NHÂN NĂM ĐỨC TIN, BÀN VỀ BẢN TÍNH ĐỨC TIN
L.m. An-rê Đỗ Xuân Quế OP
Nhiều người tỏ ra
băn khoăn lo ngại vì dường như giữa đức tin và cuộc đời có một cái gì bất ổn :
bất ổn ở chỗ đức tin dạy một đàng trong khi người tin lại phải sống một nẻo với
bao vấn đề cụ thể phức tạp. Đối với những người này, đức tin xem ra chỉ quả
quyết mà không minh chứng, chỉ an ủi xoa dịu mà không giải quyết những nỗi khó
khăn người ta gặp phải trên đường đời, chỉ chú trọng đến phần linh thiêng mà bỏ
rơi hay coi nhẹ phần vật chất nơi con người. Nói tóm lại, giữa đức tin và cuộc
đời cụ thể, có cái gì hình như xung khắc.
Thật vậy, nếu chỉ
nhìn qua vấn đề thì không thể không có những cảm giác như thế. Nhưng nếu nhìn
đức tin và cuộc đời mỗi bên theo một phương diện thì lại khác, vì phải nhận
rằng hai bên thuôc hai phạm vi khác nhau, tuy rằng bên này có ảnh hưởng đến bên
kia. Đã không giống nhau thì phải phân ra mà nhận định mới khỏi lẫn lộn và thấy
rõ được pham vi của mỗi bên.
Đức tin thuộc
phạm vi thiệng liêng và siêu nhiên. Chỉ nguyên thế cũng đã thấy đức tin là một
thực tại không giống những thực tại khác rồi và đủ để gây ra những khó khăn cho
người thời nay. Vậy cần phải hiểu rõ bản tính đức tin để thấy được phạm vi
riêng biệt của đức này mà sống và giữ vững đường lối cần phải có của một tín
hữu.
Tin là gì ?
Tin là hoàn toàn
xác nhận những điều Chúa nói, những việc Chúa làm là chân thật, dù ta chưa hiểu
hết ý nghỉa hay thấu cảm thấy gì cả. Ngoài ra, tin cũng là công nhận Đức Ki-tô,
Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại và đạo Người lập
ra là đạo mặc khải từ trời mang xuống, dù đạo này bị người đời nhạo báng, khinh
thường hay sát hại. Bản sắc của Ki-tô giáo chính là ở chỗ đó.
Quả thế, Thiên
Chúa đã bày tỏ dự định cứu chuộc cho loài người qua những giai đoạn chuẩn bị
trong lịch sừ, và khi đến thời đến buổi, Người đã sai Con minh đến giảng dạy,
hướng dẫn và cuối cùng lấy cái chết của chính Người Con ấy, để minh chứng và
làm dấu thị thực cho tình yêu của Người đối với nhân loại.
Thánh Phao-lô
định nghĩa đức tin là : “Substantia omnium rerum sperandarum et argumentum non
apparentium.” (Hr 11.1) : Đức
tin là bao đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không
thấy. Công đồng Va-ti-ca-nô l cũng định nghĩa đức tin là “Nhân đức siêu
nhiên, nhờ đó, được ơn Chúa thúc đẩy và nâng đỡ, chúng ta tin những điều Người
mặc khải là chân thật, không phải vì chân lý nội tại của sự việc mà ánh sáng tự
nhiên của lý trí thấu hiểu nổi, nhưng vì uy quyền của chính Chúa mặc khải, vì
Người không thể bị lừa cũng không thể đánh lừa.”
Cụ thể, tin là sáp nhập vào Chúa Ki-tô
Công đồng
Va-ti-ca-nô II, khi muốn định nghĩa Ki-tô hữu là ai đã lấy chính Đức Ki-tô để
làm công việc này. Điều đó thật hiển nhiên vì Ki-tô hữu là người thuộc Đức
Ki-tô, bởi Đức Ki-tô mà ra. Vì thế, trong các từ ngữ Âu Mỹ, danh hiệu Ki-tô hữu
thường được rút ra từ chữ Ki-tô. Bởi vậy Công đồng nói : “Ki-tô hữu công khai
xưng tụng Đức Giê-su là Chúa và là Chủ, Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên
Chúa và loài người, để tôn vinh Thiên Chúa độc nhất là Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần” (Sắc lệnh Hiệp nhất số 20). Đó là chân lý căn bản của Ki-tô
giáo, trung tâm cốt yếu và sống động của đức tin. Ngay từ đầu, khi đạo mới được
rao truyền, người ta đã gọi những người theo đạo là Ki-tô hữu : “Tại
An-ti-ô-khi-a, lần đầu tiên, người theo đạo được gọi là Ki-tô hữu” (Cv 11,26)
vì họ đã đón nhận Tin Mừng của Đức Ki-tô, họ là những người theo môn phái
Ki-tô.
Bởi đâu họ được
phân loại như thế, nếu không phải vì họ tin theo Đức Ki-tô. Chính niềm tin này
đã qui định thành phần cho họ. Đức tin đã ràng buộc họ vào một ngôi vị là Chúa
Giê-su. Đối với họ, tin đã trở nên một hành động lựa chọn giữa hai đối tượng :
một bên là Đức Ki-tô, một bên là người, vật, chủ nghĩa và bao sức hấp dẫn khác.
Sự lựa chọn này mang tính tự do và ý thức dựa trên sự hiểu biết và ưng theo. Vì
thế, tin trước hết là một ơn huệ Chúa ban, sau là hành vi cá nhân, tự lập, xây
dựng trên việc ý thức và nhận định rõ ràng Đấng mình tin theo. Do đó, tin là
trở thành môn đồ sống động của Đức Ki-tô, lấy Người làm tiêu chuẩn sống một
cách quyết liệt, nhất thiết cái gì cũng dựa vào đức tin như thánh Phao-lô nói :
“Vì đối với tôi, sống là Đức Ki-tô và chết là một mối lợi.” (Pl 1,21) để nhờ đó
mà nên người công chính, vì người công chính sống bởi đức tin (Rm 1,16) và mặc
lấy tâm tình của Đức Ki-tô (Pl 11,5).
Bởi vậy, tin là
một đòì hỏi căn bản trong đời Ki-tô hữu. Có đức tin và sống đức tin mới gọi
được là Ki-tô hữu. Bỏ đức tin ra ngoài, người ta có thể là gì khác mà không
phải là Ki-tô hữu. Đây cũng chính là điều kiện cần thiết để được cứu rỗi. Trong
cuộc đời truyền đạo, Chúa Giê-su hằng luôn tha thiết kêu gọi người ta đặt tin
vào Tin Mừng Người rao giảng : “Thời kỳ đã mãn và Triều Đại Thiên Chúa đã đến
gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (Mc1,15)
Sám hối và tin là
hai điều kiện gắn liền với nhau để tín hữu được cứu rỗi. Khi tin, người ta
không còn phải sợ như Chúa Giê-su nói : “Đừng sợ, chỉ cần tin thôi.” (Mc
5,36) Người tin làm được mọi sự : “Mọi sự đều có thể đối với người tin.”
(Mc 9,23) Đó là trường hợp của người bất toại : “Này con, cứ yên tâm, con đã
được tha tội rồi”. (Mt 9,2), của người phụ nữ tội lỗi (Lc 7,50), của người đàn
bà mắc bệnh loạn huyết (Mt 9,22), của anh mù Ba-ti-mê (Mc 10,52), của người cùi
ân nghĩa. Tất cả vì tin mà đã được cứu.
Tin là gặp gỡ,
tiếp xúc với thiên Chúa
Nhưng tin không
phải là thái độ chấp nhận hờ hững, mà chính là hành động dấn thân đưa con người
tới chỗ gặp gỡ Thiên Chúa một cách thât mạnh mẽ. Gặp gỡ thân tình là biểu chứng
của lòng thương yêu và điều kiện tất yếu để tăng cường đức tin của con người
đối với Thiên Chúa. Chính nhờ tiếp xúc với Thiên Chúa mà tín hữu thêm hiểu biết
và mến yêu Người. Bởi vậy, thiếu tiếp xúc, gặp gỡ Thiên Chúa, đức tin sẽ hóa ra
cằn cỗi. Sự gặp gỡ này sẽ giúp khám phá ra Chúa mỗi ngày một hơn, để hình ảnh
của Người biểu lộ dưới mắt ta với tất cả vẻ trìu mến, yêu thương và tiếng nói
của Người trở nên ngọt ngào linh động như người có kinh nghiệm về Chúa đã nói :
“Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy, hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người.”
(Tv 33,9)
Kinh nghiệm này
mang tính cá nhân, chỉ dành riêng cho những ai chịu làm quen với Chúa. Nhưng
nhiều khi tìm gặp Chúa để gây thứ cảm xúc ngọt ngào này, chúng ta vẫn không
được toại nguyện, vì Chúa như lân trốn, không chịu trao đổi thử cảm xúc này với
những ai chủ tâm đi tìm nó. Đó là lúc Chúa như muốn thử thách những ai tìm kiếm
Người và tước đoạt nơi họ mọi thứ cảm xúc, khiến họ chỉ còn giữ lại đức tin như
một điểm son đã được thanh luyện cho khỏi pha trộn tính xúc cảm. Đây là đức tin
thanh thoát đã được trút bỏ mọi tính giác quan. Người có đức tin này bám
chặt vào Chúa một cách vô vị lợi. Tất nhiên phải có đức tin của người trưởng
thành mới giữ được thái độ này và tập cho quen gỡ mình ra khỏi khuynh hướng tìm
kiếm và yêu chuộng những rung cảm giác quan trong sinh hoạt đạo đức, đành rằng
những thứ đó cũng góp phần thúc đẩy và tăng thêm những tình cảm sốt sắng. Nhưng
không nên quá bận tâm lệ thuộc vào chúng đến nỗi chỉ tưởng mình đạo đức thánh
thiện khi được những cảm giác đó yểm trợ. Vì vậy Chúa mới nói : “Giờ đã đến,
những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và
sự thật ” (Ga 4,23)
Tin là từ bỏ
mình, ký thác vào Chúa
Có những lúc phải
đắm chìm trong gian lao thử thách, tín hữu không biết cầu cứu ai ngoài Chúa.
Tin vào sức mình ư ? Tốt lắm. Nhưng sức mình có hạn và lắm khi bị não nề, người
ta cũng đâm ra hoài nghi chính mình, dù đã vất vả chiến đấu. Đó là những giờ
phút của nao núng chán nản. Mà ai dám tự phụ mình không bao giờ nao núng chán
nản. Bởi vậy cần phải cậy trông vào Chúa, ký thác và bám chặt vào Người. Như
vậy có phải là thoái nhiệm không ? Không. Từ bỏ mình và ký thác cho Chúa là
những hành động công nhận giới hạn thụ tạo của mình và chứng tỏ quyền năng của
Chúa Tối Cao. Đó cũng không phải là ươn hèn, “khoán trắng” mọi sự cho Chúa như
có người nghĩ, vì giữa tín nhiệm và “khoan trắng” khác nhau. “Khoán trắng” là
một cử chỉ ươn lười, ích kỷ, lợi dụng ; còn tín nhiệm là một hành vi thân
tình, trọng kính và tin tưởng.
Nhưng tại sao
phải từ bỏ mình và ký thác cho Chúa. Tự nhiên con người ta thường đề cao mình,
tỏ ra độc lập đối với Thiên Chúa do ảnh hưởng di truyền của tội nguyên tổ thành
ra dễ trở nên đối nghịch với Thiên Chúa. Vì thế cần phải dẹp bỏ tính tự phụ,
công nhận chủ quyền tuyệt đối của Thiên Chúa và ký thác vận mệnh đời mình trong
tay Người. Trông chờ ở quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúa trong những giờ phút
hoài nghi, hoang mang, chán nản, lo lắng không phải là một hành vi làm giảm
thiểu khí thế con người, mà trái lại là một cử chỉ hợp lý chứng tỏ tính hạn
định và bất túc của bản tính con người. Đàng khác không có gì phải xấu hổ khi
thấy mình phải tùy thuộc ở Đấng đã ban chính sự sống cho ta, giống như con cái
tín nhiệm và ký thác vào cha mẹ. Cha mẹ càng quí con cái khi thấy chúng hiếu
nghĩa và đặt hết lòng tin tưởng của chúng nơi mình.
Kết luận
Đức tin là một ơn
huệ cao quí. Ơn này không phải tự nhiên mà có, nhưng là do tình thương của
Chúa. Chúa ban ơn đức tin cho ai nấy để được sống muôn đời. Nhận được đức tin,
mỗi người phải lo gìn giữ, bảo vệ, nuôi dưỡng, làm cho tăng triển và tìm cách
truyền thông cho người khác. NĂM ĐỨC TIN nhằm nhắc bảo cho người công giáo
những điều đó mà trọng tâm là săn sóc đến đức tin của mình và lo tái truyền
giảng Tin Mừng cho người khác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét