27/11/2025
Thứ Năm tuần 34 thường niên
Bài Ðọc I: (Năm I) Ðn 6, 11-27
“Thiên
Chúa đã sai thiên sứ đến bịt miệng sư tử lại”.
Trích sách
Tiên tri Ða-ni-en.
Trong những
ngày ấy, có những người tọc mạch dò xét, họ bắt gặp Ða-ni-en đang cầu nguyện
kêu xin cùng Chúa mình. Họ liền đến tâu vua về điều lệ rằng: “Tâu đức vua, chớ
thì đức vua đã chẳng quy định rằng: trong ba mươi ngày, hễ ai cầu xin cùng thần
minh nào hay người nào ngoài đức vua, thì, lạy đức vua, nó sẽ bị ném vào hang
sư tử đó sao?” Vua trả lời rằng: “Ðúng, cứ như sắc chỉ Mê-đi và Ba-tư, thì
không được sai lỗi”. Bấy giờ họ lại tâu vua rằng: “Ða-ni-en thuộc con cái
Giu-đa phải lưu đày, đã chẳng xem sao lề luật và chiếu chỉ vua đã quy định: mỗi
ngày nó đọc kinh cầu nguyện ba lần”. Khi nghe biết điều đó, nhà vua rất đỗi buồn
rầu. Vua quyết tâm cứu chữa Ða-ni-en, và cố gắng cứu người cho đến khi mặt trời
lặn. Những người ấy hiểu ý vua, liền tâu vua rằng: “Tâu đức vua, xin đức vua biết
cho rằng dân Mê-đi và Ba-tư có lề luật này là bất cứ sắc chỉ nào đức vua ra,
thì không được thay đổi”. Bấy giờ vua truyền dẫn Ða-ni-en ra, và họ ném người
xuống hang sư tử. Vua bảo Ða-ni-en rằng: “Xin Thiên Chúa ngươi hằng thờ lạy sẽ
cứu thoát ngươi”. Người ta liền lấy hòn đá chận cửa hang, vua lấy nhẫn mình và
nhẫn các quan triều thần mà đóng ấn niêm phong, để bảo đảm vụ Ða-ni-en.
Vua trở về
hoàng cung liền đi ngủ, không chịu ăn uống lương thực dâng trước mặt vua, nhưng
vua không sao ngủ được. Trời vừa rạng đông, vua liền chỗi dậy, vội vã chạy ra
hang sư tử. Khi đến gần cửa hang, vua liền lớn tiếng khóc thương Ða-ni-en rằng:
“Hỡi Ða-ni-en tôi tớ Thiên Chúa hằng sống, không biết Thiên Chúa ngươi hằng thờ
lạy có cứu chữa được ngươi thoát khỏi sư tử chăng?” Ða-ni-en trả lời rằng: “Tâu
đức vua muôn tuổi, Thiên Chúa của thần đã sai thiên sứ đến bịt miệng sư tử lại,
nên chúng không làm hại được thần; vì trước mặt Thiên Chúa, thần là người công
chính; vả lại tâu đức vua, trước mặt đức vua, thần cũng chẳng làm điều gì sai lỗi.
Bấy giờ vua mừng rỡ, truyền kéo Ða-ni-en ra khỏi hang. Khi Ða-ni-en ra khỏi
hang, người ta thấy người không bị hề hấn gì, vì người đã tin cậy vào Thiên
Chúa của người. Vua liền truyền đem các người tố cáo Ða-ni-en, cùng vợ con của
chúng, ném vào hang sư tử, chúng chưa kịp rơi xuống tới đáy hang, thì đã bị sư
tử cắn xé nát thịt tan xương.
Bấy giờ
vua Ða-ri-ô ra chiếu chỉ cho toàn dân, các chi họ, các thổ ngữ, những người
đang cư ngụ trong toàn quốc rằng: “Nguyện cho các ngươi được thêm sự bình an.
Ta đã ra chiếu chỉ cho các địa phương trong nước ta, ai nấy đều phải kính sợ
Thiên Chúa của Ða-ni-en. Vì chính Người mới là Thiên Chúa hằng sống, và hằng có
đời đời; nước Người không hề tan rã, và quyền bính Người tồn tại đến muôn đời.
Chính Người là Ðấng Giải thoát và Cứu độ, Người làm những dấu lạ và những việc
kỳ diệu trên trời dưới đất: Người đã cứu chữa Ða-ni-en khỏi hang sư tử”.
Ðó là lời
Chúa.
Ðáp Ca: Ðn 3,
68. 69. 70. 71. 72. 73. 74
Ðáp: Hãy ngợi khen và tán tạ Chúa tới
muôn đời (c. 57b).
Xướng: Chúc tụng Chúa đi, mưa đổ với
sương rơi.
Xướng: Chúc tụng Chúa đi, nước đông và
băng giá.
Xướng: Chúc tụng Chúa đi, nước đọng với
tuyết sa.
Xướng: Chúc tụng Chúa đi, ngày quang và
đêm tối.
Xướng: Chúc tụng Chúa đi, sáng sủa với
thâm u.
Xướng: Chúc tụng Chúa đi, mây trôi và chớp
giật.
Xướng: Hãy chúc tụng Chúa đi, hỡi địa cầu,
hãy ngợi khen tán tạ Chúa tới muôn thuở.
Alleluia: Lc 21, 28
Alleluia,
alleluia! – Các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần
đến. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 21, 20-28
“Giê-ru-sa-lem
sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho đến thời kỳ dành cho các dân ngoại chấm dứt”.
Tin Mừng
Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Lu-ca.
Khi ấy,
Chúa Giê-su phán cùng các môn đệ rằng: “Khi các con thấy Giê-ru-sa-lem bị các đạo
binh bao vây, các con hãy biết rằng đã gần đến lúc thành ấy bị tàn phá. Bấy giờ
những ai ở trong đất Giu-đa, hãy chạy trốn lên núi, những ai ở trong thành, hãy
rời xa, và những ai ở vùng quê, chớ có vào thành; vì những ngày ấy là những
ngày báo oán, để ứng nghiệm mọi lời đã ghi chép.
“Khốn cho
những đàn bà đang mang thai và nuôi con thơ trong những ngày ấy: vì chưng sẽ có
sự khốn cực cả thể trong xứ và cơn thịnh nộ trút xuống dân này. Chúng sẽ ngã gục
dưới lưỡi gươm, sẽ phải bắt đi làm tôi trong các dân, và Giê-ru-sa-lem sẽ bị
các dân ngoại chà đạp, cho đến thời kỳ dành cho dân ngoại chấm dứt.
“Sẽ có những
điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu
lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn, chờ đợi những gì sẽ xảy
đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy
trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều
đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các
con đã gần đến”.
Ðó là lời
Chúa.
Chú giải về Đa-ni-ên 6,12-28
Giờ đây, chúng ta thấy Đa-ni-ên sống dưới thời vua thứ ba,
Đa-ri-ô. Ông là Đa-ri-út người Mê-đi, được giới thiệu là người kế vị Bên-sát-xa, người mà chúng ta đã thấy
bị sát hại vào cuối bài đọc hôm qua. Thực ra, ông không được lịch sử biết đến,
cũng không có chỗ cho ông giữa vị vua cuối cùng của người Can-đê (Babylon) và Ky-rô người Ba Tư, người đã chinh phục người
Mê-đi trước khi chiếm được Babylon. Nhân vật Đa-ri-ô này có lẽ được mô phỏng
theo vua Ba Tư Đa-ri-ô Đại đế
(522-486 TCN), người kế vị thứ hai của Ky-rô.
Một lần nữa, Đa-ni-ên là nhân vật trung tâm. Ông không đại
diện cho một nhân vật lịch sử, mà là một người Do Thái tuyệt đối trung thành với
Đức Chúa Trời và đức tin của mình trong mọi hoàn cảnh. Điều này đóng vai trò
như một thông điệp khích lệ cho độc giả của sách hiện đang sống dưới sự cai trị
hà khắc của An-ti-ô-khô.
Đa-ni-ên đã vươn lên vị trí cao nhất trong hệ thống cấp bậc
của vương quốc. Ông là người đầu tiên trong số ba “quan quản lý” (hay “tổng thống”
trong một số bản dịch) chịu trách nhiệm trước hơn 120 hoàng tử hoặc phó
vương—những người cai trị vương quốc. Ông vượt trội hơn hẳn các quan quản lý và
phó vương khác về mọi mặt đến nỗi nhà vua nghiêm túc nghĩ đến việc phong ông
làm người cai trị toàn vương quốc. Không có gì ngạc nhiên khi điều này gây ra sự
ghen tị giữa các quan quản lý và phó vương đồng cấp. Họ muốn tìm một số việc
nhà nước để hạ bệ Đa-ni-ên, nhưng họ hoàn toàn không tìm thấy điều gì để chê
trách ông.
Sau đó, họ nhận ra rằng cách duy nhất để hạ bệ ông là tập
trung vào đức tin Do Thái của Đa-ni-ên, họ nói rằng:
Chúng ta sẽ không tìm
được bất kỳ lý do nào để phàn nàn về Đa-ni-ên này trừ khi chúng ta tìm thấy nó
liên quan đến luật pháp của Đức Chúa Trời của ông. (Đa-ni-ên 6,4)
Họ cùng nhau đến yết kiến nhà vua và, sau những lời nịnh
hót nịnh hót thường lệ, đã yêu cầu nhà vua ban hành một sắc lệnh. Sắc lệnh có nội
dung như sau:
...bất cứ ai cầu nguyện
với bất kỳ thần linh hay con người nào ngoài đức vua trong ba mươi ngày, thì sẽ
bị ném vào hang sư tử. (Đa-ni-ên 6,7)
Sau đó, họ yêu cầu nhà vua ký ngay văn bản để nó không thể bị
thay đổi và có hiệu lực ngay lập tức. Nhà vua, chắc hẳn rất hài lòng với ngôn từ
của sắc lệnh, đã ký.
Khi Đa-ni-ên nghe về sắc lệnh, ông lui về nhà mình, nơi các
cửa sổ phòng trên lầu của ông hướng về Giê-ru-sa-lem. Ba lần mỗi ngày, theo
thói quen thường lệ, ông quỳ xuống cầu nguyện và ngợi khen Chúa. Phong tục cầu
nguyện hướng mặt về Giê-ru-sa-lem dường như đã có từ thời lưu đày. Sau này, các
Kitô hữu đã xây dựng nhà thờ hướng về phía đông, hướng về phía mặt trời mọc, một
biểu tượng cho Chúa Giê-su Phục sinh, trong khi người Hồi giáo cầu nguyện hướng
về Mecca.
Tất cả những điều này là lời mở đầu cho bài đọc hôm nay, tiếp
nối câu chuyện tại thời điểm này.
Những người đã thuyết phục nhà vua ký sắc lệnh đã đến nhà
Đa-ni-ên và—có lẽ đúng như họ dự đoán—thấy Đa-ni-ên đang cầu nguyện với Chúa của
mình. Sau đó, họ đến gặp nhà vua và nhắc nhở nhà vua về sắc lệnh mà ông đã ký
và những hình phạt cho việc không tuân thủ. Nhà vua đáp:
Việc này vẫn còn hiệu
lực, theo luật pháp của người Mê-đi và Ba Tư, không thể bị bãi bỏ.
Những người đó sau đó báo cáo rằng họ thấy Đa-ni-ên cầu nguyện
với Chúa của mình ba lần một ngày—một sự vi phạm rõ ràng đối với sắc lệnh.
Nhà vua, người rõ ràng rất yêu mến Đa-ni-ên và coi trọng những
đóng góp của ông cho vương quốc, đã rất đau buồn trước thông tin này và muốn
làm điều gì đó để cứu Đa-ni-ên. Nhưng những kẻ thù của Đa-ni-ên liên tục nhắc
nhở nhà vua rằng luật lệ mà ông ban hành không thể bị thay đổi vì bất kỳ ai.
Sau đó, nhà vua miễn cưỡng ra lệnh ném Đa-ni-ên vào hầm sư tử.
Lời từ biệt của ông là:
Nguyện Đức Chúa Trời của
ngươi, Đấng mà ngươi trung thành phục vụ, giải cứu ngươi!
Sau đó, hầm được lấp lại bằng một tảng đá lớn và niêm phong
bằng chiếc nhẫn của chính nhà vua và của các quý tộc. Số phận của Daniel dường
như đã được định đoạt. (Có lẽ đây chính là nguồn gốc của thuật ngữ này?)
Tuy nhiên, nhà vua vẫn vô cùng bối rối trước quyết định của
mình. Ông nhịn ăn suốt đêm và từ chối tiếp bất kỳ phi tần nào. Ông thức trắng
đêm lo lắng cho Đa-ni-ên, và khi tia sáng đầu tiên của bình minh ló dạng, ông vội
vã chạy đến hầm mộ. Khi đến nơi, ông kêu lên:
Hỡi Đa-ni-ên, tôi tớ của
Đức Chúa Trời hằng sống, Đức Chúa Trời mà ngươi trung thành phụng sự, đã có thể
giải cứu ngươi khỏi bầy sư tử sao?
Trước sự kinh ngạc của nhà vua, ông nghe Đa-ni-ên đáp lời từ
trong hầm mộ:
Tâu bệ hạ, vạn tuế! Đức
Chúa Trời của hạ thần đã sai thiên sứ của Ngài đến bịt miệng sư tử để chúng
không làm hại hạ thần, vì hạ thần được thấy là vô tội trước mặt Ngài; và trước
mặt bệ hạ, cũng vậy, thưa bệ hạ, hạ thần không làm điều gì sai trái.
Nhà vua vô cùng vui mừng và ra lệnh thả Đa-ni-ên ngay lập tức
ra khỏi hầm mộ. Ông không bị thương vì đã tin cậy Đức Chúa Trời của mình. Sau
đó, nhà vua ra lệnh ném những người tố cáo Đa-ni-ên cùng với vợ con của họ xuống
hầm mộ, theo phong tục Ba Tư. Chúng ta nhớ lại dụ ngôn của Chúa Giê-su về người
đầy tớ không biết tha thứ, khi nhà vua ra lệnh cho một người đầy tớ:
... phải bán, cùng với
vợ con, tất cả tài sản và tiền công. (Mát-thêu 18,25)
Bấy giờ, những tù nhân mới vừa xuống đến đáy hố thì lập tức
bị bầy sư tử đói ăn thịt.
Sau đó, nhà vua ban chiếu chỉ không chỉ cho vương quốc của
mình, mà còn:
...cho tất cả các dân
tộc và quốc gia thuộc mọi ngôn ngữ trên khắp thế giới...
Lệnh truyền nói rằng:
Nguyện các ngươi được
thịnh vượng dư dật! Ta ban sắc lệnh rằng trong toàn vương quốc của ta, mọi người
phải run sợ và kính sợ Đức Chúa Trời của Đa-ni-ên...
Thực tế, ông ra lệnh cho cả nước cải đạo. Đức Chúa Trời của
Đa-ni-ên phải được tôn kính và kính sợ. Đó là một mệnh lệnh dưới hình thức một
bài thánh ca chiến thắng về Đức Chúa Trời của Đa-ni-ên:
Vì Ngài là Đức Chúa Trời
hằng sống,
đứng vững đến đời đời.
Vương quốc của Ngài sẽ
không bao giờ bị hủy diệt,
và quyền thống trị của
Ngài không bao giờ chấm dứt.
Ngài giải cứu và cứu rỗi;
Ngài làm những dấu lạ
và phép lạ trên trời và dưới đất;
Ngài đã cứu Đa-ni-ên
khỏi quyền lực của sư
tử.
Một lần nữa, câu chuyện cần được đọc trong bối cảnh người Do
Thái đang chịu đau khổ dưới sự đàn áp của bạo chúa An-ti-ô-khô. Nếu Đức Chúa Trời đã giải cứu Đa-ni-ên
khỏi những kẻ thù ghét tôn giáo của Ngài và khỏi sự hung dữ của sư tử, thì Ngài
cũng sẽ làm điều tương tự cho những người trung thành của Ngài ngay bây giờ.
Vương quốc của Đức Chúa Trời sẽ không bị hủy diệt; quyền thống trị của Đức Chúa
Trời là vô tận—không giống như quyền thống trị của những kẻ cai trị thế tục.
Như câu chuyện về Đa-ni-ên minh họa rõ ràng, Đức Chúa Trời
là Đấng giải cứu và là Đấng cứu rỗi cho tất cả những ai đặt niềm tin vào Ngài.
Vương quốc của Ngài là một Vương quốc sẽ không bao giờ kết thúc.
Chú Giải về Luca 21,20-28
Chúa Giê-su tiếp tục những lời cảnh báo của Ngài về những điều
sắp xảy đến. Đó là sự pha trộn giữa những gì sẽ xảy ra với Giê-ru-sa-lem và
ngày tận thế của muôn vật. Các hình ảnh chủ yếu mang tính Kinh Thánh và khải
huyền, được trích từ các lời tiên tri trong Cựu Ước và không được xem là mô tả
chính xác những gì thực sự sẽ xảy ra khoảng 40 năm sau. Dấu hiệu cho thấy ngày
tận thế đã gần kề là Giê-ru-sa-lem bị bao vây bởi quân đội kèm theo “sự phạm
thánh tàn phá” (xem Mát-thêu
24,15). Tuy nhiên, đúng là Giê-ru-sa-lem đã bị quân đội La Mã bao vây. Nơi an
toàn nhất là trên những ngọn đồi xung quanh, chứ không phải trong thành phố,
nơi đã bị biến thành đống đổ nát.
Chúa Giê-su không nhấn mạnh nhiều đến các sự kiện thực tế,
mà đúng hơn là nguyên nhân của chúng - sự vô tín và sự bại hoại của rất nhiều
người, mà sự hủy diệt là kết cục không thể tránh khỏi. Vì vậy, Ngài gọi chúng là “những ngày báo thù”, một
thời kỳ trừng phạt không phải là sự báo thù của Chúa, mà là hậu quả tự nhiên của
tội ác và sự bại hoại, những lời cảnh báo mà Kinh Thánh, đặc biệt là các tiên
tri, đã đầy dẫy. Xem, ví dụ, I-sai-a
63,4; Giê-rê-mi-a 5,29; Hô-sê
9,7; và đặc biệt là Đa-ni-ên 9,26-27:
Những ngày hoang tàn
đã được định sẵn. Vua [An-ti-ô-khô]
sẽ lập một giao ước vững chắc với nhiều
người [người Do Thái bất trung] trong
một tuần lễ, và trong nửa tuần lễ đó [ba năm rưỡi], vua sẽ khiến của lễ và lễ vật ngừng dâng, và thay vào đó sẽ là sự phạm
thánh tàn phá cho đến khi sự kết thúc đã định được đổ xuống kẻ phạm thánh.
Đền thờ đã bị An-ti-ô-khô
làm ô uế từ năm 167 đến năm 165 TCN. “Sự phạm thánh tàn phá” có lẽ ám chỉ đến một
dòng chữ khắc trên cổng Đền thờ, dâng hiến nó cho thần Zeus trên đỉnh Olympus.
Tất nhiên, tất cả những điều này sẽ được lặp lại. Và theo nhiều cách, điều này
đã được lặp đi lặp lại—ví dụ, hãy nhớ lại bức tượng một người phụ nữ khỏa thân
được dựng lên như một vị thần trong Nhà thờ Đức Bà Paris trong cuộc Cách mạng
Pháp.
Những gì tiếp theo từ câu 23 liên quan nhiều hơn đến sự hủy
diệt của Giê-ru-sa-lem:
Khốn cho những ai đang
mang thai và những ai đang cho con bú trong những ngày đó!
Đó sẽ là thời kỳ khốn khổ lớn. Nhiều người sẽ bị chặt hạ và
những người khác sẽ bị bắt đi làm phu tù đến các vùng đất ngoại giáo (người La
Mã thích diễu hành tù nhân của họ trong một cuộc diễu hành chiến thắng ở Rome).
Chính Thành Thánh, Đền Thờ của nó bị đổ nát, sẽ bị dân ngoại chà đạp—một số phận
mà nó vẫn đang trải qua.
Điều này sẽ xảy ra:
…cho đến khi thời kỳ của
các dân tộc được trọn.
Vì, như Phao-lô đã chỉ ra trong thư gửi tín hữu Rô-ma (11,25-29),
chính dân ngoại đã thay thế người Do Thái trong vai trò là người mang Tin Mừng
và xây dựng Vương quốc. Nhưng Phao-lô tin rằng thời đại của Dân Ngoại sẽ chỉ kết
thúc khi dân Ít-ra-en trở lại
và tất cả được hòa giải trong Chúa Giê-su Ki-tô là Chúa. Đó là một thời kỳ vô định, và vẫn đang diễn ra. Đức
Chúa Trời của chúng ta là một Đức Chúa Trời bao hàm tất cả, và là một Đức Chúa
Trời kiên nhẫn.
Cuối cùng, Chúa Giê-su nói về nhiều dấu hiệu thảm khốc và khải
huyền để báo hiệu sự kết thúc của thời gian. Chúng là những hiện tượng điển
hình trong Kinh Thánh và không nhằm mục đích tiên tri chính xác về các sự kiện.
Chúng kết thúc bằng khải tượng của Đa-ni-ên:
Bấy giờ, họ sẽ thấy
‘Con Người ngự đến trong đám mây’ với quyền năng và vinh quang lớn lao.
Điều này không nhằm mục đích gieo rắc nỗi sợ hãi và run rẩy
cho mọi người, ngoại trừ có lẽ những người đã sống cuộc đời gian ác.
Nhưng đối với các môn đồ, những người trung thành theo Chúa
Giê-su, đây là lúc để:
…hãy đứng dậy và ngẩng
đầu lên, vì sự cứu chuộc của anh em đang đến gần.
Như chúng ta đã thấy trong Phúc Âm hôm qua, đau khổ và hoạn
nạn là một phần không thể thiếu của việc sống trọn vẹn đời sống Ki-tô. Sứ điệp và tầm nhìn của chúng ta là
một “dấu hiệu của sự mâu thuẫn”, một ngọn hải đăng soi sáng cho nhiều người, và
một mối đe dọa bị nhổ tận gốc cho những người khác.
Nhưng đối với những ai đã cố gắng sống theo tầm nhìn và các
giá trị của Phúc Âm, đối với những ai đã cố gắng tìm kiếm và gặp gỡ Chúa Giêsu
trong mọi con người và mọi biến cố của cuộc đời, những ai đã dành hàng giờ đồng
hồ bên Người trong cuộc đối thoại thân mật, thì đây chính là thời điểm giải
thoát cuối cùng của họ, thời điểm không còn đau buồn, không còn nước mắt, không
còn khó khăn, không còn thất vọng. Thay vào đó, họ sẽ bước vào một thời gian
không gián đoạn của tình yêu và sự thân mật, của tự do và bình an, của niềm vui
và sự an ủi. Vì vậy, khi chúng ta sắp kết thúc một năm phụng vụ nữa, chúng ta
hãy cùng nhau làm điều đó với một tâm trạng phấn khởi.
https://livingspace.sacredspace.ie/o1345g/
Suy niệm: Chúc Tụng Ðấng Nhân Danh Chúa
Ðoạn Phúc
Âm hôm nay gợi lên trong chúng ta hai ý tưởng chính: lời loan báo thành
Giêrusalem bị quân địch bao vây và tàn phá, yếu tố thứ hai là những dấu chỉ báo
trước biến cố Chúa Kitô trở lại trong vinh quang và đầy quyền năng. Ðây không
phải là những dấu chỉ đáng làm cho chúng ta hoang mang lo sợ, mà ngược lại
chúng làm cho chúng ta luôn thức tỉnh và hy vọng hướng đến tương lai huy hoàng
được Thiên Chúa cứu rỗi.
Như là
một biến cố lịch sử, thành Giêrusalem đã bị tàn phá hai lần, lần thứ nhất vào
năm 70, do bởi đạo quân viễn chinh Rôma dưới quyền chỉ huy của tướng Titô, và lần
thứ hai là vào năm 135, thời của hoàng đế Adriano. Ða số các nhà chú giải hiện nay
cho rằng Phúc Âm theo thánh Luca phải được viết ra trong khoảng năm 80-90, vì
thế khi viết những dòng Phúc Âm trên, tác giả Phúc Âm theo thánh Luca có biết
những biến cố về thành Giêrusalem bị tàn phá năm 70, và tác giả nhìn vào biến cố
này không phải một cách thuần túy như là một biến cố chính trị mà thôi, nhưng
còn như là một biến cố có ý nghĩa tôn giáo nữa.
Việc thành
bị tàn phá là do hậu quả của tội lỗi mà thành đã phạm, bởi vì thành đã từ chối
lãnh nhận ơn cứu rỗi Thiên Chúa mang đến cho. Và như thế, ứng nghiệm lời than
trách và lời tiên tri của Chúa Giêsu về thành Giêrusalem được tác giả Phúc Âm
theo thánh Luca ghi lại trước đó nơi chương 13, câu 34-35 như sau:
"Giêrusalem, Giêrusalem, ngươi giết các tiên tri và ném đá những kẻ được
sai đến cùng ngươi. Ðã bao lần Ta muốn tụ họp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập
hợp gà con dưới cánh mà ngươi không chịu, thì này, nhà các ngươi sẽ bị bỏ mặc
cho các ngươi, mà Ta nói cho các ngươi hay các ngươi sẽ không còn thấy Ta nữa
cho đến thời các ngươi nói: chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Lời Chúa trách
Giêrusalem phản bội, chối từ ơn cứu rỗi không kết thúc trong tuyệt vọng nhưng
được hướng đến một viễn tượng hy vọng lớn, Chúa sẽ trở lại mang niềm vui và ơn
cứu rỗi, và con người sẽ chấp nhận Ngài, sẽ hát lên bài ca "chúc tụng Ðấng
nhân danh Chúa mà đến".
Nơi phần
hai của bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta đọc được những loan báo hãi hùng của Chúa
Giêsu về thế giới, đó là chiến tranh, tàn phá, những biến chuyển đầy lo âu, những
tai ương thiên nhiên. Nhưng chúng ta cần hiểu đây là những hình ảnh của một
ngôn ngữ được gọi là ngôn ngữ khải huyền của truyền thống Kinh Thánh, để nhắc
nhở cho người đồ đệ của Chúa biết rằng thế giới vũ trụ này không phải là một
nơi cư ngụ vẹn toàn cho con người. Hơn nữa, những tội lỗi của con người làm cho
thế giới vũ trụ không vẹn toàn này thay vì trở nên tốt hơn nhờ có sự cộng tác của
con người với ơn Chúa ban, thì lại trở nên tồi tệ hơn và chắc chắn sẽ đi đến
lúc tan biến. Trong cái nhìn của lịch sử cứu rỗi thì đây không phải là một sự
tan biến vào hư vô mà là một sự biến đổi trong Chúa, nhờ quyền năng của Thiên
Chúa mà trở thành trời mới đất mới khi Con Người đầy quyền năng và vinh quang từ
trong đám mây mà đến. Cuối cùng, Thiên Chúa ngự đến. Ngài là khởi đầu và là
cùng đích của mọi loài, mọi sự.
Trong dòng
lịch sử đang diễn ra, chúng ta có thể nói và xác tín rằng Thiên Chúa phạt lỗi
theo sự công bằng. Ngài cho phép sự dữ xảy ra, nhưng trong và qua mọi sự, mọi
biến cố, Ngài luôn làm chủ và cứu rỗi theo lượng từ bi vô cùng của Ngài. Chính
vì thế mà không bao giờ người Kitô được phép để mình rơi vào trong hoàn cảnh
tuyệt vọng. Chúng ta cần nhìn lịch sử theo cái nhìn của Chúa, theo cái nhìn của
lịch sử cứu rỗi để niềm hy vọng Kitô không bao giờ bị tắt mất đi trong tâm hồn
người đồ đệ của Chúa. Chắc chắn sẽ đến lúc chúng ta vui mừng lên mà hát bài ca
"Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Lạy Chúa
Xin thương
giải thoát chúng con khỏi mọi sự dữ. Xin chớ để chúng con sa vào chước cám dỗ
phản bội Chúa. Xin đừng để chúng con sống trong tuyệt vọng nhưng luôn hy vọng
vào Chúa và hát lên bài ca Chúc Tụng Chúa, Chúc Tụng Ðấng Nhân Danh Chúa Mà Ðến.
(‘Mỗi
Ngày Một Tin Vui’)




Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét