Ngày 25 tháng 12
Lễ Chúa Giáng Sinh
Lễ Rạng
Ðông
Bài Ðọc I: Is 62, 11-12
"Này đây Ðấng Cứu Ðộ
ngươi đến".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðây Chúa làm cho nghe thấy
tận cùng cõi trái đất rằng: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Này đây Ðấng Cứu Ðộ
ngươi đến. Người đem theo phần thưởng với Người và sự nghiệp trước mặt Người.
Những người được Chúa cứu chuộc, người ta sẽ gọi họ là dân thánh. Còn ngươi,
ngươi sẽ được gọi là thành quý chuộng, thành không bị bỏ rơi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 96, 1 và 6. 11-12
Ðáp: Hôm nay sự sáng chiếu giãi trên chúng ta, và Chúa đã giáng
sinh cho chúng ta.
Xướng: 1) Chúa hiển trị, địa
cầu hãy nhảy mừng, hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui! Trời xanh loan truyền sự
công minh Chúa, và chư dân được thấy vinh hiển của Người. - Ðáp.
2) Sáng sủa bừng lên cho
người hiền đức, và niềm hoan hỉ cho kẻ lòng ngay. Người hiền đức, hãy mừng vui
trong Chúa, và hãy ca tụng thánh danh Người! - Ðáp.
Bài Ðọc II: Tt 3, 4-7
"Chúa đã cứu độ chúng
ta theo lượng từ bi Người".
Trích thư Thánh Phaolô Tông
đồ gửi cho Titô.
Khi Ðấng Cứu Thế, Chúa chúng
ta, đã tỏ lòng từ tâm và nhân ái của Người, thì không phải do những việc công
chính chúng ta thực hiện, nhưng do lòng từ bi của Người, mà Người đã cứu độ
chúng ta, bằng phép rửa tái sinh và sự canh tân của Thánh Thần, Ðấng mà Người
đã đổ xuống tràn đầy trên chúng ta qua Ðức Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Ðộ chúng ta, để
một khi được công chính hoá bởi ân sủng của Ngài, trong hy vọng, chúng ta được
thừa kế sự sống đời đời, trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 2, 14
Alleluia, alleluia! - Vinh
danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm. -
Alleluia.
Phúc Âm: Lc 2, 15-20
"Các mục tử đã gặp
thấy Maria, Giuse và Hài Nhi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Khi các thiên thần biến đi,
thì các mục tử nói với nhau rằng: "Chúng ta sang Bêlem và coi xem sự việc
đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết". Rồi họ hối hả tới nơi và gặp
thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ đã
hiểu ngay lời đã báo về Hài Nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên
về điều các mục tử thuật lại cho họ.
Còn Maria thì ghi nhớ tất cả
những sự việc đó, và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca
ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và xem thấy, đúng như lời đã báo cho
họ.
Ðó là lời Chúa.
Lễ Ban Ngày
Bài Ðọc I: Is 52, 7-10
"Khắp cùng bờ cõi
trái đất sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðẹp thay chân người rao tin
trên núi, người rao tin thái bình, người rao tin mừng, người rao tin cứu độ,
nói với Sion rằng: Thiên Chúa ngươi sẽ thống trị!
Tiếng của người canh gác của
ngươi đã cất lên. Họ sẽ cùng nhau ca ngợi rằng: Chính mắt họ sẽ nhìn xem, khi
Chúa đem Sion trở về. Hỡi Giêrusalem hoang tàn, hãy vui mừng, hãy cùng nhau ca
ngợi! Vì Chúa đã an ủi dân Người, đã cứu chuộc Giêru-salem. Chúa đã chuẩn bị ra
tay thánh thiện Người trước mặt chư dân; và khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ nhìn
xem ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4. 5-6
Ðáp: Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên
Chúa chúng ta (c. 3c).
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa
một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo
cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ
của Người; trước mặt chư dân, Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng
nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel. - Ðáp.
3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã
nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng
Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca! - Ðáp.
4) Hãy ca mừng Chúa với cây
đàn cầm, với cây đàn cầm với điệu nhạc du dương, cùng với tiếng kèn râm ran,
tiếng tù và rúc, hãy hoan hô trước thiên nhan Chúa là Vua. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Dt 1, 1-6
"Chúa đã phán dạy
chúng ta qua người Con".
Trích thư gửi tín hữu
Do-thái.
Thuở xưa, nhiều lần và dưới
nhiều hình thức, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên tri.
Trong những ngày sau hết đây, Ngài đã phán dạy chúng ta qua Người Con mà Ngài
đã đặt làm vị thừa kế vạn vật, và cũng do bởi Người Con mà Ngài đã tác thành vũ
trụ. Nguyên vốn là phản ảnh sự vinh quang và là hình tượng bản thể Ngài, Người
Con đó nâng giữ vạn vật bằng lời quyền năng của mình, quét sạch tội lỗi chúng ta,
và ngự bên hữu Ðấng Oai Nghiêm trên cõi trời cao thẳm. Tên Người cao trọng hơn
các thiên thần bao nhiêu, thì Người cũng vượt trên các thiên thần bấy nhiêu.
Phải, vì có bao giờ Thiên
Chúa đã phán bảo với một vị nào trong các thiên thần rằng: "Con là thái tử
của Cha, hôm nay Cha đã hạ sinh Con"? Rồi Chúa lại phán: "Ta sẽ là
Cha Người, và Người sẽ là Con Ta". Và khi ban Con Một mình cho thế gian,
Chúa lại phán rằng: "Tất cả các thiên thần Chúa hãy thờ lạy Người!"
Ðó là lời Chúa.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Ngày
thánh đã dọi ánh sáng trên chúng ta. Hỡi các dân, hãy tới thờ lạy Chúa, vì hôm
nay ánh sáng chan hoà đã toả xuống trên địa cầu. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 1, 1-18 {hoặc 1-5. 9-14}
"Ngôi Lời đã hoá
thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta".
Bắt đầu Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi
Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn
ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy.
Mọi vật đều do Người làm nên,
và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được
tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự
sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng.
Có một người được Thiên Chúa
sai đến, tên là Gioan. Ông đã đến nhằm việc chứng minh, để ông chứng minh về sự
sáng, hầu cho mọi người nhờ ông mà tin. Chính ông không phải là sự sáng, nhưng
đến để chứng minh về sự sáng.
Vẫn có sự sáng thực, sự sáng
soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và
thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã
đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người.
Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên
con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không
do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng
do Thiên Chúa mà sinh ra.
Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục
thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang
của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy
ân sủng và chân lý.
Gioan làm chứng về Người khi
tuyên xưng rằng: "Ðây là Ðấng tôi tiên báo. Người đến sau tôi, nhưng xuất
hiện trước tôi, vì Người có trước tôi".
Chính do sự sung mãn Người mà
chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác. Bởi vì Chúa ban Lề luật qua
Môsê, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Ðức Giêsu Kitô. Không ai nhìn thấy
Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Ðấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mạc khải cho
chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài vắn này: Ga 1, 1-5. 9-14
"Ngôi Lời đã làm
Người và ở cùng chúng ta"
Bắt đầu Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi
Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn
ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy.
Mọi vật đều do Người làm nên,
và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được
tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự
sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng.
Vẫn có sự sáng thực, sự sáng
soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và
thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã
đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người.
Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên
con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không
do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng
do Thiên Chúa mà sinh ra.
Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục
thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang
của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy
ân sủng và chân lý.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Thiên Chúa yêu thương con
người. Thiên Chúa muốn sống kiếp con người để chia sẻ thân phận hèn mọn của con
người. Thế nhưng xót xa thay! Thiên Chúa đến, con người lại chối từ. Con người
đóng cửa lòng để Con Thiên Chúa phải nằm trong máng cỏ.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa, đêm nay, đêm bình
an, đêm hồng ân cao cả bao ngàn năm muôn dân mong đợi. Ðêm nay, Con Thiên Chúa
đến giao hòa đất trời. Con Thiên Chúa đến giao hòa con người với Thiên Chúa. Sẽ
không còn tăm tối nữa, sẽ không còn đau khổ nữa, sẽ không còn chết chóc nữa.
Ôi! đêm hạnh phúc! Xin cho
gia đình chúng con, mỗi tâm hồn chúng con biết mở cửa lòng tiếp đón Chúa. Bình
an hạnh phúc được đem đến cho người Chúa thương. Xin vì công nghiệp Chúa Giêsu
Kitô Chúa chúng con. Amen.
Việc Kỳ Diệu
(Ys 52,7-10; Hr 1,1-6; Gn 1,1-18)
Suy Niệm:
Thánh lễ bây giờ không còn
những màu sắc của Thánh lễ Nửa Ðêm nữa. Chúng ta có thể tiếc bầu khí linh
thiêng ấm áp, thi vị của Ðêm Giáng sinh. Chúng ta muốn được nghe lại câu chuyện
Chúa ra đời nơi máng cỏ và theo chân các mục đồng đến Bêlem. Giờ đây, trong
Thánh lễ này, Phụng vụ còn dẫn ta đến với Hài Nhi; nhưng qua các bài Thánh Kinh
nặng chất thần học, phụng vụ mời ta suy nghĩ sâu sắc hơn về việc Chúa Giáng
sinh làm người. Thế nên, ta phải dùng hiện tượng để đi vào bản chất của mầu
nhiệm Giáng sinh; ta phải đi qua câu chuyện Chúa ra đời để tìm hiểu ý nghĩa
việc Chúa Giáng trần.
A. Việc Kỳ Diệu Chúa Làm Cho Ta
Bài tiên tri Isaia vắn tắt,
nhưng muốn thu hút sự chú ý của ta. Này, chân người đem tin mừng đã đến. Chúng
ta hãy mở mắt ra nhìn ơn Chúa cứu độ chúng ta. Isaia bấy giờ nói với Yêrusalem
trong thời bị bỏ rơi, tiêu điều, xơ xác, lầm than, khổ sở, mất quyền tự chủ,
không có độc lập và tự do. Yêrusalem vẫn còn là hình ảnh của tất cả chúng ta, khi
chúng ta không làm chủ được bản thân, đời sống và vận mạng của mình. Ai ý thức
mình như thế, hãy nghe lời tiên báo của Isaia: đẹp thay bước chân người đem tin
mừng, người loan báo hòa bình cứu độ! Chính Chúa đã ra tay trước mặt muôn dân
và khắp chốn đã nhìn thấy Ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
Là vì, theo lời thư Hipri, đã
lắm phen cùng nhiều kiểu, xưa kia Thiên Chúa đã nói với cha ông qua các tiên
tri, nay vào thời sau hết, Người đã nói với ta nơi Con Một của Người. Như vậy
lễ Chúa Giáng sinh cho ta thấy công việc vĩ đại cuối cùng mà Thiên Chúa làm để
dứt khoát cứu độ chúng ta. Không ai còn có thể chờ đợi hành động giải thoát nào
khác. Và mọi công việc trước đây chỉ là tạm thời để chuẩn bị hoặc để tiên báo.
Ðể thu hút mọi suy nghĩ của
chúng ta vào công việc Chúa làm đây, tác giả thư Hipri cho chúng ta thấy: ngay
các thiên thần trên trời bây giờ cũng châu đầu thờ lạy Con Thiên Chúa giáng
trần. Nói cách khác, Hài Nhi mới sinh từ nay trở thành trung tâm điểm của vũ
trụ và của lịch sử. Muốn tìm thấy Thiên Chúa, phải chạy đến với Người. Muốn
biết kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, cũng phải tìm hiểu nơi Người Con ấy. Người
là mạc khải cuối cùng và toàn vẹn, bao gồm mọi mạc khải trước sau; chúng ta
không thể tìm được gì tốt đẹp khác ở ngoài Người. Hạnh phúc và cứu độ của chúng
ta tùy ở việc nhận ra Ý Người và thi hành mệnh lệnh Người. Hôm nay Chúa Cha đã
sinh ra Người cho ta, để mai ngày cũng chính Chúa Cha sẽ phán: các ngươi hết
thảy hãy nghe Lời Người.
Yoan là người hiểu rõ ý nghĩa
của mầu nhiệm Giáng sinh. Ông không dừng lại ở hiện tượng và không mô tả việc
Chúa sinh ra. Nhưng ông đã suy nghĩ về việc Chúa ra đời và thấy đó là cả một
công trình cứu độ của chúng ta. Ông đã viết nên bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe
đọc và Phụng vụ muốn chúng ta suy nghĩ bài Tin Mừng ấy để đón nhận ơn Chúa
Giáng sinh.
B. Bài Tin Mừng Yoan
Yoan nhìn máng cỏ, nhìn mầu
nhiệm Chúa ra đời như là một sáng tạo và một thế giới mới. Sách Tin Mừng của
ông bắt đầu bằng mấy chữ: "lúc Khởi Nguyên". Lập tức chúng ta phải
nghĩ tới những chữ đầu tiên của toàn bộ Kinh Thánh là sách Khởi Nguyên nói đến
việc Chúa sáng tạo vạn vật và làm ra lịch sử. Như vậy khi dùng những chữ
"lúc khởi nguyên" để bắt đầu nói về Tin Mừng của Ðức Yêsu và gợi lên
việc Người sinh ra, Yoan rõ rệt muốn nói với chúng ta rằng: việc Chúa Giáng
sinh bắt đầu một sáng tạo mới, một lịch sử mới, không phải để thay thế lịch sử
và sáng tạo cũ, nhưng để làm cho chúng nên mới mẻ.
Thế nên trong bài Tin Mừng
này, Yoan nói đi nói lại vấn đề ánh sáng, vấn đề sự sống, vấn đề sung mãn, vấn
đề vinh quang là những nhân tố trong việc sáng tạo. Chúng ta hẳn còn nhớ bài
tường thuật của sách Khởi nguyên về việc dựng nên trời đất. Ngày từ ngày đầu
tiên, tác giả đã nói đến ánh sáng, vì không có ánh sáng, ai có thể làm được
việc gì? Rồi trong những ngày sau, tác giả nói đến sự sống sinh sôi nảy nở ở
trên trời, ở dưới nước và trên mặt đất. Tác giả kết thúc mọi việc sáng tạo bằng
một câu: và Thiên Chúa thấy mọi sự đã làm ra đều tốt lành và Ngài chúc phúc cho
vạn sự. Ở đây, Yoan cũng luôn luôn nói đến ân sủng và chân lý, tức là chân
thiện mỹ, diễn tả sự tốt lành và hạnh phúc.
Và cũng như trong bài sáng
tạo của sách Khởi nguyên, tất cả đã quy vào việc dựng nên con người thì chắc
chắn câu then chốt của bài Tin Mừng hôm nay cũng có câu: "Và Ngôi Lời đã
làm người và ở cùng chúng tôi. Chúng tôi đã được ngắm vinh quang của Người,
vinh quang như của Con Một tự nơi Cha, đầy ơn nghĩa và sự thật". Thế nên,
ta chỉ đáp ứng nguyện vọng của Yoan và của Phụng vụ, nếu ta chăm chú nhìn vào
Hài Nhi mới sinh nơi máng cỏ như là sáng tạo và công trình mới của Thiên Chúa,
để đi vào thế giới mới, lịch sử mới, sự sống mới mà Hài Nhi thành Bêlem mang
đến cho chúng ta.
C. Ðiều Kiện Ðón Nhận
Không phải hết mọi người nhận
ra điều đó. Và cũng như trong buổi Khởi nguyên của lịch sử đã có cuộc tranh
chấp giữa lành dữ, thì bài Tin Mừng Yoan hôm nay cũng cho ta thấy những thái độ
của loài người trước kế hoạch sáng tạo của Thiên Chúa. Vừa nói đến việc Ngôi
Lời là ánh sáng và là sự sống thật đến trong thế gian, Yoan đã nhận xét ngay:
thế mà thế gian lại không đón nhận Người. Có một cái gì chua chát trong giọng
văn của tác giả khi ông viết: Người đến trong nhà của Người, mà người nhà đã
không tiếp nhận Người. Yoan ám chỉ đến người Dothái, nhưng cũng gián tiếp nói
về mọi người không đón nhận Ðức Kitô với sứ điệp cứu độ của Người, vì tất cả
loài người chỉ là công trình của tay Chúa làm ra. Lẽ ra ai ai cũng phải đón
nhận Ơn ban của Thiên Chúa khi Ngài ban Con Một Ngài cho ta. Nhưng biết bao
người đã từ khước! Người Dothái không đón nhận vì họ dựa vào các tiên tri và
còn tin vào Yoan Tẩy Giả, lấy lẽ ông này còn trổi vượt hơn Ðức Kitô. Nhưng
chính Yoan Tẩy Giả đã nói: Ðấng đến sau tôi đã có trước tôi; Ngài hơn tôi bội
phần. Cũng như Môsê đã chỉ ban được Luật pháp, chứ làm sao có khả năng ban ơn
nghĩa và sự thật! Thế mà người Dothái vẫn còn tin vào Yoan và Môsê; thế mà bao
người khác vẫn bắt chước họ mà khước từ Ðức Kitô.
Tại sao vậy?
Yoan đáp: tại họ sinh ra bởi
huyết nhục và xác thịt; họ kế thừa những ước muốn của nam nhân; họ sống theo
dục vọng và suy nghĩ theo thế tục; họ muốn sự cứu độ và hạnh phúc trần ai, ích
kỷ; họ không chấp nhận một Thiên Chúa sinh làm Hài Nhi nơi máng cỏ; họ từ khước
đi vào con đường Người đã đi khi sinh ra ở đời này và ở cùng chúng tôi. Nói tóm
lại, họ muốn xây dựng hạnh phúc theo ý họ, chứ không muốn tập họp trên một con
đường dẫn tới hạnh phúc chung.
Thế mà ngay từ đầu, Thiên
Chúa đã cấu tạo bản chất con người cho một hạnh phúc tập thể. Cả mọi người và
cả mọi vật đều chỉ mãn nguyện ở trong sự duy nhất. Adam-Evà đã muốn phá cái mối
liên kết tất cả, là Thiên Chúa; khiến từ khước Thiên Chúa rồi, mọi người và mọi
vật không còn cơ sở nào để duy nhất lại nữa. Nay chính Thiên Chúa phải giáng
sinh làm người, kết hợp lại với con người, để rồi con người kết hợp lại với
nhau và với vạn vật. Người ban cho những ai tin vào Người, kết hợp với Người
Con của Người, được khả năng như thế, tức là được khả năng không còn sống theo
ý muốn của huyết nhục xác thịt và nam nhi nữa, một theo ý Chúa, là ý muốn yêu
thương cứu độ mọi người, để ai ai cũng như Người Con ấy tràn đầy ơn nghĩa và sự
thật. Ðó là những người sinh bởi Chúa, như Yoan nói tức là những người có sự
sống của Chúa, sự sống yêu thương đã sinh ra làm người vì chúng ta.
Như vậy, mừng lễ Giáng sinh,
đón nhận ơn Chúa ra đời, là tiếp nhận một sự sống mới, mà Chúa Cứu Thế mang
tới. Sự sống ấy không nguyên là ơn nghĩa giao hòa chúng ta với Chúa, tức là ơn
tha thứ tội lỗi và yêu mến Thiên Chúa; nhưng khi ta chia sẻ sự sống của Người,
ta cũng theo sức mạnh tình yêu của Người mà muốn giao hòa với mọi người và mọi
vật. Ta bỏ nếp sống ích kỷ tìm tư lợi, để muốn duy nhất tất cả lại trong Ðức
Kitô. Và cho được như vậy, ta phải đi vào đường lối Người đã đi, mà giờ đây
trong Thánh Lễ, Người còn khẳng định rõ rệt: Này là Mình Ta sẽ chịu nộp vì các
con; này là Máu Ta sẽ đổ ra cho muôn người được khỏi tội. Ðức Kitô đã từ bỏ đến
cả mạng sống vì anh em. Mà đâu đã có ai đòi hỏi ta đến như thế? Cứ xem Ngôi Lời
Thiên Chúa đã phải hy sinh đến mức nào để chấp nhận cuộc đời tại thế hầu làm
chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, để chúng ta được thúc đẩy bắt
chước Người mà đi vào con đường hy sinh xả kỷ hầu làm chứng chúng ta muốn có
tình đồng bào, đồng loại với mọi người.
Xin Thánh Thể Chúa sẽ kết hợp
chúng ta vào với Người cũng sẽ kết hợp chúng ta lại với nhau, để không những
chúng ta mến Chúa hơn mà cũng yêu người nhiều hơn. Chúa đã xuống thế và đến ở
cùng chúng ta thì đến lượt chúng ta cũng phải muốn đến với anh em và cùng sống
với anh em như anh em một nhà, vì tất cả chúng ta chỉ có một Cha trên trời,
Ðấng đã sáng tạo lại tất cả trong Người Con duy nhất mà Người đã ban cho thế
gian trong mầu nhiệm Giáng sinh chúng ta đang cử hành.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Ngày 25 tháng 12, Lễ Giáng Sinh
Bài đọc: Isa
52:7-10; Heb 1:1-6; Jn 1:1-18.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Thiên Chúa họat động
trong lịch sử con người.
Nhiều người trong chúng
ta dễ dàng bị thuyết phục bởi câu nói xem ra rất chí lý, “đạo nào cũng là đạo;
đạo nào cũng dạy con người làm điều lành tránh điều ác!” Từ đó, nhiều người đưa
đến kết luận, ai theo đạo nào cũng được. Nếu chúng ta chỉ dựa vào đạo lý để tin
vào các thần, sẽ có rất nhiều thần trong thế giới này; nhưng những thần này có
làm lợi gì cho chúng ta đâu? Có những vị thần do trí tưởng tượng của con người
tạo nên, có những vị thần do con người tự nhận, có những vị thần do con người
phong chức cho; đâu là Vị Thần đích thực và là Người điều khiển thế giới này?
Một trong những tiêu chuẩn giúp chúng ta nhận ra là dựa vào giòng lịch sử của
con người để tìm hiểu, kiểm chứng, và xác nhận ảnh hưởng và sự can thiệp của Vị
Thần này vào đời sống nhân lọai.
Trong
suốt Mùa Vọng qua, và trong các Bài đọc hôm nay cho chúng ta thấy chân dung của
Vị Thần đích thực này chính là Thiên Chúa. Ngài không phải là một vị thần sống
xa cách và không quan tâm gì đến cuộc sống của dân chúng; trái lại cả Ba Ngôi
Thiên Chúa đều sống mật thiết và quan tâm đến mọi khía cạnh của con người suốt
giòng lịch sử: từ khi tạo dựng cho đến Ngày Cánh Chung. Trong Bài đọc I,
Tiên-tri Isaiah cho thấy sự can thiệp của Thiên Chúa vào cuộc sống của dân
trước, đang, và sau thời gian Lưu Đày. Trong Bài đọc II, Tác giả của Thư
Do-Thái cho thấy 2 cách can thiệp khác nhau của Thiên Chúa: thuở xưa Ngài phán
dạy qua các Tiên-tri; thời nay Ngài dạy dỗ con người qua chính Người Con Nhập
Thể. Điều này cũng đã được Tiên-tri Isaiah và Jeremiah loan báo trước: “Mọi
người sẽ được dạy dỗ bởi chính Thiên Chúa” (Isa 54:13, Jer 31:33, Jn 6:45).
Trong Phúc Âm, Thánh Gioan nhìn thấy vai trò của Ngôi Hai ngay từ ban đầu, khi
Thiên Chúa tạo dựng con người; và vai trò của Người trong Kế họach Cứu Độ của
Thiên Chúa. Chính Người Con này đã nhập thể để ở với con người, để yêu thương
dạy dỗ, và để hiến mình thành của lễ hy sinh đền tội cho con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Người bốn bể
sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
1.1/
Thiên Chúa cho dân trở về Sion từ nơi lưu đày: “Đẹp thay trên đồi núi bước chân người
loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ
và nói với Sion rằng: "Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị." Kìa nghe
chăng quân canh gác của ngươi cùng cất tiếng reo hò vang dậy; họ sẽ được thấy
tận mắt Đức Chúa đang trở về Sion.” Người loan báo Tin Mừng phải loan báo 3
điểm có liên quan mật thiết với nhau, mỗi điểm nói lên một khía cạnh của ơn cứu
độ:
(1)
Công bố bình an: Bình an là một trong những chữ được Tiên-tri Isaiah dùng nhiều
nhất; nó không phải là sự vắng mặt của chiến tranh, nhưng là quà tặng của Thiên
Chúa ban cho con người. Con người được hòa giải với Thiên Chúa; vì thế, con
người có bình an.
(2)
Loan tin tốt lành: Tin Mừng đến từ Thiên Chúa, Đấng Tốt Lành. Ngài ban phúc lành của
Ngài cho con người: tha thứ tội lỗi và cho được hưởng ơn cứu độ.
(3)
Công bố ơn cứu độ: Ơn Cứu Độ đến từ Thiên Chúa. Ơn Cứu Độ không chỉ giới hạn trong
việc giải phóng Dân Do-Thái khỏi lưu đày Babylon; nhưng bao gồm cả việc giải
phóng dân khỏi tội lỗi, và đem lại cho dân sự tốt lành và bình an.
Thiên
Chúa là Vua hiển trị, chính Ngài sẽ lãnh đạo dân. Những người canh gác của
Thành Thánh Jerusalem sẽ nhìn thấy Đức Chúa, và cất tiếng reo hò. Ngài sẽ cai
trị dân và cho họ hưởng bình an, những điều tốt lành, và ơn cứu độ.
1.2/ Mọi người sẽ nhìn
thấy Thiên Chúa cứu độ Jerusalem: “Hỡi Jerusalem điêu tàn hoang phế, hãy đồng
thanh bật tiếng reo mừng, vì Đức Chúa an ủi dân Người, và cứu chuộc Jerusalem.
Trước mặt muôn dân, Đức Chúa đã vung cánh tay thần thánh của Người: người bốn
bể rồi ra nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.” Sự kiện Chúa giải phóng
dân Do-Thái khỏi lưu đày Babylon và cho về lại Jerusalem, là một phép lạ mà các
dân trong vùng đều hay biết: không bằng sức mạnh quân sự, không bằng sức cố
gắng của dân Do-Thái; nhưng bằng niềm tin tưởng của Cyrus, Vua Ba-Tư vào Thiên
Chúa. Tương tự khi Chúa Giêsu giải phóng dân khỏi tội bằng cái chết của Ngài
trên Thập Giá tại Jerusalem, nước Do-Thái còn đang dưới ách đô hộ của Đế-quốc
Rôma.
2/
Bài đọc II: Nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa
đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử.
2.1/
Thánh Tử cao trọng hơn các tiên-tri: Trong Mầu Nhiệm Cứu Độ, những gì Thiên Chúa
muốn được mặc khải qua hai giai đọan:
(1)
“Thời xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua
các ngôn sứ.”
Các tiên-tri, vì khả năng giới hạn, không thể lĩnh hội một lần; nên Thiên Chúa
phải mặc khải nhiều lần và qua nhiều người. Mỗi thời đại có những vấn đề khác
nhau, nên mặc khải của các tiên tri cũng khác nhau, chẳng hạn: Tiên-tri Amos
chú trọng đến công bằng xã hội; Tiên-tri Isaiah chú trọng đến việc sửa dạy để
thanh luyện dân chúng; Tiên-tri Hosea chú trọng đến sự trung thành của Thiên
Chúa và sự bất trung của dân. Các tiên-tri chỉ biết một khía cạnh về Thiên
Chúa, không một tiên tri nào biết tất cả các khía cạnh của Thiên Chúa. Các tiên
tri cũng dùng các cách khác nhau để mặc khải: tuyên sấm (Amos, Isaiah), hành
động như đóng kịch (Jeremiah).
(2)
Thời sau hết, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta trực tiếp qua Thánh Tử: Mặc khải do Thánh-Tử
hòan hảo hơn tất cả mặc khải của các tiên-tri, vì Thánh-Tử biết rõ tất cả những
gì xảy ra nơi Thiên Chúa ngay từ thuở ban đầu. Các tiên-tri là những bạn hữu
của Thiên Chúa, nhưng Chúa Giêsu là Người Con của Thiên Chúa. Ngài không chỉ
biết một phần sự thật như các tiên tri; nhưng nơi Ngài ẩn chứa tất cả sự thật.
Qua Ngài, con người nhận ra Thiên Chúa. Tác giả Thư Do-Thái không chủ ý khinh
thường các tiên tri; nhưng muốn làm nổi bật vai trò của Thánh Tử.
Người
Do Thái quan niệm họ đang sống giữa hai thời đại: thời hiện tại và thời cánh
chung; thời hiện tại hòan tòan xấu và thời tương lai là thời huy hòang của Đức
Chúa. Giữa hai thời đại là Ngày của Đức Chúa đến và Đức Kitô là Người bắt đầu
triều đại của Thiên Chúa.
2.2/
Thánh Tử cao trọng hơn các thiên-thần.
1/
Sự cao trọng của Thánh Tử: C.J. Vaughan chỉ ra 6 điều quan trọng liên quan đến Đức
Kitô:
(1)
Vinh quang nguyên thủy của Thiên Chúa thuộc về Đức Kitô: “Người là phản ảnh vẻ
huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa.” Vinh quang của Thiên
Chúa gồm chứa không trong sự đánh phạt con người hay giảm họ xuống hàng tôi tớ,
nhưng trong phục vụ, yêu mến, và chết cho con người.
(2)
Vương quốc thuộc về Đức Kitô: “Thiên Chúa đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn
loài.” Các tác giả Tin Mừng không bao giờ nghi ngờ sự chiến thắng thuộc về Đức
Kitô; đơn giản vì Ngài là Con Thiên Chúa. Khi mọi việc hòan tất, Ngài sẽ trao
vương quốc lại cho Thiên Chúa.
(3)
Công cuộc tạo dựng cũng thuộc về Đức Kitô: “Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ.”
Thiên Chúa tạo dựng bằng Lời “Hãy có!” tức thì mọi vật liền có.
(4)
Công việc quan phòng vũ trụ cũng thuộc về Đức Kitô: “Người là Đấng dùng lời
quyền năng của mình mà duy trì vạn vật.” Thiên Chúa không những dựng nên vũ
trụ, nhưng còn quan phòng điều khiển nó theo một trật tự hòa điệu. Ngài điều
khiển nó theo sự khôn ngoan, mà Ngôi Lời là chính sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
(5)
Công cuộc cứu chuộc là do Đức Kitô: Bằng cái chết, Ngài gánh tội cho con người;
bằng sự hiện diện liên tục với con người, Ngài giải phóng con người khỏi tội.
(6)
Cuộc vinh thắng khải hòan cũng thuộc về Đức Kitô: “Sau khi đã tẩy trừ tội lỗi, Người lên
ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời.” Theo tác giả Sách Do-Thái, Ngài ngự bên hữu
Thiên Chúa để làm Trạng-sư bênh vực cho con người.
2/ Thánh Tử cao trọng
hơn các thiên-thần: Truyền thống Do-Thái tin thiên thần là các sứ giả (aggeloi, Hy-Lạp, và mal’akim, Do-Thái) của Thiên
Chúa: các thiên-thần có nhiệm vụ trao mệnh lệnh của Thiên Chúa cho con người và
tường thuật những gì con người làm hay cầu xin lên Thiên Chúa. Quan hệ trực
tiếp giữa Thiên Chúa và con người không thể xảy ra; nếu con người nhìn thấy
Thiên Chúa, chắc chắn họ sẽ phải chết (Acts 7:53, Gal 3:19). Vì thế, dễ dàng
cho người Do-Thái chấp nhận các thiên thần hơn là chính Thiên Chúa. Tác giả Thư
Do-Thái muốn nhấn mạnh Đức Kitô không phải là một trong số các thiên thần;
nhưng cao trọng hơn các thiên thần bội phần. “Danh hiệu Người được thừa hưởng,
cao cả hơn danh hiệu các thiên thần bao nhiêu, thì Người lại trổi hơn họ bấy
nhiêu. Thật vậy, có bao giờ Thiên Chúa đã phán cùng vị thiên thần nào: Con là
Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con; hoặc là: Ta sẽ là Cha Người, và
chính Người sẽ là Con Ta. Khi đưa Trưởng Tử vào thế giới loài người, Thiên Chúa
lại nói: Mọi thiên thần của Thiên Chúa, phải thờ lạy Người.”
3/
Phúc Âm: “Ngôi
Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.”
3.1/
Sự hiện hữu và vai trò của Ngôi Lời:
(1)
Ngôi Lời hiện hữu từ khởi thủy: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên
Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa.”
Từ ngữ “Ngôi Lời” có lịch sử trong cả Do-Thái và Hy-Lạp. Cả hai lịch sử đều cho
“Lời” là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, là trí tuệ của Ngài. Thánh sử Gioan dùng
từ Hy-Lạp để nói về Đấng Thiên Sai của Do-Thái, cho người Hy-Lạp hiểu. Nếu Ngôi
Lời là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, Ngôi Lời luôn hiện hữu với Thiên Chúa từ
khởi thủy.
(2)
Vai trò của Ngôi Lời trong việc tạo dựng vũ trụ: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,
và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi
Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.” Nếu Ngôi Lời là trí
tuệ của Thiên Chúa, cái gì có trong trí tuệ thì sẽ có; cái gì không có trong
trí tuệ thì sẽ không có. Sự sống và Ánh sáng là hai chủ đề chính trong Tin Mừng
Gioan, và có liên quan mật thiết với nhau. Sự sống không chỉ thuần túy thể lý,
nhưng mở rộng tới sự sống đời đời. Chỉ có Ngôi Lời có khả năng đem sự sống đời
đời này cho con người.
(3)
Ngôi Lời là ánh sáng: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt
được ánh sáng. Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để
làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không
phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.” Chính Chúa Giêsu đã
tuyên bố: “Ta là ánh sáng thế gian; ai tin Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng
sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống” (Jn 8:12). Bóng tối đối ngược với ánh sáng,
và con người cần ánh sáng xua tan bóng tối để con người có thể nhìn thấy; nhưng
cũng có những con người muốn ở trong bóng tối nên muốn diệt trừ ánh sáng, vì sợ
ánh sáng sẽ phơi bày những tội lỗi của họ cho người khác nhìn thấy.
3.2/ Phản ứng của con
người:
“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.” Ánh
sáng của Ngôi Lời chính là sự thật Ngài mang từ Thiên Chúa đến cho con người.
Đứng trước sự thật, Thánh-sử Gioan tường thuật 2 phản ứng chính:
(1)
Không nhận biết và không tiếp nhận Người: “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ
Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng
người nhà chẳng chịu đón nhận.” Con người ít nhất hai lần từ chối Ngôi Lời: Lần
thứ nhất, Thánh Phaolô đồng ý với Gioan khi tố cáo: “Con người phải nhận biết
Thiên Chúa qua những gì Thiên Chúa tạo dựng, nhưng họ đã không nhận ra Thiên
Chúa” (Rom 1:19-20). Thiên Chúa tạo dựng qua Ngôi Lời, con người chẳng nhận ra
Ngôi Lời cũng chẳng nhận biết Thiên Chúa. Lần thứ hai là qua Mầu Nhiệm Nhập
Thể, rất nhiều người đã nhìn thấy Ngôi Lời, nhưng vẫn từ chối tiếp nhận Ngài.
(2)
Phần thưởng dành cho những ai tiếp nhận Người: “Còn những ai đón nhận, tức là những ai
tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ được sinh
ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước
muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa.” Phần thưởng trọng đại dành
cho những ai tin vào Ngôi Lời là họ trở thành con Thiên Chúa; và được hưởng tất
cả mọi ơn lành dành cho người con.
3.3/ Những hồng ân Ngôi
Lời ban cho con người: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng
tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho
Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật… Quả thế, Lề Luật đã được Thiên
Chúa ban qua ông Môsê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có.”
(1)
Ân sủng: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã
lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.” Đức Kitô, tuy trong thân xác con người,
nhưng chứa đựng tất cả khôn ngoan, uy quyền, tình thương, và sự bình an của
Thiên Chúa (như các tên gọi của Ngài trong Thánh Lễ Nửa Đêm). Bất cứ ai có được
Ngài, là hưởng được tất cả những gì Ngài có. Ngài là sự tòan hảo của Thiên
Chúa, và Ngài ban cho con người đời sống thần linh của Ngài.
(2)
Sự thật:
“Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Người Con Một vốn là Thiên Chúa
và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.”
Ngôi Lời mặc khải cho con người biết sự thật về Thiên Chúa và tất cả các ý định
của Ngài. Khi Philip xin Chúa Giêsu cho thấy Thiên Chúa, Đức Kitô bảo ông: “Ai
đã xem thấy Thầy là đã thấy Cha” (Jn 14:9).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Lịch sử rất quan trọng trong việc hiểu biết và củng cố niềm tin của chúng ta
vào Thiên Chúa. Người không biết lịch sử sẽ dễ dàng chạy theo những niềm tin mơ
hồ. Nguy hiểm của những niềm tin này là con người không đạt được mục đích của
đời mình.
-
Lịch sử của Do-Thái quan trọng cho niềm tin của các Kitô hữu, vì Thiên Chúa đã
chọn họ làm Dân Riêng để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến. Chúng ta cần học hỏi
lịch sử của họ qua các Sách Cựu Ước để hiểu biết Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa
cho con người.
-
Theo Lịch sử Cứu Độ, Thiên Chúa đã dùng những cách thức khác nhau để dạy dỗ con
người: thời Cựu Ước, Ngài dùng các tiên-tri để nói thay và dạy dỗ con người;
thời Tân-Ước, Thiên Chúa cho Người Con nhập thể để dạy dỗ và mặc khải rõ ràng
Kế Họach Cứu Độ cho con người.
-
Mọi người chúng ta đều cần được dạy dỗ bởi chính Người Con này. Chúng ta phải
có Đức Kitô trong cuộc đời để Ngài soi sáng, dạy dỗ, ban ơn, và chỉ đường cho
chúng ta về hưởng hạnh phúc muôn đời với Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
Lễ Giáng Sinh
Sứ điệp: Ngôi Lời Thiên Chúa đã
xuống thế làm người tại một chuồng bò lạnh lẽo hôi tanh. Nơi gia đình thánh
Giuse và Mẹ Maria, Chúa Giêsu đã sinh sống. Với người nghèo khổ đơn sơ, Ngôi
Lời đã tỏ mình ra.
Cầu nguyện: Ôi lạy Chúa Giêsu Hài
Đồng, vinh dự thay cho các mục đồng đến chiêm ngắm thờ lạy Chúa nơi hang Be-lem
như lời các thiên thần đã báo. Hồng phúc thay! Biết bao người đã ngóng trông
Đấng Cứu Tinh mà không được. Biết bao người đã sống cạnh Đấng Cứu Thế mà không
nhận ra Ngài. Có những người chức quyền như Phi-la-tô, Hê-rô-đê, đã không được
diễm phúc như các mục đồng. Có những người tài giỏi như các tiến sĩ cũng chẳng
nhận ra Đấng Cứu Thế. Lại cũng có những người mang trách nhiệm trong đạo như
các Biệt phái, Thượng tế, đã không nhận ra Chúa. Thật các mục đồng hạnh phúc
quá.
Còn con, con không ngớt cảm tạ Chúa. Con được
diễm phúc Chúa tỏ mình cho con. Con đã được làm con Thiên Chúa, gia đình con
cũng được Chúa ngự trị. Linh hồn thân xác con mỗi ngày đều được Chúa sinh hạ.
Chúa không chê gia đình con. Chúa không chê thân xác linh hồn con. Mỗi lần con
mời Chúa ngự trị, con đều được Chúa viếng thăm.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, Mẹ Maria đã chiêm ngắm
và hằng ghi nhớ những kỷ niệm này. Xin Chúa giúp cho con hằng ghi nhớ hồng ân
Chúa dành cho con. Mỗi ngày xin Chúa giúp con thích thú đến với Chúa cách mau
mắn và ngây ngất như các mục đồng. Xin cho con mỗi ngày mỗi sống thân tình với
Chúa hơn. Amen.
Ghi nhớ: "Các mục tử đã gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi".
www.phatdiem.org
25/12/12 THỨ BA – ĐẠI
LỄ MỪNG CHÚA GIÁNG SINH
Lc 2,15-20
Lc 2,15-20
CẢM NGHIỆM TIN VUI CỨU ĐỘ
Họ liền hối hả ra đi và gặp bà Maria, ông Giu-se, cùng với
Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ kể lại điều họ đã được nghe nói về
Hài Nhi này. (Lc 2,16-17)
Suy niệm: Trong thời đại bùng nổ thông
tin hiện nay, thông tin trở thành món hàng hoá rất có giá trị. Vì thế mà có
nhiều phóng viên không ngại nguy hiểm đi săn lùng những thông tin hái ra tiền
ấy. Các phương tiện truyền thông cũng đua nhau đăng tải những tin tức “nóng”
nhất mà người ta đang háo hức muốn biết. Những người chăn chiên ở Bêlem năm xưa
hẳn sẽ kiếm được một món thu nhập hậu hĩnh nếu họ đem thông tin về “những điều họ đã được nghe nói về Hài Nhi” bán cho Hêrôđê hoặc các thượng tế chẳng hạn. Nhưng đối với những mục tử đơn
sơ chân chất, Tin Vui họ nhận được không phải là một món hàng để đem bán mà là
một Tin Vui phải được chia sẻ, và nhất là để đem lại ơn cứu độ cho những ai đón
nhận nó với tất cả tấm lòng.
Mời Bạn: Trước khung cảnh hang đá đã trở
thành thân thương cho chúng ta, mời bạn chiêm ngắm Hài Nhi để cảm nghiệm tin
vui cứu độ mà chúng ta đã nhận được, và bạn hứa với Hài Nhi sẽ loan báo xa hơn
Tin Vui bạn đã được nghe và nghiệm thấy.
Chia sẻ: Niềm vui Chúa giáng trần nơi
tôi, nơi gia đình và cộng đoàn của tôi sẽ tiếp diễn trong cuộc sống hay chỉ
dừng lại hôm nay, như một lễ hội, một dịp vui?
Sống Lời Chúa: 5 phút cho Lời Chúa mỗi ngày có
thể là chất liệu cần thiết và đáng quý để chúng ta kéo dài niềm vui và sống sứ
điệp tình yêu giáng sinh cho cuộc đời tín hữu chúng ta.
Cầu nguyện: Hát thật lòng một bài thánh ca
giáng sinh bạn yêu thích.
www.5phutloichua.net
TIN
MỪNG TRỌNG ĐẠI
Thiên
Chúa vẫn cứ làm con người ngỡ ngàng. Để cứu độ nhân loại, Thiên Chúa sai Con
Ngài sinh bởi một phụ nữ, làm người Do Thái, sống dưới thời đế quốc Rôma đô hộ
Suy niệm:
Thiên Chúa vẫn cứ làm con người ngỡ ngàng.
Để cứu độ nhân loại, Thiên Chúa sai Con Ngài sinh bởi một phụ nữ,
làm người Do Thái, sống dưới thời đế quốc Rôma đô hộ (cc. 1-2).
Như thế Đấng Tuyệt Đối đã từ trời xuống,
chấp nhận thân phận hữu hạn của con người.
Ngài không khoác lớp áo người, nhưng là người trọn vẹn.
Ngài được cưu mang trong dạ mẹ, được sinh ra như mọi trẻ thơ.
Đêm Con Thiên Chúa chào đời là một đêm lạ lùng.
Ngài không được chào đời tại mái nhà thân yêu ở Nadarét.
Ngài cũng không được chào đời
nơi một căn phòng tử tế dành cho lữ khách ở Bêlem.
Đơn giản là vì không có chỗ (c. 7).
Nhưng tại sao lại không có, thì ta không rõ câu trả lời.
Ngài đã phải sinh ra nơi máng cỏ, nơi để đồ ăn cho súc vật.
Phải mất bao lâu Giuse mới tìm được chỗ này trong đêm?
Hãy hình dung khung cảnh âm thầm của máng cỏ ngày xưa.
Có một ngọn đèn nào để chiếu sáng không?
Có ngọn lửa nào để xua đi giá lạnh không?
Hãy cảm nếm nỗi lo sợ, vất vả, lúng túng của đôi vợ chồng trẻ.
Họ đang phải đối diện với những rắc rối lớn lao và bất ngờ.
Điều cần nhất là hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa.
Khi tiếng khóc đầu tiên của Hài Nhi cất lên giữa đêm khuya,
ơn cứu độ đã mỉm cười với nhân loại.
Lạ lùng thay cách thức Con Thiên Chúa làm người!
Nhóm người chăn chiên, những kẻ sống bên lề xã hội,
chứ không phải là những nhà lãnh đạo tôn giáo hay trần thế,
mới là những người đầu tiên được sứ thần loan báo Tin Mừng.
Họ sống ngoài đồng, chia phiên nhau thức đêm để canh giữ đoàn vật.
Bất ngờ họ bị bao trùm bởi vinh quang rực rỡ của Thiên Chúa (c. 9).
“Hôm nay, Đấng Cứu độ, Đấng Kitô, Đức Chúa được sinh ra cho anh em.”
Đấng dân tộc anh em chờ mong từ lâu, nay đã đến.
Đây là Tin Mừng! Đây là Niềm Vui cho mọi người!
Nhưng dấu hiệu để nhận ra vị Tân Vương thuộc nhà Đavít
thì vừa bình thường: “một trẻ sơ sinh được quấn tã”,
vừa lạ thường: “nằm trong máng cỏ” (c. 12).
Đấng Mêsia mới được sinh ra không ngự nơi cung vua.
Dấu hiệu sứ thần cho ông Dacaria là bị câm.
Dấu hiệu sứ thần cho Maria là bà chị Êlisabét mang thai lúc đã già.
Dấu hiệu sứ thần cho các anh chăn chiên là trẻ thơ quấn tã nơi máng cỏ.
Các anh chăn chiên cần có đức tin để dám tin vào dấu hiệu ấy.
Thiên Chúa vẫn đến với con người bằng những nẻo đường bất ngờ.
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (c. 14).
Hoàng đế Augustô được ca ngợi là đấng cứu độ.
Ông được coi là người đem lại hòa bình,vì ông đã chấm dứt chiến tranh.
Hôm nay, Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta bình an thật qua Đức Kitô.
Ngài muốn ban cho chúng ta Đấng Cứu Độ thật là Đức Giêsu.
Xin cầu cho hòa bình trên mặt đất, bình an trong lòng người.
Ước gì chúng ta biết được rằng mình là những người được Chúa thương.
Cầu nguyện:
Giữa giá rét của mùa đông,
xin cho con gặp Chúa.
Giữa những long đong
và bấp bênh của phận người,
xin cho con gần Chúa.
Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi,
xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.
Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ,
xin cho con cảm được sự bình an của Chúa,
ngay giữa những âu lo hằng ngày.
Xin cho con đón lấy cuộc đời con
với bao điều không như ý.
Và cuối cùng,
xin cho con dám sống như Chúa
vì Chúa đã dám sống như con.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 12
25 THÁNG MƯỜI HAI
Tin Vui Vĩ Đại
Đêm
thánh này trải khắp từ đông sang tây. Nó chạy theo các đường kinh tuyến để bao
trùm cả trái đất. Ở phương Đông, nó đi trước chúng ta; và ở phương Tây, nó đến
sau chúng ta.
Này!
Tôi xin công bố Đêm Giáng Sinh của Đấng Cứu Thế ở mọi nơi và vào mọi khoảnh
khắc mà nó đi qua khắp địa cầu. Tôi công bố khoảnh khắc nửa đêm này. Tôi, giám
mục Rôma, người canh giữ mầu nhiệm vĩ đại, xin công bố cho mọi nơi: Đêm Giáng
Sinh.
"Hãy
ca mừng Chúa một bài ca mới.
Hãy
ca mừng Người từ cùng cõi địa cầu" (Is 42,10).
Hỡi
trái đất, hãy ca mừng. Hãy ca mừng vì ngươi đã được Chúa chọn từ giữa vũ trụ
bao la! Và tất cả vũ trụ đã cùng được chọn với ngươi. Hỡi trái đất, hãy ca
mừng!
"Các
tầng trời hãy hoan lạc và trái đất hãy nhảy mừng; biển và muôn vật trong đó hãy
reo vui; mặt đất cùng muôn vật trong đó hãy hân hoan! Cây cối trong rừng hãy
nhảy mừng" (Tv 96,11-12). Hỡi trái đất, hãy ca mừng! Vì từ đời đời ngươi
đã được chọn làm nơi sinh hạ của Thiên Chúa, Đấng mặc lấy xác phàm.
Toàn
thể địa cầu hãy qui tụ xung quanh đêm có một không hai này! Mọi thụ tạo hãy cất
tiếng, hãy cất tiếng cùng miệng lưỡi của thế nhân!
Kìa,
một người lên tiếng. Đó là Luca, tác giả Sách Tin Mừng. Ông nói: "Khi họ
đang ở đó thì đến lúc bà sinh con. Bà sinh con trai đầu lòng, bọc trong tã và
đặt nằm trong máng cỏ, vì không có chỗ cho họ trong hàng quán" (Lc 2,6-7).
Con Thiên Chúa đã đi vào thế giới này như thế đó.
Maria
là vợ của Giuse, một người thợ mộc ở Na-da-rét, thuộc dòng dõi Đavít. Chúa Hài
Nhi đã được sinh tại Bêlem bởi vì Maria và Giuse phải đi về đó để khai sổ kiểm
tra nhân khẩu theo sắc lệnh của hoàng đế Xêdarê Augustô. Luca đã nói về cuộc
chào đời của Đấng Cứu Thế như thế.
Thiên
thần của Chúa cũng lên tiếng. Thiên thần nói với các mục đồng giữa đêm tối
Bêlem, khi "vinh quang Thiên Chúa chiếu tỏa trên họ, và họ đầy kinh
sợ" (Lc 2,9).
Thiên
thần nói với họ: “Anh em đừng sợ, này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng
đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh
em trong thành Vua Đa-vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà
nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”
(Lc 2,10-12).
Nhân
loại và thiên thần Chúa cùng nói về một thực tại và cùng hướng chỉ về một nơi
chốn: Cuộc chào đời của Chúa ở Bê-lem!
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Chúa Giáng Sinh
Is 9, 1-6; Tt 2, 11-14; Lc 2, 1-14.
LỜI
SUY NIỆM: “Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt
khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tả bộc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ,
vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2,6-7).
Khi chúng ta hình dung cảnh Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu nơi hang đá Bêlem. Mẹ chắc
chắn đã làm hết tất cả những gì cụ thể có thể làm được trong một hoàn cảnh đặc
biệt như vậy. Mẹ đã không một lời giải bày hay than trách. Nhưng Mẹ đã làm
những động tác thiết thực, đúng cách, cấp bách cho biến cố hiện tại. Đó là lấy
tả bọc con đặt nằm trong máng có. Cho chúng ta thấy Mẹ đã trao ban, chứ không
ẳm bồng trong tay của mình. Mẹ quỳ để chiêm ngắm. Chính điều này các Thiên sứ
của Thiên Chúa cũng đã nhận ra đây là một dấu chỉ, để dùng khi loan báo cho các
mục đồng, giúp họ dễ nhận ra “Anh em sẽ thấy một trẻ sơ sinh bọc tả, nằm
trong máng cỏ” Mỗi người chúng ta đề có một ơn gọi riêng, chúng ta phải biết
học nơi Đức Mẹ là phải làm ngay tại đây và tại lúc này.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
25 Tháng Mười Hai
Phép Lạ Giáng Sinh
Hằng năm, cứ đến Giáng Sinh, Hài Nhi Giêsu
thường đi một vòng rảo qua khắp các làng mạc và đô thị để tặng quà cũng như
nhận quà và phân phát cho những ai cần đến.
Năm nay, tại một đô thị nọ, Ngài đang cần một
món quà không dễ tìm ra: đó là một quả tim lành mạnh để thay thế quả tim của
một người bệnh đang hấp hối. Bệnh nhân có quả tim gần như ngừng đập này là một
nhân vật nổi tiếng trong cả nước: đó là bộ trưởng tài chính!
Tất cả các bác sĩ trong nước đều bó tay. Cuối
cùng, họ mới chạy đến với Hài Nhi Giêsu, vì tin tưởng rằng ít ra trong đêm
Giáng Sinh, Ngài sẽ làm một phép lạ. Nhưng Hài Nhi Giêsu trả lời với các bác
sĩ: "Không phải Ta là người phải làm phép lạ, nhưng chính là lòng quảng
đại của một người dâng hiến quả tim của mình".
Tin tưởng ở lòng người, Hài Nhi Giêsu đã đến
gõ cửa nhà của thân nhân, bạn hữu của vị bộ trưởng. Họ đang mừng lễ Giáng Sinh:
cây Giáng Sinh của họ đầy những hoa đèn và quà tặng, bàn ăn của họ đầy những
thịt rượu và của ngon vật lạ. Họ đang ăn uống say sưa... Vừa thấy Hài Nhi đứng
trước nhà, họ tưởng Ngài là một cậu bé vô lại phá đám, cho nên đã tống khứ Ngài
đi càng sớm càng tốt. Hài Nhi Giêsu buồn bã bỏ đi... Nhưng Ngài vẫn chưa thất
vọng về tình người. Lần này, Ngài đến gõ cửa của
những người thân cận vị bộ trưởng. Họ là những người đã từng bán đứng lương
tâm, chối bỏ phẩm giá của mình để tìm kiếm lạy lục một chút cặn bã của vinh
hoa, lợi lộc phù phiếm. Hài Nhi Giêsu nghĩ thầm ít ra đây cũng là dịp để họ tỏ
lòng biết ơn đối với ông bộ trưởng. Nhưng tất cả đều lắc đầu từ chối, trái tim
của họ đang hướng đến người sẽ lên thay thế ông bộ trưởng trong những ngày gần
đây.
Hài Nhi Giêsu lại tiếp tục đi gõ cửa từng nhà,
nhưng ai cũng đang bận bịu với cuộc vui đêm Giáng Sinh.
Ngài đi, đi mãi trong đêm, để rồi mệt lả không
còn lê bước nữa. Ngài ngồi xuống bên vệ đường ven đô thị. Ngài đang miên man
nghĩ đến tình người thì bỗng dưới ánh đèn đường mờ ảo, một bóng đen thất thểu
tiến lại gần Ngài. Con người này xem chừng như không biết lễ Giáng Sinh là gì.
Quần áo bẩn thỉu, dáng đi ngập ngừng. Trên vai của anh đeo lủng lẳng một chiếc
đàn vĩ cầm cũ kỹ. Ðó là tất cả vốn liếng của một kẻ lãng tử. Vừa thấy em bé
ngồi tiu nghỉu bên vệ đường, anh mới dừng lại, lấy chiếc đàn ra và dạo lên
những khúc nhạc du dương, trầm buồn. Bản nhạh bỗng mang lại hy vọng cho Hài
Nhi. Trên môi Ngài, một nụ cười bé thơ cũng vừa hé mở. Con người lang thang
phiêu bạt này, con người không có lấy một mái nhà để nương náu, không có được
một ngày lễ trong cuộc sống, không biết được đêm nay là đêm Giáng Sinh: vậy mà
con người ấy có được một trái tim quảng đại sẵn sàng dâng hiến!
Hài Nhi Giêsu đến nắm tay anh, đưa anh vào
bệnh viện. Tại đây, với nụ cười tươi nở trên môi, anh để cho các bác sĩ khoét
vào lồng ngực của anh để lấy quả tim quảng đại của anh và đặt vào chỗ của quả
tim đang thoi thóp của ông bộ trưởng tài chính.
Cuộc ghép tim vừa chấm dứt, thì mọi người đã
có thể chứng kiến được phép lạ. Ông bộ trưởng với quả tim quảng đại và yêu đời
của người lãng tử đứng dậy khỏi giường và bắt đầu ca hát.
Ông đã ném đi quả tim chỉ biết rung động vì
tiền của, để thay thế bằng quả tim quảng đại biết ca hát, và sẵn sàng tự hiến
cho người.
(Lẽ Sống)
Ngày 25
CHÚA GIÁNG SINH
"Hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ". Đức Mariađã sinh con, giữa đàn vật... Ngôi Lời đã làm người và được xếp với các con
vật! Tất cả các điều ấy được ghi trong lịch sử cũng như trong cuốn sổ Ịớn của
ông Quiriniô. "Ngôi Lòi không biết rằng: trên các cuốn
.sổ dày này, bé Giêsu, tên của Con Thiên Chúa, nằm giữa hàng nghìn người như
một người rất tầm thường trong thống kê, lại là Đấng Hoàn Toàn khác, được coi
như một người khác trong danh bạ của nhân loại!
Đức tin dựa trên một sự kiện không thể
lẩn tránh của lịch sử. Trong cánh tay Mẹ Maria, Hài
nhi Giêsu là một con trẻ phập phồng sự sống. Là sự hiện diện
không thể phản bác, trước hết Giêsu có thời thơ ấu thật sự. Người được Đức Trinh Nữ Mariasinh ra. Chúng ta hãy chiêm ngắm người mẹ hạnh phúc này, đã sinh ra Đấng
Tạo Dựng nên mình, trước sự kinh ngạc của thiên nhiên.
Mẹ ngây ngất sững sờ trước việc diệu kỳ, với đôi mắt xúc động, nhắm lại
trong sự tôn thờ, rồi lại mở ra vì tình cảm âu yếm. Có nên đặt bé Giêsu trên
đầu gối Mẹ, hay phải quỳ gối trước mặt Hài Nhi? Mẹ cảm thấy bối rối, và trong
khi Mẹ ban cho thế giới Ngôi Lời, thì Mẹ lại giữ Lời trong trái tim mình; Mẹ
suy niệm tất cả các điều ấy và niềm vui của Mẹ thật sâu xa, không thay đổi và
thanh bình.
Guillaume de Menthière
Thứ
Ba 25-12
Ngày Sinh Nhật Ðức Giêsu
Ð
|
ã đến lúc Con Thiên Chúa làm
người vì yêu thương chúng ta. Mẹ Người là Ðức Maria và Thánh Giuse phải rời bỏ
căn nhà yêu dấu ở Nagiarét để đến Bêlem. Lý do là vì hoàng đế Rôma muốn kiểm
tra dân số. Vì Ðức Maria và Thánh Giuse thuộc về dòng họ vua Ðavít nên các ngài
phải về Bêlem. Hoàng đế ra lệnh, nhưng lệnh ấy lại hoàn thành hoạch định của
Thiên Chúa. Kinh Thánh nói rằng Ðấng Cứu Thế sẽ sinh ra ở Bêlem.
Ðó là một hành trình khó khăn
cho Ðức Maria vì núi đồi hiểm trở. Nhưng ngài cảm thấy bình an vì biết rằng
đang thi hành ý Chúa. Ngài vui mừng khi nghĩ đến người con sắp chào đời. Khi
các ngài đến Bêlem, họ không tìm ra được chỗ trọ. Sau cùng, họ tìm thấy nơi trú
ngụ trong một cái hang. Ở đó, trong một cái chuồng thô sơ và Con Thiên Chúa đã
giáng sinh. Ðức Maria bọc Hài Nhi trong tấm vải và đặt nằm trong máng cỏ. Chúa
chúng ta đã chọn sinh ra trong cảnh nghèo hèn để chúng ta đừng ao ước sự giầu
sang và tiện nghi. Chính đêm Hài Nhi Giêsu giáng trần, Thiên Chúa đã sai các
thiên thần loan báo tin vui. Các thiên sứ không được sai đến với vua chúa. Họ
cũng không được sai đến với các học giả hay các thầy thượng tế. Họ được sai đến
với các mục đồng nghèo hèn, đang chăm sóc súc vật ở mé đồi gần Bêlem. Sau khi
được các thiên thần báo tin, các mục đồng đã vội vã đến thờ lạy Ðấng Cứu Tinh
của nhân loại. Sau đó họ ra về trong niềm tạ ơn và chúc tụng Thiên Chúa.
Các ngôn sứ và thượng phụ của
Cựu Ước được an ủi khi biết rằng sẽ có ngày Ðấng Cứu Thế đến với nhân loại. Giờ
đây, Người đã sinh ra giữa chúng ta. Ðức Kitô đã đến vì tất cả mọi người chúng
ta. Kinh Thánh viết: "Thiên Chúa đã quá yêu thương thế gian đến nỗi
Người đã ban Con một của Người."
Giáng Sinh là thời điểm giúp
chúng ta ý thức hơn bao giờ hết là Thiên Chúa yêu thương chúng ta.
www.nguoitinhuu.com
Lectio: Lễ Chúa Giáng Sinh (C)
Thứ Ba, 25 Tháng 12,
2012
Lời tựa của Tin Mừng theo
Thánh Gioan
Ga 1:1-18
1. Lời nguyện mở đầu
Trong bóng tối của một đêm không trăng sao,
một đêm vô nghĩa
Chúa, Ngôi Lời hằng sống,
như một lằn sét trong cơn bão của sự lãng quên,
đã bước vào bên trong
phạm vi nghi ngờ
trong cái vỏ của hữu hạn mong manh
để che dấu ánh sáng.
Ngôi Lời được tạo bằng sự thinh lặng và bình thường,
Ngôi Lời trong thân xác
loài người, sứ giả các bí mật của Đấng Tối Cao:
giống như cái lưới được quăng vào vùng biển chết chóc
để đi tìm nhân loại một lần nữa, đang đắm mình trong những âu lo vô ích của mình,
và khai hóa họ, kẻ bị tước đoạt, bởi ánh sáng thu hút của sự tha thứ.
Lạy Chúa, Đại Dương của Hòa Bình và
bóng mát của sự Vinh Quang muôn đời,
con xin dâng lời cảm tạ:
Vùng biển yên tĩnh trên bờ của con đang chờ đợi làn sóng, con muốn đi tìm Chúa!
Và nguyện xin tình bằng hữu huynh đệ bảo vệ con
khi màn đêm buông xuống trên nỗi ước vọng của con về Chúa. Amen.
·
2.
Bài Đọc
a) Phúc Âm:
1 Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời: Ngôi Lời ở với Thiên Chúa và
Ngôi Lời là Thiên Chúa. 2 Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy. 3 Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. 4 Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; 5 sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng. 6 Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. 7 Ông đã đến như một người chứng, để ông minh chứng về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ ông mà tin. 8 Chính ông không phải là sự sáng, nhưng đến để chứng minh về sự sáng. 9Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. 10 Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người. 11 Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. 12 Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. 13Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra. 14 Và Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi. Và chúng
tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý. 15 Gioan làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: “Đây là Đấng tôi tiên báo. Người đến sau tôi nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi.” 16 Chính
do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác. 17 Bởi vì Chúa ban lề luật qua Môisen, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Đức Giêsu Kitô. 18 Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Đấng ngự trong Chúa Cha sẽ mạc khải cho chúng ta.
b) Giây phút thinh lặng:
Hãy để cho Lời Chúa vang vọng trong chúng ta.
3. Suy gẫm
a) Một vài câu hỏi để suy gẫm:
- Thiên Chúa là ánh sáng đã quyết định xua tan bóng tối của loài người bằng cách làm cho mình trở thành mù lòa. Người mù từ thuở mới sinh (xem Ga
9:1-41): mù lòa là tình trạng của anh ta lúc được tạo ra. Cử chỉ tượng trưng của Chúa Giêsu trong việc lấy bùn bôi lên mắt người bị mù từ lúc mới sinh trong Phúc Âm Gioan, nói lên
sự mới mẻ của hóa thân: Đó là cử chỉ của sự sáng tạo mới. Người mù có đôi mắt vẫn còn được bao phủ bởi bùn của sự sáng tạo được yêu cầu làm một hành động không phải của đức tin mà là hành động của sự vâng lời: đi đến hồ Silôê, có nghĩa
là “được sai đi”. Đấng “được sai đi” là Chúa
Giêsu. Liệu chúng ta có thể tuân theo Lời Chúa đến với chúng ta mỗi ngày không?
- Người mù trong Tin Mừng của Gioan là người nghèo khó: anh ta không kỳ vọng điều gì và không xin điều gì. Chúng ta
thường sống trong sự mù lòa hằng ngày, cam chịu rằng chúng ta không xứng đáng những chân trời tốt đẹp hơn. Chúng ta có thể thấy rằng mình cũng chẳng có gì vì thế món quà của Thiên Chúa cũng
chính là của chúng ta nữa, một món quà của sự cứu chuộc nhục thể, nhưng hơn hết cả có phải là món quà của ánh sáng và đức tin không?
- “Lề luật được ban qua Môisen, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Đức Giêsu Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa; nhưng chính Con Một Chúa, Đấng ngự trong Chúa Cha sẽ mạc khải cho chúng ta” (Ga
1:17-18). Kiến thức về những gì xảy ra trong câu chuyện của đời sống chúng ta dẫn chúng ta ra khỏi sự mù lòa của tự phụ và chiêm ngưỡng ánh sáng tỏa sáng trên khuôn mặt của Con Thiên Chúa. Mắt của chúng ta, tràn ngập ánh sáng, được mở ra cho các sự kiện. Đến khi nào thì chúng ta sẽ có thể nhìn thấy Thiên Chúa ở giữa chúng ta?
b) Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Gioan là người có thể nhìn thấy ánh sáng chiếu soi, đã thấy, đã nghe và đã chạm vào ánh sáng. Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời: luôn luôn hướng về tình yêu của Chúa Cha, Ngôi Lời đã trở thành lời giải thích đích thực của Chúa Cha, lời giải thích duy nhất (Ga 1:18), sự mặc khải về tình yêu của Người. Trong Ngôi Lời là sự sống và sự sống là ánh sáng, nhưng bóng tối đã không chào đón ánh sáng. Trong Cựu Ước sự mặc khải về Ngôi Lời là sự mặc khải về ánh sáng: điều này tương ứng với sự sung mãn của ơn thánh, ân sủng của ơn thánh, đã ban
cho chúng ta trong Chúa Giêsu, sự mặc khải tình yêu vô biên của Thiên Chúa (Ga 1:4-5, 16). Toàn bộ chứng tá của Cựu Ước là một nhân chứng cho ánh sáng: từ Abraham đến Gioan Tẩy Giả, Thiên Chúa sai các nhân chứng đi cho sự sáng của Người. Gioan Tẩy Giả là người cuối cùng trong số những người này: ông công bố ánh sáng sắp sinh vào trong thế gian và nhận ra trong Chúa Giêsu là ánh sáng đã được trông đợi từ lâu (Ga 1:6-8, 15).
Lời của Thiên Chúa (Dabar IHWH) là phương tiện truyền thông của Thiên Chúa với loài người, đã xảy ra với tất cả những người mà Thiên Chúa đã gọi và đến với những ai mà Lời Chúa đã đến (Is 55:10-11). Như thánh Augustinô đã nói: Lời Chúa là ánh sáng thật sự.
Lời được phán ra từ miệng Thiên Chúa, nhưng vẫn giữ được đầy đủ hiệu lực, và đó là Đấng tạo ra và duy trì thế giới. Lời này, đã được viết ra và lưu truyền, được xác định trong bộ sách Torah (Ngũ Thư của Môisen) viết cho dân Do Thái, cùng với sách Khôn
Ngoan, là toàn bộ sự mặc khải của Thiên Chúa: Thánh Luật ban xuống từ Sion, và từ Giêrusalem, lời Đức Chúa phán truyền (Is 2:3).
Ngôi Lời (tiếng Aramaic: Memra) là khái niệm được dùng bởi Gioan đi từ chữ “Dabar” đến chữ “logos”: trong bản dịch Kinh Thánh Cựu Ước “targum”, Ngôi Lời có chức năng sáng tạo, nhưng hơn hết cả chức năng mặc khải được nói đến một cách đặc biệt qua hình ảnh của ánh sáng. Trong quyển Targum Neophiti, bài thơ nổi tiếng về bốn đêm trong sách Xuất Hành 12:42 được viết như sau: “Đêm đầu tiên là khi Đấng Giavê tỏ mình trên toàn
thế giới để tạo dựng nó: Thế giới là sa mạc và trống rỗng, và bóng tối bao trùm vực thẳm. Và Lời của Thiên Chúa là ánh sáng chiếu rọi.” Trong bản thảo Targum Jerushalaim 110 viết rằng: “Với Lời của Thiên Chúa chiếu soi và làm sáng
tỏ”.
Sách Kinh Thánh diễn giải theo kiểu Midrash nhấn mạnh rằng lề luật có trước thế gian, đó là sự sống, đó là ánh sáng: “Những lời của bộ sách Ngũ Thư Torah là ánh
sáng cho thế gian” (Midrash Dt
Rabba 7:3). Chỉ có ái nữ của Thiên Chúa, Ngũ Thư Torah đã
được viết bằng lửa đen trong ngọn lửa trắng, ngồi trong lòng Thiên Chúa khi Thiên
Chúa đang ngự trên ngai vinh quang của Người (trích Midrash về Tv 90:3).
Ánh sáng Ngôi Lời trở nên hiện hữu trong thế gian. Tất cả là sự sống trong Người: Ngôi Lời chiếm vị trí của Ngũ Kinh Torah. Các
dấu chỉ thì siêu việt, và hơn cả một sự thay thế chúng ta thấy đó là một sự thực hiện. Nếu đối với người Do Thái, Ngũ Kinh Torah là
ái nữ của Thiên Chúa, thì Gioan cho thấy rằng cô ấy là Ngôi Lời mà ngay từ thuở nguyên thủy đã ở cùng Thiên Chúa, là Thiên Chúa. Ngôi Lời này trở thành nhục thể: con người, mỏng dòn, hạn chế, hữu hạn, đặt vinh quang của Người trong thân xác loài người. Người đã hạ Lều của mình, xuống thế, ở giữa chúng ta, Người đã trở thành sự hiện diện của Thiên Chúa (Shekinah)
ở giữa chúng ta, và Người đã cho thấy vinh quang của Người, sự hiện diện tràn ngập của Thiên Chúa đối với loài người. Vinh quang Thiên Chúa ngự trong Lều Nhà Tạm của người Do Thái trong cuộc di cư khỏi đất Ai Cập (Xh 40:34-38), là ngự trong đền thờ (1V 8:10), giờ đây ngự trong nhục thể của Con Thiên Chúa. Điều này thực sự là điều Thiên Chúa tỏ mình ra. Sự hiện diện của Thiên Chúa đã có thể thấy được, bởi vì sự hiện diện của Thiên Chúa (Shekinah) là Đức Kitô, nơi có sự hiện hữu và vinh quang của Thiên Chúa. Có một Đấng đã nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa: Đó là Đức Chúa Con duy nhất đầy ân sủng và chân lý; Người đến để mặc khải cho chúng ta nhan thánh của Chúa Cha, Người là Đấng suy nhất có thể làm được điều này bởi vì Người có sự hiện hữu của mình trong lòng Chúa Cha. Từ sự sống sung mãn này đưa đến việc tạo dựng mới. Môisen đã
đưa ra lề luật. Đức Kitô ban cho ân sủng và chân lý, tình yêu và lòng
trung tín. Trong
Chúa Con, chúng ta có thể chiêm ngắm Thiên Chúa mà không hư mất bởi vì bất cứ ai nhìn thấy Chúa Con cũng nhìn thấy Chúa Cha: Chúa Giêsu là lời giải thích Kinh Thánh, lời tường thuật của sự sống siêu nhiên.
Và nơi mặc khải là thân xác của Người. Đây là lý do tại sao Gioan đã cho biết thời điểm thực hiện: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người” (Ga 1:14), khi
tại “thời điểm của vinh quang” chỉ có bóng tối. Ánh sáng được dấu ẩn khi nó dâng hiến sự sống của mình vì tình yêu nhân loại, yêu cho đến tận cùng, không giới hạn, tôn trọng quyền tự do của con người để đóng đinh Tác Giả của sự sống vào Thập giá. Thiên Chúa được tôn vinh tại thời điểm của cuộc thương khó: một tình yêu viên mãn, dứt khoát, vô biên; một tình yêu được thể hiện ngay cả khi phải đối diện với những hậu quả cùng cực của nó. Đây là sự mầu nhiệm của ánh sáng trở thành con đường trong bóng tối, bởi vì tình yêu giống như bóng tối của đêm đen khi đời sống trở nên thân thiết hơn và những lời của người chết đi để được sống trong hơi thở lời của người được yêu; sự sáng ở trong tình yêu
đem lại ánh sáng trong giờ bị tước quyền sở hữu, giờ mà khi một người tự hiến thân mình để tìm lại được chính mình trong vòng tay của sự sống.
4. Cầu nguyện
Hỡi Giêrusalem, hãy
cởi bỏ áo tang khổ nhục,
và mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu Thiên Chúa ban cho ngươi;
hãy khoác vào mình áo choàng công chính của Thiên Chúa;
và đội lên đầu triều thiên vinh quang
Đấng Vĩnh Hằng ban tặng.
Vì Thiên Chúa sẽ cho khắp cả hoàn cầu
thấy hào quang rực rỡ của ngươi.
Mãi mãi Người sẽ gọi ngươi
là "Bình-an-xây-dựng-trên-công-chính",
và "Vinh-quang-phát-xuất-từ-lòng-kính-sợ-Thiên-Chúa".
Vùng lên, Giêrusalem hỡi,
hãy đứng ở nơi cao, và hướng nhìn về phía đông:
Kìa xem con cái ngươi từ đông sang tây tụ họp về
theo lời Đấng Thánh đã truyền dạy.
Được Thiên Chúa nhớ đến, chúng hớn hở mừng vui.
Xưa chúng bị quân thù áp giải,
phải rời ngươi, không xe không ngựa.
Nay Thiên Chúa lại đưa chúng trở về với ngươi,
chúng được kiệu đi vinh quang rực rỡ, khác chi một ngai vàng.
Vì Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao
và gò nổng có tự lâu đời,
phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu,
để Israel tiến bước an toàn
dưới ánh vinh quang của Thiên Chúa.
Theo lệnh của Thiên Chúa, rừng xanh và đủ loại quế trầm
sẽ toả bóng che rợp Israel,
vì Thiên Chúa sẽ dẫn Israel đi trong hoan lạc,
dưới ánh sáng vinh quang của Chúa,
cùng với lòng từ bi và sự công chính của Người.
và mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu Thiên Chúa ban cho ngươi;
hãy khoác vào mình áo choàng công chính của Thiên Chúa;
và đội lên đầu triều thiên vinh quang
Đấng Vĩnh Hằng ban tặng.
Vì Thiên Chúa sẽ cho khắp cả hoàn cầu
thấy hào quang rực rỡ của ngươi.
Mãi mãi Người sẽ gọi ngươi
là "Bình-an-xây-dựng-trên-công-chính",
và "Vinh-quang-phát-xuất-từ-lòng-kính-sợ-Thiên-Chúa".
Vùng lên, Giêrusalem hỡi,
hãy đứng ở nơi cao, và hướng nhìn về phía đông:
Kìa xem con cái ngươi từ đông sang tây tụ họp về
theo lời Đấng Thánh đã truyền dạy.
Được Thiên Chúa nhớ đến, chúng hớn hở mừng vui.
Xưa chúng bị quân thù áp giải,
phải rời ngươi, không xe không ngựa.
Nay Thiên Chúa lại đưa chúng trở về với ngươi,
chúng được kiệu đi vinh quang rực rỡ, khác chi một ngai vàng.
Vì Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao
và gò nổng có tự lâu đời,
phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu,
để Israel tiến bước an toàn
dưới ánh vinh quang của Thiên Chúa.
Theo lệnh của Thiên Chúa, rừng xanh và đủ loại quế trầm
sẽ toả bóng che rợp Israel,
vì Thiên Chúa sẽ dẫn Israel đi trong hoan lạc,
dưới ánh sáng vinh quang của Chúa,
cùng với lòng từ bi và sự công chính của Người.
(Sách Barúc 5:1-9)
5. Chiêm Niệm
Lạy Chúa Cha của ánh sáng, con dâng lên Chúa với toàn thân xác con. Sau khi trải qua những thời gian tốt lành và những thời gian sa vào tội lỗi, cuối cùng con đã hiểu, bởi vì kinh nghiệm của con, rằng một mình con, con chỉ hiện hữu trong bóng đêm
và sự tối tăm. Không có ánh sáng của Chúa, con không thể thấy bất cứ điều gì. Thật thế, Chúa là nguồn sống; Chúa, Vầng Thái Dương của công lý, Người mở mắt con, Chúa là
con đường dẫn đến Chúa Cha. Hôm nay
Chúa đã ngự đến giữa chúng con, Ngôi
Lời đời đời, giống như ánh sáng đi qua các trang của lịch sử để cống hiến cho nhân loại những món quà ân sủng và niềm hoan lạc trong sa mạc đói khát và trống rỗng: bánh và rượu của Danh Thánh Chúa, vào lúc trên thập giá sẽ trở nên những dấu hiệu rõ rệt cho tình yêu trọn vẹn, xin hãy cho chúng con được sinh ra với Chúa để từ đó phần sinh hoa trái là Giáo Hội, là cái nôi của sự sống Chúa cho chúng
con. Giống như Đức Maria, chúng
con ước ao được ở cạnh Chúa để học hỏi bắt chước được giống như Người, Đấng đầy ân sủng từ Đấng Tối Cao. Và khi các lều của chúng con sẽ chào đón đám mây của Chúa Thánh Linh trong ánh sáng rực rỡ của Ngôi Lời lần nữa, chúng con sẽ hiểu sự Vinh Quang của Nhan Thánh Chúa và chúng con sẽ được ân phúc trong một sự im lặng chiêm ngưỡng mà không còn có sự do dự nào nữa trước vẻ đẹp của Đấng đang ngự cùng Chúa, Ngôi Lời hằng sống.
www.dongcatminh.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét