Thứ hai tuần 1 Mùa Vọng năm
C
THÁNH PHANXICÔ
XAVIÊ, LINH MỤC.
Bổn mạng các xứ
truyền giáo. Lễ kính.
BÀI ĐỌC I: 1Cr 9, 16-19. 22-23
"Vô phúc cho tôi, nếu
tôi không rao giảng Phúc Âm".
Bài trích thư thứ nhất của
Thánh Phaolô Tông Đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, nếu tôi rao
giảng Phúc Âm, thì không phải để làm cho tôi vinh quang, mà vì đó là một nhu
cầu đối với tôi.
Vô phúc cho tôi, nếu tôi không
rao giảng Phúc Âm. Giá nếu tôi tự ý đảm nhận việc ấy, thì tôi có công; nhưng
nếu tôi bị ép buộc, thì tôi phải làm tròn nghĩa vụ đã giao cho tôi.
Vậy thì phần thưởng của tôi ở
đâu? Khi rao giảng Phúc Âm, tôi đem Phúc Âm biếu không, tôi không dùng quyền mà
Phúc Âm dành cho tôi. Mặc dầu tôi được tự do đối với tất cả mọi người, tôi đã
đành làm nô lệ cho mọi người, hầu thu hút được nhiều người hơn. Tôi đã ăn ở như
người yếu đau đối với những kẻ yếu đau để thu hút người yếu đau. Tôi đã nên mọi
sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi. Tất cả những
việc đó, tôi làm vì Phúc Âm, để được thông phần vào lợi ích của Phúc Âm.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 95, 1.2a, 2b-3. 7-8a.
10
Đáp: Hãy tường thuật phép lạ
Chúa giữa muôn dân.
1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca
mới, hãy ca mừng Chúa đi, toàn thể địa cầu! Hãy ca mừng Chúa, hãy chúc tụng
danh Người.
2) Ngày ngày hãy loan truyền ơn
Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa muôn dân và phép lạ Người ở
nơi vạn quốc.
3) Hãy kính tặng Chúa, hỡi người
chư dân bá tánh, hãy kính tặng Chúa quyền thế với vinh quang, hãy kính tặng
Chúa vinh quang xứng với danh Người. Hãy mang lễ vật, tiến vào hành lang nhà
Chúa.
4) Người giữ vững địa cầu cho
khỏi lung lay. Người cai quản chư dân theo đường đoan chính.
ALLELUIA: Is 45, 8
All. All. – Chúa phán: “Hãy đi
dạy dỗ các dân tộc: Ta ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”. - All.
PHÚC ÂM: Mc 16, 15-20
"Các con hãy đi khắp
thế gian, rao giảng Tin Mừng".
Bài kết thúc Tin Mừng Chúa
Giêsu Kitô theo Thánh Máccô.
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với
mười một môn đệ và phán: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi
tạo vật. Ai tin và chịu phép Rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không Tin, sẽ bị luận
phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thày, họ sẽ
trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất
độc, thì không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được
lành mạnh”.
Vậy sau khi nói với các môn đệ,
Chúa Giêsu lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao
giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông và củng cố lời giảng dạy
bằng những phép lạ kèm theo.
Đó là lời Chúa.
Thứ Hai Tuần I Mùa Vọng
Bài Ðọc I: Is 4, 2-6
"Những kẻ được giải
phóng sẽ nhảy mừng".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ngày ấy, dòng dõi Chúa sẽ trở
nên huy hoàng vinh quang, hoa màu trên đất sẽ dồi dào, và số người trong dân
Isarel được giải phóng sẽ nhảy mừng. Những ai còn sót lại ở Sion và còn sống
sót ở Giêrusalem sẽ được gọi là thánh, tất cả những ai sẽ được ghi tên để sống
trọn đời ở Giêrusalem. Khi Chúa đã dùng thần trí thẩm xét và thiêu đốt mà tẩy bỏ
những tồi bại của các thiếu nữ Sion, và đã tẩy rửa Giêrusalem cho sạch những
vết máu, thì lúc đó Chúa sẽ đến trên khắp miền núi Sion và những nơi kêu cầu
Người, như đám mây ban ngày và như cột khói hoặc như ánh lửa sáng rực ban đêm,
vì trên tất cả, vinh quang Thiên Chúa sẽ là một phương du và là một lều vải để
che khỏi sức nóng ban ngày, để làm nơi an toàn trú ẩn khỏi giông tố và mưa sa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 121, 1-2. 3-4a.
4b-5. 6-7. 8-9
Ðáp: Tôi vui mừng khi người
ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa" (c. 1).
Xướng: 1) Tôi vui mừng khi
người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa". Hỡi
Giêrusalem, chân chúng tôi đang đứng nơi cửa thành rồi. - Ðáp.
2) Giêrusalem được kiến thiết
như thành trì, được cấu tạo kiên cố trong toàn thể. Nơi đây các bộ lạc, các bộ
lạc của Chúa tiến lên. - Ðáp.
3) Theo luật pháp của Israel,
để ngợi khen danh Chúa. Tại đây đã đặt ngai toà thẩm phán, ngai toà của nhà
Ðavít. - Ðáp.
4) Hãy nguyện cầu cho
Giêrusalem được thanh bình, nguyện cho những kẻ yêu mến ngươi được an ninh.
Nguyện cho trong thành luỹ được bình an, và trong các lâu đài của ngươi yên ổn.
- Ðáp.
5) Vì anh em và bằng hữu của
tôi, tôi nguyện chúc: bình an cho ngươi! Vì nhà Chúa là Thiên Chúa chúng ta,
tôi khẩn cầu cho ngươi những điều thiện hảo. - Ðáp.
Alleluia: x. Tv 79, 4
Alleluia, alleluia! - Lạy
Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin đoái nhìn chúng con, xin tỏ nhan thánh Chúa,
thì chúng con sẽ được rỗi. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 8, 5-11
"Nhiều người từ
phương đông và phương tây sẽ đến trong nước trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào thành
Capharnaum, thì có một viên đại đội trưởng đến thưa Chúa rằng: "Lạy Thầy,
thằng nhỏ nhà tôi đau nằm ở nhà, nó bị tê liệt và đau đớn lắm!" Chúa Giêsu
phán bảo ông rằng: "Tôi sẽ đến chữa nó". Nhưng viên đại đội trưởng
thưa Người rằng: "Lạy Thầy, tôi không đáng được Thầy vào dưới mái nhà tôi,
nhưng xin Thầy chỉ phán một lời, thì thằng nhỏ của tôi sẽ lành mạnh. Vì chưng,
cũng như tôi chỉ là người ở dưới quyền, nhưng tôi cũng có những người lính
thuộc hạ, tôi bảo người này đi thì anh đi; tôi bảo người kia đến thì anh đến;
tôi bảo gia nhân làm cái này thì nó làm!" Nghe vậy, Chúa Giêsu ngạc nhiên
và nói với những kẻ theo Người: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không thấy
một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel. Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng:
nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và
Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên
ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Viên bách quản đã xin Ðức
Giêsu chữa lành người đầy tớ của ông. Viên bách quản là người ngoại mà ông tỏ
ra khiêm tốn và tin tưởng vào lời quyền năng của Ðức Giêsu. Ông cũng là người
nhân hậu, biết yêu thương săn sóc đến người đầy tớ hèn mọn của ông.
Cầu Nguyện:
Lạy Cha, xin cho chúng con
luôn xác tín vào quyền năng và tình yêu của Cha. Và trong cuộc sống, xin cho
gia đình chúng con cùng biết mở tâm hồn ra với làng xóm, biết yêu thương những
người chúng con có dịp tiếp xúc. Ước gì tình yêu thương trong chúng con được
trải rộng, để Thiên Chúa được vinh danh, con người được hạnh phúc. Chúng con
cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
(Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)
Xin Ngài Chỉ Phán Một Lời
Trong quân đội Roma, danh từ
"bách quan" hay "đại đội trưởng" dùng để chỉ những người có
một trăm tên lính trong tay. Nếu ở chốn đế đô, họ chẳng là gì thì tại các vùng
thuộc địa họ là những viên chức đầy uy quyền góp phần cai trị hà khắc của đế
quốc. Có thể gọi họ là chất xúc tác và là thước đo lòng căm thù đế quốc của
người Do Thái. Ðối với đế quốc cai trị, họ là những người trực tiếp áp đặt
chính sách lên dân chúng.
Luật Do Thái đã khắt khe
trong việc giao tế với dân ngoại thì lại càng khắt khe hơn đối với những người
đang giày xéo lên mảnh đất Thánh của Giavê Thiên Chúa. Người Do Thái sẽ không
bước vào nhà dân ngoại vì đó là những nơi không thanh sạch. Sách Midna đã viết:
"Mọi nơi cư ngụ của dân ngoại đều là chỗ không thanh sạch", thế mà
Chúa Giêsu lại không ngần ngại đi đến nhà viên bách quan để chữa bệnh cho gia
nhân của ông. Chúa Giêsu có ý gì khi hành động như vậy? Nếu luật lệ Do Thái
khắt khe với dân ngoại mà Chúa Giêsu và các tông đồ lại nghiêng về phía họ thì
hẳn việc làm của Chúa Giêsu và các tông đồ phải mang một ý nghĩa thiết thực
trong cuộc sống.
Riêng về các viên bách quan,
Kinh Thánh Tân Ước đã không ít lần lên tiếng khen ngợi hành vi của các viên
bách quan như lúc Chúa Giêsu bị chết treo nhục nhã trên Thập Giá, một viên bách
quan đã tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa. Một viên bách quan khác đã cứu tông
đồ Phaolô thoát khỏi hình phạt đánh đòn, và một viên bách quan khác nữa đã giúp
Phaolô thoát khỏi âm mưu giết hại của người Do Thái. Tuy nhiên nổi bật hơn hết
là viên bách quan được nói đến trong bài đọc Tin Mừng hôm nay. Nơi ông đã hội
tụ hai yếu tố căn bản mà mỗi người trong chúng ta cần phải có để khiêm nhượng
trước mặt Chúa và bác ái với anh em. Một gia nhân hay đúng hơn một tên nô lệ
chẳng là gì trước mặt viên bách quan, ông có thể sử dụng như một món đồ vật,
không dùng thì quăng đi cần gì phải bận tâm. Thế mà ở đây ông lại quan tâm đến
tên gia nhân cách đặc biệt. Ngoài ra theo đoạn Tin Mừng song song của Luca, ông
còn là người giúp đỡ cho Hội Ðường Do Thái.
Lòng vị tha đã khiến viên
bách quan vừa có uy quyền, vừa được mộ mến. Tuy nhiên dù là gì đi nữa, trước
mặt Thiên Chúa và trước mặt Chúa Giêsu, ông vẫn phải giữ một thái độ hoàn toàn
khiêm nhu: "Lạy Thầy, tôi không xứng đáng để được Thầy đến nhà". Ông
không chỉ khiêm nhu nhưng lại đầy tin tưởng: "Xin Thầy hãy phán một lời
thì gia nhân của tôi được lành mạnh".
Lời cầu khiêm nhu này đã trở
thành lời kinh hằng ngày được tín hữu chuyên đọc, và niềm tin của viên bách
quan khai mở một kỷ nguyên mới cho lịch sử ơn cứu độ: "Nhiều người từ Ðông
chí Tây sẽ đến dự tiệc với Abraham, Isaac và Jacob, còn con cái trong nhà sẽ bị
loại ra ngoài". Chúa Giêsu, Ngài đến để cứu chữa hết mọi người, chưa cần
viên bách quan tuyên xưng lòng tin, Ngài đã nói lên ý định của Ngài: "Tôi
sẽ đến chữa nó".
Luật Do Thái ngăn cấm bước
vào nhà dân ngoại thì Chúa Giêsu vượt ra ngoài các cấm đoán của lề luật, vì
Vương Quốc của Ngài không xây dựng trên nền tảng các luật cứng nhắc ấy nhưng
trên thực hành niềm tin. Ngài cũng không đến để hủy bỏ lề luật nhưng để kiện
toàn. Lề luật bây giờ phải được thể hiện trọn vẹn trong cuộc sống.
Viên bách quan không có các
nghi thức để tuân giữ lề luật như: không rửa tay trước khi dùng bữa, không đến
Hội Ðường vào ngày Sabat. Nhưng trước sự hiện diện của Chúa, ông tỏ một niềm
kính sợ, trước tha nhân ông hết lòng yêu mến. Ông trở thành tiêu biểu cho các
công dân Nước Trời. Chúa Giêsu đã khen ngợi và đã đón nhận ông vào nước của
Ngài.
Chúa Giêsu nói với những kẻ
theo Ngài lúc đó cũng như đối với chúng ta hôm nay: "Còn con cái trong nhà
sẽ bị loại ra ngoài". Không phải được mang tước hiệu con cái là bảo đảm
được dự phần vào Nước Thiên Chúa, nhưng phải là kẻ biết thực hành niềm tin.
Tước hiệu Kitô hữu nếu không được nuôi dưỡng bằng sức sống của niềm tin thì chỉ
là những bản án được công bố trước thời điểm mà thôi.
Bước vào Mùa Vọng, cùng với
Giáo Hội với ý hướng chờ ngày Chúa đến, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta
sẽ nhìn vào niềm tin của viên bách quan làm tiêu chuẩn sống cho mình. Mỗi người
chúng ta hãy biết khiêm nhu trước Thiên Chúa và biết yêu mến anh em thì hy vong
chúng ta sẽ được Thiên Chúa hài lòng đón nhận trong bàn tiệc Nước Ngài.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai, Tuần I MV
Bài đọc: Isa
2:1-5; Mt 8:5-11.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Mọi người đều tìm
Chúa.
Con người có cần đến
Thiên Chúa trong cuộc đời không? Nhiều người trả lời không, vì họ có thể tự làm
chủ lấy cuộc đời của họ. Nhưng có những nhu cầu tâm linh mà con người không tự
mình thỏa mãn được như nhu cầu tìm ra sự thật: con người từ đâu đến, sống trên
đời này để làm gì, và chết rồi sẽ đi đâu? Các Bài đọc hôm nay dẫn chứng nhu cầu
cần tìm Chúa. Trong Bài đọc I, tiên tri Isaiah nhìn thấy trước ngày muôn dân
trên địa cầu sẽ tuôn về Jerusalem để trèo lên Núi Sion, Núi Thánh của Thiên
Chúa; để Ngài chỉ cho biết Lề Luật và đường lối của Thiên Chúa. Ngày này được
hiện thực khi Chúa Giêsu đến và mặc khải cho mọi người thánh ý của Thiên Chúa.
Trong Phúc Âm, viên Đại Đội Trưởng, mặc dù là dân ngọai, đã tìm đến Chúa Giêsu
để xin Ngài chữa bệnh cho đầy tớ của mình.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Ta
cùng lên núi Đức Chúa, lên Nhà Thiên Chúa của Giacob.
1.1/ Sự trổi vượt của Núi
Sion và Đền Thờ Jerusalem: Tiên tri Isaiah, mặc dù sống trong một thời đại đen tối của
lịch sử Do-Thái (trước 2 cuộc lưu đày: Assyria và Babylon), được Thiên Chúa cho
thấy trước những sự kiện sẽ xảy ra: Ngài sẽ phục hồi Judah và Jerusalem, cho
Đấng Cứu Thế nhập thể, và người muôn nước sẽ đến tìm Ngài chứ không giới hạn
trong vòng Do-Thái nữa. Ông tiên đóan: “Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa đứng
kiên cường vượt đỉnh các non cao, vươn mình trên hết mọi ngọn đồi. Dân dân lũ
lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi. Rằng: "Đến đây, ta cùng
lên núi Đức Chúa, lên Nhà Thiên Chúa của Jacob.”
1.2/ Những nhu cầu của
con người:
(1) Cần biết về đường
lối của Thiên Chúa: Thiên Chúa tạo dựng con người cho một mục đích; làm sao con người
biết mục đích này? Nếu Thiên Chúa không mặc khải, con người không thể biết.
Không những con người cần biết đích, mà còn cần biết cách để đạt đích. Vì thế,
con người cần tìm đến Chúa, “để Người dạy ta biết lối của Người, và để ta bước
theo đường Người chỉ vẽ.”
(2) Cần biết về Lề Luật
của Thiên Chúa: Người Do-Thái rất tự hào về Lề Luật của họ, vì không có vị thần
nào trên dương gian thân hành ngự xuống ban Lề Luật cho dân, như Thiên Chúa đã
ban cho họ Thập Giới qua ông Môsê. Họ có lý do để tự hào, vì Thiên Chúa tạo
dựng con người, nên chỉ mình Ngài biết những gì tốt và những gì có thể gây
thiệt hại cho con người. Vì thế, con người cần tìm đến Chúa để học hỏi Lề Luật
của Ngài: “Vì từ Sion, thánh luật ban xuống, từ Jerusalem, lời Đức Chúa phán
truyền.”
(3) Đức Chúa sẽ phân xử
các quốc gia và hòa bình sẽ ngự trị trên tòan cõi địa cầu: “Người sẽ đứng làm
trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc. Họ sẽ đúc gươm đao
thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không
còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến.” Điều Isaiah
muốn nói ở đây có lẽ là Ngày Tận Thế, Ngày Đức Kitô sẽ thống trị tòan cõi địa
cầu và lên ngôi cai trị tất cả.
2/
Phúc Âm: Từ
phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc trong Nước Trời.
Trình thuật hôm nay mô
tả cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và viên Đại Đội Trưởng. Ông là người Rôma đến đô
hộ Israel và là người dân ngọai; nhưng đã can đảm vượt qua bức tường chính trị
và tôn giáo đến gặp Chúa Giêsu và xin Ngài chữa bệnh cho đầy tớ của mình. Chúa
Giêsu nhận ra sự can đảm của ông và Ngài nói: "Chính tôi sẽ đến chữa
nó."
2.1/ Nhu cầu cần được
chữa lành:
Các bệnh tật, hồn cũng như xác, gắn liền với thân phận con người; và biết bao
nhiêu người đã chạy đến với Chúa Giêsu để xin Ngài chữa lành. Trong các Sách
Tin Mừng, biết bao nhiêu phép lạ được các Thánh Ký tường thuật lại. Có các phép
lạ được ban do chính người bệnh xin, có các phép lạ do thân nhân hay người
ngòai xin như trình thuật hôm nay, có các phép lạ do chính Chúa Giêsu động lòng
thương và chữa lành mặc dù những bệnh nhân chưa xin. Chúa chữa lành tất cả
những ai đến kêu xin cho dẫu là ngày Sabbath và gặp đủ mọi chống đối từ các
kinh sư Do-Thái. Không chỉ chữa bệnh phần xác, mà còn chữa cả bệnh phần hồn:
Ngài gọi Matthêu người thu thuế làm môn đệ, Ngài gọi Jachaeus mà ngỏ ý muốn ở
lại nhà ông, Ngài làm bạn với những người tội lỗi và gái điếm để chinh phục họ
về cho Thiên Chúa.
2.2/ Nhu cầu cần biểu tỏ
tin nơi Thiên Chúa: Trong hầu hết các phép lạ, đa số con người biểu tỏ niềm tin bằng
việc đến và kêu xin với Chúa. Khi Ngài nhìn thấy niềm tin nơi họ, Ngài thường
nói: “Hãy về bình an! Đức tin của con đã cứu chữa con.”
(1) Đức tin của ông Đại
Đội Trưởng:
Khi Chúa Giêsu ngỏ ý muốn đến nhà để chữa người đầy tớ, ông trả lời: "Thưa
Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ
tôi được khỏi bệnh. Vì tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng
dưới quyền tôi. Tôi bảo người này: "Đi!" là nó đi, bảo người kia:
"Đến!" là nó đến, và bảo người nô lệ của tôi: "Làm cái
này!" là nó làm." Qua những lời đối thọai, ông Đại Đội Trưởng chứng
tỏ cho Chúa Giêsu ông biết mình và biết Thiên Chúa. Ông biết mình là người
ngọai, và để tránh dị nghị cho Chúa Giêsu, ông xin Ngài chỉ cần truyền. Ông
cũng biết Chúa Giêsu có thể chữa bệnh mà không cần phải đến nhà.
Chúa Giêsu khen ngợi đức
tin của ông: "Tôi bảo thật các ông, tôi không thấy một người Israel nào có
lòng tin như thế.” Sự biểu tỏ niềm tin của một sĩ quan ngọai giáo làm Chúa
Giêsu ngạc nhiên và làm cho những người Israel và chúng ta phải suy nghĩ: chưa
chắc chúng ta, những người tin Chúa lâu năm, có được niềm tin như ông Đại Đội
Trưởng này. Câu trả lời khiêm nhường của ông được Giáo Hội dùng trong các Thánh
Lễ để chuẩn bị tâm hồn các tín hữu trước khi đón nhận Mình Thánh Chúa vào lòng.
(2) Dân Ngọai sẽ tin vào
Thiên Chúa và được hưởng Nước Trời: Rồi Chúa Giêsu nói cho những người cùng ở đó:
“Tôi nói cho các ông hay: Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc
cùng các tổ phụ Abraham, Isaac và Giacob trong Nước Trời.” Truyền thống Do-Thái
giới hạn ơn cứu độ chỉ dành cho những người Do-Thái; nhưng từ thời các tiên
tri, nhiều tiên tri như Isaiah trong Bài đọc I hôm nay, đã nhìn thấy trước các
Dân Ngọai cũng tin vào Thiên Chúa và đáng được hưởng ơn Cứu Độ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Mọi người đều có nhu
cầu tìm Thiên Chúa để được Ngài dạy dỗ, chữa lành, và nhất là để Ngài chỉ cho
biết cách đạt đích điểm của cuộc đời.
- Đi tìm Thiên Chúa
không phải chỉ một lúc hay trong một thời gian, nhưng là một tiến trình của cả
cuộc đời.
- Thiên Chúa là Cha
chung và thương xót mọi người. Chúng ta phải vui mừng khi thấy mọi người tin
tưởng và yêu mến Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
03/12/12 THỨ HAI TUẦN 1
MV
Th. Phanxicô Xaviê
Mc 16,15-20
Th. Phanxicô Xaviê
Mc 16,15-20
LOAN BÁO TIN MỪNG
"Khi ấy, Đức Giê-su tỏ
mình ra cho Nhóm Mười Một. Người nói với các ông :' Anh em hãy đi khắp tứ
phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.' "(Mc 16,15)
Suy niệm: Gabby Douglas, vận động viên thể dục thẩm mỹ 16 tuổi của Mỹ, đoạt
hai huy chương vàng trong Olympic London 2012 vừa qua, đã tuyên xưng niềm tin
của mình khi trả lời với báo giới: “Đức
tin của tôi dứt khoát là mạnh mẽ. Mỗi ngày tôi đều suy gẫm Kinh Thánh và trích
dẫn một số câu khi ở London để củng cố đức tin mạnh mẽ hơn mỗi ngày. Vì thế tôi
đã khoác lên mình áo giáp của Thiên Chúa.” Tuyên xưng niềm tin và
loan báo Tin Mừng là sứ mạng và căn tính của Kitô hữu. Và đồng thời loan báo
không chỉ dừng lại ở người này hoặc người kia, nơi này hoặc nơi kia, lúc này
hay lúc khác, nhưng là toàn bộ cuộc sống của tất cả những ai đã chịu phép rửa.
Mời Bạn: “Được lời lãi cả thế gian mà
mất linh hồn nào có ích gì.” (Mt 16,26). Lời đó đã đánh động thánh
Phanxicô Xaviê khiến ngài dám hy sinh cả cuộc đời cho sứ mạng truyền giáo. Còn
bạn thì sao? Bạn có thao thức vì sứ mạng loan báo Tin Mừng chưa? Bạn có nỗ lực
tìm cách để giới thiệu Thiên Chúa tình yêu cho anh chị em mình hay không?
Sống Lời Chúa: Làm các việc bác ái cụ thể với ý hướng truyền giáo và luôn sẵn sàng
để giới thiệu Thiên Chúa yêu thương cho anh chị em.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã sai thánh Phanxicô đi rao
giảng để kêu mời các dân tộc Á Châu đón nhận Tin Mừng. Xin cho các tín hữu được
nhiệt thành truyền giáo như thánh nhân, và cho Giáo Hội được hân hoan đón nhận
nhiều con cái. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
www.5phutloichua.net
Cuộc đời và tiếng gọi
Khi
được hỏi về việc chọn một lời Thánh Kinh làm châm ngôn cho đời giám mục của
mình, Đức tân Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm đã trả lời: “Tôi chọn lời Thánh
Kinh làm châm ngôn nhắc nhớ chính mình là: “Hãy theo Thầy!”.
“Hãy
theo Thầy!” là lời nhắc nhớ rằng dù làm linh mục hay làm giám mục, vẫn chỉ là
một tiếng gọi mà thôi, có chăng là tiếng gọi ấy thôi thúc hơn và mạnh mẽ hơn.
“Hãy
theo Thầy!” là lời nhắc nhớ rằng điều quan trọng trong đời dâng hiến không phải
là đi đâu và làm gì, mà là đi với ai. Đi theo Thầy Giêsu thì dù làm gì và ở đâu
cũng là đi trên đường sự thật và là đường dẫn đến sự sống.
“Hãy
theo Thầy!” là lời nhắc nhớ rằng muốn làm người lãnh đạo thì trước hết phải làm
môn đệ, và càng sống tư cách môn đệ tốt bao nhiêu thì càng có hi vọng lãnh đạo
tốt bấy nhiêu… Theo Thầy không chỉ là theo bằng trí, mà là theo bằng tâm; cho
nên theo Thầy là để tâm mình gắn bó với tâm của Thầy, để mang trong lòng mình
những tâm tư của Thầy (x. Pl 2,5). (tinvui.org).
Đọc
Phúc Âm, ta nghe âm vang lời mời gọi: “Hãy theo Thầy!”. Tiếng gọi của Chúa
Giêsu luôn để lại những âm vang làm chuyển biến cuộc đời. Những ngư phủ đã trở
thành Tông đồ, những kẻ chuyên nghề đánh bắt cá đã trở nên người chuyên nghiệp
bủa lưới các tâm hồn.
Ngày
3.12, Giáo Hội mừng lễ Thánh Phanxicô Xaviê, một nhà truyền giáo vĩ đại, người
tiên phong cho cuộc truyền giáo thời đại mới. Đọc lại tiểu sử để thấy cuộc đời
ngài được dệt bằng những tiếng gọi “Hãy Theo Thầy!”.
1. Cuộc đời
Thánh
nhân sinh năm 1506 tại lâu đài Xaviê, trong một gia đình quyền quý của vương
quốc Navarre nhỏ bé miền bắc nước Tây Ban Nha ngày nay. Khi ngài 5 tuổi, nước
Tây Ban Nha thôn tính và sát nhập Navarre, khiến gia đình ngài lâm cảnh nước
mất nhà tan. Muốn tiến thân bằng con đường trí thức, năm 17 tuổi, ngài đến
Paris học (1525-1536).
Tại
Paris, ngài sống trong cùng một căn phòng với chân phước Phêrô Favre và sau đó,
với thánh Ignaxiô. Lần lượt Phêrô Favre rồi Phanxicô Xaviê được thánh Ignatiô
thu phục. Năm 28 tuổi, ngài cùng với nhóm bạn của thánh Ignatiô, khấn sống khó
nghèo, khiết tịnh và làm việc tông đồ. Năm 31 tuổi, ngài chịu chức linh mục tại
Venezia, miền đông bắc nước Ý năm 1537. Năm 35 tuổi, ngài xuống tàu đi truyền
giáo ở vùng Đông Á theo lệnh Đức Thánh Cha Phaolô III.
Tháng
04.1541, ngài xuống tàu tại Lisbon và mãi 14 tháng sau, mới đến được Goa bên Ấn
độ.
Trong
suốt 10 năm truyền giáo (1542-1552) ngài đã đi cả trăm ngàn cây số.
Trong
7 năm đầu, ngài truyền giáo ở mũi Cormorin, sau đó ở Ceylan, Malaisia và từ đó,
đến Indonésia.
Là
vị giám tỉnh đầu tiên của tỉnh dòng đầu tiên ngoài Châu Âu, ngài yêu mến và gắn
bó keo sơn với Chúa Giêsu, tha thiết với Dòng và anh em trong Dòng, kính trọng
và tuân phục thánh Ignatiô, nhiệt thành lạ lùng với việc tông đồ. Ngài đã rửa
tội cho hàng trăm ngàn tân tòng và gầy dựng nhiều cộng đoàn tín hữu khắp nơi.
Thành quả tông đồ của ngài đã tạo nên một đỉnh cao trong lịch sử truyền giáo
của Hội thánh.
Trong
vòng 2 năm (1549-1551), ngài đã thành lập một cộng đoàn tín hữu ở Nhật Bản.
Trước khi ra đi, ngài trao lại cho cho một linh mục Bồ Đào Nha; 20 năm sau,
cộng đoàn này đã lên đến 30 ngàn người.
Cuối
cùng, vì muốn vào Trung Quốc truyền đạo, ngài đã đến đảo Thượng Xuyên, ngay cửa
khẩu Quảng Châu, để chờ thuyền lén lút đưa ngài vào Trung Quốc. Tiếc rằng tại
đây, ngài ngã bệnh và qua đời trong một chòi tranh, chỉ có anh thanh niên trẻ
thông dịch viên bên cạnh. Vài tuần lễ sau, người ta từ Goa đến tìm xác ngài,
đem về Goa để chôn cất.
Thánh
Phanxicô Xaviê qua đời ngày 3/12/1552, được Đức Thánh Cha Grêgôriô XV phong
thánh cùng với thánh Ignatiô vào năm 1622 và được đặt làm bổn mạng các xứ
truyền giáo. (x.Phụng vụ chư thánh tập 2, Lm Augustin Nguyễn Văn Trinh).
2. Tiếng gọi.
Đức
Giám Mục Giuse Vũ Duy Thống đã chiêm nghiệm cuộc đời thánh nhân qua 3 tiếng
gọi: Lời Chúa, bạn bè và nhu cầu truyền giáo. (x. Làm nụ hoa trắng, tr 135).
a. Tiếng gọi từ Lời Chúa.
Đức
Giêsu hỏi: “Có lợi ích gì nếu được cả thế gian mà mất sự sống?” (Mt 16,26a).
Câu hỏi trên đã trở thành lời tâm niệm của một giáo sư triết trẻ tuổi, với một
tương lai đầy hứa hẹn trong giới kinh viện mà sự thành công, uy tín và vinh dự
đang chờ đón.
Sinh
ra trong gia đình quyền quý, nhưng Phanxicô Xaviê luôn nuôi trong mình những
ước vọng bay cao, ngài tìm thăng tiến qua nẻo đường học hành.
Phanxicô
Xaviê lên Paris theo đuổi khoa bảng, dùi mài kinh sử để cuối cùng trở thành
giáo sư môn Triết học. Nhưng trên đỉnh cao danh vọng ấy, một lần tiếp cận Tin
Mừng, gặp được câu: “Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn liệu ích gì?” và dù
không quen cân đo đong đếm kinh tế, ngài cũng đặt tất cả lên cán cân giá trị:
lời lãi trần thế mà đời sống linh hồn trống rỗng, không có gì, thì là lỗ vốn,
đạt được ước vọng trong cuộc sống này mà đời sau lại mất hết, thì là bể bụi
cuộc đời trắng tay sự nghiệp. Vì thế mà thánh Phanxicô Xaviê đã suy nghĩ lựa
chọn định hướng đời mình sao cho có lợi cho đời sống Thiên Chúa. Phanxicô Xaviê
không muốn dừng lại hưởng thụ cuộc sống đầy đủ muốn gì được nấy, nhưng luôn được
kích thích bởi ước vọng vươn lên; không muốn một cuộc đời chật hẹp gò bó dù
luôn có kẻ hầu người hạ, mà lại thích vất vả khai phá lên đường; không muốn
ngày ngày làm quen với vũ khí chiến đấu phòng thủ hoặc tấn công chỉ vì lãnh địa
đồi núi hoang sơ, nhưng lại ham thích vũ khí tinh thần là sách vở kiến thức
không gây bực bội tinh thần và cũng chẳng hôi tanh mùi máu.
Lời
Chúa ở đây quả là lựa chọn, đã trở thành sức mạnh giúp thánh nhân định hướng
đời sống.
b. Tiếng gọi đến từ môi trường bè bạn.
Lời
Chúa gọi khi Phanxicô Xaviê mới 24 tuổi, đang sinh sống và giảng dạy ở kinh
thành Paris tráng lệ. Ngài không thay đổi ngay lập tức khi nghe những lời ấy,
nhưng tất cả là nhờ ở người bạn tốt: Cha Ignatiô ở Loyola đã liên lỉ thuyết
phục và sau cùng, đã chiếm được người thanh niên ấy cho Ðức Kitô. Sau đó,
Phanxicô tập luyện đời sống tâm linh dưới sự hướng dẫn của Cha Ignatiô, và năm
1534, ngài gia nhập cộng đoàn nhỏ bé của Cha Ignatiô (là Dòng Tên thời tiên
khởi). Tại Montmartre, các ngài khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và hoạt động
tông đồ dưới sự hướng dẫn của Đức Giáo Hoàng.
Bạn
bè có một ảnh hưởng không nhỏ đến chọn lựa của Phanxicô Xaviê. Đó là tiếng gọi
thứ hai.
Ở
Paris, sống đời sinh viên trau dồi trí thức, Phanxicô Xaviê đã gặp gỡ Ignaxiô
trong tình thân bạn bè. Sự thân thiết này đã giúp ngài cởi mở cõi lòng, tâm sự
chia sẻ cuộc sống tinh thần. Nhận biết Phanxicô là con người đầy cao vọng, nhất
là những ước vọng lành thánh, Inhaxiô một hôm nói với Phanxicô rằng: “Con người
nhiều cao vọng như anh mà chịu dừng lại trong vinh quang trần thế thì quá uổng.
Thiết nghĩ chỉ có vinh quang Thiên Chúa mới xứng với tầm cao ước vọng của anh”.
Câu
nói của Ignatiô tác dụng như một liều thuốc mạnh, có sức công phá, không gì có
thể cầm lại được. “Chỉ có vinh quang Thiên Chúa mới xứng với khát vọng khôn
cùng”, Phanxicô Xaviê đã coi đây như châm ngôn để ngài dấn thân phục vụ Giáo
Hội trong Giáo Hội và theo đường lối của Giáo Hội. Ngài từ bỏ tất cả công danh
sự ngthiệp, nhận chức Linh mục, rồi sau đó, cùng với Ignaxiô, thành lập Dòng
Tên với khẩu hiệu “cho vinh danh Chúa hơn”.
Nhắc
lại vài đoạn trong bút tích Thánh Phanxicô Xaviê cũng đủ thấy tình anh em bạn bè
luôn nâng đỡ ngài trên hành trình truyền giáo.
-
“Tất cả anh em trong Dòng hiện diện liên lỉ trong tâm trí tôi” (Bt 48,1: bút
tích Thánh Phanxicô Xaviê, tài liệu 48 số 1);
-
“Ở Ấn Độ, để giải trí, tôi rất thường nhớ đến anh em trong Dòng, và nhớ đến thời
gian, vì Chúa quá thương, tôi đựoc biết anh em và sống với anh em. Nhờ lời anh
em cầu nguyện, và vì anh em luôn nhớ đến tôi, Chúa ban cho tôi ơn rất lớn là dù
xa cách anh em về thể xác, nhưng nhờ anh em nâng đỡ và giúp đỡ, Chúa cho tôi
cảm thấy muôn vàn tội lỗi của mình, và cho tôi sức mạnh để đến giữa dân ngoại”
(Bt 20,14);
-
“Để đừng bao giờ quên anh em trong Dòng, và lúc nào cũng nhớ đặc biệt đến anh
em, tôi đã cất tên của anh em trong các thư từ chính tay anh em viết cho tôi,
tôi có thể luôn luôn mang trên mình, cùng với lời khấn của tôi. Điều này đem
lại cho tôi nhiều an ủi…Tôi cảm thấy sung sướng khi mang tên của anh em trên
mình” (Bt 55,10).
-
“Gặp anh em thì tâm hồn tôi đựơc an ủi hơn nhiều. Vậy mà tôi cứ phải viết thư
cho anh em, lại không chắc thư đến, vì từ Ấn Độ đến Roma xa quá…Tôi nghĩ mình
không lầm khi nói xa cách phần xác không làm cho chúng ta, vốn yêu mến nhau
trong Chúa bớt yêu mến và nghĩ đến nhau” (Bt 48,1).
-
“Đặc biệt đối với Cha Ignatiô, Phanxicô đã xúc động thổ lộ tâm tư. Chúa đã ban
ân huệ lớn lao khi cho tôi được biết Cha Ignatiô. Bao lâu còn sống, không bao
giờ tôi trả được món nợ đối với ngài” (Bt,16).
-
“Trong số nhiều lời thánh thiện và an ủi của ngài, tôi đọc được những lời thế
này: “hoàn toàn thuộc về nhau. Không bao giờ quên được nhau”. Tôi đã rơi lệ khi
đọc những chữ ấy, và cũng rơi lệ khi kể lại, vì nhớ lại thời gian đã qua, nhớ
đến ngài đã và vẫn luôn luôn rất thương tôi, và nhờ những lời khẩn nguyện thánh
thiện của ngài, Thiên Chúa đã cho tôi thoát đựoc bao gian nan, bao nguy hiểm”
(Bt 97,1).
-
“Đó là một con người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, đời sống không có gì chê
trách được” (Bt 1,7).
c. Tiếng gọi đến từ nhu cầu truyền giáo.
Ban
đầu, nhận công tác đi tìm Vinh Danh Chúa qua việc phục vụ các bệnh nhân, nhưng
chừng như chưa đủ, Phanxicô Xaviê vẫn khát vọng xa hơn, là hiến thân loan báo
Tin Mừng tận miền sâu miền xa của địa cầu. Tiếng gọi thứ ba đến từ nhu cầu
truyền giáo.
Từ
Venice, là nơi ngài thụ phong linh mục năm 1537, Cha Phanxicô Xaviê đến Lisbon
và từ đó, ngài dong buồm đến Ấn Ðộ, cập bến làng Goa ở bờ biển phía tây nước
Ấn. Trong vòng 10 năm tiếp đó, ngài đã tích cực hoạt động để đem đức tin đến
cho rất nhiều dân tộc, trong đó có người Ấn Ðộ, Mã Lai và Nhật Bản.
Cha
Phanxicô đến các quần đảo ở Mã Lai, và Nhật Bản. Ngài học tiếng Nhật và rao
giảng cho các người dân chất phác, dạy giáo lý và rửa tội cho họ, cũng như
thành lập các trụ sở truyền giáo cho những người muốn giúp đỡ công cuộc của
ngài. Từ Nhật Bản, ngài mơ ước đến Trung Hoa, nhưng dự tính này không bao giờ
thực hiện được. Ngài đã từ trần trước khi đặt chân đến phần đất này.
Tới
Goa ngày 6/5/1542, Phanxicô rong ruổi khắp nơi, nhiệt tình rao giảng cho người
ta biết con người Nagiaret nghèo nàn kia chính là Thiên Chúa ở giữa loài người.
Trong 7 năm (1542-1549), Ngài là nhà truyền giáo rửa tội đựơc nhiều nhất, tới
100.000 người, “có những buổi chiều nhức mỏi cả cánh tay” như thánh nhân viết.
Từ
Malaca, Ngài đến Nhật, xứ sở mặt trời. Ngài muốn gặp gỡ tìm hiểu trao đổi để
Lời Chúa sáng ngời qua đối thoại. Ngài dự định đến tận kinh đô Nhật, vào các
Đại học, gặp gỡ các nhà Sư để trao đổi. Phanxicô hoạt động nhiều nhất tại
Kagoshima, Hirado, Bungo trên đảo Kyushu, lên Yamaguchi, từ đó đi hai tháng lên
kinh đô Myako (tức Kyoto). Sau hai năm ở Nhật, Phanxicô trở về Goa, trao công
việc truyền giáo lại cho cha Torres và tu huynh Fernandez.
Ngày
14.4.1552 nhà truyền giáo lên tàu. Tháng 8 năm đó ngài tới đảo Thượng Xuyên,
cửa ngõ Trung Hoa. Ba tháng sau Phanxicô bị sốt nặng, lòng vẫn ngong ngóng đựơc
nhà cầm quyền Quảng Đông cho phép vào đất liền. Thật bất ngờ, ngài qua đời vào
2-3 giờ sáng ngày 3/12/1552, mới 46 tuổi đời. Nói theo “thói thế gian”, đó là
vỡ mộng, mọi việc còn dang dở… Nhưng đối với Thiên Chúa thì Phanxicô đã làm
trọn ý Người và mọi sự đã hoàn thành, dù chưa đựơc phép bước vào nước Đại Minh
thời đó với dân số dưới 200 triệu người.
Bất
cứ chỗ nào ngài đến, ngài đều sống với người nghèo, chia sẻ thức ăn và các
phương tiện thô sơ với họ. Ngài dành rất nhiều thời giờ để chăm sóc người đau
yếu, nghèo khổ, nhất là người cùi. Rất nhiều khi ngài không có thời giờ để ngủ
hoặc ngay cả để đọc kinh nhật tụng, nhưng qua các thư từ ngài để lại, chúng ta
được biết, ngài luôn luôn tràn ngập niềm vui.
Hành
trình không mệt mỏi, Phanxicô Xaviê rong ruổi những nẻo đường Á Châu, một miền
xa lạ và xôi xa. Nhưng mặc kệ. Sợ gì! Đối với thánh nhân: “Tôi không sợ ai
ngoại trừ Thiên Chúa, chỉ sợ Người phạt vì chểnh mảng trong việc phục vụ Người,
vì vụng về và vô dụng trong việc truyền bá danh Chúa Giêsu giữa những kẻ chưa
biết Người” (Bt 78,2).
Ở
đâu có vinh quang Thiên Chúa, Phanxicô Xaviê sẵn sàng lên đường. Mỗi một tâm
hồn chinh phục được là một niềm vui cho vinh quang Thiên Chúa, mỗi một hao mòn
trong thân xác là “một vốn” bỏ ra để có “bốn lời” cho cuộc sống mai hậu. Mỗi
một thời khắc sống cho Tin Mừng, cũng chính là một cách đong đầy cho khát vọng
cống hiến tìm Vinh Danh Chúa.
Chính
vì thế mà Phanxicô Xaviê đã không mỏi mệt ra đi, dấn bước lên đường: từ Nhật
đến Ấn Độ, từ Goa đến biên giới Trung Quốc. Mỗi chặng đường đi qua, lại là một
lời “còn nữa” vang lên không ngừng. Tiếng gọi từ nhu cầu truyền giáo đã hớp lấy
tâm hồn Phanxicô Xaviê. Thánh nhân đã sống do và cho tiếng gọi này đến hơi thở
cuối cùng trên con đường sang Trung Quốc. Đúng là một con người đầy cao vọng,
nhưng là một cao vọng đích thực chỉ mình Thiên Chúa mới có thể đong đầy, mới
làm no thỏa.
3. Biết tận dụng Ơn Chúa ban
Nhìn
cuộc đời thánh Phanxicô Xaviê trong ba tiếng gọi: Lời Chúa, bè bạn và nhu cầu
truyền giáo, cũng là một cách học tập đời sống của ngài để họa lại trong đời
sống của mình.
Đời
mỗi tín hữu cũng đong đầy những tiếng gọi như thế.
Xin
cho những tiếng gọi của Lời Chúa được ta lắng nghe chân thành và thực thi trung
thành, bởi đó là ánh sáng soi lối ta đi.
Xin
cho những tiếng gọi từ những người xung quanh không bị ta quên lãng, bởi tưởng
như tầm thường, nhưng đó lại là tiếng gọi nhiều khi rất quý hiếm cho vững bước
đi lên.
Và
xin cho nhu cầu truyền giáo của Giáo Hội luôn là tiếng gọi ta phải quan tâm để
ý, bởi đó là sự sống và là sự sống còn của Giáo Hội.
Tất
cả mọi người chúng ta đều được mời gọi “Hãy theo Thầy” để “ra đi và rao giảng
cho muôn dân” (Mt 28,19).
Chúng
ta không nhất thiết phải đi đến những nơi xa xôi để rao giảng, mà hãy rao giảng
ngay trong gia đình, cho con cái, vợ chồng, và những người cùng làm việc với
chúng ta.
Rao
giảng không chỉ bằng lời nói, nhưng còn qua đời sống hàng ngày. Chính nhờ sự hy
sinh, từ bỏ tất cả những gì của riêng mình, mà Thánh Phanxicô mới có tự do để
đem Tin Mừng đến cho người khác. Hy sinh là quên đi cái tôi của mình vì lợi ích
cao cả hơn, lợi ích của sự cầu nguyện, lợi ích khi giúp đỡ người có nhu cầu,
lợi ích khi lắng nghe người khác.
Món
quà lớn nhất của cuộc đời chúng ta là Ơn Chúa.Thánh Phanxicô đã đón nhận hồng
ân ấy, rồi làm trổ sinh hoa trái trong suốt năm tháng truyền giáo. Lời khuyên
và cũng là lẽ sống của ngài cho chúng ta: “Không ai là người yếu đuối, nếu biết
tận dụng Ơn Chúa ban cho mình” (Bt 90,8.9).
Ơn
Chúa có thể đến bất cứ từ nơi đâu, trong mọi cảnh huống cuộc đời, lúc vui mừng
hay đau khổ, lúc thành công hay khi thất bại. Ðiều quan trọng là chúng ta biết
nhận ra đó là ân ban của Chúa. Người có niềm tin nhìn tất cả chỗ nào cũng là ân
sủng, và mỗi một ân ban là một cuộc “Chúa đến viếng thăm”, là tiếng gọi trong
hành trình cuộc đời.
Lm. Nguyễn Hữu An
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 12
3 THÁNG MƯỜI HAI
Mùa Vọng,
Thời Gian Của Đức
Ma-ri-a
Một
cách đặc biệt, Mùa Vọng là thời gian của Đức Ma-ri-a. Mẹ cưu mang Đấng Mêsia đã
được mong đợi từ bao đời, Đấng là niềm hy vọng của mọi thời đại. Có thể nói,
chính nơi Mẹ, chúng ta tìm thấy ý nghĩa tối thượng và đầy đủ của Mùa Vọng. Lễ
Đức Trinh Nữ Ma-ri-a Vô Nhiễm được Giáo Hội cử hành trọng thể trong Mùa Vọng,
điều đó có ý nghĩa hùng hồn biết bao!
Ngày
Sinh Nhật Đức Mẹ được Giáo Hội mừng trọng thể hằng năm vào ngày 8 tháng 9; dù vậy,
Mùa Vọng vẫn đưa chúng ta vào sâu trong mầu nhiệm thánh thiêng của ngày sinh
nhật này. Trước khi xuất hiện trong trần gian, Đức Ma-ri-a được thụ thai trong
cung lòng thân mẫu ngài. Đàng khác, cũng chính khoảnh khắc đó, Mẹ được sinh ra
bởi chính Thiên Chúa, Đấng hoàn thành mầu nhiệm Vô Nhiễm Trinh Thai: Mẹ được
sinh ra “đầy ơn phúc”!
Vì
thế, cùng với vị Tông Đồ Dân Ngoại, chúng ta lặp lại: “Chúc tụng Thiên Chúa là
Cha Đức Giê-su Kitô, trong Đức Kitô, Ngài đã ban cho chúng ta muôn vàn ơn phúc
bởi Thánh Thần” (Ep 1,3). Và Đức Ma-ri-a được chúc phúc một cách đặc biệt, một
cách độc đáo vô song. Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã chọn Mẹ trước khi tạo thành
thế giới để Mẹ trở nên thánh thiện tinh tuyền trước mặt Ngài (cf. Ep 1,4).
Vâng, Chúa Cha vĩnh cửu đã chọn Đức Ma-ri-a trong Đức Kitô. Ngài đã chọn Mẹ cho
Đức Kitô. Ngài đã làm cho Mẹ nên thánh thiện, thậm chí nên rất mực thánh thiện.
Và hoa quả đầu tiên của sự tuyển chọn và của tiếng gọi này là: mầu nhiệm Mẹ Vô
Nhiễm!
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Thánh Phanxicô Xavie, Linh mục,
1Cr 9, 16-19.22-23; Mc 16, 15-20.
LỜI
SUY NIỆM: “Người nói với các ông: Anh em hãy đi khắp tứ
phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép
rửa sẽ được cứu độ, còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” (Mc 16,15-16).
Đây là một lệnh truyền cho mỗi một người trong chúng ta hôm nay, đồng thời là
một lời khẳng định của Chúa Giêsu về ơn cứu độ. Đối với chúng ta khi loan báo
Tin Mừng, chúng ta phải để cho Chúa Thánh Thần hoạt động trong con người của
chúng ta qua lối suy nghĩ, qua lời nói và mọi sinh hoạt thường ngày. Khi đó,
Chúng ta sẽ thấy được sự xuất hiện kỳ diệu của Thiên Chúa biến đổi chính con
người của chúng ta và người anh em chung quanh chúng ta.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày
03-12:
Thánh PHANXICÔ XAVIÊ
Tông Đồ Ấn Độ và Nhật Bản
(1506 - 1552)
Phanxicô
ra đời tại lâu đài Xaviê thuộc vương quốc Navarre ngày 7 tháng 4 năm 1506. Cha
Ngài là cố vấn của nhà vua miền Navarre và là thẩm phán. Anh em Ngài theo binh
nghiệp. Riêng Phanxicô ham thích học hành. Năm 19 tuổi, Ngài theo học tại đại
học Paris, trường lớn nhất thế giới. Khi còn ở học viện thánh Barbe, Ngài được
phúc trọ cùng phòng với Phêrô Faure, người sau này sẽ nhập dòng Tên và được
phong chân phước. Bốn năm sau, Ngài lại có được người bạn học giả là Inhatio
thành Loyoa.
Người học trò mẫn cán đã trở thành giáo sư. Ngài dạy triết học. Thành công làm cho Ngài thành con người tham vọng. Inhaxiô nói với Ngài về một hội dòng mà thánh nhân muốn thành lập. Nhưng Phanxicô mơ tới danh vọng, Ngài chế nhạo cũng như khinh bỉ nếu sống nghèo tự nguyện của bạn mình. Inhaxiô vui vẻ đón nhận những lời châm biếm, nhưng lặp lại rằng: - "Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào ích lợi gì"
Người học trò mẫn cán đã trở thành giáo sư. Ngài dạy triết học. Thành công làm cho Ngài thành con người tham vọng. Inhaxiô nói với Ngài về một hội dòng mà thánh nhân muốn thành lập. Nhưng Phanxicô mơ tới danh vọng, Ngài chế nhạo cũng như khinh bỉ nếu sống nghèo tự nguyện của bạn mình. Inhaxiô vui vẻ đón nhận những lời châm biếm, nhưng lặp lại rằng: - "Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào ích lợi gì"
Cuối
cùng, Phanxicô đã bị ảnh hưởng. Inhaxiô còn đưa ra những lời cao đẹp hơn: -
"Một tâm hồn cao cả như anh, không hề chỉ gò bó với cái vinh dự thế trần
được. Vinh quang trên trời mới đúng với cao vọng của anh. Thật vô lý, khi ưa
chuộng một thứ mây khói chóng tàn hơn là những của cải tồn tại đời đời".
Phanxicô
bắt đầu thấy được cái hư không của những sự cao trọng của thế nhân và hướng
vọng tới của cải vĩnh cửu. Chiến thắng rồi, Ngài chống lại tính kiêu căng bằng
mọi loại sám hối. Ngài quyết định theo sát Phúc âm, vâng theo cách cư xử của
người bạn thánh thiện và xin được khiêm tốn hãm nình. Ngài chỉ còn chú tâm cứu
rỗi các linh hồn.
Ngày lễ Mông triệu năm 1533, trong một nhà nguuyện tại Monmartre, trên mộ bia thánh Dénis, Phanxicô, Inhaxiô và 5 bạn khác đã hiến mình cho Chúa. Họ khấn từ bỏ mọi của cải, hành hương thánh địa, làm việc để cải hóa lương dân và hoàn toàn đặt mình dưới sự điều động của Đức Thánh Cha để phục vụ Hội Thánh. Phanxicô còn học thần học hai năm nữa, rồi cùng sáu bạn đi Italia. Đi đường, họ chỉ mang theo cuốn kinh thánh và sách nguyện trong bị, cổ đeo tràng hạt. Tuyết lạnh hay khắc khổ cũng không làm họ sợ hãi. Trái lại, Phanxicô lại còn cảm thấy quá êm ái nhẹ nhàng, nên một ngày kia đã cột giây thừng vào chân, khiến dây đó ăn vào thịt và ngay việc được khỏi bệnh đó cũng đã là một phép lạ.
Ngày lễ Mông triệu năm 1533, trong một nhà nguuyện tại Monmartre, trên mộ bia thánh Dénis, Phanxicô, Inhaxiô và 5 bạn khác đã hiến mình cho Chúa. Họ khấn từ bỏ mọi của cải, hành hương thánh địa, làm việc để cải hóa lương dân và hoàn toàn đặt mình dưới sự điều động của Đức Thánh Cha để phục vụ Hội Thánh. Phanxicô còn học thần học hai năm nữa, rồi cùng sáu bạn đi Italia. Đi đường, họ chỉ mang theo cuốn kinh thánh và sách nguyện trong bị, cổ đeo tràng hạt. Tuyết lạnh hay khắc khổ cũng không làm họ sợ hãi. Trái lại, Phanxicô lại còn cảm thấy quá êm ái nhẹ nhàng, nên một ngày kia đã cột giây thừng vào chân, khiến dây đó ăn vào thịt và ngay việc được khỏi bệnh đó cũng đã là một phép lạ.
Đoàn
quân bé nhỏ đó tới Venatia chống lại quân Thổ. Thế là họ phải bỏ cuôc hành
hương đi thánh địa. Đức thánh cha đã chúc lành cho nhóm bạn cũng như dự định
của họ. Phanxicô và Inhatiô thụ phong linh mục ngày 16 tháng 6 năm 1537.
Phanxicô đã chuẩn bị thánh lễ mở tay bằng cuộc sám hối kéo dài 40 ngày trong
một túp lều tranh bỏ hoang và sống bằng của ăn xin.
Trong
khi chờ đợi bắt đầu thực hiện công việc vĩ đại của mình, Ngài rao giảng và săn
sóc cho người nghèo trong các nhà thương. Ngài còn phải chiến thắng chính mình
nữa, chẳng hạn khi băng bó các vết thương lở loét. Ngài luôn đi ăn xin thực
phẩm.
Khi Phanxicô được 35 tuổi, vua nước Bồ Bào Nha xin Đức Thánh cha gửi các thừa sai sang An độ. Phanxicô rất vui mừng khi được chỉ định.
Khi Phanxicô được 35 tuổi, vua nước Bồ Bào Nha xin Đức Thánh cha gửi các thừa sai sang An độ. Phanxicô rất vui mừng khi được chỉ định.
Ngài
bộc lộ cho một người bạn: "Anh có nhớ rằng, khi ở nhà thương tại Roma, một
đêm kia, anh đã nghe tôi la: "Còn nữa, lạy Chúa, còn nữa" không ? Tôi
đã thấy rằng: phải chịu khổ nạn cho vinh danh Chúa Giêsu Kitô. Trước mặt tôi là
những hoang đảo, những miền đất báo cho tôi biết trước cơn đói, cơn khát và cả
đến cái chết dưới hàng ngàn hình thức. Tôi ao ước được chịu khổ hình hơn
nữa".
Chỉ
còn 24 giờ để chuẩn bị lên đường. Nhưng thế đã quá đủ để xếp đặt hành trang.
Với vài bộ đồ cũ. Một thánh giá, một cuốn sách nguyện và một cuốn sách thiêng
liêng. Ngài đáp tàu. Cuộc hành trình cực khổ vì say sóng. Đau bệnh, Ngài vẫn
săn sóc các bệnh nhân. những thủy thủ hư hỏng dường như là đoàn chiên đầu tiên
Ngài phải đưa về cho Chúa. Ngài rao giảng cho họ bằng chính việc chia sẻ cuộc
sống với họ.
Sau
bảy tháng hành trình, người ta dừng lại bến Mozambique. Khí trời ngột ngạt. Một
cơn bệnh dịch đang hoành hành nơi đây. Phanxicô lại săn sóc các bệnh nhân và
muốn sống đời cực khổ nhất. Ngài lặp lại: "Tôi khấn sống nghèo khó, tôi
muốn sống và chết giữa người nghèo".
Sau
một năm hành trình, Phanxicô cặp bến Goa, thủ đô miền Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha
vào tháng 5 năm 1542. Ngài phát khóc vì vui mừng. Nhưng việc cấp thiết, nhất là
phải làm cho những người chinh phục Bồ Đào Nha giữ đạo đã. Những tật xấu và tính
hung hăng của họ làm ô danh Kitô giáo. Còn dân An thì thờ ngẫu tượng. Họ vặn đó
có con để tế lễ. Vị tông đồ làm thầy thuốc, thẩm phán, giáo viên. Ngài học
tiếng một cách khó khăn, thời gian của Ngài dành cho các nhà thương, nhà tù,
người nghèo và việc dạy giáo lý. Rảo qua đường phố, Ngài rung chuông tập họp
trẻ em và dân nô lệ lại, với sự nhẫn nại vô bờ, Ngài ghi khắc tình yêu Chúa vào
lòng họ. Các trẻ em tham dự lại trở thành các nhà truyền giáo cho cha mẹ và
thày dạy của chúng. Chúng mang thánh giá của "ông cha" cho các bệnh
nhân. Chúng trở nên hung hăng với các ngẫu tượng. Bây giờ, các cánh đồng lúa
vang lên được bài thánh ca. Dần dần, đời sống Kitô giáo đã vững vàng trong lòng
các gia đình.
Phanxicô
nghe nói tới một bộ lạc thờ lạy ngẫu thần ở mũi Comorin, sống bằng nghề mò ngọc
trai. Muốn loan báo Tin Mừng cho họ, thánh nhân học ngôn ngữ mới, vượt mọi khó
khăn để phổ biến đức ái và chân lý. Rồi Ngài lại qua các làng khác. Cứ như thế
Ngài đi khắp An độ. Trong 15 tháng trời, Ngài đã rửa tội cho một số đông đảo
người Kitô hữu, khiến "xuôi tay vì mệt mỏi". Người nói: "Mọi
ngày tôi đều thấy tái diễn những phép lạ thời Giáo hội sơ khai".
Ngài
ngủ ít, đêm thức khuya để cầu nguyện. Sống khắc khổ để đền tội cho các tội
nhân. Ngài chăm chú đào tạo các tâm hồn thanh thiếu niên địa phương để sai đi
làm tông đồ truyền giáo cho các người đồng hương của họ.
Ở
tỉnh Travancore, trong vòng một tháng, thánh nhân đã rửa tội cho 10.000 người.
Người Brames muốn hạ sát Ngài, nhưng Ngài đã giữ được mạng sống một cách lạ
lùng dưới cơn mưa tên. Ở vương quốc Travance, khi nhóm người man-di muốn tràn
ngập, Phanxicô cầm thánh giá trong tay với một số ít tín hữu đã làm cho họ phải
tháo lui. Ngài mang Tin Mừng tới Ceylanca, Malacca. Các đảo Molluques vang danh
vì sự hung tợn của họ, nhất là đảo của dân More ở phía Bắc...
Ngài
nhắm tới đảo này, Ngài muốn bị dân cư giết chết như một vị thừa sai 13 năm
trứơc đây sao ?
Người
ta ngăn không cho tàu bè chở Ngài đi. Phanxicô đáp lại: - "Thì tôi bơi tới
vậy".
-
Nhưng Ngài sẽ bị đầu độc thì sao ?
Ngài
nói: - "Niềm tin tưởng ở Thiên Chúa là thuốc kháng độc.
Rồi
Ngài thêm: "Oi, nếu như hy vọng tìm được gỗ quí hay vàng bạc, các Kitô hữu
đổ xô tới ngay. Nhưng lại chỉ có các linh hồn cần được cứu rỗi. Tôi sẽ chịu khổ
gấp ngàn lần để cứu lấy một linh hồn thôi".
Phanxicô
đã viết thư xin vua Bồ Đào Nha và thánh Inhatiô gởi các linh mục tới săn sóc
cho các cộng đoàn Kitô hữu Ngài để lại. Sự khó khăn và chậm chạp về thư tín làm
cho đời Ngài thêm nhiều phiền phức. Ngài phải mất gần 4 năm để gửi thư từ
Moluques về Roma. Dầu giữa các khó khăn mệt nhọc, thánh nhân không để mất tính
hiền hậu và khiêm tốn.
Năm
1549, một người Nhật được Ngài rửa tội ở Malacca đã thu hút Ngài tới hòn đảo vô
danh, chưa có người Kitô hữu nào. Lời cầu nguyện và đời sống hãm mình củng cố
lòng can đảm của Ngài. Không để mình bị chán nản do ngôn ngữ khó học hay bởi
nội chiến. Ngài đã có thể tạo lập được một cộng đoàn Kitô hữu nhỏ như Ngài mơ
ước. Các phép lạ củng cố lời giảng dạy của Ngài, nhưng dân chúng bị đánh động
nhiều hơn bởi đức tin và lòng can đảm của người ngoại quốc này đã từ xa đến để
loan báo cho họ chân lý duy nhất.
Được
hai năm, nhà truyền giáo lại ra đi, để lại tại miền đất xa này những cộng đồng
Kitô hữu đứng khá vững trong nhiều thế kỷ, dù không có linh mục cai quản .
Phanxicô
trở lại An độ. Ngài đã rảo qua gần 100.000 cây số trong 10 năm. Bấy giờ, việc
chinh phục Trung hoa ám ảnh tâm hồn Ngài. Ngài đáp tàu, nhưng không bao giờ tới
được quốc gia rộng lớn này. Vào cuối tháng 11 năm 1552, trên đảo Hoàng Châu,
Ngài bị lên cơn sốt rét. Giữa cơn đau, Ngài đã lập lại: - Lạy Chúa Giêsu, con
vua David, xin thương xót con, xin thương đến các tội con.
Ngài
dứt tiếng và không nhận ra được các bạn hữu nữa. Khi hồi tỉnh, Ngài lại kêu cầu
Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu và nài xin Đức Mẹ: " Lạy Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên
Chúa, xin hãy nhớ đến con".
Một
người Trung Hoa thấy Ngài hấp hối thì đặt vào tay Ngài một cây nến. Phanxicô
qua đời ngày 03 tháng 12 năm 1552. Ít tuần sau, người ta tìm thấy xác Ngài vẫn
nguyên vẹn và chở về Goa. Dân chúng tại đây nhiệt tình tôn kính Ngài, vì đã coi
Ngài như một vị thánh.
Năm
1619, Đức Paulô V đã suy tôn chân phước cho Ngài cùng với thánh Inhaxiô. Nay
Ngài được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo.
(Daminhvn.net)
++++++++++++++++++
03 Tháng Mười Hai
Giác Ngộ
"Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào
được ích gì?"... Lời thách thức này của Tin Mừng đã khiến cho một vị giáo
sư trẻ tuổi bỏ tương lai đầy hứa hẹn, bỏ tất cả để chỉ còn đeo đuổi một
mục đích duy nhất trong cuộc đời: sự sống đời đời của chính mình và của người
đồng loại.
Vị giáo sư trẻ tuổi đó chính là Thánh Phanxicô
Xaviê, bổn mạng của các xứ truyền giáo, mà hôm nay Giáo Hội kính nhớ... Chưa
tròn 25 tuổi, Phanxicô đã nổi tiếng như một giáo sư triết học tài ba tại đại
học Paris. Giữa lúc danh vọng đang đến, Phanxicô Xaviê đã nhận được những lời
thách thức trên đây từ người bạn thân Inhaxiô Loyola.
Không còn chống cưỡng lại với lời Chúa,
Phanxicô Xaviê đã đến Montmartre để cùng với Inhaxiô sống đời khó nghèo, khuyết
tịnh và phục vụ tông đồ, theo những chỉ dẫn của Ðức Thánh Cha.
Năm 1537, nghĩa là 3 năm sau khi đã tuyên
khấn, Phanxicô lãnh chức linh mục. Từ Italia, ngài sang Lisboa của Bồ Ðào Nha
để lên đường đi truyền giáo tại Ấn Ðộ. Trong 10 năm ngắn ngủi, Phanxicô Xaviê
đả rảo bước đi khắp nơi để đem Tin Mừng đến cho dân tộc Nhật Bản, Mã Lai và Ấn
Ðộ. Cuộc sống của ngài là một chia sẻ cảm thông sâu xa với những người nghèo
khổ nhất... Chưa đạt được giấc mơ đặt chân đến Trung Hoa và Việt Nam, thánh
nhân đã qua đời trong kiệt sức, tại một hải đảo cách Hồng Kông 100 cây số. Bị
những người lái buôn Bồ Ðào Nha bỏ rơi trên bãi cát, thánh nhân đã qua đời
trong sự trơ trụi nghèo nàn.
Danh
vọng, tiền tài, ngay cả sức khỏe... tất cả đều được đốt cháy để tìm được niềm
vui đích thực cho tâm hồn và mang niềm vui đó đến với mọi người: đó là sứ điệp
mà thánh Phanxicô Xaviê đã để lại cho tất cả chúng ta...
"Nhà
giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột"... Có lẽ người ta thường dùng câu nói
trên đây không những để nói lên tính cách tương đới của đau khổ, mà còn để nói
lên ngay cả sự tương đới của hạnh phúc.
Sau
những tháng năm ăn độn, ăn rau, những người nghèo có thể hớn hở reo vui khi
được bữa cơm trắng với chút thịt cá. Sau những tháng năm tù đày, một người vừa
mới được phóng thích sẽ reo hò sung sướng khi được đi lại tự do, khi được thở
không khí trong lành...
Những
người giàu có, ngày nào cũng yến tiệc linh đình sẽ thèm khát đôi chút cá kho,
mắm cà của người nghèo khổ... Những đứa trẻ giàu có ở đô thị có lẽ sẽ thèm khát
những giây phút được cưỡi trâu hay tắm ao của những chú bé nghèo ở nhà quê...
Tựu
trung, vấn đề cơ bản nhất của con người vẫn là đi tìm hạnh phúc. Và cuối cùng,
sau những miệt mài tìm kiếm, ai cũng nhận thấy rằng mình sẽ không bao giờ đạt
được hạnh phúc đích thực và trường cửu trên trần gian này. Kẻ đứng ở núi này sẽ
luôn nhìn sang núi nọ...
Chúa Giêsu đã đề ra cho chúng ta một bí quyết
của hạnh Phúc: Ai muốn cứu mạng sống mình, sẽ mất và ai mất mạng sống
mình vì Ta sẽ gặp lại... Chỉ có một niềm vui đích thực đó là sống trọn vẹn cho
Chúa. Chỉ có một điều quan trọng nhất trong cuộc sống: đó là lắng nghe lời
Chúa.
(Lẽ Sống)
Thứ Hai 3-12
Thánh Phanxicô Xaviê
(1506-1552)
Đức Kitô hỏi, "Có
lợi ích gì nếu được cả thế gian mà mất sự sống?" (Mt. 16:26a). Câu
hỏi trên đã trở thành lời tâm niệm của một giáo sư triết trẻ tuổi, với một
tương lai đầy hứa hẹn trong giới kinh viện mà sự thành công, uy tín và vinh
dự đang chờ đón.
Vào lúc đó, Phanxicô Xaviê
mới 24 tuổi, đang sinh sống và giảng dạy ở kinh thành Balê. Ngài không thay
đổi ngay lập tức khi nghe những lời ấy, nhưng tất cả là nhờ ở người bạn tốt,
Cha Ignatius ở Loyola, đã liên lỉ thuyết phục và sau cùng đã chiếm được người
thanh niên ấy cho Ðức Kitô. Sau đó, Phanxicô tập luyện đời sống tâm linh dưới
sự hướng dẫn của Cha Ignatius, và năm 1534 ngài gia nhập cộng đoàn nhỏ bé của
Cha Ignatius (là Dòng Tên thời tiên khởi). Tại Montmartre, các ngài khấn sống
khó nghèo, khiết tịnh và hoạt động tông đồ dưới sự hướng dẫn của đức giáo
hoàng.
Từ Venice, là nơi ngài thụ
phong linh mục năm 1537, Cha Phanxicô Xaviê đến Lisbon và từ đó ngài dong buồm
đến Ấn Ðộ, cập bến làng Goa ở bờ biển phía tây nước Ấn. Trong vòng 10 năm
tiếp đó, ngài đã tích cực hoạt động để đem đức tin đến cho rất nhiều dân tộc,
trong đó có người Ấn Ðộ, Mã Lai và Nhật Bản.
Bất cứ chỗ nào ngài đến,
ngài đều sống với người nghèo, chia sẻ thức ăn và các phương tiện thô sơ với
họ. Ngài dành rất nhiều thời giờ để chăm sóc người đau yếu, nghèo khổ, nhất
là người cùi. Rất nhiều khi ngài không có thời giờ để ngủ hoặc ngay cả để đọc
kinh nhật tụng, nhưng, qua các thư từ ngài để lại chúng ta được biết, ngài
luôn luôn tràn ngập niềm vui.
Cha Phanxicô đến các quần
đảo ở Mã Lai, và Nhật Bản. Ngài học tiếng Nhật và rao giảng cho các người dân
chất phác, dạy giáo lý và rửa tội cho họ, cũng như thành lập các trụ sở
truyền giáo cho những người muốn giúp đỡ công cuộc của ngài. Từ Nhật Bản,
ngài mơ ước đến Trung Hoa, nhưng dự tính này không bao giờ thực hiện được.
Ngài đã từ trần trước khi đặt chân đến phần đất này.
Năm 1622, ngài được Ðức
Giáo Hoàng Piô X phong thánh và đặt làm quan thầy các công cuộc truyền giáo
nước ngoài.
Lời Bàn
Tất cả mọi người chúng ta
đều được mời gọi để "ra đi và rao giảng cho muôn dân" (x.
Mátthêu 28:19). Chúng ta không nhất thiết phải đi đến những nơi xa xôi để rao
giảng, mà hãy rao giảng ngay trong gia đình, cho con cái, vợ chồng, và những
người cùng làm việc với chúng ta. Và sự rao giảng không chỉ bằng lời nói,
nhưng còn qua đời sống hàng ngày. Chính nhờ sự hy sinh, từ bỏ tất cả những gì
của riêng mình, mà Thánh Phanxicô mới có tự do để đem Tin Mừng đến cho người
khác. Hy sinh là quên đi cái tôi của mình vì lợi ích cao cả hơn, lợi ích của
sự cầu nguyện, lợi ích khi giúp đỡ người có nhu cầu, lợi ích khi lắng nghe
người khác. Món quà lớn nhất của chúng ta là thời giờ, và Thánh Phanxicô đã
hy sinh thời giờ của ngài cho người khác.
|
|
www.nguoitinhuu.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét