10/11/2025
Thứ Hai tuần 32 thường niên.
Thánh Lêô Cả, giáo hoàng, tiến sĩ Hội Thánh.
Lễ nhớ
* Thánh
nhân sinh tại Ê-tru-ri-a. Năm 440, người làm giáo hoàng. Với tầm nhìn xa trông
rộng và nghị lực phi thường, người đã đương đầu với nguy cơ xâm lăng của dân
man di và lạc giáo của Êu-ti-khê đang đe dọa niềm tin
về mầu nhiệm Nhập Thể. Nhưng trong tư cách một mục tử, người ý thức
sâu sắc trách nhiệm của mình và không ngừng nhắc nhở các tín hữu thể hiện
đức tin trong cuộc sống hằng ngày. Người qua đời năm 461.
Bài Ðọc I: (Năm I) Kn 1, 1-7
“Thần
trí khôn ngoan thì nhân hậu; Thánh Thần Chúa tràn ngập hoàn cầu”.
Khởi đầu
sách Khôn Ngoan.
Hỡi các vị
lãnh đạo trần gian, hãy chuộng đức công chính. Hãy tưởng nghĩ về Chúa cách ngay
lành, và hãy tìm kiếm Người với tâm hồn đơn sơ. Vì những ai không thử thách
Chúa, sẽ gặp thấy Người, và Người sẽ tỏ mình cho những ai tin vào Người. Vì
chưng, những tà ý làm xa cách Chúa, và quyền năng bị thử thách sẽ sửa phạt những
kẻ ngu đần đó. Sự khôn ngoan sẽ không ngự vào tâm hồn gian ác, và không ở trong
thân xác nô lệ tội lỗi. Vì Thánh Thần, Ðấng dạy dỗ chúng ta, sẽ xa tránh kẻ
gian dối, lánh xa những tư tưởng ngông cuồng, và lui đi khi sự gian ác tới.
Thần trí
khôn ngoan thì nhân hậu, nhưng không tha thứ kẻ nói lộng ngôn. Vì Thiên Chúa thấu
suốt tâm can kẻ ấy, Người thực sự kiểm soát lòng nó và nghe lời nó nói. Vì thần
trí Chúa tràn ngập hoàn cầu. Người nắm giữ mọi sự, và thông biết mọi lời.
Ðó là lời
Chúa.
Ðáp Ca: 138, 1-3.
4-6. 7-8. 9-10
Ðáp: Lạy Chúa, xin hướng dẫn con trong
đường lối đời đời
Xướng: Lạy Chúa, Ngài thăm dò và biết rõ
con, Ngài biết con, lúc con ngồi khi con đứng. Ngài hiểu thấu tư tưởng con tự
đàng xa, khi con bước đi hay nằm nghỉ, Ngài thấy hết, Ngài để ý tới mọi đường lối
của con.
Xướng: Khi lời nói chưa lên tới đầu lưỡi,
thì kìa, lạy Chúa, Ngài đã biết cả rồi; sau lưng hay trước mặt, Chúa bao bọc
thân con, và trên mình con, Chúa đặt tay. Ðối với con, sự thông minh này quá ư
huyền diệu, quá cao xa, con thực không thể hiểu ra.
Xướng: Con đi đâu xa khuất được thần linh
của Chúa? Con trốn đâu cho khỏi thiên nhan Ngài? Nếu con leo được tới trời, thì
cũng có Ngài ngự đó, nếu con nằm dưới âm phủ, thì đây cũng có mặt Ngài.
Xướng: Nếu con mượn đôi cánh của hồng
đông, và bay đến cư ngụ nơi biên cương biển cả, tại nơi đây cũng bàn tay Chúa dẫn
dắt con, và tay hữu Ngài nắm giữ con.
Alleluia: Mt 11, 25
Alleluia,
alleluia! – Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã mạc khải những
mầu nhiệm nước trời cho những kẻ bé mọn. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 17, 1-6
“Dù một
ngày bảy lần nó trở lại nói cùng con rằng: Tôi hối hận, thì con hãy tha cho
nó”.
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy,
Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Không thể nào mà không xảy ra gương xấu,
nhưng vô phúc cho kẻ nào gây ra gương xấu. Thà nó bị cột cối đá vào cổ mà ném
xuống biển còn hơn là làm gương xấu cho một trong những trẻ nhỏ này.
“Các con
hãy cẩn thận: nếu có anh em con lỗi phạm, con hãy răn bảo nó, và nếu nó hối cải,
thì hãy tha thứ cho nó; cho dù một ngày nó phạm đến con bảy lần, và bảy lần nó
trở lại nói cùng con rằng: “Tôi hối hận”, thì con hãy tha thứ cho nó”.
Các Tông đồ
thưa với Chúa rằng: “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con”. Chúa liền phán
rằng: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này
rằng: “Hãy tróc rễ lên và xuống mọc dưới biển”, nó liền vâng lời các con”.
Ðó là lời
Chúa.
Chú giải về Sách Khôn Ngoan 1:1-7
Hôm nay, chúng ta quay trở lại Cựu Ước và trong suốt tuần
này, các bài đọc của chúng ta được trích từ Sách Khôn Ngoan. Đây là một trong
những sách sau cùng của Kinh Thánh, và không giống như hầu hết các sách khác,
sách này được viết bằng tiếng Hy Lạp chứ không phải tiếng Do Thái. Sách có niên
đại chỉ khoảng năm 100 trước Công nguyên và được viết tại Alexandria, một trung
tâm của văn hóa Hy Lạp ở bờ biển phía bắc Ai Cập. Đây là một trong những sách
được gọi là sách Đệ Nhị Kinh, không phải là một phần của Kinh Thánh Do Thái và
cũng không được hầu hết các giáo hội Tin Lành công nhận là một phần của Kinh
Thánh (mặc dù một số sách Kinh Thánh không thuộc Công giáo có thể bao gồm sách
này trong một phần 'ngụy thư'). Sách được các Giáo phụ sử dụng từ thế kỷ thứ
hai sau Công nguyên, và mặc dù có một số do dự và phản đối, đặc biệt là từ
Thánh Giêrônimô, sách này vẫn được công nhận là được linh hứng theo cùng một
cách thức như các sách trong Kinh điển Do Thái.
Tên của tác giả không được biết rõ, nhưng ông là một thành
viên của cộng đồng Do Thái tại Alexandria, Ai Cập. Alexandria là thành phố thứ hai
của Đế chế La Mã vào thời điểm này. Ông viết bằng tiếng Hy Lạp, nhưng theo
phong cách thơ Do Thái. Để tăng thêm độ tin cậy cho những lời tuyên bố của
mình, ông đã dùng lời của Sa-lô-môn, người nổi tiếng về sự khôn ngoan, nhưng đã
sống rất lâu trước khi sách này được viết. Xuyên suốt, tác giả cho thấy mình rất
quen thuộc với các tác phẩm đầu tiên của Cựu Ước.
Mục đích chính của ông khi viết sách là khích lệ những người
Do Thái đồng hương trong thời kỳ đau khổ và áp bức to lớn, đặc biệt là từ những
người Do Thái bội giáo. 10 chương đầu tiên chuẩn bị cho chúng ta tiếp nhận những
lời dạy đầy đủ hơn của Chúa Kitô và Hội thánh của Ngài. Và nhiều đoạn trong phần
này của sách, đặc biệt là Khôn Ngoan 3,1-7, được Hội thánh sử dụng trong phụng vụ.
Bài đọc mở đầu hôm nay là một sự đánh giá về Khôn Ngoan như
một yếu tố thiết yếu trong cuộc sống của chúng ta:
Hỡi các nhà cai trị thế
gian, hãy yêu mến sự công chính;
hãy nghĩ đến Chúa
trong sự nhân từ
và tìm kiếm Ngài với
lòng thành,
vì Ngài được tìm thấy
bởi những ai không thử thách Ngài
và được tỏ mình ra cho
những ai không nghi ngờ Ngài.
“Sự công chính”, còn được dịch là “công lý” hoặc “sự ngay thẳng”
(từ tiếng Hy Lạp, dikaiosune), tồn tại
khi có sự hòa hợp hoàn hảo trong cả suy nghĩ và hành động với ý muốn của Chúa
được thể hiện trong Luật pháp hoặc trong những mệnh lệnh của lương tâm. Chúng
ta thấy điều này trong lời cầu nguyện của Chúa Giê-su với Cha trong vườn:
…xin đừng theo ý con,
mà theo ý Cha. (Lu-ca 22,42)
Vậy, sự ngay thẳng hoàn hảo là khi ý muốn của Chúa và ý muốn
của tôi hòa hợp đến mức tôi không chỉ quy phục ý muốn của mình theo ý muốn của
Chúa, mà còn hoàn toàn trùng khớp với ý muốn của tôi và ý muốn của Chúa. Tôi muốn
điều Chúa muốn.
Tác giả nói với “những kẻ cai trị thế gian”. Sau đó trong
sách, ông ngụ ý rằng ông là Sa-lô-môn, nổi tiếng về sự khôn ngoan, đang nói với
các vị vua đồng liêu của mình. Tất nhiên, đây chỉ là một thủ pháp văn chương.
Thực tế, ông đang nói với những người Do Thái đồng hương của mình ở Alexandria,
những người đang bị đe dọa bởi “sự bất chính” của những người hàng xóm ngoại
giáo. Tác giả nói với chúng ta:
…hãy tìm kiếm Ngài với
tấm lòng chân thành…
‘Tìm kiếm Chúa’ để ‘tìm thấy Ngài’ là một lời khuyên thường
xuyên được nhắc đến trong cả văn chương tiên tri và văn chương khôn ngoan. Một
phiên bản khác của điều này được tìm thấy trong Bát Phúc:
Phước cho những ai có
lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa. (Mát-thêu 5,8)
Và đó chính là ý nghĩa của ‘sự đơn sơ’ ở đây. Nó không hàm ý
‘sự ngây thơ’, mà là một tầm nhìn rõ ràng và không bị xáo trộn bởi những yếu tố
bóp méo.
Vì những suy nghĩ sai
lầm ngăn cách con người với Thiên Chúa,
và khi quyền năng của
Ngài bị thử thách, nó sẽ phơi bày những kẻ ngu dại…
Những suy nghĩ lệch lạc trái ngược với sự đơn sơ của tấm
lòng, bởi vì chúng ngăn cách con người với Thiên Chúa. Và “quyền năng” làm cho
kẻ ngu si bối rối. Chính quyền năng của Thiên Chúa, nếu bị thách thức bởi những
hành động phản loạn, sẽ làm cho kẻ ngu si bối rối, bởi vì chỉ có kẻ ngu si mới
làm điều đó. Trong suốt cuốn sách, tác giả sẽ đồng nhất quyền năng của Thiên
Chúa với Thánh Linh và Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa, đối với ông, hai thuật ngữ
này có thể hoán đổi cho nhau. Trong Phúc Âm, “Triều Đại của Thiên Chúa” mà Chúa
Giê-su đặt làm trọng tâm lời dạy của Ngài không phải là quyền năng của một nhà
cai trị thế tục, mà là quyền năng của Sự Khôn Ngoan.
…sự khôn ngoan sẽ
không xâm nhập vào một tâm hồn dối trá
hay ngự trị trong một
thân xác nô lệ cho tội lỗi.
Sự khôn ngoan và tội lỗi không thể tương hợp. Không một người
thực sự khôn ngoan nào, với sự khôn ngoan đến từ Thiên Chúa, Đấng là Sự Khôn
Ngoan, lại có thể xung đột với Ngài. Một người cố tình làm điều sai trái là
đang đóng kín tâm trí mình trước sự khôn ngoan đích thực. Sự khôn ngoan cũng
không thể ngự trị trong một thân xác nô lệ cho tội lỗi. Chúng ta không cho rằng
thân xác tự nó là xấu xa, một nguyên tắc được Tân Ước nhấn mạnh. Tuy nhiên, nó
có thể trở thành công cụ của tội lỗi và do đó thống trị tâm hồn. Trong Phúc Âm
Gioan, Chúa Giêsu phán:
Quả thật, quả thật, Ta
bảo các ngươi, ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội lỗi. (Gioan 8,34)
Phao-lô cũng nói về cuộc đấu tranh giữa “xác thịt” và “con
người bên trong” của mình (xem Rô-ma 7,14-24).
Từ Khôn Ngoan:
Vì một tinh thần thánh
thiện và kỷ luật sẽ tránh xa sự dối trá
và sẽ bỏ lại những suy
nghĩ điên rồ
và sẽ hổ thẹn khi sự bất
chính đến gần.
Nếu chúng ta chịu ảnh hưởng của ‘thánh linh’ của Khôn Ngoan,
chúng ta sẽ tránh mọi sự dối trá, điều hoàn toàn trái ngược với ‘sự đơn sơ của
tấm lòng’, sự minh bạch là con đường dẫn đến ‘sự ngay thẳng’. Chúng ta sẽ tránh
mọi ‘suy nghĩ ngu ngốc’, theo định nghĩa, không được sự khôn ngoan dẫn dắt. Mặt
khác, sự khôn ngoan bị chặn lại một khi sự xấu xa được phép chiếm ưu thế.
Vì sự khôn ngoan là một
tinh thần nhân từ,
nhưng nó sẽ không giải
thoát những kẻ phạm thượng khỏi tội lỗi trong lời nói của họ,
bởi vì Thiên Chúa là
chứng nhân cho những cảm xúc sâu kín nhất của họ
và là Đấng thực sự
quan sát lòng họ và là Đấng lắng nghe tiếng nói của họ.
‘Sự khôn ngoan’, tất nhiên, thân thiện với nhân loại, bởi vì
thực sự khôn ngoan là sống hòa hợp mật thiết với Thiên Chúa, và đó là mục đích
mà toàn bộ con người chúng ta được tạo ra. Khi cuộc sống của chúng ta được dẫn
dắt bởi sự khôn ngoan, thì chúng ta sẽ trở thành kiểu người mà Thiên Chúa muốn
chúng ta trở thành. Khi sự khôn ngoan lớn lên, chúng ta cũng ngày càng trở nên
giống hình ảnh của Ngài hơn.
Mặt khác, sự khôn ngoan:
…sẽ không giải thoát
những kẻ phạm thượng khỏi tội lỗi trong lời nói của họ…
Kẻ phạm thượng là người nói hoặc hành động theo cách xúc phạm
đến Thiên Chúa và tất cả những gì Ngài đại diện. Hành xử theo cách như vậy là
xa lánh Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta được kêu gọi sống theo hình ảnh của Ngài.
Và không có lối thoát nào khỏi điều này:
…bởi vì Thiên Chúa là
chứng nhân cho những cảm xúc sâu kín nhất của họ, là Đấng thực sự quan sát lòng
họ và là Đấng lắng nghe tiếng nói của họ.
Trong đoạn trích từ sách Khôn Ngoan, đối với từ được dịch là “linh hồn”, tác giả thực ra
đã sử dụng từ truyền thống là “thận”. Trong thế giới cổ đại, thận – chứ không
phải trái tim – được coi là trung tâm của cảm xúc và xung lực bản năng. Mặt
khác, “trái tim” là nơi hoạt động của trí tuệ và ý chí. Trong khi chúng ta thường
nói “trái tim và tâm trí”, họ sẽ nói “thận và trái tim”. Do đó, trong thế giới
cổ đại, “trái tim” và “thận” thường được liên kết để biểu thị tất cả các sức mạnh
nội tại của con người.
Trong câu kết thúc của bài đọc, chúng ta được cho biết rằng:
…Thần Khí Chúa đã tràn
ngập thế gian
và Đấng giữ gìn vạn vật
lại với nhau biết điều gì được nói ra…
‘Thần Khí Chúa’, một tên gọi khác của ‘sự khôn ngoan của
Thiên Chúa’, tràn ngập toàn thể thế gian, bởi vì Ngài đã tạo dựng thế gian đó,
và bất cứ nơi nào có tạo vật, sự khôn ngoan của Thiên Chúa hiện diện ở đó, ban
tặng và bảo tồn nó trong sự hiện hữu. Chính sự khôn ngoan hay Thần Khí ấy “giữ
gìn vạn vật lại với nhau” và do đó “biết điều gì được nói ra”. Sự khôn ngoan
hay Thần Khí liên kết vạn vật một cách mật thiết đến nỗi Ngài nhận biết ngay lập
tức từng lời được thốt ra. Phụng vụ Lễ Ngũ Tuần đã điều chỉnh bản văn này với
‘ơn nói tiếng lạ’, trong đó, sau khi các Tông đồ được đầy dẫy Chúa Thánh Thần,
mọi người đều có thể hiểu được những gì họ đang nói.
Thiên Chúa nhìn thấu tận đáy lòng chúng ta, thấu suốt tâm hồn
chúng ta và nghe thấu tất cả những gì chúng ta nói. Bởi vì Thần Khí của Thiên
Chúa, nguồn mạch của sự khôn ngoan, thấm nhập toàn thể thế gian và biết hết mọi
sự. Sự khôn ngoan là việc chúng ta chia sẻ kiến thức và sự hiểu biết sâu sắc
của Thiên Chúa về mọi sự.
Cả sự siêu việt lẫn sự nội tại của Thiên Chúa đều được hàm ý
trong toàn bộ đoạn văn. Sự siêu việt của Thiên Chúa có nghĩa là Ngài vượt xa và
vượt ngoài mọi khả năng hiểu biết của trí tuệ con người. Đó là ý nghĩa của sự
Nhập Thể, qua đó, trong nhân tính của Chúa Giêsu, chúng ta có thể thoáng thấy
hình ảnh Thiên Chúa được thể hiện qua cách sống cuộc đời con người của Người.
Nhưng sự trọn vẹn của bản thể Thiên Chúa là điều mà chúng ta không thể hiểu được
trong nhân tính của Chúa Giêsu. Điều đó sẽ phải chờ đến khi được chiêm ngưỡng
Thiên Phúc.
Sự nội tại của Thiên Chúa nói về sự hiện diện sâu xa của Người
trong mọi tạo vật. Điều này không nên nhầm lẫn với thuyết phiếm thần, thuyết
cho rằng vạn vật đều là Thiên Chúa. Một số người đã nghĩ ra một thuật ngữ khác
là 'panentheism', tức là sự hiện diện
sáng tạo, biến đổi và yêu thương của Thiên Chúa trong mọi sự. Chúng ta cần ghi
nhớ cả sự siêu việt lẫn sự nội tại của Thiên Chúa khi cố gắng hiểu bản chất của
Người, nhưng sự hiểu biết đầy đủ sẽ không bao giờ đạt được trong cuộc sống hiện
tại của chúng ta.
Ngoài ra, chúng ta không được nhầm lẫn giữa sự khôn ngoan với
trí thông minh hay kiến thức bách khoa. Vấn đề không phải là biết nhiều. Việc
thuộc lòng Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo và có thể diễn đạt chính xác từng
giáo lý không phải là sự khôn ngoan. Sự chính thống hoàn hảo cũng không mang lại
sự khôn ngoan. Đúng hơn, đó là khả năng nhìn nhận mọi sự vật trong mối quan hệ
đúng đắn với nhau, nhận ra vị trí của chính mình trong bức tranh toàn cảnh, và
dĩ nhiên, nhìn nhận tất cả dưới ánh sáng của Thiên Chúa.
Trong suốt cuộc đời, bức tranh ấy sẽ luôn thay đổi. Đó là một
món quà đã bắt đầu tuôn chảy vào chúng ta khi chúng ta chịu phép Thêm Sức,
nhưng nó không bao giờ ngừng đòi hỏi sự đào sâu hơn nữa.
Chú giải về Luca 17,1-6
Chúng ta chuyển sang chương 17 của Luca và hôm nay chúng ta
có ba câu nói riêng biệt của Chúa Giêsu, được tìm thấy trong các bối cảnh khác
nhau trong Phúc Âm Mát-thêu.
Câu đầu tiên nói về tính tất yếu của những tai tiếng. Tai tiếng là những hành động
hoặc lời nói, theo nghĩa đen, khiến người ta vấp ngã. Ở đây, chúng ám chỉ những
lời nói hoặc hành động trở thành chướng ngại vật, ngăn cản hoặc khiến người ta
khó tin và chấp nhận Chúa Kitô và Phúc Âm hơn.
Chúa Giêsu nói rằng những điều này là không thể tránh khỏi,
nhưng thật bi thảm cho những người chịu trách nhiệm. Thật kinh khủng khi xen
vào giữa một người và lời kêu gọi của Chúa Kitô—tức là, trở thành tác nhân hiệu
quả ngăn cản một người đến với việc biết và yêu mến Chúa Kitô và Con Đường của
Người. Sẽ tốt hơn cho kẻ gây tai tiếng:
...thà buộc cối đá vào
cổ anh và ném anh xuống biển còn hơn là anh làm cho một trong những kẻ bé mọn
này phạm tội.
Chúa Giêsu đang nói về sự tổn hại cho “những kẻ bé mọn”. Điều
này có thể ám chỉ những người trẻ tuổi và ngây thơ, hoặc những người yếu đuối
trong đức tin Kitô giáo.
Đáng buồn thay, trong những năm qua, tin tức của chúng ta đầy
rẫy những 'vụ bê bối' từ phía các nhà lãnh đạo Công giáo - giám mục, linh mục,
tu sĩ nam nữ. Thật khó để nói có bao nhiêu người đã bị suy yếu đức tin bởi những
sự kiện này, nhưng có lẽ chúng đã đủ để khiến một số người kém tận tâm trải qua
cảm giác vỡ mộng và từ bỏ Giáo hội.
Trong một số trường hợp, có lẽ không có vụ bê bối theo nghĩa
chặt chẽ, mà chỉ đơn giản là những sai sót do sự yếu đuối của con người. Trong
những trường hợp khác, đặc biệt là khi trẻ em hoặc người vô tội bị lạm dụng hoặc
bị dẫn dắt sai đường, vụ bê bối thực sự và tổn hại kéo dài chắc chắn đã xảy ra.
Vụ bê bối theo nghĩa phúc âm và theo nghĩa báo lá cải không
hoàn toàn giống nhau, và chúng ta nên cẩn thận để phân biệt chúng. Chính Chúa
Giê-su đã gây ra 'vụ bê bối' trong một số nhà lãnh đạo tôn giáo vì Ngài đã
không tuân thủ một số nghi lễ nhất định. Điều này được gọi là 'vụ bê bối
Pharisa' hoặc 'vụ bê bối đạo đức giả'. Chúng ta, những người Công giáo, chắc chắn
có thể phạm phải loại tai tiếng giả tạo này, và chắc chắn đôi khi, vì mục đích
giật gân, truyền thông có thể thổi phồng một số vấn đề nhỏ nhặt theo kiểu
"thánh thiện hơn người" đặc biệt đáng ghét.
Nhưng không chỉ những người trong đời sống công chúng mới
gây ra tai tiếng. Cha mẹ, bằng cách hành xử hai mặt, mâu thuẫn, có thể bảo con
cái mình cư xử theo một cách trong khi chính họ lại hành động theo một cách
hoàn toàn khác. Cha mẹ Công giáo, và những người khác chịu trách nhiệm hướng dẫn
con cái (chẳng hạn như giáo viên), cần đặc biệt cẩn thận để không trở thành chướng
ngại vật cho đức tin của con cái mình.
Câu nói thứ hai nói về sự tha thứ và hòa giải, và nó không
phải là không liên quan đến vấn đề tai tiếng đã nêu ở trên. Nếu một anh chị em,
tức là một người cùng đạo rõ ràng đã sai, người đó nên được sửa chữa. Và, nếu
người làm sai rõ ràng đã ăn năn, thì nên tha thứ. Ngay cả khi ai đó phạm cùng một
lỗi lầm nhiều lần và mỗi lần đều chân thành bày tỏ sự hối tiếc, thì người đó vẫn
được tha thứ.
Điều này không có nghĩa là một người có thể tiếp tục làm sai
và mong đợi được tha thứ chỉ bằng cách xin lỗi. Có thể cần phải thực hiện một số
hành động kiểm soát. Điều này đặc biệt đúng khi người đó không kiểm soát được bản
thân, chẳng hạn như trường hợp của người nghiện rượu, ma túy, tình dục, hoặc là
nạn nhân của một số hành vi cưỡng chế khác. Nhưng ngay cả trong trường hợp này,
chỉ riêng hình phạt không thể là một giải pháp thỏa đáng. Thay vào đó, mọi nỗ lực
phải được thực hiện để chữa lành và phục hồi.
Là những người theo đạo Thiên Chúa, toàn bộ hành động của
chúng ta là hướng đến sự hòa giải, chứ không phải sự phán xét và lên án. Chúng
ta cần nhớ lời dạy về tình yêu thương của Chúa dành cho tội nhân trong các dụ
ngôn về con chiên lạc, đồng bạc bị mất và người con trai hoang đàng (xem Lu-ca
chương 15).
Câu nói thứ ba nói về đức tin, tức là lòng tin tưởng sâu sắc
vào Chúa. Các tông đồ đã xin Chúa Giê-su gia tăng đức tin của họ. Điều này có
thể được thấy trong bối cảnh lời cảnh báo về sự tai tiếng, và yêu cầu phải tha
thứ vô thời hạn. Ngài nói với họ:
Nếu các con có đức tin
bằng hạt cải, các con có thể bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên và trồng xuống biển,’
và nó sẽ vâng lời các con.
Có lẽ một lĩnh vực mà chúng ta cần một niềm tin mạnh mẽ là cố
gắng phục hồi cả người gây ra lẫn nạn nhân của tai tiếng, và chắc chắn chúng ta
cần đức tin nếu muốn có thể chân thành tha thứ, hết lần này đến lần khác, cho
những người đã làm tổn thương chúng ta hoặc người khác. Nhưng sự tha thứ thực sự
không chỉ đơn giản là xóa bỏ một hành vi sai trái. Mà là thực hiện những bước cần
thiết để khôi phục lại hiện trạng hòa hợp, bình an, yêu thương và tôn trọng lẫn
nhau. Và cần lưu ý rằng, điều đó có thể mất một thời gian dài.
https://livingspace.sacredspace.ie/o1322g/
Suy niệm:
Sống Là Liên Ðới
Trong
tác phẩm "Hãy Giúp Nhau Làm Lại Cuộc Ðời", xuất bản đầu thập niên 60,
ông Henri Vicardi, người sáng lập cơ xưởng chuyên giúp những người tàn tật tự lực
cánh sinh kể lại rằng: cơ xưởng do ông sáng lập năm 1952, khởi sự với một công
nhân bị tê bại, làm việc trong một nhà xe bỏ trống, lụp xụp. Nhưng chỉ một năm
sau, xưởng đã trở nên một cơ sở kinh doanh với số vốn cả triệu Mỹ kim và thu dụng
đến 300 công nhân. Mỗi công nhân đều có một mẫu truyện cảm động về con người
xây dựng lại cuộc đời từ sự tàn tạ của mình.
Ðiển
hình là trường hợp của Jim Chapin, một người bị tê liệt từ thắt lưng trở xuống
vì một chiếc bướu ở xương sống. Ngay sau khi được khiêng từ bàn giải phẫu xuống,
các Bác sĩ đã tuyên bố ông sẽ sống nhưng không làm gì được. Thế nhưng các Bác
sĩ đã lầm: năm đó Jim Chapin đã 62 tuổi, tuy không rời được khỏi xe lăn, ông đã
tìm đến cơ xưởng của ông Henri và bắt đầu làm lại cuộc đời. Ông cho biết rằng
ông rất hãnh diện về khả năng của mình và nhất quyết không chịu trở lại với đời
sống ỷ lại và vô vọng nữa.
Câu truyện
trên đây là một bằng chứng hùng hồn rằng dù tàn tật đến đâu, mỗi người vẫn là một
giá trị độc nhất vô nhị trên cõi đời này, và do đó có trách nhiệm đối với chính
bản thân cũng như hữu dụng cho người khác và có trách nhiệm đối với người khác.
Tin Mừng
hôm nay có lẽ nhắc nhở chúng ta về ý tưởng ấy. Chúa Giêsu nói đến hai thứ bổn
phận của con người đối với người đồng loại: một là phải sống thế nào để không
trở thành cớ vấp phạm cho người khác, hai là phải tha thứ cho nhau. Ngay từ những
trang đầu tiên, khi mạc khải về con người, Kinh Thánh đã nói đến tình liên đới.
Bị Thiên Chúa tra vấn sau khi phạm tội, Adam đã đổ lỗi cho Evà; đây quả là
khuynh hướng chạy tội và chối bỏ trách nhiệm đối với người khác; cắt đứt liên lạc
với Thiên Chúa, con người cũng muốn chối bỏ tương quan với tha nhân. Sự chối bỏ
này lại càng rõ nét trong thái độ của Cain sau khi đã giết em mình là Abel:
"Tôi có phải là người giữ em tôi đâu!"
Sống là
liên đới: không thể sống mà không cần người khác, cũng không thể sống mà không
cảm thấy có trách nhiệm đối với người khác. Cuộc sống của tôi dù âm thầm đến
đâu vẫn có âm hưởng trên người khác; dù tôi có tàn tật và bé nhỏ đến đâu, tôi vẫn
là người hữu dụng cho người khác; không có một hành động nào của tôi mà không
có liên hệ đến người khác, đó chính là ý nghĩa và giá trị của cuộc đời tôi; tôi
có hạnh phúc hay không là tùy tôi có biết sống cho người khác hay không.
Nhắc nhở
chúng ta về trách nhiệm đối với người khác, lời Chúa hôm nay cũng nói lên phẩm
giá cao trọng của mỗi người. Ðó là lý do đem lại cho chúng ta niềm tin trong cuộc
sống mà chúng ta phải không ngừng cầu xin Chúa.
(‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)




Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét