16/11/2025
CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN năm C.
Kính trọng thể CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Bài đọc I: 2 Mcb 7,
1.20-23.27b-29
Hồi ấy, có
bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ. Vua An-ti-ô-khô cho lấy roi và gân bò mà đánh
họ, để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Mô-sê cấm.
Bà mẹ là
người rất mực xứng đáng cho ta khâm phục và kính cẩn ghi nhớ. Bà thấy bảy người
con trai phải chết nội trong có một ngày, thế mà bà vẫn can đảm chịu đựng nhờ
niềm trông cậy bà đặt nơi Đức Chúa. Bà dùng tiếng mẹ đẻ mà khuyến khích từng
người một, lòng bà đầy tâm tình cao thượng; lời lẽ của bà tuy là của một người
phụ nữ, nhưng lại sôi sục một chí khí nam nhi; bà nói với các con: “Mẹ không rõ
các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con hơi
thở và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong
các con. Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo
nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các
con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản
thân mình.”
Bà nói với
người con út : “Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm,
mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. Mẹ xin con hãy nhìn xem trời
đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư
vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy. Con đừng sợ tên đao phủ này;
nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày
Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ.”
Hoặc đọc: Kn 3, 1-9
“Chúa
chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu”.
Trích sách
Khôn Ngoan.
Linh hồn
những người công chính ở trong tay Chúa, và đau khổ sự chết không làm gì được
các ngài. Ðối với con mắt của người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã
chết và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu diệt. Nhưng thật
ra các ngài sống trong bình an. Và trước mặt người đời, dầu các ngài có chịu khổ
hình, lòng trông cậy của các ngài cũng không chết. Sau một giây lát chịu khổ nhục,
các ngài sẽ được vinh dự lớn lao; vì Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng
trong lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu.
Khi đến giờ
Chúa ghé mắt nhìn các ngài, các người công chính sẽ sáng chói và chiếu toả ra
như ánh lửa chiếu qua bụi lau. Các ngài sẽ xét sử các dân tộc, sẽ thống trị các
quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài muôn đời. Các ngài đã tin tưởng
ở Chúa, thì sẽ hiểu biết chân lý, và trung thành với Chúa trong tình yêu, vì ơn
Chúa và bình an sẽ dành cho những người Chúa chọn.
Ðó là Lời
Chúa.
Ðáp Ca: Tv 125,
1-2ab. 2cd-3. 4-5. 6
Ðáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng
tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.
Xướng: Khi Chúa đem những người Sion bị bắt
trở về, chúng tôi dường như Người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi
chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan.
Xướng: Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau
rằng: “Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng”. Chúa đã đối xử đại lượng với
chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.
Xướng: Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận của
con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân
hoan.
Xướng: Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang
thóc đi gieo; họ trở về hân hoan, vai mang những bó lúa.
Bài Ðọc II: Rm 8,
31b-39
Dù sự
chết hay sự sống cũng không tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa.
Bài trích
thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Rô-ma.
Thưa anh
em, có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến như
chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng
ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả
cho chúng ta? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên
Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giê-su Ki-tô,
Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu
cho chúng ta?
Ai có thể
tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ,
đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Như có lời chép : Chính vì Ngài mà mỗi
ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh.
Nhưng
trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta.
Đúng thế,
tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ
lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, 39 trời cao hay vực thẳm,
hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi
tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.
Ðó là lời
Chúa.
Alleluia: Mt 5,10
Alleluia,
alleluia! Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.
Alleluia
Phúc Âm: Lc 9,23-26
Khi ấy, Đức
Giê-su nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập
giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất;
còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người
nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có
lợi gì? Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì
kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh
thiên thần.
Ðó là lời
Chúa.
CHÍNH LÚC CHẾT ĐI LÀ KHI
VUI SỐNG MUÔN ĐỜI
“Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống
mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9,24)
Con người luôn lo âu khắc khoải trước đau khổ và cái chết, nhưng
đau khổ và sự chết không thể làm gì được những người công chính vì họ biết linh
hồn họ luôn ở trong tay Chúa. Đối với họ, đau khổ có khi là cơ hội thử thách
giúp họ thanh luyện đức tin và biểu lộ lòng trung thành và tình yêu với Chúa và
cái chết vì sự công chính là bước vào cõi sống muôn đời.
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc I: 2Mcb
7,1.20-23.27b-29
Sách Máccabê đánh dấu một giai đoạn đau thương trong lịch sử của
dân Chúa khi Đền thờ và nền phụng tự đã bị quân ngoại bang xâm phạm nặng nề.
Đoạn sách Máccabê hôm nay là một thiên hùng ca về những người Do thái sẵn sàng
chấp nhận đau khổ và cả cái chết để trung thành với Lề luật và Tôn giáo của cha
ông.
Đối với người Do thái, tuân giữ Lề luật cách đầy đủ và nghiêm
ngặt là một cách chứng tỏ sự trung thành tôn thờ Thiên Chúa. Một người Do thái
được xem là công chính khi giữ trọn “mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa” (x. Lc
1,6). Câu chuyện về bà mẹ và bảy người con thà chấp nhận cái chết chứ không
chịu vi phạm Lề luật được thuật trong Bài đọc I là biểu hiện rõ nhất về lòng
trung tín của dân đối với Thiên Chúa.
Sỡ dĩ bà mẹ và những người con sẵn sàng chấp nhận cái chết là vì
họ xác tín rằng sự sống của họ là do Thiên Chúa, Đấng đã ban cho họ “thần khí
và sự sống”, chứ không do họ tự tạo ra. Đồng thời, họ cũng tin rằng một khi họ
“trọng luật lệ của Người hơn bản thân mình” đến nỗi dám hy sinh sự sống để bày
tỏ lòng trung thành với Thiên Chúa họ thờ, thì chính Người sẽ trả lại cho họ
thần khí và sự sống (x. 2Mcb 7,22-23).
Trong câu chuyện bà mẹ và bảy người con, niềm tin phục sinh và
sự sống đời sau đã tỏ lộ. Thật vậy, bà mẹ tin rằng nếu các con bà “chấp nhận
cái chết” vì trung thành với Lề luật của Thiên Chúa, thì “đến ngày Chúa thương
xót”, chính Người sẽ trả các con về lại cho bà (x. 2Mcb 7,29). Như thế, việc
người công chính chịu đau khổ và cái chết biểu lộ niềm tin phục sinh. Cần biết
rằng lúc đầu người Do thái chưa được mạc khải về sự sống đời sau, nhưng kể từ
thời Maccabê, điểm giáo lý này mới bắt đầu hình thành và những người theo phái
Pharisêu sau này sẽ nhấn mạnh. Từ niềm tin đó, sách Maccabê cho rằng việc
thưởng phạt của Thiên Chúa không chỉ nằm ở đời này như quan niệm của truyền
thống, mà còn kéo dài sau cái chết. Do vậy, những người chịu chết vì trung
thành với Lề luật sẽ được sống lại cả hồn lẫn xác đời sau.
Bà mẹ và bảy anh em (2Mcb 7,1-41) đã tự nguyện chấp nhận khổ đau
và cái chết để thể hiện lòng trung thành tuyệt đối với Thiên Chúa mà họ tôn
thờ. Họ được xem như là hình bóng của các vị tử đạo trong Kitô Giáo sau này.
2. Bài đọc II: Rm 8, 31b-39
Đoạn thư thánh Phaolô gởi cho các tín hữu Rôma là một bài ca
tuyệt vời về tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại qua việc trao hiến Đức
Giêsu, Con Một của Người.
Trước hết, việc Thiên Chúa trao ban Đức Giêsu, Con Một của Người
cho nhân loại là bằng chứng rõ ràng nhất của tình yêu cao cả và vô điều kiện mà
Người dành cho con người. Khi trao hiến chính Con Một là kho tàng quý giá nhất
của mình, Thiên Chúa muốn chứng tỏ cho nhân loại thấy rằng Người đã cho nhân
loại tất cả mà không đòi hỏi bất cứ điều kiện nào. Đồng thời, khi Thiên Chúa để
cho Đức Giêsu chết cho tội lỗi nhân loại, Người đã thật sự tha thứ cho mọi lỗi
lầm của nhân loại.
Hơn nữa, thánh Phaolô còn xác tín rằng một khi được Thiên Chúa
yêu thương hết mực như thế, con người không còn gì phải lo lắng hay sợ hãi nữa.
Ai hay điều gì có thể tách nhân loại ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa? Ngài
khẳng định rằng dù là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ hay
gươm giáo (x. Rm 8,35); dù là sự sống hay sự chết, ma vương hay quỷ lực, hiện
tại hay tương lai, trời cao hay vực thẳm, hay bất cứ một sức mạnh nào, cũng
không thể chia cắt con người khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện qua Đức
Giêsu (x. Rm 8,38-39). Vậy những ai thật sự cảm nhận và xác tín sâu sắc về tình
yêu Thiên Chúa dành cho mình, thì dám chết để chứng tỏ sự trung thành và sức
mạnh vô song của tình yêu ấy.
Cuối cùng, dù được Thiên Chúa yêu thương hết mực và vô điều
kiện, con người vẫn không thể tránh khỏi những sự dữ trong thế giới này. Dầu
vậy, những thử thách trong thế giới lại là cơ hội để con người chiến đấu mà
chứng tỏ sự trung thành với niềm tin vào Thiên Chúa. Cũng cần lưu ý rằng ngay
cả con người có thể chiến thắng trong những cơn thử thách, thì đó không phải do
công sức riêng của con người, mà cũng là nhờ sức mạnh của Thiên Chúa: “Nhưng
trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm
8,37).
Qua và nhờ cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu, Thiên Chúa cho
thấy Người yêu thương nhân loại bằng một tình yêu vô điều kiện và vững chắc đến
nỗi không có bất cứ ai hay sức mạnh nào có thể lay chuyển. Các thánh Tử đạo
Việt Nam đã cảm nhận cách sâu sắc tình yêu Thiên Chúa dành cho các vị đến nỗi
cái chết cũng không thể chia cắt tình yêu đó.
3. Bài Tin Mừng: Lc 9,23-26
Sau khi Phêrô, đại diện cho các môn đệ, tuyên tín cách hùng hồn
rằng Đức Giêsu là “Đấng Kitô của Thiên Chúa”
(x. Lc 9,18-21), Đức Giêsu liền mạc khải cho các môn đệ biết con đường Người
phải đi là con đường khổ giá (x. Lc 9,22).
Trước hết, điều kiện để theo Đức Giêsu là “từ
bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23). Thật
vậy, Đức Giêsu cho biết con đường dành cho những ai muốn theo Người là con
đường của sự từ bỏ hy sinh để thực thi ý muốn của Thiên Chúa. Đó còn là con
đường chấp nhận vác “thập giá hàng ngày”, đón nhận mọi sự xảy đến trong niềm
tin tưởng và phó thác trọn vẹn trong tay Chúa. Đức Giêsu đã đi trên con đường
như thế và Người muốn các môn đệ noi theo gương Người.
Hơn nữa, người môn đệ Đức Giêsu phải ghi nhớ rằng tất cả mọi sự,
ngay cả sự sống, cũng đều phát xuất từ Thiên Chúa; và tất cả cuộc sống của
người môn đệ hoàn toàn thuộc về Chúa, như lời xác quyết của thánh Phaolô: “Chúng
ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù
chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa” (Rm 14,8). Vì thế, cuộc sống
của người môn đệ không phải là đi tìm bản thân, tìm sự sống và vinh quang cho
mình, nhưng đi tìm cách sống cho Chúa và làm vinh danh Người. Khi người môn đệ
dám bỏ mình vì Chúa và sống cho Chúa, thì họ lại tìm được chính bản thân, vì “ai
muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì
sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9,24).
Sau cùng, người môn đệ Đức Giêsu có trách nhiệm làm chứng cho
Chúa Giêsu và lời của Người trước mặt người khác. Đó được xem như là điều kiện
để họ được Người chứng thực trước mặt Thiên Chúa trong ngày quang lâm. Đức
Giêsu nói: “ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi,
thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của
mình …” (Lc 9,26).
Các thánh tử đạo là những người đã trung tín đi trọn con đường
mà Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ: đó là từ bỏ ý riêng và chấp nhận mọi sự xảy
đến trong đời mình với tinh thần phó thác, đến nỗi sẵn sàng “liều mất mạng
sống” để làm chứng cho Chúa Kitô, với niềm xác tín rằng “sẽ cứu được mạng sống
ấy” trong ngày Đức Kitô quang lâm.
II. GỢI Ý MỤC VỤ:
1. “Chính Người do lòng thương
xót, cũng sẽ trả lại cho các con thần khí và sự sống, bởi vì bây giờ các con
trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình.” Bà mẹ và bảy anh em đã tự
nguyện chấp nhận khổ đau và cái chết để thể hiện lòng trung thành tuyệt đối với
Thiên Chúa mà họ tôn thờ. Họ xác tín rằng một khi họ hết mực trung thành với Lề
luật của Thiên Chúa, Đấng ban cho họ “thần khí và sự sống”, thì Người sẽ ban
cho họ sự sống bất diệt. Niềm tin vào sự phục sinh là sức mạnh giúp họ vượt
thắng cả cái chết. Sống trong thời hậu phục sinh, Đức Kitô Phục Sinh có là sức
mạnh giúp tôi vượt thắng những cám dỗ thường ngày để sống trung tín với Thiên
Chúa và giới răn của Người?
Tinh thần làm
chứng này được giáo dục trong chính môi trường gia đình. Vậy trong dịp kết thúc Năm thánh Tôn vinh các Thánh Tử đạo Việt
Nam, tôi có dám sống theo lời mời gọi trong thư của HĐGMVN: “Các
gia đình Công giáo hãy từ bỏ những ham muốn bất chính và tính toán ích kỷ, để
làm chứng rằng Tin Mừng về hôn nhân Công giáo là nẻo đường hạnh phúc”, và xem đó như là cách
“tử đạo” trong đời thường?
2. “Không có gì tách được chúng
ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Ðức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.” Qua và nhờ cái chết
và sự sống lại của Đức Giêsu, Thiên Chúa cho thấy Người yêu thương nhân loại bằng
một tình yêu vô điều kiện và vững chắc đến nỗi không có bất cứ ai hay sức mạnh
nào có thể lay chuyển. Các thánh tử đạo đã cảm nhận cách sâu sắc tình yêu Thiên
Chúa dành cho các Người đến nỗi chấp nhận cái chết để minh chứng cho sức mạnh
của tình yêu đó. Tôi có mạnh mẽ xác tín rằng Đức Kitô đã chết vì yêu thương
tôi, đến nỗi không có gì có thể chia cắt tình yêu của Người dành cho tôi? Tình
yêu vô vị lợi của Thiên Chúa thể hiện nơi cái chết và sự sống lại của Đức Kitô
có là động lực thúc đẩy tôi yêu thương anh chị em mình hơn?
3. “Được cả thế giới mà phải đánh
mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?” Điều kiện để trở
thành môn đệ Đức Giêsu là từ bỏ ý riêng và chấp nhận mọi sự xảy đến trong đời
mình với tinh thần tin-cậy-mến, đến nỗi sẵn sàng “liều mất mạng sống” để làm
chứng cho Chúa Kitô, với niềm xác tín rằng “sẽ cứu được mạng sống ấy” trong
ngày Đức Kitô quang lâm. Tôi có dám chấp nhận từ bỏ ý riêng để xứng với tư cách
làm môn đệ Đức Giêsu? Tôi đang tìm cách làm vinh danh Người hay tìm vinh danh
tôi? Tôi có sẵn lòng chấp nhận thiệt thòi hiện tại để được kho tàng vĩnh cửu ở
trên Trời? Đặc biệt đối với người sống đời thánh hiến, tôi có dám đón
nhận lời mời gọi trong thư của HĐGMVN: “hãy
từ bỏ những ham muốn tự nhiên để sống trọn vẹn theo các lời khuyên Phúc Âm, làm
chứng cho Nước Trời là giá trị tuyệt đối và kho tàng vô giá; qua đó, chúng ta
có thể góp phần ‘thức tỉnh thế giới’” ?
(Tgp.Saigon)


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét