Linh mục Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp (1897-1946) - cuộc đời, nhân cách, sự nghiệp, cái chết và ý nghĩa cho ngày nay
- 12/11/2025
08:20
Đây là tài liệu chính thức của Giáo phận Cần Thơ, được Toà Thánh
Vatican chuẩn thuận. Tài liệu này là kết quả của cuộc điều tra sau nhiều năm, với
nhiều nhân chứng, được tóm gọn lại trở thành Tiểu sử chính thức về Cha Phanxicô
Trương Bửu Diệp, do Giáo phận Cần Thơ công bố.
LỜI GIỚI THIỆU
Đây
là tài liệu chính thức của Giáo phận Cần Thơ, được Toà Thánh Vatican chuẩn thuận.
Tài
liệu này là kết quả của cuộc điều tra sau nhiều năm, với nhiều nhân chứng, được
tóm gọn lại trở thành Tiểu sử chính thức về Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp, do
Giáo phận Cần Thơ công bố.
Theo
quy định của Bộ Phong Thánh của Giáo hội Công giáo, ngày 11 tháng 10 năm 2021,
Điều 52a: “Các tài liệu của Cuộc Điều Tra và Positio (tập hồ sơ) về việc
tử đạo, các nhân đức anh hùng, sự hiến dâng mạng sống và việc tôn kính cổ truyền
sẽ được giữ bí mật tuyệt đối trong vòng năm mươi (50) năm kể từ khi kết thúc cuộc
điều tra. Mọi sự tham khảo bởi bên thứ ba phải được Thánh Bộ chấp thuận bằng
văn bản”. Thế nên, những nhân vật và những nhân chứng về cuộc Tử đạo của
Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp trong tài liệu này được viết tắt (Ví dụ như: Ông
Q., Linh mục V., Bà H., Ông S…).
Ước
mong mọi thành phần Dân Chúa đón nhận và phổ biến tài liệu chính thức này, để
Danh Chúa được vinh quang và nhiều người được hưởng ơn cứu độ.
Cần Thơ, ngày 15 tháng 8 năm 2025
Giám mục Giáo phận Cần Thơ
+ Phêrô LÊ TẤN LỢI
1. Tiểu sử sơ lược của Linh mục Phanxicô
Xavier Trương Bửu Diệp (1897-1946)
Linh
mục Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp sinh ngày 1 tháng 1 năm 1897 tại Tấn Đức,
nay là xã Long Kiến, tỉnh An Giang. Cha là ông Trương Văn Đặng (1860-1935) và mẹ
là bà Nguyễn Thị Thanh (1862-1904). Gia đình sống tại họ đạo Cồn Phước, do linh
mục Nguyễn Linh Sớm, sinh năm 1857, coi sóc. Đây là một gia đình Công giáo làm
nghề nông, sống theo những giá trị truyền thống của người Việt.
Sau
khi vợ mất vào năm 1904, ông Trương Văn Đặng đưa con trai là cậu Diệp qua
Battambang, Campuchia kiếm sống. Ông tái hôn với bà Nguyễn Thị Phước, sinh năm
1890. Sau đó, hai vợ chồng cùng cậu Diệp trở về Cồn Phước, An Giang sinh sống.
Tại đây, họ sinh thêm được một cô con gái tên là Trương Thị Thìn.
Năm
1909, khi lên 12 tuổi, cậu Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp được nhận vào học bậc
trung học tại Tiểu chủng viện Cù Lao Giêng, xã Tấn Mỹ, huyện Chợ Mới, tỉnh An
Giang. Vì từ thời bấy giờ cho đến năm 1955, tất cả các xứ đạo Công giáo trên
lãnh thổ Việt Nam bên kia sông Hậu (Giáo phận Long Xuyên và Cần Thơ hiện nay) đều
thuộc về Giáo phận Phnom Penh, do một giám mục người Pháp, thuộc Hội Thừa sai
Ba Lê, cai quản, cho nên, sau khi tốt nghiệp, cậu Diệp được nhận vào Đại chủng
viện Phnom Penh, Campuchia.
Năm
1924, Thầy Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp được thụ phong linh mục. Ngài được bổ
nhiệm làm cha phó tại một làng người Việt Nam gọi là Hố Trư – nay là Ploutrey,
xã Thomokô, huyện Lvea Em, tỉnh Kandal, Campuchia. Cho đến ngày nay, người dân
trong làng vẫn còn nhắc nhớ về cha phó Phanxicô Xavier Diệp.
Đầu
năm 1928, Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp được điều về dạy học tại Tiểu chủng
viện Cù Lao Giêng, An Giang.
Tháng
3 năm 1930, Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp được bổ nhiệm làm chánh xứ Tắc
Sậy. Đây là một họ đạo nhỏ ở tỉnh Bạc Liêu, ngài cũng phải coi sóc cả Khúc Tréo
và các giáo dân sống rải rác trong vùng. Dưới sự hướng dẫn của Cha Diệp, số
giáo dân tăng lên đáng kể, và nhiều nhà thờ mới được xây dựng. Cha Phanxicô
Xavier Trương Bửu Diệp đã rất thành công trong công tác mục vụ và truyền giáo,
cho đến khi qua đời vào ngày 12 tháng 3 năm 1946.
Linh
mục Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp có sức ảnh hưởng rất lớn, không chỉ ở tỉnh
Bạc Liêu, tại Giáo phận Cần Thơ, mà còn ở nhiều nơi khác trên đất nước Việt Nam
và cả nước ngoài. Mộ phần của ngài ở Tắc Sậy thu hút đông đảo mọi thành phần đến
kính viếng, và hình ảnh của ngài hiện diện ở khắp nơi.
Lòng
sùng kính của rất nhiều người dành cho Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp và tầm
ảnh hưởng vươn xa của ngài, không phải do Giáo phận Cần Thơ chủ ý tạo ra hay dẫn
dắt, nhưng điều này đã được phát sinh và lan toả một cách tự nhiên trong lòng
dân chúng và ngày càng phổ biến và phát triển.
Trong
những trường hợp như thế này, Giáo hội Công Giáo luôn phải tuân theo những quy
định nghiêm ngặt để xác minh tính xác thực và giá trị của lòng sùng kính đó.
Cho nên, từ năm 2011 đến năm 2017, Giáo phận Cần Thơ đã tiến hành một cuộc điều
tra kỹ lưỡng về cuộc đời và cái chết của Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp. Một
cách cụ thể, một Ủy Ban Sử Học của Giáo Phận đã được thành lập để xem xét tất cả
các tài liệu khả dĩ có thể trực tiếp hoặc gián tiếp giúp tìm hiểu về cuộc đời
và những sự kiện dẫn đến cái chết bi thảm của ngài. Hai mươi ba nhân chứng, cả
Công giáo lẫn không Công giáo, đã được thẩm vấn sau khi công khai tuyên thệ làm
chứng cách trung thực. Trong số đó, có 13 người là nhân chứng tận mắt chứng kiến,
10 người khác làm chứng về những gì họ nghe được từ những người trực tiếp chứng
kiến.
Thể
theo yêu cầu của Giáo phận Cần Thơ, Tòa Thánh đã xem xét kỹ lưỡng phương pháp
tiến hành và kết quả của cuộc điều tra này, kể cả việc tham khảo ý kiến của một
nhóm sử gia độc lập, và cuối cùng đã tuyên bố kết quả của cuộc điều tra là đáng
tin cậy.
Do
đó, vào ngày 25.11.2024, Đức Giáo hoàng Phanxicô cho phép Giáo phận Cần Thơ tiến
hành các bước tiếp theo: chính thức công nhận linh mục Phanxicô Xavier Trương Bửu
Diệp là một mẫu gương sống Đạo cho ngày nay; và ban cho ngài danh hiệu truyền
thống là “Chân phước”.
3. Nhân cách và Sự nghiệp của Cha
Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp
Tất
cả các nhân chứng đều mô tả Cha Phanxicô Xavier Diệp là một linh mục tốt, tận
tâm trong việc thi hành các bổn phận tôn giáo, nghiêm túc trong việc giữ gìn
các nề nếp truyền thống trong gia đình (gồm có em gái, em rể và hai cháu của
ngài), và rất quảng đại đối với người khác. Ngài đặc biệt quan tâm đến người
nghèo khó, trẻ em, người bệnh tật, và những người đau khổ vì chiến tranh hay những
tai ương khác.
Cha
Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp rất rộng lượng. Ngài không hề phân biệt đối xử
giữa người giáo dân hay anh chị em lương dân, giữa Công Giáo với các Tôn giáo
khác, và ngài cũng không quan tâm đến yếu tố sắc tộc hay chính kiến. Tất cả những
ai nghèo khổ đều có thể đến gặp ngài trực tiếp và được ngài đón tiếp trong tình
bằng hữu và với những cử chỉ chia sẻ giống y như nhau.
Để minh họa thêm, xin trích dẫn một vài lời khai thực tế của các
nhân chứng sau khi họ tuyên thệ nói sự thật.
3.1. Về tình yêu của Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp
đối với mọi người
Ông
Q., một giáo dân, cho biết: “Cha sống giản dị, gần gũi, yêu thương và phục
vụ giáo dân, nên bà con yêu mến cha… Cha yêu thương mọi người. Cha giúp đỡ mọi
người lương giáo. Ai cần gì thì xin cha, cha cho”.
Linh
mục V., lúc đó là một linh mục trẻ, kể lại: “Cha rất gần gũi, hiểu biết,
phục vụ và yêu thương giáo dân. Dù trong hoàn cảnh xã hội loạn lạc, nguy hiểm,
Cha Diệp vẫn ở lại với giáo dân chứ không chịu tản cư đi lánh nạn… Cha Diệp
siêng năng làm lễ, giải tội và đi đến các họ lẻ và giáo điểm; và cha thường
xuyên đi thăm những người già cả, ốm yếu, và giúp đỡ những người nghèo lương
giáo”.
Bà
L., lúc đó còn là một thiếu nữ khi Cha Diệp qua đời, vẫn nhớ rất rõ: “Con
thấy Cha Diệp khiêm nhường, hiền lành, đơn sơ, gần gũi giáo dân. Con nhớ cha
hay đi thăm bà con, vào nhà để xem họ sinh sống làm sao… Cha Diệp cũng nhân từ
và biết cách hoán cải người tội lỗi. Thời đó, ba con là con nhà khá giả, ham mê
ăn chơi, không lo làm việc. Cha Diệp gặp ba con khuyên giải, hướng dẫn. Nhờ đó
ba con hối cải, sửa đổi, và siêng năng làm việc”.
Lời
tóm tắt xác đáng nhất về điểm này là của Đức Hồng y GB. Phạm Minh Mẫn, người
quen biết với Cha Phanxicô Xavier Diệp: “Ngài là một mục tử tốt lành,
yêu thương, phục vụ, và sống chết với đoàn chiên… Ngài không chỉ tận tình chăm
sóc những giáo dân trong họ đạo mà cả những lương dân; không chỉ trong họ đạo
được trao phó mà cả những giáo điểm xa xôi… Cha thường xuyên đến những giáo điểm
và họ đạo này cử hành Thánh lễ và các Bí tích cho giáo dân, và còn thăm viếng
lương dân. Để đến được những nơi đó, cha thường đi bằng ghe xuồng hoặc đạp xe đạp…
Cha Diệp tốn nhiều thời gian và hao tổn nhiều sức lực, tâm trí trong việc linh
mục của mình. Cha yêu thương và biết dân rất rõ. Cha rất gần gũi với cuộc sống
hằng ngày và thiêng liêng của họ. Cha phục vụ họ và hy sinh cuộc đời cho họ”.
3.2. Thái độ của Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp
đối với người nghèo, đặc biệt giữa nạn đói năm 1944-1945
Ông
G., một giáo dân, khẳng định mạnh mẽ: “Cha Diệp thương mến cả người
giáo cũng như người lương. Những người nghèo khổ được cha yêu thương, giúp đỡ
nhiều lắm. Ba con là Biện Việc của giáo họ được cha bảo phải giúp đỡ
người nghèo tùy hoàn cảnh của người ta. Lúc đó ngoài Bắc đang đói kém: có một số
người Bắc tản cư vào Tắc Sậy, cha cũng giúp đỡ họ nhiều. Nhiều người xin học đạo.
Cha còn lo lắng cho những người lương nhiều hơn nữa”.
Bà
Nh., xuất thân từ một gia đình nghèo khó, đã được hưởng lòng quảng đại của Cha
Diệp. Bà nhớ lại một cách sâu sắc: “Ông Cố Diệp lúc nào cũng thương bà
con giáo dân. Ông Cố xin đất cho bà con giáo dân làm ruộng để sống. Họ đạo Tắc
Sậy có lúa ruộng, ông Cố nuôi những người nghèo, và cho những người thất nghiệp
lúa đem về chà gạo ăn. Con mồ côi mẹ, ba thì đi lấy vợ
khác, vì vậy con thấy Cha Diệp thương con còn nhiều hơn”.
Cô
M., khi còn nhỏ, là hàng xóm thân cận của Cha Diệp. Lời khai của cô chính xác
và quý giá: “Khi bác làm Cha Sở ở Tắc sậy thì con biết. Bác Diệp thương
người lắm. Có lần, một người gánh hai thúng, mỗi thúng có một em bé. Người này
xin đất cát làm ruộng. Bác Diệp bảo rằng: ‘Anh có thể khai thác được bao
nhiêu thì anh lấy bấy nhiêu. Còn trong lúc khai thác thì tôi cho gạo ăn. Anh
che cái chòi ở đỡ đi. Khi anh đã làm thành khoảnh thì anh tự sống’. Có
ngày có cả chục người. Con biết, vì hồi đó, mẹ con giao cho con nhiệm vụ phát
thẻ dù con còn nhỏ tuổi”.
4. Cái chết của Cha Phanxicô Xavier
Trương Bửu Diệp và nguyên nhân
Cuộc điều tra kỹ lưỡng của Giáo phận Cần Thơ, dựa trên sự kiện
và lời khai, đã bác bỏ hoàn toàn những giả định vô căn cứ xung quanh cái chết của
Cha Diệp, và làm sáng tỏ động cơ vụ sát hại ngài.
4.1. Sự thật
Hoàn cảnh cái chết của Cha Diệp đã được làm sáng tỏ ngoài sự
nghi ngờ: ngài bị sát hại bởi hai lính đào ngũ Nhật Bản.
Cụ
thể, thi thể của Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp được tìm thấy trong một ao
cá; đầu bị chém chẻ làm đôi từ đỉnh đầu xuống cổ bởi một nhát kiếm. Không giống
với bất kỳ binh lính nào khác trong khu vực, chỉ có lính Nhật Bản mới được
trang bị và sử dụng thành thạo loại vũ khí này. Trên thực tế, nhiều người đã thấy
những người lính Nhật đào ngũ mang kiếm Nhật bên mình trong địa bàn giam giữ
Cha Diệp.
Bà
H. kể lại: “Trong đám đó thì có mấy thằng Nhật… Mỗi thằng Nhật có mang
kiếm dài, sáng giới. Lúc con đi từ lẫm bên kia sang lẫm ba má con, thằng Nhật
tưởng con trốn nên rút kiếm dài sáng giới kê vào cổ con”.
Chính
mắt một thành viên trong nhóm quân hỗn tạp đã đưa Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu
Diệp cùng với người dân Tắc Sậy, cả công giáo lẫn người lương, đến kho thóc Cây
Gừa, và đã chứng kiến vụ hành quyết. Anh ta không tưởng tượng được rằng ngày
hôm đó sẽ kết thúc bằng vụ sát hại một con người vô tội mà mọi người dân trong
vùng đều kính trọng và yêu mến. Sau đó, anh ta vẫn là một người bạn của những
người Công giáo từng là giáo dân của Cha Diệp. Ông D., một giáo dân, làm chứng: “Con
không mắt thấy tai nghe sự kiện Cha Diệp bị bắt nhốt, vì con sống ở trong Chủ
Chí… Nhưng con có người bạn là ông B. … Sau này, tối ngày ông ấy lại
nhà con chơi và ông ấy kể chuyện này chuyện kia cho con nghe… Ổng kể rằng: ‘Bọn
lính bắt Cha Diệp đến một cái ao cạn của nhà bên cạnh. Họ kêu cha quỳ xuống, rồi
rút gươm ra chém cha từ sau về phía trước. Hai thằng lính người Nhật là người
chém Cha Diệp. Thằng tên là N., thằng kia tên là Th.. Có ba thằng Nhật, Thằng
Nhật T. thì ở nhà’. Sau khi Cha Diệp bị giết, khoảng mấy bữa thì con biết tin
liền, vì những người ở Tắc Sậy ra vào đây nói cho biết”.
Lời
khai gián tiếp này được đánh giá là đáng tin cậy, vì người kể chuyện không đặt
mình vào vị trí thuận lợi; ngược lại, suốt quãng đời, anh ta vẫn xấu hổ vì đã
là một kẻ cộng tác về mặt chất thể trong vụ hành quyết một con người vô tội. Lời
khai của ông G., người đã đi tìm và kiểm tra thi thể của Cha Diệp, đã chứng thực
sự việc: “Họ chém Cha Diệp hai nhát: nhát đầu, nhưng bị run tay hay sao
đó, mà nhát chém bị lạng sớt sau ót. Rồi họ chém nhát thứ hai mới đứt cái đầu.
Sau đó họ đạp xác Cha Diệp xuống cái giếng lạng”.
Ông
S., một thành viên của gia đình Phật tử, là chủ đất nơi vụ hành quyết được thực
hiện, làm chứng rộng hơn, và đề cập đến một số động cơ của những kẻ hành quyết: “Trong
nhóm này có hai thằng Nhật tàn quân bị Tây đuổi… Họ lấy những cái tên Việt Nam…
Hai thằng Nhật này là người giết Cha Diệp. Vì cái cách chết của Cha Diệp cho thấy
điều đó. Cha bị chém chết từ phía ót sau ra phía trước còn dính da ở trán là
cách chém của Nhật. Anh tôi về thăm nhà thấy những cây cau trong vườn bị chặt
ngang ngọt sớt bởi kiếm của Nhật. Dao kiếm bình thường không chặt ngọt sớt được
như vậy… Tại sao hai thằng Nhật này giết Cha Diệp? Hai thằng này thù Tây, vì Nhật
bị thua Tây. Tụi nó coi Cha Diệp theo Đạo của Tây, theo Tây. Tụi nó ghét Tây
nên nó giết Cha để trả thù Tây”.
4.2. Động cơ
(a) Sau khi sự thật được xác nhận, những cáo buộc đằng sau cái
chết của Cha Diệp đã được rõ ràng:
Cuộc điều tra của Giáo phận đi đến kết luận chắc chắn rằng
cái chết của Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp không liên quan đến
“Việt Minh” hay “Đảng Cộng sản Đông dương” và Chủ
tịch Hồ Chí Minh.
Trên
thực tế, “Đảng Cộng sản Đông dương” đã ra “Thông cáo tự ý giải tán” vào ngày 11
tháng 11 năm 1945 (Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập,
tập 8 (1945-1947), NXB Chính trị quốc gia, hà Nội 2000, trang 19-20).
Còn
Mặt trận Việt Minh lúc bấy giờ đặt nhiệm vụ trọng tâm là tìm được sự ủng hộ từ
tất cả người Việt Nam, bất kể tín ngưỡng tôn giáo (Xem: Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8 (1945-1047), NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội 2000, số 9, trang 29).
Cuộc
điều tra cũng chỉ ra rằng: các chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn
đầu của nền độc lập nước nhà luôn nhằm mục tiêu thúc đẩy hòa bình và bảo vệ mạng
sống. Dưới đây là đoạn trích trong “Thư gửi Đồng Bào Nam Bộ, chiến
sĩ ở tiền tuyến, và uỷ ban hành chính Nam Bộ”, đăng trong Báo
Cứu quốc, số 182, ngày 10 tháng 3 năm 1946, trước ngày Cha Phanxicô
Xavier Diệp bị sát hại: “…Trong thời kỳ đình chiến này, sự chuẩn bị, sự
củng cố lực lượng, sự tôn trọng kỷ luật là cần thiết hơn lúc nào hết. Và rồi
đây, sau khi hòa bình đã thoả hiệp được, thì tinh thần phấn đấu của anh em vẫn
là những lực lượng quý báu để đảm bảo cho nền độc lập hoàn toàn của nước nhà
sau này. Chúng ta cần phải giữ gìn từng giọt máu của đồng bào để xây đắp tương
lai của Tổ quốc. Sự kiến thiết, sự tranh đấu chưa kết thúc, tinh thần hăng hái
của đồng bào sẽ không bao giờ phải e là không có cơ hội hành động nữa. Trong
giai đoạn mới của lịch sử nước nhà hiện nay, tinh thần đoàn kết của anh em sẽ
đưa lại những kết quả tốt đẹp hơn nữa”. (xem: Hồ Chí Minh toàn
tập, Quyển 4 (1945-1946), NXB Chính trị Quốc gia – Sự
thật, Hà Nội 2011, trang 228-229).
(b) Thái độ của Cha Diệp đối với Việt Minh như thế nào?
Tình
hình xã hội thời bấy giờ khá phức tạp như lời người con trong gia đình Phật tử ở
vùng lân cận Tắc Sậy, là chủ mảnh đất mà Cha Diệp bị giam giữ và bị giết vào
ngày 12 tháng 3 năm 1946, đã kể lại như sau: “Tình hình chính trị và xã
hội ở vùng Tắc Sậy và Cây Gừa này vào những năm 1945-1946 rất loạn lạc, giặc giã…
Gia đình tôi phải tản cư đi chỗ khác để nhà trống và hai lẫm lúa trống không
người coi sóc. Thỉnh thoảng về thăm coi chút xíu. Vì thế, những người ta bắt và
nhốt Cha Diệp và bà con ở Tắc Sậy trong hai lẫm lúa của ba tôi”.
Cũng
như các giám mục và linh mục Công giáo Việt Nam thời bấy giờ, Cha Phanxicô
Xavier Trương Bửu Diệp ủng hộ một quốc gia Việt Nam độc lập khỏi mọi cường quốc
nước ngoài. Tuy nhiên, lập trường của ngài là ủng hộ một cuộc cách mạng hòa
bình, không phải chiến tranh hay bạo lực. Điều này thể hiện rất rõ nét qua thái
độ của Cha Diệp đối với Việt Minh. Ngài không hề có ác cảm với họ, nhưng không
muốn tham gia vào các hoạt động quân sự. Và ngài đối xử với những người lính
bình thường của họ rất thân thiện và ấm áp như với tất cả những người trẻ tuổi
khác.
Những
người lính Việt Minh ở gần Tắc Sậy không ngần ngại đến thăm Cha Diệp một cách
thoải mái, thậm chí khá là thân thiện, như lời Bà L., một giáo dân, làm chứng: “Con
không thấy Cha Diệp làm chính trị hay quân sự. Nhưng con biết Cha Diệp có quan
hệ giao tiếp tốt với hết mọi người: người Pháp, người Nhật, người Cao
Đài; người Việt Minh… đến thăm cha cũng tiếp chuyện bình thường”.
Cô
M., con gái của một giáo dân sống gần Cha Diệp kể về thái độ như một người cha
của Cha Diệp đối với những người lính trẻ Việt Minh: “Con không thấy có
đồn bót, lính bộ đội Việt minh hay lính Pháp ở nhà thờ Tắc Sậy. Sau này con
nghe ba con nói lại là vài bộ đội Việt Minh đến gặp Bác Diệp để xin
bánh tét. Bác nhờ giáo dân gói bánh tét đem cho họ”.
(c) Cha Diệp có thông đồng với quân đội Pháp không?
Câu trả lời cho câu hỏi này một lần nữa là: “Không!”. Một số lời
khai có tuyên thệ cho phép cuộc điều tra kết luận rằng Cha Diệp không hề thông
đồng với quân đội Pháp.
Bà
A., sau khi tuyên thệ đã làm chứng: “Con không thấy Cha Diệp có lính ở
nhà thờ và cũng không có liên hệ nhiều với người Tây”.
Ông
G., một giáo dân khác, có câu trả lời chi tiết hơn về mối quan hệ của Cha Diệp
với các nhóm vũ trang ở vùng đất bên kia sông Hậu: “Sau khi Nhật Bổn thất
trận rồi, nó mới trao quyền lại cho người Pháp. Lúc đó lính Pháp đã trở lại
đóng đồn ở Hộ Phòng, cách Tắc Sậy khoảng 2km. Theo con hiểu, người Pháp tôn trọng
đạo Thiên Chúa. Khi Tây đi ruồng, người lương giáo đều tụ về nhà thờ. Lúc đó
Cha Diệp ra đứng trước nhà thờ. Tây và ‘Thổ’ [Khmer] thấy cha thì bỏ đi luôn…
Cha chỉ chăm sóc con chiên mà thôi. Cha không có lính tráng để giữ nhà thờ. Với
quân đội Pháp và lính đánh thuê của họ, mối quan hệ rất căng thẳng, nhưng bằng
nhân cách của mình, Cha Diệp đã buộc họ phải tôn trọng thường dân”.
Bà
H. giải thích thêm: “Vào thời đó, ở Tắc Sậy loạn lạc, bất an. Lính Tây
và lính Thổ ở Hộ Phòng thỉnh thoảng đi ruồng ở Tắc Sậy. Họ đến bắt đàn bà con
nít, nên Cha thường kêu mọi người đến nhà thờ tập trung để cha mặc áo dòng đứng
bảo vệ. Nhiều người phải bỏ xứ Tắc Sậy tản cư đi các nơi khác”.
Bà
Nh., một giáo dân khác, giải thích cách Cha Diệp kiên quyết từ chối bất kỳ sự bảo
vệ nào của Pháp: “Ông Cố Diệp không làm chính trị, quân sự gì hết. Ông
cố chỉ lo làm việc của Linh mục. Thỉnh thoảng có ông Tây bà Đầm đến nhà thờ Tắc
Sậy đi lễ Giáng Sinh, chứ không đến thăm cha… Vì các ‘ông biện Họ’ biết vụ việc
tranh chấp đất đai với nhà thờ khiến người ta thù ghét,
nên mới khuyên ngài đi lánh nạn một thời
gian. Nhưng Ông Cố không chịu. Ông Cố nói: ‘Chết sống ở giữa họ đạo.
Ai muốn giết ông Cố thì giết!’. Nhưng con biết các ông biện có đem cha đi
lánh nạn ban đêm ở bên kia sông. Nhiều lần họ muốn bắt Cha Diệp ban đêm nhưng
không gặp cha. Vì thế, họ tính chuyện bắt Cha Diệp ban ngày”.
Cuối
cùng, một nhân chứng làm chứng rằng Cha Diệp đã bác bỏ những đề nghị thực tế mà
người Pháp đưa ra: “Con hồi đó con còn nhỏ. Nhưng con nghe người lớn ở
Tắc Sậy kể lại rằng thằng Pháp lại nói với cha rằng cho giáo dân đi lính cho
nó, thì nó cho súng giữ nhà thờ. Nhưng cha không chịu. Cha nói: ‘Không. Linh mục
thì cần gì súng ống. Linh mục chăm sóc bầy chiên và sống với bầy chiên theo
chân Chúa, chứ không theo phe phái chính trị nào’”.
(d) Âm mưu giết người
Câu hỏi sau đây nên đặt ra: Tại sao Cha Phanxicô Xaviê Trương
Bửu Diệp là một linh mục nghèo, khiêm tốn, trong một họ đạo tầm
thường mà lại bị sát hại? Ai sẽ được lợi khi giết Cha Diệp?
Tranh
chấp thực sự mà Cha Diệp có liên quan là với một số ít địa chủ. Trong cuộc
tranh chấp này, Cha Diệp đã kiên quyết bảo vệ quyền lợi của những người nghèo,
những người thấp kém trong xã hội cần có đất đai để sinh sống. Cũng vậy, Cha bảo
vệ quyền lợi của Giáo hội, mà cụ thể là giáo xứ, trong việc quản lý đất đai mà
giáo xứ sở hữu để giúp đỡ những gia đình khó khăn, phần đông là những người chạy
nạn đói. Một số địa chủ không chấp nhận điều đó, và tuyên bố tất cả đất khai
hoang trong khu vực là lợi ích riêng của họ. Nhiều nhân chứng, chủ yếu là giáo
dân, cho biết rõ danh tính và cách thức thâu tóm đất đai của những kẻ tham vọng
đó. Ví dụ:
Bà
L. cho biết: “Con biết một ông điền chủ tên gọi là Ông chủ Z. có tranh
chấp đất đai với Cha Diệp. Ông Chủ Z. lấn ranh đất Nhà Chung. Cha Diệp phải đưa
ra tòa và cha thắng kiện”.
Ông
Q. kể rằng: “Con nghe nói vì lý do tranh chấp đất đai ở Đồng Gò. Ông Chủ
Z. tranh chấp đất với Cha Diệp, nhưng ông ấy thua kiện. Ông phe phái với các chủ
đất khác, tìm cách bắt Cha Diệp. Ông chủ Z. là người chủ mưu”.
Bà
A. có nhắc đến tên một địa chủ khác được đào tạo ở Pháp. Người này có thể đã trở
thành một trong những đồng phạm của ông Z.: “Mọi người yêu mến Cha, ngoại
trừ ông Ba Y. Một lần con đã nghe ông ta tranh luận với Cha Diệp và gọi ‘mày’
và ‘tao’ với Cha”.
Bà
Nh. làm chứng rằng: “Còn thêm một cái nhà thờ ở vùng biển nữa gọi là
nhà thờ An Hải. Ông chủ Z. được chính quyền người Pháp cho ông ta khai khẩn đất
đai và hóa đất mấy ngàn công ở vùng biển. Cha Diệp xin chính quyền Pháp đất để
xây nhà thờ. Chính quyền Pháp đồng ý. Họ lấy lại một số đất của ông Chủ Z. và
cho Cha Diệp để xây nhà thờ và cho giáo dân nghèo làm ruộng sinh sống. Cha Diệp
đã xây nhà thờ An Hải và đem dân xuống dưới đó sinh sống. Hồi đó, con có xuống
nhà thờ An Hải hát lễ. Từ đó, ông chủ Z. sinh ra thù ghét Cha Diệp vì ông bị mất
quyền lợi. Con nghe mấy ông Biện nói chuyện với nhau về ông chủ Z. như vậy”.
Nhân
chứng cuối cùng khẳng định chắc chắn sự tồn tại của một âm mưu giết Cha
Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp. Cô N. khai: “Con nghe dư luận cho rằng,
hồi đó có ông chủ Z. tranh chấp đất đai ở biển Gành Hào với Cha Diệp. Ông chủ
Z. là người giầu có. Cha con nói lại rằng Cha Diệp có giấy tờ đất đai, còn ông
chủ Z. không có giấy nên ông ta thua kiện. Do đó, mấy năm sau, khi Cha Diệp mời
ông Chủ Z. đi dự lễ Noel, ông không còn đi lễ nữa. Sau này, ông mướn người ta
giết Cha Diệp”.
5. Ý nghĩa của cuộc đời và cái chết của
Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp
Từ
nhiều năm nay, rất nhiều người, thuộc mọi tầng lớp xã hội và hoàn cảnh khác
nhau, từ khắp nơi trên đất nước và cả từ nước ngoài, thuộc nhiều tôn giáo – tín
ngưỡng – niềm tin khác nhau… đổ về mộ phần của Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu
Diệp tại Tắc Sậy, thuộc Giáo phận Cần Thơ. Và rất nhiều người, lương cũng như
giáo, khi đến với Cha Diệp đã nhận được nhiều ơn lành qua sự cầu bầu của ngài.
Bằng chứng hùng hồn nhất về lời cầu bầu của ngài là rất nhiều lời tạ ơn được
dâng lên cho ngài qua những bảng tạ ơn nơi trung tâm hành hương Tắc Sậy. Nhiều
người đến với ngài và qua lời bầu cử của ngài, họ đã đến gần với Thiên Chúa, Đấng
mà ngài đã suốt đời tôn thờ và tận tâm phục vụ.
Giáo
phận Cần Thơ đã nỗ lực chào đón mọi người như cách thức mà Cha Diệp đã chào đón
những người gặp khó khăn. Các linh mục được Giám mục yêu cầu hướng dẫn và hỗ trợ
tinh thần và vật chất cho khách hành hương. Và sau khi đã ghi nhận, tìm hiểu và
chứng thực về ý nghĩa của lòng mộ mến Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp của
đông đảo dân chúng, và cứu xét cách thận trọng và khôn ngoan dưới sự soi sáng của
Chúa Thánh Thần, sao cho phù hợp với đức tin Công Giáo và quy tắc sống Đạo,
Giáo phận Cần Thơ đã thỉnh cầu Đức Giáo Hoàng xem xét và phê chuẩn về cuộc điều
tra mà Giáo phận đã tiến hành từ năm 2011 đến nay.
Đức
Giáo hoàng Phanxicô đã trả lời cho thỉnh cầu của Giáo phận Cần Thơ vào ngày 25
tháng 11 năm 2024, khi ngài tuyên bố rằng: “Cha Trương Bửu Diệp đã bị
giết vì lòng thù ghét đức tin vào ngày 12 tháng 3 năm 1946” và
truyền công bố sự thật ấy cho tất cả mọi thành phần trong Giáo hội Công Giáo và
cho tất cả những người thành tâm thiện chí.
Lời tuyên bố đó có ý nghĩa gì?
Trong suốt cuộc đời mình, Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu
Diệp đã trở nên tất cả cho mọi người để phục vụ mọi người, và dành
tình cảm đặc biệt cho những người dễ bị tổn thương nhất: trẻ em, người già, người
bệnh và người nghèo.
- Đối mặt với
sự lạm dụng của các băng nhóm vũ trang, Cha đã bảo vệ những người yếu thế
nhất: phụ nữ, thiếu nữ, và trẻ em.
- Đối với những
anh chị em bất hạnh, đặc biệt những nạn nhân của nạn đói năm 1945, Cha đã
khôn ngoan tổ chức các hoạt động cứu trợ hiệu quả.
- Đối với việc
quản lý đất đai tập thể, Cha đã ra sức bảo vệ không vì lợi ích cá nhân, mà
là để bảo vệ quyền lợi của người nghèo.
- Đối với việc
mục vụ của một mục tử giữa đoàn chiên, Cha đã sống và chết vì niềm tin,
Cha không phân biệt đối xử, trái lại, luôn chạnh lòng thương xót mọi người,
cho dù họ thuộc tầng lớp xã hội nào, có quan điểm chính trị ra sao, hoặc
thuộc về tín ngưỡng nào…
- Là một người
yêu chuộng hòa bình và là bạn của mọi người, Cha không khinh miệt hay thù
ghét ai, và luôn từ chối tham gia vào các hành động vũ trang chống lại đồng
bào của mình, dù thuộc phe phái nào, thậm chí còn từ chối vũ khí để tự vệ.
- Cha đã chết
vì những lý tưởng trên đây, và mọi người biết đến Cha đều yêu mến, cho dù
họ thuộc tôn giáo hay chính kiến khác nhau.
- Tuy nhiên,
Cha đã trở thành nạn nhân của một số ít kẻ muốn chiếm đoạt tài sản của người
nghèo.
Thật sự, Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp đã
chết vì đức tin và để bảo vệ quyền lợi của người nghèo.
Người
Công Giáo giờ đây gọi Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp là “Vị Tử đạo” vì
Cha đã hy sinh mạng sống của mình cho những người được giao phó cho Cha, để bảo
vệ đức tin Kitô giáo, và các đức tính yêu thương, công bằng và hòa bình – là những
điều không thể tách rời khỏi đức tin Kitô giáo.
Người
Công Giáo muốn tôn phong Cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp là “Chân
phước Tử đạo” vì Cha đã thể hiện thật rõ nét qua cuộc sống và cái chết
của mình các Mối Phúc thật trong Phúc Âm: “Phúc cho anh em là những kẻ
nghèo khó… Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói… Phúc cho anh em
là những kẻ bây giờ đang phải khóc… Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người
ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như đồ xấu xa…” (Lc 6, 20-22).
Lm. TĐD. Phêrô Vũ Văn Hài – GPCT

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét