm trọng. Chúng ta biết câu chuyện trong Phúc âm của Gio-an, nơi một người phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình sẽ bị ném đá đến chết theo Luật. Nhiều người đàn ông—có lẽ chúng ta có thể nói hầu hết bất kỳ người đàn ông nào—sẽ rất khó chịu, tức giận và hoàn toàn bị sỉ nhục.

Giu-se chỉ thấy một khả năng, đó là chấm dứt mối quan hệ. Điều này có thể được thực hiện theo một cách rất tệ hại. Đây là kiểu việc mà chúng ta thường thấy trên phương tiện truyền thông. Nhưng Giu-se, chúng ta được cho biết, là một người đàn ông “công chính” (hoặc ‘chính trực’). Trên thực tế, điều này có nghĩa là ông rất nhiệt thành trong việc tuân thủ Luật pháp. Nhưng trong bối cảnh này, có vẻ như nó có ý nghĩa sâu xa hơn, cụ thể là ông là một người đàn ông rất tốt, một người đàn ông chu đáo và nhạy cảm. Đồng thời, ông không muốn trải qua sự hư cấu khi được coi là cha của một đứa trẻ mà ông không thụ thai. Ông quyết định chấm dứt mối quan hệ theo cách lặng lẽ nhất có thể, không đưa Maria ra xét xử công khai và bị ném đá:

Chồng bà là Giu-se, là một người đàn ông chính trực và không muốn phơi bày bà trước công chúng, đã lên kế hoạch ly dị bà một cách lặng lẽ.

Một lời giải thích khác được đưa ra là ông không muốn tiến hành cuộc hôn nhân vì tôn trọng sự huyền bí về thiên chức làm mẹ của Maria, điều mà ông không hiểu hết.

Trong cả hai trường hợp, ông cần được thuyết phục bởi một thông điệp từ Chúa rằng, bất chấp vẻ bề ngoài, ông phải lấy Maria làm vợ, nghĩa là phải trải qua một nghi lễ kết hôn trọn vẹn với bà. Ông được cho biết thêm rằng Cha của đứa trẻ chính là Thiên Chúa, và ông được hướng dẫn đặt tên cho đứa trẻ là Giê-su:

…vì chính Ngài [Giê-su] sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi của họ.

Trên thực tế, tên ‘Giê-su’ có nghĩa là ‘Gia-vê cứu rỗi’.

Không còn nghi ngờ gì nữa, Giuse hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu "người công chính". Một số người có thể thấy ông khá thụ động và ngây thơ trong tình huống như vậy, nhưng các sự kiện đã chứng minh sự kiềm chế của ông hoàn toàn hợp lý. Chúng ta có thể coi ông là một ví dụ khi chúng ta bị cám dỗ lao vào buộc tội mọi người khi bằng chứng có vẻ rất mạnh mẽ. Nhưng chúng ta biết từ kinh nghiệm rằng chúng ta thường sai. Và khi sai, chúng ta thường bất công, tàn nhẫn và trả thù. Và, ngay cả khi chúng ta đúng, đeo đuổi trả thù hoặc sử dụng toàn bộ sức mạnh của luật pháp khó có thể là cách tốt nhất để giải quyết một mối quan hệ thất bại hoặc thậm chí là sự phản bội. Khi chúng ta trả thù, "kẻ thù" của chúng ta có thể phải chịu đau khổ, nhưng rất thường là chúng ta cũng vậy.

Các bài đọc khác trong Thánh lễ hôm nay cũng liên quan đến Giuse. Bài đọc thứ nhất được trích từ một tuyên bố tiên tri của tiên tri Na-than với Vua Đa-vít. Thiên Chúa hứa rằng triều đại của Đa-vít sẽ thành công không giống như triều đại của người tiền nhiệm Sa-un:

Ta sẽ cho dòng dõi ngươi trỗi dậy sau ngươi, những người sẽ sinh ra từ thân xác ngươi, và Ta sẽ thiết lập vương quốc của nó.

Những lời này được nói trực tiếp về con trai của Đa-vít, Sô-lô-mon.

Na-than tiếp tục, nói nhân danh Chúa:

Ta sẽ là cha của nó, và nó sẽ là con trai của Ta.

Trong khi lời tiên tri của Na-than nói về Sô-lô-mon, thì nó cũng được coi là Thiên Chúa đang nói về Chúa Giê-su. Chúa Giê-su là hậu duệ của Đa-vít thông qua Giu-se, người thuộc dòng dõi Đa-vít. Do đó, câu này có ý nghĩa kép: Thiên Chúa và Giu-se sẽ là cha của đứa trẻ mới sinh. Và tất nhiên, thông qua Chúa Giê-su, lời hứa rằng triều đại của Đa-vít sẽ tồn tại mãi mãi đã được ứng nghiệm. Lời hứa về một triều đại vĩnh cửu là chủ đề của nhiều lời tiên tri sau này, và lời hứa này đã tạo ra hy vọng về một Đấng Mê-si-a sẽ giải phóng Ít-ra-en.

Bài đọc thứ hai từ Thư gửi tín hữu Rôma trích từ một chương nói về Abraham. Những điểm tương đồng với Giu-se một lần nữa rất mạnh mẽ. Trong trường hợp này, sự nhấn mạnh của Phaolô là về đức tin của Abraham. Abraham và vợ ông, Sa-ra, đã ở tuổi già, vẫn chưa có con trai hợp pháp. Có một đứa con trai do một nô lệ, Ha-ga, sinh ra và được gọi là Ít-ma-en. Tuy nhiên, Chúa đã nói với Áp-ra-ham rằng dòng dõi ông sẽ đông như cát trên bờ biển hoặc như sao trên trời. Với tuổi tác của họ, cặp đôi này có thể cười nhạo lời hứa này. Nhưng Áp-ra-ham vẫn tiếp tục tin tưởng và hy vọng:

Mặc dầu tuyệt vọng (dịch sát: Hy vọng không còn hy vọng), ông tin rằng mình sẽ trở thành “cha của nhiều dân tộc”, theo như lời đã nói, “Dòng dõi ngươi sẽ như vậy”.

Phao-lô nhấn mạnh rằng Áp-ra-ham đã được ban thưởng, không phải vì ông trung thành tuân thủ luật pháp bên ngoài, mà vì ông tin tưởng tuyệt đối vào lời Thiên Chúa và lời hứa của Thiên Chúa. Nói cách khác, không phải bằng hành động của mình mà ông khiến Thiên Chúa phải có nghĩa vụ đáp lại. Thiên Chúa không bao giờ có nghĩa vụ như vậy. Bất cứ điều gì chúng ta làm cho Thiên Chúa đều là điều chúng ta nợ Ngài, và được thực hiện bằng sức mạnh mà chỉ mình Ngài ban cho.

Những gì Thiên Chúa ban cho chúng ta khi chúng ta ở trong vị trí hoàn toàn tin tưởng là một món quà miễn phí, charis, ân sủng. Và món quà đó dành cho tất cả những ai tin vào Người và:

…không chỉ những người tuân theo luật pháp mà còn cho những người chia sẻ đức tin của Abraham…

Abraham được coi là “cha của nhiều dân tộc”, cả người Do Thái và người ngoại bang. Tình yêu và ân sủng của Chúa không giới hạn ở một nhóm người hay một tầng lớp nào đó.

Giống như Áp-ra-ham, chúng ta phải đặt đức tin và sự tin cậy của mình vào cùng một Đức Chúa Trời:

… Đấng ban sự sống cho kẻ chết và gọi những điều không tồn tại vào sự hiện hữu.

Áp-ra-ham và Sa-ra, về mọi mặt và mục đích, đã ‘chết’ khi nói đến việc sinh con. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đã mang đến sự sống mới cho họ bằng cách tạo ra một người con trai mà trong mắt nhiều người, không thể tồn tại. Tuy nhiên, Áp-ra-ham vẫn:

Hy vọng trong vô vọng… tin rằng mình sẽ trở thành “cha của nhiều dân tộc”…

Những điểm tương đồng này với Giu-se thật đáng kinh ngạc. Giu-se cũng là một “người công chính”, một người ‘công chính’. Ông là một người có đức tin lớn. Cần phải có đức tin lớn mới tin rằng đứa trẻ mà Maria sinh ra là từ Đức Chúa Trời và không phải là kết quả của mối quan hệ tự nhiên. Ông là một người có lòng chính trực lớn, người đã đối mặt với tình huống này với rất nhiều sự tự kiềm chế và nhạy cảm với Maria. Ông là một người vô cùng khiêm nhường, lặng lẽ đứng ngoài cuộc khi vở kịch diễn ra. Tuy nhiên, ông đã đóng một vai trò quan trọng như một người cha thay thế, bảo vệ vợ và đứa con của bà. Ông đã ở đó tại Bê-lem khi đứa trẻ chào đời. Ông đã đưa người mẹ và đứa trẻ vào Ai Cập để thoát khỏi những lời đe dọa giết người của Hê-rô-đê. Ông đã chăm sóc họ tại nhà của họ ở Na-gia-rét và đi cùng họ trong những chuyến đi đến Giê-ru-sa-lem để dự lễ lớn. Ông hẳn đã lo lắng biết bao với Maria khi cậu bé biến mất trong thành phố lớn Giê-ru-sa-lem, chật cứng người lạ để dự lễ Vượt qua!

Trong Cựu Ước Do-thái có một Giu-se nổi tiếng khác, người con trai út thứ hai của Gia-cóp. Ông đã bị những người anh em ghen tị bán làm nô lệ và cuối cùng trở thành người đứng thứ hai trong đế chế của các Pha-ra-ô. Và ông cũng là người "được tìm đến", bởi vì khi:

... toàn bộ đất Ai Cập bị đói, dân chúng kêu cầu Pharaoh xin bánh mì. Pharaoh nói với tất cả người Ai Cập, "Hãy đến với Giu-se; những gì ông ấy bảo các người, hãy làm theo." (Sáng thế ký 41,55)

Chúng ta hãy đến với Thánh Giu-se để cầu bầu cho chúng ta trong những nhu cầu của mình. Ông đã được chọn làm vị thánh bảo trợ nhiều lần, bao gồm cả việc trở thành vị thánh bảo trợ của Giáo hội và Thánh bảo trợ của Hội Chúa Giêsu.

Thật tuyệt khi nghĩ rằng một số phẩm chất của Chúa Giêsu đến từ Thánh Giuse nhiều như từ Mẹ Maria. Vì vậy, vào ngày lễ của ngài, chúng ta hãy cầu xin ngài cho chúng ta được chia sẻ một số nhân đức nổi bật của ngài: trong đức tin của ngài, sự từ chối đưa ra những phán đoán vội vàng trong một tình huống khó khăn, sự chính trực và lòng tốt của ngài, sự khiêm nhường và âm thầm của ngài và trong việc chấp nhận với ân sủng vai trò hỗ trợ của ngài trong Thánh gia, trong sự chăm sóc của ngài đối với Giáo hội.

Chúng ta hãy kết thúc bằng Lời cầu nguyện mở đầu trong Thánh lễ hôm nay:

Lạy Cha,

Cha đã trao phó Đấng Cứu Độ của chúng con cho Thánh Giuse chăm sóc.

Nhờ sự giúp đỡ của những lời cầu nguyện của ngài,

xin cho Giáo hội của Cha tiếp tục phục vụ Chúa của mình, Chúa Giêsu Kitô,

Đấng hằng sống và hiển trị đến muôn đời. Amen

 

https://livingspace.sacredspace.ie/f0319r/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét