Ngày 29 tháng 12
(Trong Tuần Bát Nhật Lễ Chúa Giáng Sinh)
Bài Ðọc I: 1 Ga 2, 3-11
"Ai thương yêu anh em
mình thì ở trong sự sáng".
Trích thư thứ nhất của Thánh
Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, chính nơi
điều này mà chúng ta biết rõ được là chúng ta biết Chúa Giêsu, nếu chúng ta giữ
các giới răn Người. Ai nói mình biết Người, mà không giữ giới răn Người, là kẻ
nói dối, và nơi người ấy không có chân lý. Còn ai giữ lời Người, thì quả thật
tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy, và nhờ điều đó mà chúng ta
biết được chúng ta ở trong Người. Ai nói mình ở trong Người, thì phải sống như
Người đã sống.
Các con thân mến, đây không
phải là một giới răn mới mà cha viết cho các con, nhưng là giới răn cũ các con
đã có từ ban đầu. Giới răn cũ đó, là lời các con đã nghe rồi. Nhưng đây cha lại
viết cho các con một điều răn mới, là điều chân thật nơi Người và nơi các con,
vì tối tăm đang qua đi, và sự sáng đã soi đến rồi.
Ai nói mình ở trong sự sáng,
mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong tối tăm. Ai thương yêu anh em
mình, thì ở trong sự sáng, và nơi người ấy không có cớ vấp phạm. Còn ai ghét
anh em mình, thì ở trong tối tăm, đi trong tối tăm và không biết mình đi đâu,
vì tối tăm đã làm mù mắt họ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 95, 1-2a. 2b-3.
5-6
Ðáp: Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan (c. 11a).
Xướng: 1) Hãy ca mừng Thiên
Chúa bài ca mới. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng
Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh Người. - Ðáp.
2) Ngày ngày hãy loan truyền
ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người
ở nơi vạn quốc. - Ðáp.
3) Vì mọi chúa tể của chư dân
là hư ảo, nhưng Thiên Chúa đã tác tạo trời xanh. Sáng láng và oai nghiêm toả
trước thiên nhan, uy hùng và tráng lệ phủ trên ngai báu. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Ngôi
Lời đã hoá thành nhục thể và đã cư ngụ giữa chúng ta. Những ai tiếp nhận Người,
thì Người ban cho họ được quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 2, 22-35
"Ánh sáng đã chiếu
soi các lương dân".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Khi mãn thời hạn thanh tẩy
theo Luật Môsê, ông bà đem Chúa Giêsu lên thành Giêrusalem, để dâng cho Chúa,
như đã viết trong lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là
của thánh, dâng cho Thiên Chúa", và việc dâng lễ vật như đã nói trong lề
luật Chúa là "một cặp chim gáy, hoặc hai bồ câu con".
Và lúc đó tại Giêrusalem có
một người tên là Simêon, là người công chính và có lòng kính sợ, đang mong đợi
niềm an ủi Israel, có Thánh Thần ở trong ông. Ông được Thánh Thần mách bảo là sẽ
không thấy giờ chết đến, trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần
thúc giục, ông vào đền thờ. Khi cha mẹ bồng trẻ Giêsu đến để thi hành cho Người
các nghi thức theo luật dạy, thì ông ẵm lấy Người trên cánh tay mình, và chúc
tụng Thiên Chúa rằng:
"Lạy Chúa, bây giờ Chúa
để cho tôi tớ Chúa đi bình an, theo như lời Chúa. Vì chính mắt con đã thấy ơn
cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng đã chiếu soi các
lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa".
Cha mẹ Người đều kinh ngạc về
những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà, và nói với Maria
mẹ Người rằng: "Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong
Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta
chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà, để tâm tư nhiều
tâm hồn được biểu lộ".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Theo luật Môisê: "Mọi
con trai đầu lòng phải được dâng hiến lên Thiên Chúa". Ðức Giêsu cũng được
Ðức Mẹ và thánh Giuse dâng hiến cho Thiên Chúa trong đền thờ. Cuộc đời Ðức
Giêsu chứng tỏ Ngài hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Ngài đã tự hiến dâng, để
Thiên Chúa toàn quyền sử dụng trên Ngài. Ðức Giêsu đã dâng trọn vẹn trên đỉnh
cao Thập Tự.
Cầu Nguyện:
Lạy Cha, mỗi người chúng con
cũng đã dâng hiến khi chúng con lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Chúng con tuyên xưng
từ bỏ Satan và đường lối của nó. Chúng con tuyên xưng, tin nhận cha làm chủ
cuộc đời chúng con. Thế nhưng, thực tế lại rất khác, chúng con đã để quyền lực
sự dữ xâm lấn, đánh gục chúng con. Xin Thánh Thần Cha giúp chúng con dành lại
quyền tự do của con cái Cha, để chúng con được sống hạnh phúc. Xin nhận lời
chúng con cầu xin, nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Thinh Lặng Chiêm Ngắm Máng Cỏ
Thi hào người Tây Ban Nha
Migele des Punamuno, sinh năm 1864 và qua đời năm 1936 có để lại dòng suy tư
sau đây:
Báo chí không hề đá động đến
cuộc sống âm thầm của những người không làm nên lịch sử. Hằng ngày, từng giờ
trên khắp thế giới, cứ mỗi khi mặt trời lên, họ lại thức giấc ra đồng để làm
công việc âm thầm và tăm tối mỗi ngày và muôn thuở. Một công việc như thế cũng
giống như công việc của những tảng san hô chìm sâu giữa lòng đại dương. Ðây là
công việc xây nền đắp móng để cho những hòn đảo của lịch sử được nhô lên. Chính
trong thinh lặng mà âm thanh mới được sống lọt. Chính từ cái khối người bao la
thinh lặng ấy mới trồi lên được những người có tiếng nói trong lịch sử.
*
*
*
Quí vị và các bạn thân mến,
Những dòng suy tư trên đây
của thi hào Migele des Punamuno không thể không gợi lên cho chúng ta khung cảnh
thinh lặng trong máng cỏ, nơi Hài Nhi Giêsu đang ngủ say dưới ánh mắt chiêm
ngắm của Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse. Thinh lặng là luật của máng cỏ. Cả ba nhân
vật mà chúng ta chiêm ngắm bên máng cỏ đều thinh lặng.
Quả thực, nếu đặt vào trong
cuộc sống 33 năm của Ngài, thì phần lớn quãng đời của Ngài chỉ là thinh lặng.
Là Lời của Thiên Chúa ngỏ với con người. Chúa Giêsu nói bằng thinh lặng nhiều
hơn bằng những lời rao giảng của Ngài. Phải chăng cũng chỉ trong thinh lặng mà
con người mới có thể nghe được lời của Chúa. Thinh lặng cũng là luật sống của
Mẹ Maria. Thánh Luca đã tóm gọn cuộc sống của Mẹ trong câu: Và Mẹ Maria đã ghi
nhớ tất cả mọi sự và suy niệm trong lòng. Nếu Tin Mừng còn ghi lại một vài câu
nói của Mẹ Maria thì tất nhiên hoàn toàn thinh lặng là những lời phát biểu của
Thánh Cả Giuse. Ngay giữa lúc được thiên thần hiện đến trong giấc mộng để báo
tin về Mẹ Maria cưu mang Ngôi Hai Thiên Chúa. Thánh Giuse xem chừng cũng không
nói một lời nào, và nhất là Ngài cũng âm thầm biến khỏi cuộc đời còn lại của Mẹ
Maria và Chúa Giêsu lúc nào cũng không ai hay biết.
Thánh Cả Giuse quả là vị
thánh của thinh lặng. Chiêm ngắm Chúa Hài Nhi bên cạnh Mẹ Maria và thánh cả
Giuse có lẽ chúng ta cũng được mời gọi để sống thinh lặng. Chỉ trong thinh lặng
của máng cỏ chúng ta mới hiểu được ý nghĩa của cuộc sống âm thầm từng ngày của
chúng ta. Chúng ta thuộc về cái khối người thinh lặng bao la, ngày ngày lặng lẽ
sống mà không hề được ai nhắc tới. Không được ai nhắc tới nhưng nếu không có
cái khối người âm thầm lặng lẽ ấy thì cũng chẳng bao giờ có lịch sử. Thi hào
Migele des Punamuno gợi lên cho chúng ta hình ảnh cái khối san hô chìm sâu dưới
lòng đại dương. Ngày qua ngày, trong âm thầm lặng lẽ, khối san hô ấy tích tụ
lớn dần và trổi lên thành những hòn đảo xanh tươi giữa lòng đại dương. Lịch sử
nhân loại được hình thành từ những công lao âm thầm của khối người vô danh mà
mỗi người chúng ta là thành phần. Như hạt giống được âm thầm gieo vào lòng đất,
những vất vả phấn đấu và khổ đau từng ngày của chúng ta là nền móng vững chắc
cho lịch sử của nhân loại được hình thành và tiến tới. Chỉ trong niềm tin,
chúng ta mới nhận ra được những đóng góp âm thầm ấy. Chỉ trong ánh sáng của
máng cỏ chúng ta mới nhìn thấy được giá trị của những hy sinh âm thầm của con
người. Chỉ trong thinh lặng của máng cỏ, chúng ta mới lắng nghe được những hạt
giống của tin yêu và hy vọng đang nảy mầm.
Lạy Chúa, xin cho ánh sáng
của mầu nhiệm nhập thể chiếu rọi vào tâm trí của chúng con. Và nhờ những thực
tại chóng qua ở đời này, chúng con biết nhận ra những giá trị vĩnh cửu của Nước
Trời.
Xin cho những hạt giống
chúng con âm thầm gieo vải từng ngày được trổ bông chín vàng trong ngày mùa sau
hết. Amen.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Ngày 29 tháng 12 BNGS
Bài đọc: I
Jn 2:3-11; Lk 2:22-35.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Biết Thiên Chúa là
bước đi trong đường lối của Ngài.
Quan niệm về “biết” của
người Việt-Nam gần gũi với người Do-Thái hơn Hy-Lạp. Người Hy-Lạp quan niệm
biết là họat động của tri thức, trong khi người Do-Thái quan niệm biết phải ảnh
hưởng đến đời sống. Người Việt-Nam chúng ta quan niệm “tri hành phải đồng nhất”
thì mới mang lại kết quả tốt đẹp cho con người, và chúng ta đặt tầm quan trọng
trên việc làm hơn là lời nói: “lời nói mới lung lay, nhưng gương bày lôi kéo.”
Biết mà không làm, có lợi chi đâu?
Các Bài đọc hôm nay đặt
trọng tâm vào việc biết Thiên Chúa là phải bước đi trong đường lối của Người.
Trong Bài đọc I, Thánh Gioan làm sáng tỏ quan niệm “biết Thiên Chúa” cho người
Hy-Lạp. Theo ngài, biết Thiên Chúa không phải chỉ thuần tri thức, nhưng liên
quan đến đời sống luân lý của người tin. Ngài quả quyết: “Ai nói rằng mình biết
Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật
không ở nơi người ấy.” Trong Phúc Âm, Thánh Luca nêu lên những tấm gương của
những người biết và sống theo đường lối của Thiên Chúa: Thánh Giuse, Đức Mẹ
Maria, và cụ già Simeon.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Ai
nói rằng mình ở lại trong Người, thì phải đi trên con đường Đức Giêsu đã đi.
1.1/ Hai lối hiểu biết
khác nhau:
Khi Kitô Giáo vượt qua lãnh thổ Do-Thái tràn vào Hy-Lạp, Thánh-sử Gioan phải
đương đầu với sự hiểu biết và lý luận của người Hy-Lạp; một trong những điều
ngài phải làm sáng tỏ là quan niệm “biết Thiên Chúa.”
(1) Theo Hy-Lạp: Biết Thiên Chúa là lãnh
vực của trí tuệ, chứ không phải là lãnh vực của luân lý; vì thế, một người có
thể nói mình biết Thiên Chúa mà không cần giữ giới răn của Ngài. Đối với người
Hy-Lạp, con người có thể tự mình giải thóat bằng kiến thức và suy luận
(Gnosticism, chủ thuyết thuần tri thức).
(2) Theo Do-Thái: Biết Thiên Chúa là bước
đi theo đường lối của Ngài, là giữ cẩn thận các giới răn của Ngài. Đó là lý do
tại sao ngài cắt nghĩa: “Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta
biết Thiên Chúa: là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người. Ai nói rằng mình
biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự
thật không ở nơi người ấy. Còn hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu
Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo. Căn cứ vào đó, chúng ta biết được mình đang
ở trong Thiên Chúa. Ai nói rằng mình ở lại trong Người, thì phải đi trên con
đường Đức Giêsu đã đi.”
1.2/ Giới răn yêu thương
vừa cũ vừa mới: “Anh em thân mến, đây không phải là một điều răn mới tôi viết cho
anh em, nhưng là một điều răn cũ mà anh em đã có ngay từ lúc khởi đầu. Điều răn
cũ ấy là lời mà anh em đã nghe. Nhưng đó cũng là một điều răn mới tôi viết cho
anh em, điều ấy thật là thế nơi Đức Giêsu và nơi anh em, bởi vì bóng tối đang
qua đi và ánh sáng thật đã tỏ rạng.”
(1) Là giới răn cũ: vì đã được nhắc tới
ngay từ đầu. Sách Levi có giới răn này: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính
mình” (Lev 18:19).
(2) Là giới răn mới: vì được thực hiện bởi
Đức Kitô (Jn 13:34). Có những cái cũ, nhưng trở nên mới vì người thực hành nó;
chẳng hạn, bài nhạc cũ nhưng được trình bày theo lối mới. Cũng vậy, khi Đức
Kitô sống giới răn yêu thương, Ngài mở ra cho con người một chân trời hòan tòan
mới. Ngài mở rộng giới răn yêu thương tới tội nhân và kẻ thù. Ngài dạy: “không
có tình yêu nào cao quí cho bằng tình yêu của người dám thí mạng sống cho người
mình yêu.” Ngài đã đi trước làm gương cho con người bằng cái chết trên Thập
Giá.
1.3/ Ánh sáng và bóng
tối: Thánh
Gioan đồng nhất:
- Ánh sáng là yêu
thương: “Ai
yêu thương anh em mình thì ở lại trong ánh sáng, và nơi người ấy không có gì
nên cớ vấp phạm.”
- Bóng tối là hận thù: “Ai nói rằng mình ở
trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối... Ai ghét
anh em mình thì ở trong bóng tối và đi trong bóng tối mà chẳng biết mình đi
đâu, vì bóng tối đã làm cho mắt người ấy ra mù quáng.”
2/
Phúc Âm: Các
mẫu gương của những người sống theo đường lối của Thiên Chúa.
2.1/ Gia Đình Thánh tuân
giữ Lề Luật của Thiên Chúa: Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Moses,
Bà Maria và Ông Giuse đem con lên Jerusalem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép
trong Luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh,
dành cho Chúa," và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi
chim gáy hay một cặp bồ câu non.
2.2/ Ông Simeon tin vào
Lời Thiên Chúa hứa và sự thúc đẩy của Thánh Thần.
(1) Ông Simeon là người
công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Israel, và Thánh Thần hằng ngự
trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái
chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa. Được Thánh Thần thúc đẩy, ông
lên Đền Thờ.
(2) Lúc cha mẹ Hài Nhi
Giêsu đem con tới, ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: "Muôn lạy Chúa,
giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính
mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi
đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel Dân Ngài."
2.3/ Ông Simeon nói tiên
tri:
(1) Về con trẻ: “Thiên Chúa đã đặt cháu
bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng dậy. Cháu còn là
mục tiêu cho người đời chống đối; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều
người sẽ lộ ra.” Nhiều người bị ngã xuống hay được đứng dậy là hòan tòan tùy
thuộc vào phản ứng của họ đối với Đức Kitô. Trong cuộc đời của Chúa, người bị
ngã xuống là phần đông là các Kinh-sư và Biệt-phái, vì họ từ chối không tin và
luôn tìm cách bắt bẻ và tiêu diệt Ngài. Những người được đứng dậy là các người
thu thuế, gái điếm, và dân ngọai; tuy bị coi là tội lỗi, nhưng khi được Chúa tỏ
lòng thương xót, họ đã ăn năn và tin vào Ngài.
(2) Về Mẹ Maria: “Còn chính bà, một lưỡi
gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà." Cuộc đời của Chúa Giêsu là cuộc đời của Mẹ;
đau khổ của Con là của Mẹ. Mẹ Maria đã đồng hành với con từ lúc sinh ra trong
máng cỏ cho tới lúc sinh thì tên Thập Giá.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải chứng
minh việc biết Thiên Chúa bằng đời sống chứng nhân: tuân giữ những gì Thiên
Chúa truyền dạy.
- Giới răn quan trọng
nhất Thiên Chúa dạy chúng ta là “mến Chúa yêu người.” Chúng ta không chỉ biết
giới răn này, nhưng phải mang ra áp dụng trong cuộc đời và với mọi người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
Ngày 29 tháng 12
Sứ điệp: Cụ già Si-mê-on khao
khát được gặp Đấng Cứu Thế. Được ôm Chúa Giêsu vào lòng, cụ cảm thấy mãn nguyện
và sẵn sàng ra đi về với Thiên Chúa. Hạnh phúc cao cả nhất của đời người là
được gặp Chúa và đón nhận Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, cụ già Si-mê-on đã đi gần trọn một cuộc đời,
từng trải qua những vui buồn sướng khổ, từng tận hưởng hân hoan hạnh phúc.
Nhưng cuộc sống đời này dù có hấp dẫn đến đâu cũng không làm cho cụ được thỏa
mãn. Cụ vẫn cảm thấy thiếu, chỉ biết trông đợi Chúa là niềm an ủi duy nhất của
đời cụ. Còn gì sung sướng hơn là được gặp Chúa, còn gì hạnh phúc hơn là được
bồng ẵm Chúa trên tay. Bấy nhiêu dù chỉ là một khoảnh khắc ngắn ngủi, cũng đủ
làm cho cụ mãn nguyện hơn cả một đời người đã đi qua. Cụ sẵn sàng ra đi trong
bình an, không còn điều gì để luyến tiếc.
Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì Chúa cho con hạnh
phúc hơn cụ Si-mê-on rất nhiều. Hằng ngày Chúa cho con được gặp Chúa trong niềm
tin, được ôm Chúa vào lòng qua bí tích Thánh Thể, Chúa đồng hành với con mọi
nơi mọi lúc. Xin Chúa giúp con cảm nhận hồng ân cao cả này. Cuộc đời này nhiều
cám dỗ mời mọc, lắm thứ lôi cuốn hấp dẫn, nhưng lạy Chúa, đó chỉ là những niềm
vui giả tạo, những hạnh phúc chóng qua. Tất cả chỉ để lại trong con một sự chán
ngấy và càng khơi sâu niềm khát vọng trong con. Chỉ có Chúa mới là niềm hạnh
phúc chân thật và lẽ sống của con. Xin Chúa đừng để con lạc đường.
Hôm nay con cầu xin cho những người lớn tuổi, xin
Chúa cho các cụ được mãn nguyện trong niềm vui gặp Chúa, được sống tuổi già
hạnh phúc và về với Chúa trong bình an. Amen.
Ghi nhớ: "Ánh sáng đã chiếu soi các lương dân".
www.phatdiem.org
29/12/12 THỨ
BẢY TRONG TUẦN BÁT NHẬT GS
Th. Tôma Béckét, giám mục, tử đạo
Lc 2,22-35
Th. Tôma Béckét, giám mục, tử đạo
Lc 2,22-35
VÌ MẮT TÔI ĐÃ THẤY
"Muôn lạy Chúa, xin để tôi tớ này ra đi. Vì chính mắt
con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân. Đó là ánh sáng soi đường
cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en dân Ngài" (Lc 2,29-32)
Suy niệm: Một đứa trẻ chào đời, người lớn
đặt biết bao nhiêu là kỳ vọng nơi nó. Với cái nhìn đức tin thì kỳ vọng đó càng
lớn hơn. Đó là cái nhìn được Chúa Thánh Thần soi sáng của cụ già Si-mê-on về
Hài Nhi Giê-su. Nhìn một trẻ thơ, cụ đã thấy những điều trọng đại. Qua dáng vẻ
nhỏ bé tầm thường yếu ớt của Hài Nhi, cụ đã nhận ra ánh sáng soi đường cho dân
ngoại, vinh quang của Ít-ra-en dân Chúa. Và cụ còn có cái nhìn xuyên thấu thời
gian, để thấy trước Hài Nhi phải trải qua tăm tối của sự chống báng, phải bị
đâm thâu bởi lưỡi gươm của đau khổ trước khi trở nên ánh sáng và vinh quang đem
ơn cứu độ cho dân của Thiên Chúa.
Mời Bạn: Phải có cặp mắt thấm đầy Chúa
Thánh Thần mới có thể có cái nhìn thấu thị như ông già Si-mê-on. Bạn hãy xin
Chúa ban cho mình được ơn đó khi chiêm ngắm Hài Nhi trong máng cỏ. Hãy nhìn
thật kỹ suy thật sâu nét mặt tươi tắn của Ngài để tâm sự với Ngài và xin cho
mình được thấy ơn cứu độ của Ngài.
Chia sẻ: Nêu lên những cách nhìn tích
cực đối với anh chị em trong cộng đoàn.
Sống Lời Chúa: Ta cũng cần có cái nhìn như cụ
già Si-mê-on trong cách giao tiếp với tha nhân, nơi những con người nghèo hèn
thấp kém trong xã hội, để thấy được Chúa hiện diện nơi họ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin giúp con biết
nhìn nhau bằng cái nhìn của Chúa, để con nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi
người anh em và thấy được ý Chúa muốn gì nơi họ, nơi con.
www.5phutloichua.net
ƠN CỨU ĐỘ CHO MUÔN DÂN
Để nhận ra Chúa trong cuộc sống buồn tẻ hay sôi
động hàng ngày, cần có sự gần gũi thân thiết với Thánh Thần như ông Simêon.
Suy niệm:
Luật lệ thường làm người ta cảm thấy gò bó, mất tự do.
Người Do Thái phải giữ Luật Chúa đã ban cho Môsê.
Con trai thì phải được cắt bì và đặt tên tám ngày sau khi sinh (Lc
2,21).
Con trai đầu lòng thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa (Xh 13,1-2),
nên cha mẹ phải nộp năm sê-ken bạc cho tư tế
để
chuộc lại con cho mình (Ds 3,47-48).
Người
phụ nữ sau khi sinh con, bị coi là nhơ uế (Lv 12, 2-8),
phải
ở nhà, không được đụng đến vật thánh hay vào Đền thờ.
Bốn
mươi ngày sau khi sinh con trai, bà cần làm lễ thanh tẩy.
Bà
phải dâng cho Đền thờ một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu,
và
một con chim gáy hay bồ câu để làm lễ tạ tội.
Nếu
nghèo, bà chỉ cần dâng một cặp bồ câu non hay chim gáy là đủ.
Giuse
và Maria đã vui vẻ giữ những luật này,
dù
ngày nay đối với chúng ta, chúng thật là khó hiểu và khó chấp nhận.
Hãy
nhìn ngắm đôi vợ chồng nghèo lên Giêrusalem.
Họ
đã vượt một quãng đường xa, với đứa con mới hơn tháng tuổi.
Maria
chịu thanh tẩy, dù bà biết mình đã cưu mang Đấng Thánh.
Bà
đã dâng lễ vật đơn sơ của một người nghèo (c. 24).
Dù
Luật không buộc, ông bà cũng đem Con lên Đền thờ để dâng.
Họ
muốn con mình thuộc trọn về Thiên Chúa (x. 1 Sm 1, 22).
Ông
bà đã không đòi hỏi một đặc ân hay miễn trừ nào.
Giữ
Luật là cách họ thể hiện tình yêu đối với Chúa.
Có
ai nhận ra đôi vợ chồng với đứa con nhỏ này là ai không?
Có,
một người công chính và sùng đạo tên là Simêon.
Thánh
Thần hằng ngự trên ông (c. 25),
và
nói cho ông biết ông sẽ thấy Đức Kitô trước khi lìa đời (c. 26).
Chính
Thánh Thần thúc đẩy ông lên Đền thờ vào lúc này (c. 27).
Bỗng
nhiên ông thấy mầu nhiệm lớn lao đang tỏa sáng,
nơi
Hài Nhi bé nhỏ, con của đôi vợ chồng nghèo.
Mọi
mong chờ lâu nay của ông được đền đáp.
Các
mục đồng đã nhận ra Đức Kitô nơi bé thơ quấn tã, nằm máng cỏ,
còn
Simêon nhận ra Ngài nơi em bé được bồng ẵm bởi đôi vợ chồng.
Ông
đã bồng Hài Nhi trong vòng tay, ngất ngây vì hạnh phúc.
Môi
ông bật lên lời chúc tụng của người sẵn sàng nhắm mắt ra đi.
Ơn
cứu độ cho muôn dân đã đến đây rồi (cc. 30-31).
Hài
Nhi bé nhỏ này là Ánh sáng cho muôn dân,
là
Vinh quang cho Dân Ítraen của Đức Chúa (c. 32).
Để
nhận ra Chúa trong cuộc sống buồn tẻ hay sôi động hàng ngày,
cần
có sự gần gũi thân thiết với Thánh Thần như ông Simêon.
Thánh
Thần như trò chuyện, mách bảo, thôi thúc ông từ bên trong.
Thánh
Thần soi sáng để ông nhận ra điều lớn lao mắt phàm không thấy.
Nhưng
để nghe được sự mách bảo thầm kín của Thánh Thần,
chúng
ta cũng phải có sự thánh thiện và lòng khát khao như ông Simêon.
Chẳng
còn mơ ước gì ngoài việc được gặp mặt Đức Kitô qua cuộc sống.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa
ở bên con dưới muôn ngàn dáng vẻ.
Chúa hiện diện lặng lẽ
như tấm bánh nơi nhà Tạm,
nhưng Chúa cũng ở nơi những ai nghèo khổ,
những người sống không ra người.
Chúa hiện diện sống động nơi vị linh mục,
nhưng Chúa cũng có mặt ở nơi hai, ba người
gặp gỡ nhau để chia sẻ Lời Chúa.
Chúa hiện diện nơi Giáo Hội
gồm những con người yếu đuối, bất toàn,
và Chúa cũng ở rất sâu
trong lòng từng kitô hữu.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con thấy Chúa
đang tạo dựng cả vu trụ
và đang đưa dòng lịch sử này về với Chúa.
Xin cho con gặp Chúa nơi bất cứ ai là người
vì họ có cùng khuôn mặt với Chúa.
Xin cho con khám phá ra
Chúa đang hẹn gặp con
nơi mọi biến cố buồn vui của đời thường.
Ước gì con thấy Chúa ở khắp nơi,
thấy đâu đâu cũng là nhà của Chúa.
Và ước gì con đừng bỏ lỡ bao cơ hội gặp Chúa
trên bước đường đời của con. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Dâng Chúa vào Đền thờ
Một
đêm khuya nọ, tại một vùng quê hẻo lánh bên Anh quốc, một cậu bé đang hấp hối
và người mẹ goá phải đi bộ cả chục cây số để tìm bác sĩ. Nhìn dáng vẻ quê mùa
nghèo nàn của người đàn bà, ông bác sĩ không tỏ ra mấy sốt sắng: có nên mất giờ
cho thằng bé đó không? Lại nữa nếu cứu sống nó thì lớn lên nó cũng tiếp tục
kiếp nông dân cùng khổ như cha ông nó mà thôi. Ông bác sĩ định từ chối. Thế
nhưng bị lương tâm nghề nghiệp cắn rứt, cuối cùng ông đã đến chữa bệnh cho đứa
bé. Sau này đứa bé đó đã trở thành một trong những nhà chính trị lỗi lạc nhất
của nước Anh.
Người
Mỹ thường nói: “Mỗi đứa trẻ sinh ra đều có thể là một tổng thống tương lai của
Hoa Kỳ”. Quả thực mỗi đứa trẻ sinh ra đều mang lại hy vọng cho người lớn. Với
cái nhìn đức tin thì niềm hy vọng ấy lại càng lớn lao hơn. Đó là cái nhìn của
cụ già Simêon về Hài Nhi Giêsu. Nơi Hài nhi Giêsu, cụ đã nhận ra ánh sáng soi
đường cho dân ngoại, vinh quang của Israel Dân Chúa. Thế nhưng ánh sáng và vinh
quang ấy được tỏ lộ xuyên qua tăm tối của Thập giá và khổ đau.
Đó
cũng là cái nhìn chúng ta phải có khi chiêm ngắm Hài nhi trong máng cỏ. Trong
Hài nhi bé nhỏ, chúng ta nhìn thấy Đấng cứu độ trần gian; trong cảnh nghèo hèn
tăm tối của máng cỏ, chúng ta nhận ra hào quang sáng chói của Ngôi Hai Thiên
Chúa.
Xuyên
qua cái bé nhỏ tâm thường nhận ra những giá trị siêu việt, xuyên qua tăm tối
của thất bại khổ đau nhận ra ánh sáng hy vọng, đó là cái nhìn đích thực của
niềm tin. Chúng ta cũng cần có cái nhìn như thế trong cách giao tiếp với tha
nhân: nơi những con người nghèo hèn thấp kém trong xã hội, chúng ta luôn được
mời gọi nhận ra hình ảnh Thiên Chúa và phẩm giá cao cả của nhân vị. Chúng ta
cũng được mời gọi nhìn vào cuộc sống hằng ngày với cái nhìn ấy: từng phút giây
của cuộc sống độc điệu âm thầm mỗi ngày đều là hạt giống của sự sống vĩnh cửu;
thất bại mất mát, khổ đau cũng là khởi đầu của những ân phúc dồi dào mà Thiên
Chúa luôn có thể ban tặng con người.
Nguyện
xin Hài nhi Giêsu củng cố chúng ta trong niềm tin ấy. Nguyện xin Đức Maria,
người mà một lưỡi gươm sẽ đâm thấu qua tâm hồn nhưng vẫn luôn tin tưởng cậy
trông, phù trợ chúng ta trong cuộc lữ hành đầy gian nan thử thách này.
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Dâng Chúa vào Đền thờ
Đúng 40 ngày sau
khi sinh, con trẻ Giêsu được đưa lên Đền Thờ để dâng cho Thiên Chúa, như đã ghi
trong luật Môsê: “Mọi con trai đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa và phải dâng
cho Thiên Chúa”.
Trong biến cố
dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ, chúng ta có thể chú ý đến hai khía cạnh. Khía cạnh
thứ nhất là sự hạ mình của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm nhập thể. Thật vậy, là
Con Thiên Chúa từ đời đời, nhưng Chúa Giêsu đã sinh xuống làm người trong một
dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn và huấn luyện riêng để đón nhận Ngài. Chúa
Giêsu không bó buộc phải tuân giữ những lề luật của dân, nhưng Ngài đã chọn con
đường nhập thể cho đến cùng và đã tuân giữ trọn vẹn những lề luật đó. Đây là
điều thánh Phaolô gọi là sự hạ mình của Chúa, và ngài mời gọi các tín hữu hãy
có những tâm tình khiêm tốn như Chúa. Ngài viết trong thư Philip: “Anh em đừng
làm chi vì ganh tị hay vì hư danh nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người
khác hơn mình… Anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu Kitô, Đấng vốn
dĩ là Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng
với Thiên Chúa. Trái lại, Ngài đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô
lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (2,3-8).
Nhiều nhà chú
giải đã nhìn thấy nơi việc dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ cho Thiên Chúa như một
loan báo việc Ngài dâng hiến chính mình trên thập giá cho Thiên Chúa để cứu rỗi
nhân loại.
Khía cạnh thứ
hai của biến cố là lời tiên báo của cụ già Simêon. Simêon, một người công chính
và mộ đạo, những ngóng đợi niềm an ủi của Israel, và giờ đây ông đã được mãn
nguyện: chỉ cần được nhìn thấy ơn cứu độ, ông đã có thể ra đi bình an, điều đó
cho thấy giá trị của Nước Trời, của ơn cứu độ thật trổi vượt, tuy nhiên, ơn cứu
độ đến cũng là lúc khởi đầu cho tranh chấp và thù nghịch, như lời tiên báo của
Simêon về Hài Nhi Giêsu: “Này, Ngài có mệnh làm cớ cho nhiều người bổ nhào và
trỗi dậy trong Israel và là dấu gợi lên chống đối”.
Chúa Giêsu là
ánh sáng, là ơn cứu độ, Ngài không kết án ai, nhưng kêu gọi mọi người đến với
Ngài. Đón nhận Ngài để được cứu độ, hay khước từ Ngài để phải hư mất, điều đó
tùy thuộc sự tự do của mỗi người. Như các mục đồng đã đến chiêm ngắm Chúa và
khi trở về không ngớt dâng lời ngợi khen Thiên Chúa, và như các đạo sĩ sau khi
tìm gặp Chúa đã trở về với một tâm hồn hoàn toàn đổi mới, còn Hêrôđê đã trở
thành kẻ chống đối Chúa, vì bị xâu xé dằn vặt bởi địa vị, danh vọng…
Xin cho chúng ta
biết sống khiêm nhường theo gương Chúa, để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong
mọi biến cố cuộc đời và trung thành với đức tin đã lãnh nhận.
(Trích trong
‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
Tháng 12
29 THÁNG MƯỜI HAI
Đến Gần Bởi Đức Tin
Mầu
nhiệm Giáng Sinh soi sáng chúng ta thấy rõ tiếng gọi mời người Kitôhữu yêu
thương anh chị em mình bằng tình yêu huynh đệ. Đến với nguồn suối ân sủng và
yêu thương bất tận này, chúng ta được mời gọi tiến đến cảm nếm bằng con mắt đức
tin và bằng sự khôn ngoan đích thực.
Sự
khôn ngoan cho chúng ta biết bằng cách nào chúng ta có thể sống như anh chị em
của nhau, rút ra nguồn cảm hứng và năng lực từ mầu nhiệm Thiên Chúa làm người.
Thật vậy, khi chúng ta tiến tới gần Bê-lem hơn, chúng ta thấy Thiên Chúa của mình
bé nhỏ biết bao. Vốn là Đấng cao cả vô hạn, nhưng Ngài đã tự hạ mình xuống làm
một đứa trẻ thấp hèn. Ngài giống chúng ta mọi sự, dù Ngài là Thiên Chúa.
Thiên
Chúa đã tự đồng hóa với chúng ta và đến ở gần chúng ta quá đỗi! Nếu chúng ta
đến với Ngài ở Bê-lem với lòng đơn sơ và với sự khôn ngoan của những người chăn
chiên và những nhà đạo sĩ ấy, Đức Giêsu sẽ dạy cho ta biết cách đến gần gũi mọi
người, bắt đầu từ những người bé nhỏ thấp hèn nhất – để chúng ta có thể giúp
mọi người sống cho Thiên Chúa.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày V Trong Tuần Bát Nhật Giáng
Sinh,
Thánh
Tôma Becket, giám mục tử
đạo;
1Ga
2, 3-11; Lc 2, 22-35.
LỜI
SUY NIỆM: “Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông
Simêon nói về Người” (lc 2,33).
Đức Mẹ thường được đứng trước sự ngỡ ngàng Từ lúc chịu Truyền Tin rồi khi đến
thăm viếng bà Êlisabét, rồi sinh Chúa trong hang lừa máng có tại Bêlem, giờ đây
Mẹ lại được nghe những lời nói của tiên tri Simêon về con của mẹ cũng như lời
nói của bà góa Anna 84 tuổi. Đức Mẹ chỉ có chiêm niệm trong lòng để cho
ánh sáng nội tâm của Mẹ soi sáng, giúp Mẹ không phải để hiểu biết nhưng để sống
theo sứ mạng của Mẹ là phục vụ ý định của Thiên Chúa. Trong đời sống của chúng
ta cũng vậy. Hãy nhìn vào mọi biến cố trong đời mình, để tìm ra Thánh Ý của
Thiên Chúa; để biết chấp nhận và tín thác mọi sự trong quyền năng yêu thương,
nâng đỡ và tha thứ của Thiên Chúa.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày
29-12:
Thánh TOMA BECKET
Giám Mục Tử Đạo - (1118
- 1170)
Thánh
Toma Becket sinh ra tại Luân Đôn năm 1118. Cha Ngài, ông Gibert Becket, là một
hiệp sĩ người Normandy, đã trở thành thương gia giàu có ở Luân Đôn. Mẹ Ngài
cũng là người Normandy. Ngài có ít là hai chị em mà một người sau này làm tu
viện trưởng Barking. Ngài thừa hưởng từ người mẹ lòng đạo đức, lòng sùng kính
Đức Mẹ và lòng quảng đại đối với người nghèo khó.
Từ
người cha, Toma Becket thừa hưởng một tính khí kiêu hùng và cương quyết. Dáng
người cao ráo, đẹp trai, hấp dẫn và thông minh. Sau khi theo học tại Oxford,
Đức Tổng giám mục Cantebury là Thaobald đã triệu mời Ngài làm quản trị, lo
những chuyện liên hệ với Roma. Toma Becket đã kể ra đáng kể đến nỗi vua Henri
II đã đặt Ngài làm chưởng ấn của vương quốc. Ngài thường khoe khoang, ngựa
giòng chim ưng, chó quí là bạn thân của Ngài. Bù lại sự xa hoa này, Ngài đã tỏ
ra quảng đại nhiều với những hy sinh thầm kín. Ngài cũng rất hiếu chiến và dùng
đến các quyền hạn của hoàng tử mình, Ngài đã tỏ ra có giá trong một trận chiến
gần Toulouse. Ngài còn tự lượng sức trong một trận chiến đấu đơn với một hiệp
sĩ danh tiếng người Pháp.
Tổng
giám mục Theobald qua đời, và Toma được chọn làm kế vị bất kể sự chống đối của
hàng giáo sĩ khi thấy "một người thế tục và ồn ào như vậy" được đưa
lên tòa giám mục.
Trong
khi đó, Toma Becket đã tiên báo cho nhà vua biết rằng: - "Thưa Ngài, nếu
Chúa cho phép tôi làm Tổng giám mục Canterbury, tôi sẽ hết được Ngài sủng ái.
Ngài sẽ đòi tôi nhiều điều, và Ngài đã làm nhiều điều chống lại Giáo hội mà tôi
sẽ không thể chịu nổi. Tình cảm của Ngài sẽ sớm đổi thành thù hận không chấm
dứt nổi.
Nhưng
nhà vua vẫn muốn thấy Ngài lên ngai giám mục. Ngày 3 tháng sáu năm 1162, Toma
Becket đã thụ phong linh mục và ngày hôm sau được tấn phong giám mục. Kẻ nô bộc
của các hoàng tử đã trở thành nô bộc của Giáo hội, và chỉ còn muốn giữ vẻ xa
hoa bên ngoài, Ngài trở nên khiêm tốn hơn, mặc áo nhặm, tha thiết yêu thương kẻ
nghèo và xa cách đối với người giàu. Nhưng những điều lo ngại của thánh nhân
không tự biện minh mãi được.
Vua
Henri II bóp nghẹt sự tự do của các tác viên Giáo hội, muốn bắt chàng giáo sĩ
nước Anh phải phục thẩm quyền các tòa án hoàng gia, tước đoạt kho tàng của dân
nghèo. Trước ý muốn của nhà vua, các vị giám mục ngập ngừng, nhiều vị khứng
chịu. Nhưng Tổng giám mục Canterbury không để mình bị quyến dũ. Tức giận, nhà
vua triệu vời các giám mục vương quốc lại.
Trong
căn phòng tụ họp, hiện ra những con người mang khí giới như sẵn sàng tiêu diệt
các Ngài. Các giám mục và các lãnh Chúa kinh hoàng khấn nài xin vị giáo chủ
nhượng bộ.
Để
cứu những người chung quanh, Toma Becket như nửa ưng thuận, đã xin hoãn lại để
nghiên cứu vấn đề. Ngài viết thư cho Đức Thánh Cha xin phán định. Đức Thánh Cha
đã kết án tất cả những ai đã phát thệ. Thế là Toma Becket đã rút lại lời một
cách cao thượng. Nhà vua bắt bớ Ngài. Đáp lại các lời tố cáo, Ngài tỏ ra cương
quyết và luôn giữ được tâm hồn thanh thản. Thất vọng nhà vua hô hoán: -
"Hoặc là ta mất ngôi, hoặc là con người ấy không còn là tổng giám mục
nữa".
Các
hiệp sĩ gọi Ngài là kẻ bội phản. Toma Becket đã trả lời cho một người trong bọn
họ: "Nếu đôi tay này không phải là đôi tay của một linh mục thì ông
phải biết".
Trong
một công đồng ở Nerthampton năm 1164, Ngài lại tỏ ra chống đối và khi bị đe dọa
đến mạng sống hoặc tù tội. Một đêm kia, Ngài đã tàng hình để thoát thân. Lang
thang nhiều ngày, Ngài tới bờ biển và được một thuyền đánh cá tiếp nhận Ngài
đang lúc mệt nhọc đến đứt hơi và đưa qua Pháp.
Vua
Lu-y VII đã hân hạnh tiếp đón vị tổng giám mục Caterbury, ông nói: - "Nước
Pháp có thói quen nuôi dưỡng và bảo vệ những người chịu đau khổ, nhất là những
người bị lưu đày vì công chính".
Vị
giáo chủ lưu ngụ tại tu viện Pontiguy và tăng gấp nếp sống khắc khổ, đến nỗi có
thể nói được đây là cuộc "Hoán cải thứ nhì, từ đạo đức tới thánh
thiện". Ngài có giờ để cầu nguyện và suy gẫm. Ngài tuân theo luật và nếp
sống của tu viện. Dầy vậy cuộc trả thù của nhà vua vẫn tiếp tục. Cha mẹ và bạn
hữu Ngài bị tước hết tài sản, bị trục xuất tới số 400 người. Họ buộc lòng phải
đến với Ngài, làm thành một đoàn người đáng thương. Toma Becket rất nhiệt thành
nâng đỡ người nghèo. Lần này bất lực vì không thể giúp đỡ được những người thân
yêu nhất đang bị khổ cực vì mình. Sau cùng, vua Henri loan báo là sẽ tiêu diệt
mọi nhà dòng Xitô, nếu một nhà dòng Xitô nào còn tiếp tục dung duõng Ngài. Toma
Becket liền đến một nữ tu viện Bênedictô ở Sens. Những năm tháng đau khổ và trơ
trọi nối tiếp nhau.
Trong
khi đó, nhà vua bị Đức Thánh Cha đe dọa, tỏ ra muốn giao hòa với vị Tổng giám
mục vào những tháng cuối cùng năm 1169. Một thứ hòa hoãn chẳng dễ gì. Nhưng vị
giáo chủ đã nói với những người muốn ngăn cuộc hồi hương của mình rằng: -
"Dù có biết chắc mình sẽ bị chặt thành trăm mảnh, tôi vẫn trở về. Đã sáu
năm rồi, đoàn chiên của tôi vắng bóng chủ chăn".
Ngài
tạo thêm nhiều thù địch khi đưa ra những sắc lệnh huyền chức những vị giám mục
muốn chống đối lại Ngài. Khi tới Canterbury, dân chúng chen lẫn nhau giữa những
khúc thánh ca và những hồi chuông đổ dồn để đến lãnh phép lành của Ngài. Những
lời đầu tiên Ngài nói trên tòa giảng là: - "Tôi đã tới để chịu chết giữa
anh em".
Nhà
vua tức giận với cuộc trở về khải hoàn này của Toma Becket, một con người không
thể lay chuyển trong mọi việc bảo vệ những quyền tự do của Giáo hội. Người ta nghe
thấy vua Henri kêu lớn: - "Không có được lấy một người trong số những kẻ
hèn ta nuôi dưỡng đây gỡ cho chúng ta người giáo sĩ ngạo mạn này sao ?"
Khi
ấy có bốn hiệp sĩ đi Canterbury. Họ gặp vị giáo chủ trong căn phòng gần nhà thờ
chính tòa với các linh mục và tu sĩ. Họ nhục mạ Ngài, nhưng Ngài nói: -
"Đừng mất thời gian đe dọa tôi. Để sát cánh chiến đấu, các người sẽ thấy
tôi luôn luôn ở trong trận chiến của Chúa".
Các
hiệp sĩ hùng hổ đi ra. Các giáo sĩ trách Ngài làm cho họ phải chết. Toma Becket
không trốn tránh, Ngài nói với họ: - "Tất cả chúng ta hoặc phải chết. Đừng
để sự sợ hãi làm cho chúng ta xa rời sự công chính. Tôi sẵn sàng chết vì tình
yêu Chúa mà những người này giết tôi không phải vì tình yêu như vậy".
Và
khi nghe bước chân và tiếng kêu của các hiệp sĩ có võ trang, Ngài leo lên thang
nhà thờ chính tòa Ngài nói: - "Tôi ra tiền tuyến".
Trả
lời cho những lăng nhục, Ngài nói: - "Tôi không phải là kẻ phản bội, nhưng
là một linh mục. Tôi sẵn sàng vì Danh đấng đã lấy máu cứu chuộc tôi ... Nhưng
vì Danh Thiên Chúa, đừng động tới những người này của tôi".
Dựa
lưng vào cột, Đức Tổng giám mục chống lại những người muốn đưa Ngài đi, đẩy
những người tấn công ngã soài xuống đất: "Tôi không đi đâu hết, hãy làm
việc đó ở đây đi".
Những
người khác ngập ngừng. Vị tử đạo lớn tiếng phú mình cho Chúa và Giáo hội:
"Lạy Chúa, con phó linh hồn con trong tay Chúa".
Hai
nhát gươm tiếp liền. Toma Becket ngã xuống miệng còn nói: - "Vì danh Chúa
Giêsu và vì Giáo hội, tôi bằng lòng chịu chết". Và Ngài nằm chết cạnh bàn
thờ.
Cái
chết của Đức tổng giám mục làm chấn động lương tâm toàn thể Chân Au. Các phép
lạ được phổ biến trên mộ Ngài. Đức Alexander III năm 1173 đã phong Ngài làm
thánh tử đạo. Nhà vua đã thống hối công khai bên mộ Ngài và những gì khiến
thánh nhân chịu khổ đã được sửa sai nhờ cái chết của Ngài. Canterbury trở thành
nơi hành hương thứ nhì sau Rôma.
(Daminhvn.net)
++++++++++++++++++++++++
29 Tháng Mười Hai
Hoàng Tử Và Cậu Bé Nghèo
Văn hào Anh Mark Twain cách đây ba thế kỷ, có
viết một quyển tiểu thuyết mang tựa đề "Hoàng tử và cậu bé nghèo".
Chuyện kể lại tình bạn của hai cậu bé giống hệt nhau khiến người ta tưởng là
sinh đôi. Một trong hai cậu bé tên là Edward, hoàng tử xứ Galles. Còn Tom
Canty, người bạn của vị hoàng tử, lại là một cậu bé con nhà nghèo.
Một ngày kia, hai cậu bé có một ý nghĩ ngộ
nghĩnh là thay đổi địa vị xã hội. Tom vào thế chỗ của vị hoàng tử Edward trong
triều đình, còn Edward thì khoác lên mình mảnh áo rách rưới và bắt đầu cuộc
phiêu lưu. Cậu lang thang đầu đường xó chợ bên cạnh những người cùng cực nhất
trong xã hội.
Thế nhưng một lúc nào đó, hai cậu bé cũng cảm
thấy mệt mỏi với trò chơi đầy phiêu lưu này. Edward mới sực tỉnh về ngôi vị
hoàng tử của mình. Trong bộ quần áo rách rưới nhơ bẩn, cậu tìm đủ mọi cách để
chứng minh rằng mình là hoàng tử nối ngôi của xứ Galles. Nhưng cảnh sát đã
không tin... Thế là hoàng tử Edward đành phải lặng lẽ bước vào tù vì tội giả
mạo.
Giữa lúc Tom, cậu bé nghèo, sắp sửa được tấn
phong làm vua, thì hoàng tử Edward xuất hiện... Không mấy chốc cậu đã được phục
hồi trong ngôi vị hoàng tử của cậu. Chính nhờ kinh nghiệm của những tháng ngày
làm người ăn xin, lang thang đầu đường xó chợ với những người cùng khổ, mà
Edward đã trở thành một vị vua đạo đức và giàu lòng thương người.
Cũng
giống như câu chuyện trên đây, Thiên Chúa đã đến giữa loài người để hoán đổi vị
thế với chúng ta. Ngài mặc lấy thân xác nghèo hèn của chúng ta để chúng ta được
mang lấy tước phẩm được làm con Chúa. Nhờ ân sủng của Ngài, Ngài chia sẻ với
chúng ta sự sống thần linh và đón nhận trong thân xác Ngài tất cả những hệ lụy
của kiếp sống khổ đau của con người.
Mang
lấy trong thân xác Ngài khổ đau của nhân loại, Chúa Giêsu đã tự đồng hóa mình
với từng người, nhất là những người khổ đau. Ðồng hóa mình với những người đau
khổ, Chúa Giêsu vạch ra cho chúng ta con đường để gặp gỡ Ngài: Ngài hiện diện
trong những đau khổ, bé mọn nhất. Tiếp rước những người đó chính là tiếp rước
Ngài.
Thiên
Ðàng là một gặp gỡ triền miên với Chúa, nhưng cuộc gặp gỡ này chỉ được chuẩn bị
bằng những gặp gỡ của chúng ta với tha nhân, chúng ta sẽ gặp được Chúa. Chúng
ta khước từ tha nhân, chúng ta cũng khước từ chính Chúa.
Tha
nhân là Bí Tích của Thiên Chúa. Chính trong tha nhân mà chúng ta phải nhận ra
và yêu mến Chúa.
Nơi
bàn thờ, vị linh mục đọc lại lời của Chúa Giêsu: này là Mình Ta, này là Máu
Ta... Khi chỉ cho chúng ta mỗi một con người, có lẽ Chúa Giêsu cũng sẽ nói:
"Này là Mình Ta...".
Thánh
lễ là một cuộc gặp gỡ với Chúa. Cuộc gặp gỡ này chỉ có ý nghĩa và giá trị nếu
trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cũng biết nhận ra Chúa trong từng cuộc gặp
gỡ với tha nhân... Xin Chúa thêm Ðức Tin để chúng ta có thể nhận ra Chúa Giêsu
trong tha nhân, nhất là những người cùng khổ, bé mọn trong xã hội.
(Lẽ Sống)
Ngày 29
TRONG TUẦN BÁT NHẬT GIÁNG SINH
Thánh
Tôma Béckét, giám mục, tử đạo
Chúng
ta chỉ có một lời giúp chúng ta biết nhìn Đức Maria như thế nào, trong cảnh náo
nhiệt và ồn ào: "Còn bà Maria thì hàng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi
nghĩ lại trong lòng" (Lc 2,19).
Mẹ
đang ở giữa thực tế quá khiêm tốn: Đấng Mêxia của Mẹ nằm trong máng cỏ và những
tôn xưng hùng vĩ: Các nhà chiêm tinh đến bái lạy Hài Nhi và sự phấn khởi của
những người chăn chiên: "Sứ thần bảo chúng tôi: này tôi báo cho anh em một
tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: hôm nay một Đấng Cứu Độ đã
sinh ra cho anh em, Người là Đấng Mêxia Đức Chúa!"
Mêxia Đức Chúa - một lần
nữa, tác giả Luca cho chúng ta một lời chân thành. Không nghi ngờ gì nữa, chính
Đấng Mêxia đã được loan báo, nhưng sau này, khi đọc lại lời loan tin cho những người
chăn chiên, chúng ta sẽ dễ nghe tiếng nói của Đức Chúa .
Tuy
vậy, Đức Maria bắt đầu chuỗi dài những kinh ngạc. Đấng Mêxia lại ở trong chuồng
bò này sao? Đức Maria, người sùng tín, vẫn bình tĩnh trước những sự kiện khó
khăn nhất: Mẹ sẽ “suy niệm" những sự việc này cho đến khi ánh sáng nội tâm
giúp Mẹ, không phải để hiểu biết, nhưng để sống mọi sự theo sứ mạng của Mẹ, là
phục vụ ý định của Thiên Chúa.
André
Sève
Thứ Bẩy 29-12
Thánh Tôma Becket
(1118 - 1170)
L
|
à một người kiên quyết dù có
đôi lúc giao động, nhưng sau đó biết rằng không thể hòa giải với tội lỗi, ngài
trở nên một giáo sĩ hăng say, bị tử đạo và được tuyên xưng là thánh -- đó là
cuộc đời Thánh Tôma Becket, Tổng Giám Mục của Canterbury, bị giết ngay trong
vương cung thánh đường của ngài vào ngày 29-12-1170.
Thánh Tôma sinh ở Luân Ðôn.
Ngài theo học ở cả hai trường đại học Luân Ðôn và Ba lê. Sau cái chết của người
cha, ngài bị khánh tận, Ðức Tổng Giám Mục Canterbury, là người đã từng sai ngài
đến Rôma một vài lần, đã cấp dưỡng và cho ngài theo học giáo luật.
Trong khi làm tổng phó tế cho
giáo phận Canterbury, vào lúc 36 tuổi ngài được Vua Henry II, là bạn của ngài,
chọn làm thủ tướng Anh, là nhân vật quyền thế thứ nhì trong nước, chỉ sau vua.
Ngài nổi tiếng vì lối sống xa hoa và phung phí, nhưng khi Vua Henry chọn ngài
làm giám mục chính tòa Canterbury thì cuộc đời ngài thay đổi hoàn toàn. Ngài
được thụ phong linh mục chỉ một ngày trước khi được tấn phong giám mục. Và ngài
quyết liệt thay đổi đời sống bằng sự khổ hạnh. Không bao lâu, ngài đụng độ với
vua về vấn đề quyền lợi của Giáo Hội và hàng giáo sĩ.
Vua Henry nhất quyết nắm lấy
quyền điều khiển Giáo Hội. Có khi, vì cố giữ hòa khí, Ðức Tổng Tôma phải nhượng
bộ. Ngài tạm thời chấp nhận Hiến Chương Clarendon, không cho phép giáo sĩ được
xét xử bởi một toà án của Giáo Hội và ngăn cản họ không được trực tiếp kháng án
lên Rôma. Nhưng sau cùng Ðức Tổng Giám Mục Tôma tẩy chay Hiến Chương này, ngài
trốn sang Pháp và sống ở đó trong bảy năm. Khi trở về Anh ngài biết mình sẽ bị
chết. Vì ngài từ chối không miễn tội cho các giám mục được vua sủng ái, vua
Henry đã tức giận kêu lên, "Không có ai đưa tên giáo sĩ rắc rối này
khuất mắt ta hay sao!" Bốn hiệp sĩ đã thể hiện lời nguyện ước của vua,
và đã hạ sát Ðức Tổng Giám Mục Tôma ngay trong vương cung thánh đường
Canterbury.
Chỉ trong vòng ba năm sau,
Ðức Tôma được phong thánh và ngôi mộ của ngài trở nên nơi hành hương. Chính Vua
Henry II đã ăn năn sám hối tại ngôi mộ Thánh Tôma, nhưng người kế vị là Henry
VIII đã chiếm đoạt ngôi mộ ấy và tẩu tán các thánh tích của ngài. Tuy nhiên,
Ðức Tôma Becket vẫn là một thánh nhân anh hùng trong lịch sử Giáo Hội cho đến
ngày nay.
Lời Bàn
Không ai có thể trở nên thánh
mà không phải chiến đấu, nhất là với chính bản thân. Thánh Tôma biết ngài phải
giữ vững lập trường khi bảo vệ đức tin và quyền lợi Giáo Hội, dù có phải hy
sinh mạng sống. Chúng ta cũng phải giữ vững lập trường khi đối diện với những
áp lực -- chống với sự bất lương, gian dối, hủy diệt sự sống -- mà hy sinh tham
vọng muốn nổi tiếng, muốn đầy đủ tiện nghi, muốn được thăng quan tiến chức và
ngay cả muốn giầu của cải.
www.nguoitinhuu.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét