26/11/2025
Thứ Tư tuần 34 thường niên
Bài Ðọc I: (Năm I) Ðn 5, 1-6, 13-14, 16-17,
23-28
“Có những
ngón tay hiện ra như bàn tay một người”.
Trích sách
Tiên tri Ða-ni-en.
Trong những
ngày ấy, vua Bên-sát-xa dọn tiệc linh đình đãi một ngàn triều thần: ai nấy cứ
theo tuổi mình mà uống rượu. Khi vua đã say rượu, liền truyền đem các bình,
chén, bát bằng vàng bạc mà Na-bu-cô-đô-nô-sô, phụ vương ông, đã lấy trong đền
thờ Giê-ru-sa-lem đem về, để cho vua, các triều thần, hoàng hậu và cung phi
dùng uống rượu. Bấy giờ, người ta mang ra các bình, chén, bát bằng vàng bạc đã
lấy trong đền thờ Giê-ru-sa-lem đem về. Vua, các triều thần, hoàng hậu và cung
phi dùng đồ đó mà uống rượu. Họ vừa uống rượu vừa ca tụng các thần minh bằng
vàng, bạc, đồng, sắt, gỗ, đá của họ.
Chính lúc ấy,
có những ngón tay hiện ra như bàn tay một người viết chữ trên vách tường cung
điện, đối diện ánh bạch lạp; vua nhìn thấy ngón tay viết chữ. Bấy giờ mặt vua đổi
sắc, tư tưởng rối loạn, xương sống yếu sức, đầu gối va chạm lẫn nhau.
Lúc đó người
ta dẫn Ða-ni-en đến trước mặt vua. Vua hỏi người rằng: “Nhà ngươi có phải là
Ða-ni-en, con cái Giu-đa, phải lưu đày mà phụ vương trẫm đã điệu từ Giu-đa về
đây chăng? Trẫm đã nghe rằng nhà ngươi được thần linh các vị thần phù giúp:
ngươi được thông minh, trí tuệ và khôn ngoan phi thường. Trẫm đã nghe rằng nhà
ngươi có thể cắt nghĩa những huyền bí và giải thích được những chuyện khúc mắc.
Vậy nếu nhà ngươi đọc được hàng chữ này và cắt nghĩa cho trẫm, thì nhà ngươi sẽ
được mặc áo đỏ, cổ đeo vòng vàng và trở nên vị tướng thứ ba trong vương quốc trẫm”.
Ða-ni-en
tâu lại trước mặt vua rằng: “Lễ vật của vua xin để lại cho vua, và ân huệ nhà
vua, xin vua ban cho kẻ khác. Thần xin đọc hàng chữ này và cắt nghĩa cho đức
vua. Ðức vua đã tự phụ chống đối Ðấng cai trị trên trời: đã đem bày trước mặt
vua các bình, chén, bát lấy trong đền Chúa, rồi vua, triều thần, hoàng hậu và
cung phi dùng những đồ ấy mà uống rượu; vua còn ca tụng các thần vàng bạc, đồng,
sắt, gỗ, đá, toàn là những thứ không thấy, không nghe và không cảm giác: vua
không tôn vinh Thiên Chúa, Ðấng cầm trong tay vận mệnh và đường lối của đức
vua. Bởi đó, Chúa khiến ngón tay hiện ra viết hàng chữ đó.
“Ðây những
chữ đã viết như sau: Mơ-nê, Mơ-nê, Tơ-kên, Pác-xin. Xin giải nghĩa những chữ đó
như sau: Mơ-nê: là Thiên Chúa đã đếm đủ số triều đại nhà vua rồi. Tơ-kên: là đã
cân vua trên cán cân, và thấy vua hụt cân. Pác-xin: là vương quốc của vua đã bị
phân chia và trao cho dân Mê-đi và Ba-tư”.
Ðó là lời
Chúa.
Ðáp Ca: Ðn 3, 62. 63.
64. 65. 66. 67
Ðáp: Hãy ngợi khen và tán tạ Chúa tới
muôn đời
Xướng: Chúc tụng Chúa đi, mặt trời cùng
với mặt trăng.
Xướng: Chúc tụng Chúa đi, trên trời cao,
muôn tinh tú.
Xướng: Chúc tụng Chúa đi, mưa móc với
sương sa.
Xướng: Chúc tụng Chúa đi, muôn ngàn ngọn
gió.
Xướng: Chúc tụng Chúa đi, lửa đỏ với than
hồng.
Xướng: Chúc tụng Chúa đi, rét mướt và lạnh
lẽo.
Alleluia: Mt 24, 41a
và 44
Alleluia,
alleluia! – Các con hãy tỉnh thức và sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con
Người sẽ đến. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 21, 12-19
“Các
con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy, nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con
cũng sẽ chẳng hư mất”.
Tin Mừng
Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Lu-ca.
Khi ấy,
Chúa Giê-su phán cùng các môn đệ rằng: “Người ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và
nộp các con đến các hội đường và ngục tù, điệu các con đến trước mặt vua chúa
quan quyền vì danh Thầy: các con sẽ có dịp làm chứng. Vậy các con hãy ghi nhớ
điều này trong lòng là chớ lo trước các con sẽ phải thưa lại thể nào. Vì chính
Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con
không thể chống lại và bắt bẻ các con.
“Cha mẹ,
anh em, bà con, bạn hữu sẽ nộp các con, và có kẻ trong các con sẽ bị giết chết.
Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu các
con cũng sẽ chẳng hư mất. Các con cứ bền đỗ, các con cũng sẽ giữ được linh hồn
các con”.
Ðó là lời
Chúa.
Chú giải về Đa-ni-ên 5,1-6.13-14.16-17.23-28
Nếu bài đọc hôm qua nói về “bàn chân đất sét”, thì bài đọc
hôm nay nói về “chữ viết trên tường”. Kinh Thánh của chúng ta chứa đầy những cụm
từ đã đi vào ngôn ngữ hàng ngày và quen thuộc ngay cả với những người chưa từng
mở sách ra.
Bối cảnh của bài đọc hôm nay là một bữa tiệc lớn do vua Bên-sát-xa tổ chức cho các quý tộc
của mình, tổng cộng là một ngàn người. Trong tiếng Babylon, tên của nhà vua sẽ
là ‘Bel-shar-usur’, có nghĩa là ‘May-Bel-bảo-vệ-nhà-vua’. Mặc dù ở phần sau của
câu chuyện, ông được gọi là con trai của Na-bu-cô-đô-nô-so, nhưng thực tế ông được biết là con trai của
Nabonidus, người đã phong cho ông tước hiệu vua. ‘Con trai’ có thể có nghĩa là
‘hậu duệ’ hoặc thậm chí là ‘người kế vị’. Trên thực tế, chúng ta biết rằng có một
số vị vua Babylon đã xen vào giữa thời kỳ Na-bu-cô-đô-nô-so và Bên-sát-xa,
nhưng tác giả cần đặt hai vị vua gần nhau để làm cho sự xuất hiện của Daniel trở
nên hợp lý khi ông còn sống trong cả hai triều đại.
Trước sự chứng kiến của các vị khách, nhà vua bắt đầu uống
rượu và có một gợi ý rằng ông đã uống khá nhiều, với kết quả không hiếm gặp là
đưa ra những quyết định kỳ lạ ngay tại chỗ. Ông đột nhiên ra lệnh mang những
bình vàng và bạc mà vua Na-bu-cô-đô-nô-so
đã cướp từ Đền thờ Jerusalem vào để vợ ông, các quý tộc và những người phụ nữ
hát cho ông có thể uống từ chúng. Và họ đã làm vậy. Cuộc chè chén say sưa và phạm
thượng trong những dịp như vậy đã được các sử gia Hy Lạp cổ đại như Herodotus
và Xenophon ghi chép lại đầy đủ.
Khi họ uống từ những bình thánh này, họ cũng hát những lời
ca ngợi các thần tượng bằng vàng và bạc, bằng đồng và sắt, bằng gỗ và đá của họ.
Việc sử dụng những vật dụng được hiến dâng cho việc thờ phượng Đức Chúa để tôn thờ các "vị thần"
làm bằng vật liệu vô tri vô giác, đối với bất kỳ người Do Thái nào, là một sự
báng bổ kinh hoàng.
Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi đột nhiên, một bàn tay được
nhìn thấy đang viết trên một trong những bức tường của cung điện, có thể nhìn
thấy rõ ràng dưới ánh sáng của một ngọn đèn gần đó. Nhà vua "đang nhìn bàn
tay đang viết"; ông có thể nhìn thấy bàn tay "rõ ràng" (hãy nhớ
rằng, vào thời kỳ trước khi có điện, phòng tiệc sẽ tối om, đặc biệt là các bức
tường). Vị vua cực kỳ mê tín này tràn ngập nỗi sợ hãi và lo lắng. Ông trở nên yếu
ớt và bắt đầu run rẩy toàn thân:
Chân tay ông khuỵu xuống,
và đầu gối ông đập vào nhau.
Ông ngay lập tức hứa thưởng lớn cho bất kỳ nhà hiền triết
nào có thể giải thích được những gì đang diễn ra. Không ai trong số họ có thể
làm được điều đó. Nhà vua càng trở nên tái nhợt. Sau đó (mặc dù không nằm trong
phần chúng ta đang đọc) hoàng hậu bước vào và bảo nhà vua đừng sợ. Có một người
từng là hiền triết tối cao dưới thời vua Na-bu-cô-đô-nô-so, "cha của ngươi", một chuyên gia về giải
mộng. Daniel được đưa đến diện kiến nhà vua.
Nhà vua kể cho Daniel nghe những gì ông nghe được về ông, rằng
ông là một trong những người Giu-đa
bị lưu đày đến Babylon bởi "cha" của mình (Na-bu-cô-đô-nô-so) và rằng ông được biết đến
với "sự khai sáng, hiểu biết và trí tuệ tuyệt vời". Nhà vua hy vọng rằng
Daniel sẽ có thể làm được điều mà tất cả các nhà thông thái khác của ông không
thể làm được - giải mã thông điệp kỳ lạ được viết trên tường. Đổi lại, Daniel sẽ
được mặc trang phục màu tím (màu của giới giàu có và quyền lực), đeo một sợi
dây chuyền vàng quanh cổ (có lẽ tương đương với tước hiệu hiệp sĩ của Anh) và
được phong làm một trong ba người quản lý hàng đầu của vương quốc.
Với sự chính trực và lòng dũng cảm tuyệt vời, Daniel đã từ
chối lời đề nghị tặng quà và phần thưởng, đồng thời đảm bảo với nhà vua rằng
ông có thể giải mã thông điệp kỳ lạ. Trước tiên, ông kể với vua rằng cha vua, Na-bu-cô-đô-nô-so, đã lạm dụng quyền lực to
lớn của mình và vì lòng kiêu ngạo mà bị truất khỏi ngai vàng. Chỉ trong nỗi đau
khổ, ông mới thừa nhận Chúa là Đấng cai trị thực sự của muôn dân (những lời này
cũng không được đề cập trong bài đọc này).
Bây giờ, Đa-ni-ên nói, Nên-sát-xa chẳng học được gì và vẫn đi theo con đường cũ. Sau đó,
ông ta tiếp tục công kích gay gắt Bên-sát-xa
và hành vi của ông ta. Ông ta đã thách thức Chúa trên trời bằng cách lấy những
bình thánh mà Na-bu-cô-đô-nô-so
đã cướp khỏi Đền thờ Giê-ru-sa-lem và ông ta, các quan đại thần, vợ và các cung
nữ của ông ta đã dùng chúng để uống rượu. Hơn nữa, ông ta còn nói với nhà vua:
Nhà vua đã tôn vinh
các thần bằng bạc, bằng vàng, bằng đồng, bằng sắt, bằng gỗ và bằng đá, là những
thần không thấy, không nghe, không biết; nhưng nhà vua lại không tôn vinh Đức
Chúa Trời, Đấng nắm giữ hơi thở và mọi đường lối của nhà vua.
Nói cách khác, nhà vua đã không tôn vinh Đức Chúa Trời, Đấng
mà nhà vua mang ơn chính mạng sống và mọi sự thịnh vượng của mình.
Vậy thì, có ba lời buộc tội chính được đưa ra chống lại Bên-sát-xa: ông phạm tội không phải
vì thiếu hiểu biết, mà vì sự bất tuân và kiêu ngạo, bởi vì ông đáng lẽ phải học
hỏi từ số phận của “cha” mình, người đã bị phế truất và lưu đày đến sống giữa bầy
gia súc (xem Đa-ni-ên 5,20-21); ông đã thách thức Đức Chúa Trời bằng cách làm ô
uế các khí dụng thánh; và ông đã thờ lạy các thần tượng do con người tạo ra
thay vì Đức Chúa Trời, là Đấng mà tất cả những gì ông có và hiện hữu đều đến từ
Ngài.
Và bây giờ, Đa-ni-ên nói:
Vì vậy, từ sự hiện diện
của [Đức Chúa Trời], bàn tay đã được
sai đến và dòng chữ này đã được khắc. Và đây là dòng chữ đã được khắc: MƠ-NÊ,
TƠ-KÊN và PÁC-SIN.
Đa-ni-ên tiếp tục, ý nghĩa của các từ như sau:
MƠNÊ: Đức Chúa Trời đã
đếm số ngày của vương quốc vua và chấm dứt nó;
TƠ-KÊN: vua đã bị cân
trên bàn cân và thấy thiếu sót (theo sự mong đợi của Đức Chúa Trời);
PÁC-SIN: vương quốc của
vua bị chia cắt và được trao cho người Mê-đi và người Ba Tư.
Ba từ bí ẩn này có thể tượng trưng cho ba đơn vị đo trọng lượng
hoặc tiền xu của châu Á—một mina, một shekel (phần 60 của một mina) và một nửa
mina (hoặc paras). Do đó, có một cách chơi chữ xuất hiện trong cách diễn giải của
Daniel ở trên.
Mene gợi ý động từ
mana, “đo lường”; tekel là động từ shaqal,
“cân”; trong khi parsin gợi ý cả động
từ paras, “chia”, và người Ba Tư (hậu
duệ của người Ba Tư ở Ấn Độ vẫn được gọi là Parsi).
Tuy nhiên, ý nghĩa đầy đủ trong cách diễn giải của Daniel
không rõ ràng đối với chúng ta. Nó có thể ám chỉ đến sự suy giảm ảnh hưởng của
ba đế chế kế tiếp—Babylon, Medes và Ba Tư. Hoặc nó có thể ám chỉ ba vị vua, Na-bu-cô-đo-nô-so, Evil-Merodach và
Bên-sát-xa—hoặc có lẽ là Na-bu-cô-đô-nô-so, Bên-sát-xa, và các vị vua của ‘Medes và Ba
Tư’. Dù cách đọc nào đúng, kết cục vẫn như nhau – sự sụp đổ cuối cùng và không
thể tránh khỏi của các triều đại và đế chế hùng mạnh.
Phần kết của câu chuyện không được đề cập trong bài đọc của
chúng ta, nhưng nhà vua, bất chấp những lời tố cáo mà ông nghe được từ miệng
Daniel, vẫn giữ lời hứa, mặc cho Daniel bộ đồ tím và vàng, và trao cho ông vị
trí thứ ba trong vương quốc của mình. Và ngay trong đêm đó, nhà vua cũng bị ám
sát.
Thông điệp của câu chuyện rõ ràng nhắm vào vua An-ti-ô-khô, người mà người Do Thái
đang phải chịu đau khổ, đồng thời cũng là người đã làm ô uế và cướp bóc Đền thờ
của họ. Tác giả muốn nói rằng số phận của An-ti-ô-khô sẽ không khác gì số phận của Na-bu-cô-đô-nô-so hay Bên-sát-xa.
Và ở đó ẩn chứa một thông điệp hy vọng cho mọi dân tộc đang
đau khổ. Không một nhà cai trị nào, dù quyền lực đến đâu, có thể duy trì lâu
dài một chế độ đi ngược lại các giá trị của Chúa. Và không ai trong chúng ta có
thể tìm thấy hạnh phúc đích thực trong một lối sống vi phạm những giá trị đó.
Chú giải về Luca 21,12-19
Chúa Giê-su tiếp tục những lời cảnh báo của Ngài, nhưng giờ
đây chủ yếu dành cho các môn đồ của Ngài. Ngài báo trước những trải nghiệm và sự
kiện sẽ sớm được ứng nghiệm trong sách Công vụ Tông đồ, chưa kể đến lịch sử sau
này của Giáo hội qua nhiều thế kỷ, bao gồm cả lịch sử của chúng ta. Chúa Giê-su
nói về sự ngược đãi và bắt bớ:
...họ sẽ nộp các con
cho các hội đường và nhà tù...
Từ “nộp” là một điệp khúc được lặp đi lặp lại trong Tân Ước.
Gioan Tẩy Giả bị nộp cho Hê-rô-đê,
người đã bỏ tù ông và sau đó hành quyết ông. Chính Chúa Giê-su trước tiên bị nộp
cho các nhà lãnh đạo của dân tộc mình, rồi sau đó vào tay người La Mã, những
người sẽ hành quyết Ngài. Và giờ đây, Chúa Giê-su nói với các môn đồ rằng họ cũng
có thể bị nộp và bị lôi ra trước tòa án dân sự và tôn giáo “vì danh Ta”.
Nhiều Ki-tô hữu thời
kỳ đầu đã xung đột với các cộng đồng Do Thái và bị nộp cho các hội đường. Giáo
đường Do Thái không chỉ là nơi cầu nguyện và học Kinh Thánh, mà còn được sử dụng
cho mục đích hành chính dân sự và là nơi giam giữ trong khi chờ xét xử.
Các cáo buộc có thể là dân sự hoặc hình sự, nhưng lý do thực
sự là những người bị buộc tội là tín đồ của Chúa Kitô. Ví dụ, các quốc gia thực
hiện đàn áp tôn giáo luôn khăng khăng rằng người ta bị bắt (hoặc tệ hơn) vì vi
phạm luật dân sự và hình sự, chứ không phải vì tín ngưỡng của họ. Do đó, các Ki-tô hữu trở thành đối tượng của sự
sợ hãi và thù hận, tư tưởng của họ bị coi là đe dọa và thậm chí là có tính chất
lật đổ.
Nhưng Chúa Giê-su phán, các môn đồ của Ngài không nên sợ hãi
hay lo lắng. Khi thời điểm đến, họ sẽ biết phải làm gì và phải nói gì. Ngài sẽ
cho họ biết phải nói gì và trả lời như thế nào.
Lời hứa này đã được chứng minh hết lần này đến lần khác theo
thời gian. Điều thực sự đáng buồn là những kẻ phản bội họ với chính quyền thường
là thành viên trong gia đình họ - "cha mẹ, anh chị em... họ hàng và bạn
bè". Một lần nữa, lời tiên tri này thật đáng buồn đã trở thành hiện thực
quá thường xuyên.
Chúa Giê-su tiếp tục:
Các ngươi sẽ bị mọi
người ghét bỏ vì danh Ta.
Điều này thật kỳ lạ và, theo một cách nào đó, thật vô lý.
Chúa Giê-su—người đã rao giảng chân lý, tình yêu, tự do, hòa bình, công lý và bất
bạo động—trở thành, trong những người theo Ngài, đối tượng của dối trá, hận thù,
tù đày và tra tấn, chia rẽ, bất công và bạo lực khủng khiếp nhất.
Nhưng không một sợi
tóc nào trên đầu bạn sẽ bị mất.
Đây không phải là một cụm từ có thể hiểu theo nghĩa đen, bởi
vì nhiều người phải chịu đựng đau đớn khủng khiếp trong thân xác, nhưng có một
sự toàn vẹn và trọn vẹn bên trong mà không gì có thể phá hủy.
Nhờ sự kiên trì, bạn sẽ
giành được linh hồn mình.
Nghĩa là, bằng cách vượt qua tất cả những gì kẻ thù có thể
ném vào chúng ta, cuối cùng chúng ta sẽ trở thành những con người toàn vẹn và
trọn vẹn, những người có thể ngẩng cao đầu. Có rất nhiều tấm gương ngay cả
trong quá khứ gần đây của chúng ta: Đức Giám mục Oscar Romero, Dietrich
Bonhoeffer, Thánh Maximilian Kolbe, Edith Stein (Thánh Teresa Benedicta Thánh
Giá), chỉ kể tên một vài người. Ký ức về họ được trân trọng và trở thành nguồn
cảm hứng cho tất cả chúng ta.
Chúng ta hãy cầu nguyện để chúng ta có đủ can đảm để sống
đúng với các giá trị Kitô giáo của mình bất kể phải trả giá như thế nào. Đừng
ngạc nhiên khi đức tin và tôn giáo của chúng ta có thể tạo ra sự giận dữ và thù
địch đến vậy.
Đồng thời, chúng ta không ngừng vươn tới chân lý và tình yêu
thương để xua tan những nỗi sợ hãi vô căn cứ mà niềm tin của chúng ta có thể
gây ra cho người khác. Chúng ta là mối đe dọa cho những giá trị sai lầm, nhưng
chúng ta phải nỗ lực hết sức để giúp mọi người nhận ra đâu là chân lý và điều tốt
đẹp thực sự. Và chúng ta làm điều đó bằng cách tìm kiếm điều đó trong chính cuộc
sống của mình.
https://livingspace.sacredspace.ie/o1344g/
Suy niệm: Cơ hội làm chứng
Bài Tin Mừng
hôm nay là một đoạn ngắn trong diễn từ về ngày tận thế. Có một câu chúng ta cần
lưu ý, trong đó Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Các con sẽ bị người ta bắt
bớ, ngược đãi, nộp cho Hội đường, và điệu đến trước nhà cầm quyền, vì Danh Thầy.
Ðó là cơ hội để các con làm chứng về Thầy". Thật lạ lùng: bị bắt bớ, ngược
đãi, tống ngục là chuyện đau khổ, nhục nhã, thất bại, thế mà Chúa Giêsu lại cho
là hân hoan, là cơ hội tốt để làm chứng.
Trong thực
tế, các môn đệ đã sống và thực hành điều đó. Phêrô và Gioan bị bắt và bị điệu
ra trước Công nghị Do thái, các ngài chẳng những không buồn phiền, lo sợ, mà
còn hân hoan, vui vẻ, vì nhờ đó có dịp để nói về Chúa Giêsu cho người khác.
Phaolô bị bắt và bị xét xử, ngài cũng mạnh dạn nói về Chúa Giêsu cho các nhân vật
cỡ lớn, như Tổng trấn Felix, Festo, và cả Hoàng đế Herode Agrippa nữa.
Nhưng cái
gì đã tạo ra sự biến đổi nơi các môn đệ, cũng là bắt bớ, bách hại mà có người
cho là thất bại, người khác lại cho là cơ may? Thánh Augustinô giải thích: cuộc
sống con người là sự xung đột giữa hai tình yêu: yêu Chúa đến độ khinh mình, hoặc
yêu mình đến coi rẻ Thiên Chúa. Nếu tội là yêu mình đến coi rẻ Thiên Chúa thì
dĩ nhiên tôi sẽ bám vào những gì tôi cho là sung sướng ở trần gian, như tiền bạc,
danh vọng, sắc đẹp, và khi bị bắt bớ, tôi bị mất tất cả, lúc đó, bắt bớ bị coi
là thất bại. Nhưng nếu tôi yêu Chúa đến độ coi thường bản thân, thì có bị bắt bớ
vì Chúa, cũng chẳng mất mát gì; người ta có thể lấy tiền bạc, danh vọng, địa vị
của tôi, chứ không thể lấy mất Chúa của tôi được, và đó còn là dịp để tôi rao
giảng về Chúa cho họ là khác. Do đó, chẳng sợ gì hết, chỉ sợ tội mà thôi; cái
căn bản là tình yêu đối với Chúa, nó làm thay đổi cuộc đời.
Trong thực
tế, muốn biết chúng ta có yêu Chúa hay không, cứ nhìn vào cuộc sống hàng ngày
xem chúng ta có dám vì Chúa mà can đảm khước từ những đam mê bất chính, những
tham vọng không hợp ý Chúa, những thú vui không đẹp lòng Chúa, cho dẫu có vì thế
chúng ta phải nghèo túng, phải vất vả hay không? Nếu trong cuộc sống, chúng ta
dám hy sinh tất cả vì Chúa, lúc đó chúng ta mới có thể coi trường hợp bị bắt bớ
vì Chúa là cơ hội để làm chứng cho Chúa.
Xin cho
chúng ta được luôn mạnh mẽ trong niềm xác tín đó, và sẵn sàng làm chứng cho
Chúa trong tất cả cảnh huống nào của cuộc đời.
(‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)




Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét