Thứ Bảy Tuần II Mùa Vọng
Bài Ðọc I: Hc 48, 1-4. 9-11
"Elia sẽ đến lần thứ
hai".
Trích sách Huấn Ca.
Bấy giờ Elia như lửa hồng
xuất hiện. Lời ông nóng bỏng như ngọn đuốc cháy phừng. Ông đem cho họ một mùa
đói khát, và số người hiềm ghét ông đã hao đi, vì chúng nó chẳng giữ được giới
răn Chúa. Do lời Chúa phán, ông đóng cửa trời và ba lần khiến lửa từ trời
xuống. Elia, người được vinh quang nhờ các việc lạ lùng đã làm, và ai có thể tự
hào được vinh quang như người? Người đã được cất đi trong bầu lửa, trong xe bởi
ngựa lửa kéo đi. Người đã nên dấu chỉ sự đe phạt qua các thời đại, để làm nguôi
cơn thịnh nộ Chúa, để giao hoà cha với con, và chấn hưng lại những chi họ
Giacóp. Phúc cho những ai thấy ngài và được hân hạnh thiết nghĩa với ngài.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 79, 2ac và 3b.
15-16. 18-19
Ðáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin cho chúng con được
phục hồi, xin tỏ thiên nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống
(c. 4).
Xướng: 1) Lạy Ðấng chăn dắt
Israel, xin hãy lắng tai! Chúa ngự trên các Vệ Binh Thần, xin hiện ra trong
sáng láng. Xin thức tỉnh quyền năng của Chúa, và ngự tới để cứu độ chúng con. -
Ðáp.
2) Lạy Chúa thiên binh, xin
thương trở lại, tự trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho này. Xin bảo vệ
vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy, bảo vệ ngành nho mà Ngài đã củng cố cho mình.
- Ðáp.
3) Xin Chúa ra tay bang trợ
người ở bên tay hữu Chúa, con người mà Chúa đã củng cố cho mình. Chúng con sẽ
không còn rời xa Chúa nữa, Chúa cho chúng con được sống, và chúng con ca tụng
danh Ngài. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Ngày
của Thiên Chúa gần đến; này đây, Người sẽ đến cứu chúng ta. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 17, 10-13
"Elia đã đến rồi, và
họ không nhận biết ông".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi xuống núi, các môn đệ hỏi
Chúa Giêsu rằng: "Tại sao các luật sĩ lại nói Elia phải đến trước
đã?"
Chúa Giêsu trả lời:
"Thật Elia phải đến để chấn hưng mọi sự. Và Thầy bảo các con, Elia đã đến
rồi, và họ không nhận biết ông, nhưng đã đối xử với ông như ý họ. Cũng vậy, Con
Người sẽ phải đau khổ bởi họ".
Bấy giờ các môn đệ hiểu Chúa
Giêsu nói với họ về Gioan Tẩy Giả.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Những người Do Thái đang mong
chờ Ðấng Cứu Thế, nhưng khi Gioan rao giảng về Ngài, họ lại không chấp nhận.
Ðiều làm họ không nhận ra vì họ nghĩ rằng Ðấng Cứu Thế sẽ đến theo nghĩa chính
trị, sẽ giải thoát họ khỏi cái khổ trần gian. Nhưng Gioan rao giảng về Ðấng quá
bình thường đến nỗi họ không thể chấp nhận và còn chống đối.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, các vua chúa
trần gian thì ăn mặc gấm vóc lụa là, có kẻ hầu người hạ... còn Chúa, Chúa là
vua cả vũ trụ có trọn quyền hành trong tay, thế mà Chúa lại sống rất bình
thường, khiêm hạ. Chính sự bình thường đó khiến con người không nhận ra dung
mạo Chúa nữa. Xin Thánh Thần Chúa hướng dẫn chúng con biết nhìn ra dung mạo của
Ðức Giêsu qua những người anh em hèn mọn trong chúng con. Amen.
Họ Không Nhận Ra Ngài
Lời Chúa đối với mỗi người
đều có một ý nghĩa riêng áp dụng cho người đó trong cuộc sống hiện tại của
mình. Chúa Thánh Thần là Ðấng soi sáng cho chúng ta hiểu biết rõ ràng hơn về
chân lý niềm tin, cho nên Ngôi Ba được gọi là Thần Chân Lý và mỗi người đều múc
lấy ý nghĩa sống cho mình qua Lời Chúa. Tuy nhiên, vì trình độ mỗi người khác
nhau, vì hoàn cảnh mỗi nơi mỗi khác cho nên có thể hiểu Lời Chúa sai lệch đi.
Chúa Giêsu trao quyền rao
giảng Lời Chúa cho Giáo Hội qua thánh Phêrô, vị đại diện tối cao của Giáo Hội
tiên khởi và kế tiếp là trao cho các Tông Ðồ cho đến ngày nay. Cho nên chúng ta
thấy trong Do Thái giáo, các luật sĩ là những người cắt nghĩa luật Chúa và họ
đã nói với các môn đệ Chúa Giêsu: "Elia phải đến trước đã". Theo
truyền thuyết, Elia là một tiên tri đại diện cho các tiên tri trong Cựu Ước,
không chết nhưng được đưa về trời và sau này ông sẽ trở lại và các luật sĩ cắt
nghĩa: Cần phải đợi Elia trở lại đã.
Chúa Giêsu cũng xác nhận với
các môn đệ: "Thật, Elia phải đến để chấn hưng mọi sự". Elia ấy chính
là Gioan Tẩy Giả đã rao giảng sự ăn năn thống hối, hãy sửa lối đi cho ngay
thẳng, lối đi quanh queo hãy san cho bằng. Những nơi gồ ghề, hố sâu hãy lấp cho
bằng thì mọi người sẽ thấy ơn cứu độ. Gioan tiền hô đã đi trước để dọn đường
cho Chúa Kitô sẽ đến sau, Ngài đến để mang ơn cứu độ xuống cho trần gian và một
số môn đệ Gioan đi theo Chúa Giêsu để xem Ngài, đồng thời Gioan cũng đã xác
định vị thế của mình trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa: "Ngài
phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi".
Con người của Gioan Tẩy Giả
thật là khiêm nhường trong vị thế của ông: "Còn tôi, tôi không xứng đáng
cởi dây giầy cho Người". Gioan Tẩy Giả mang sứ mệnh như tiên tri Elia
trong Cựu Ước nhưng cũng là một con người ăn chay hãm mình trong rừng vắng,
khiêm nhường, đơn sơ trong công việc dọn đường cho Ðấng Cứu Thế sẽ đến.
Thật là một tấm gương cao quí
đáng cho chúng ta bắt chước noi theo. Gioan Tẩy Giả không cao trọng nhờ sự lạ
lúc sinh ra nhưng cao trọng do sứ mệnh dọn đường cho Ðấng Cứu Thế đến mà ông đã
làm trong sứ mệnh của mình. Trong ngục tối, ông dám nói thẳng sự thật, dám làm
chứng nhân cho Thiên Chúa ở giữa trần gian.
Chúa Kitô đến mang sứ mệnh cứu
rỗi của Thiên Chúa Cha. Người ta không nhận ra Người, và người ta cũng đối xử
với Ngài như các tiên tri trong Cựu Ước, đó là bắt bớ, đánh đập, hành hạ và sau
cùng bị lãnh bản án tử hình treo trên thập giá một cách nhục nhã đau thương.
Bao nhiêu năm tháng chờ đợi
Ðấng Cứu Thế đến, trải dài trong Cựu Ước vậy mà khi Ngài đến con người đã không
nhận ra Ngài. Mỗi người chúng ta đôi lúc cũng đã không nhận ra Ngài trong cuộc
sống, chúng ta vẫn nhớ Lời Chúa nhắc với chúng ta: "Ai làm cho một kẻ bé
mọn nhất trong anh em ấy là làm cho chính Ta".
Những kẻ bé mọn đó là ai?
Thưa, họ là những người mà Chúa Giêsu đã nói: :Ta đói các con cho Ta ăn, Ta
khát các con cho Ta uống. Ta rách rưới các con đã cho áo mặc. Khi Ta ở tù các
con đã viếng thăm". Lời nói của Chúa Giêsu làm mỗi người trong chúng ta
suy nghĩ và tự nhận: Ailà anh em tôi? Không phải những ai xa lạ, không phải là
những ai ở xa để rồi chúng ta không thấy được. Không phải là những bậc giàu có
sang trọng trong xã hội, những người thiếu thốn, những người chạy gạo ăn bữa
hôm lo bữa mai, những người không có thân nhân bà con, không mái nhà che mưa
che nắng vào những trưa hè nóng oi bức, vào những cơn mưa tàn tã của thời tiết
thu đông.
Mỗi người trong chúng ta tự
hỏi như người luật sĩ và biệt phái trong Phúc Âm hỏi Chúa Giêsu: "Nhưng ai
là anh em tôi?" Chúng ta cùng nhau xin Chúa cho chúng ta biết rõ, cảm nhận
một cách sâu xa hơn câu trả lời của mình trong Mùa Vọng này để chúng ta đi đến
niềm nở với người anh chị em, cùng nhau nắm chặt bàn tay thân ái đón mừng Chúa
đến.
Lạy Chúa, Gioan Tẩy Giả
đến để chuẩn bị cho Chúa mang ơn cứu độ đến. Xin cho mỗi người trong chúng con
chuẩn bị tâm hồn trong sáng hân hoan để đón Chúa đến trong chúng con và trong
gia đình thân yêu của chúng con. Xin Chúa cho mỗi người trong chúng con biết
yêu thương nhau, chia sẻ cho nhau tất cả tinh thần và vật chất để trọn niềm vui
mừng đón chờ Chúa đến. Amen.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần II MV
Bài đọc: Sir
48:1-4, 9-11; Mt 17:10-13.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Tiên Tri Elijah và
Gioan Tẩy Giả
Tiên-tri Elijah sống vào
thời Vua Ahab (874-853 BC), một thời kỳ hưng thịnh về vật chất, nhưng đời sống
tâm linh sa sút trầm trọng. Nhà Vua đã cưới công chúa Ideven, ái nữ của Vua
Sidon, lại còn tuyên bố thờ thần Baal. Chính Vua đã lập một bàn thờ để kính
Baal trong đền thờ Vua đã xây cất tại Samaria (I Kgs 16:30-33). Vì Vua mà hầu
hết dân chúng đã bỏ Thiên Chúa để tôn kính các thần ngọai bang. Tiên-tri Elijah
được Thiên Chúa sai tới để khiển trách Vua và khuyên dân phải ăn năn trở lại
cùng Thiên Chúa.
Gioan Tẩy Giả sống vào
thời Nước Do-Thái bị đô hộ bởi Đế-quốc Roma và tòan dân đang mong đợi Đấng
Thiên Sai đến giải phóng dân tộc khỏi tay Đế-quốc và lên ngôi cai trị dân
chúng. Gioan Tẩy Giả được Thiên Chúa sai tới để chuẩn bị đường cho Đấng Cứu
Thế, và người ta tuôn đến với ông để nghe giảng, thú nhận tội lỗi, và chịu Phép
Rửa để được tha tội.
Hai ông có nhiều điểm
giống nhau: ăn uống nghiệm nhặt, ở trong sa mạc, mặc áo lông lạc đà. Lời rao
giảng như lửa đốt cháy lòng người. Sứ vụ của các ông là chuẩn bị đường cho
Thiên Chúa đến: các ông chuẩn bị bằng lời rao giảng để mang lòng cha ông trở
lại cùng con cháu. Các Bài đọc hôm nay tập trung vào cuộc đời của 2 ông. Bài
đọc I nói về cuộc đời của Tiên-tri Elijah. Phúc Âm nói về cuộc đời của Gioan
Tẩy Giả. Chúa Giêsu tuyên bố và các môn đệ nhận ra: Gioan Tẩy Giả chính là
Tiên-tri Elijah mà truyền thống Do-Thái đã tin ông phải đến để dọn đường cho
Đấng Cứu Thế.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Cuộc
đời Tiên-tri Elijah
1.1/ Sự xuất hiện của
Tiên-tri Elijah: Ông xuất hiện trong đám lửa (Sir 49:1) và ra đi cũng trong đám
lửa (Sir 49:4). Lời rao giảng của ông cũng nóng cháy như lửa: “Ông là vị ngôn
sứ chẳng khác nào ngọn lửa, lời của ông tựa đuốc cháy bừng bừng.”
Ít có Tiên tri nào làm
được nhiều phép lạ như ông: Một số các phép lạ của Elijah làm được kể lại trong
Sách Các Vua:
(1) Tiên-tri đóng cửa
trời không cho mưa rơi xuống trong 3 năm trong thời Vua Ahab. Sách Đức Huấn Ca nhắc
lại những gì xảy ra trong Sách Các Vua (x/c I Kgs 17:1-18:46): “Ông khiến cho
nạn đói hoành hành trong dân, và do lòng nhiệt thành, ông làm cho số dân giảm
bớt. Ông dùng lời Thiên Chúa mà đóng cửa trời.”
(2) Tiên tri truyền cho
hũ bột của Bà góa thành Zarephath sẽ không vơi cho tới khi Chúa làm cho mưa trở
lại; vì Bà
đã tin tưởng làm bánh cho tiên tri ăn (I Kgs 17:14).
(3) Tiên-tri cũng nhân
danh Thiên Chúa làm cho đứa con trai của Bà sống lại sau 3 lần nằm trên nó (I Kgs 17:1-24).
(4) Tiên-tri cầu nguyện
và khiến lửa từ trời xuống thiêu rụi của lễ hy sinh trong cuộc thách thức
với các tiên tri của thần Baal và thần Aserah, để chứng minh Thiên Chúa của
Israel là Thiên Chúa độc nhất (I Kgs 18:23-38).
(5) Ba lần, Tiên-tri
khiến lửa từ trời xuống thiêu rụi 3 người sĩ quan và 150 quân lính của các ông, được sai tới để bắt
Tiên-tri về trình diện Nhà Vua. Chỉ lần thứ tư, khi người sĩ quan năn nỉ thay
vì truyền lệnh, người sĩ quan và 50 lính của ông mới thóat chết bởi lửa từ trời
(II Kgs 1:1-15); sau đó Tiên-tri mới chịu đi xuống gặp Vua Ahaziah.
Trong tất cả các
Tiên-tri của Cựu-Ước, Tiên-tri Elijah được coi là Tiên-tri sáng giá nhất, vì
các phép lạ ông đã làm như lời Sách Đức Huấn Ca tôn vinh Tiên-tri: “Thưa ông
Elijah, ông đã làm bao việc lạ lùng, ông thật là vinh quang hiển hách! Ai có
thể tự hào được nên giống như ông?”
1.2/ Sự ra đi của Tiên
tri Elijah:
Sau khi đã hòan tất sứ vụ, Tiên-tri đã không phải chết như bao người, nhưng đã
được Thiên Chúa mang đi như lời Sách Đức Huấn Ca nói hôm nay: “Ông đã được cất
lên giữa đám lửa xoáy như cơn lốc, trên chiếc xe do những ngựa đỏ như lửa kéo
đi.” Thiên Chúa mang Tiên-tri đi đâu không ai biết. Nhiều người nói ông được
Thiên Chúa giấu trên một ngọn núi cao. Truyền thống Do-Thái tin ông không chết,
và ông sẽ trở lại trước Ngày Đấng Thiên Sai đến, để chuẩn bị đường cho Ngài. Họ
cũng tin Mose không chết; do đó, trong Đền Thờ, họ luôn đặt hai ghế trống: một
cho Mose và một cho Elijah.
1.3/ Sự trở lại của
Tiên-tri Elijah: Vì Tiên-tri Elijah không chết, nên ông sẽ trở lại như trình thuật
của Sách Đức Huấn Ca hôm nay: “Trong những lời khiển trách vào thời sẽ đến, ông
đã được nêu danh, để làm nguôi cơn giận của Thiên Chúa trước khi cơn thịnh nộ
bùng lên, để đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu, và tái lập các chi tộc
Jacob. Phúc cho ai được nhìn thấy ông, và cho kẻ được an nghỉ trong tình yêu
Thiên Chúa, vì cả chúng tôi, chắc chắn cũng sẽ được sống (Sir 48:10-11).
Tiên-tri Malachi cũng tường thuật sự trở lại của Tiên-tri Elijah trong phần
Phụ-chương (Mal 3:23-24).
2/
Phúc Âm: Gioan
Tẩy Giả chính là Tiên-tri Elijah.
Trình thuật của Thánh-sử
Matthêu chúng ta đọc hôm nay là sau biến cố “Chúa Giêsu biến hình” trên Núi
Tabor. Các môn đệ đã được nhìn thấy Chúa Giêsu biến hình và đàm đạo với Moses
và Elijah. Là người Do-Thái, các môn đệ biết rõ truyền thống tin về Tiên-tri
Elijah. Vì thế, các môn đệ hỏi Chúa Giêsu: "Vậy tại sao các Kinh-sư lại
nói Elijah phải đến trước?" Người đáp: "Ông Elijah phải đến để chỉnh
đốn mọi sự. Nhưng Thầy nói cho anh em biết: ông Elijah đã đến rồi mà họ không
nhận ra, lại còn xử với ông theo ý họ muốn. Con Người cũng sẽ phải đau khổ vì
họ như thế." Qua câu trả lời này, Chúa Giêsu muốn nói với các ông hai
việc:
(1) Truyền thống đúng
trong việc tin Elijah đến để dọn đường cho Đấng Cứu Thế: Chính Gioan Tẩy Giả đã
tự nhận mình là sứ giả đến dọn đường cho Đấng Cứu Thế khi bị chất vấn bởi các
Kinh-sư và Biệt-phái: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho
thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaiah đã nói.” Cách ông dọn đường là sửa
sọan tâm hồn mọi người để họ xứng đáng đón nhận Chúa Cứu Thế; nhưng có những
người Do-Thái cứng lòng không tin ông. Vua Herode đã truyền chém đầu ông vì ông
đã dám nói sự thật để bảo vệ luân lý gia đình. Sau khi đã nghe những lời cắt
nghĩa của Chúa Giêsu, các môn đệ hiểu Người có ý nói về ông Gioan Tẩy Giả chính
là hiện thân của Tiên-tri Elijah.
(2) Truyền thống sai
trong việc hiểu về cách Tiên-tri Elijah (Gioan Tẩy Giả) và Đấng Cứu Thế sẽ dùng để chinh
phục nhân lọai: Họ tin là các ngài sẽ dùng sức mạnh để hủy họai những người không
tin; nhưng các Ngài lại dùng đau khổ và hy sinh để chinh phục những người không
tin. Chúa Giêsu không đến để tiêu diệt những kẻ tội lỗi, nhưng đến để chinh
phục họ về cho Thiên Chúa bằng yêu thương tha thứ và bằng cái chết đau khổ của
Ngài. Như thế gian đã dùng quyền lực để giết chết Gioan Tẩy Giả, họ cũng dùng
quyền lực để giết Đấng Cứu Thế.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Các Tiên-tri được sai
tới là vì dân chúng đã lạc xa đường lối của Thiên Chúa. Bổn phận của các Ngài
là dùng lời rao giảng và phép lạ kèm theo để đưa dân trở về với Thiên Chúa.
- Cách đưa con người về
với Thiên Chúa không bằng dùng sức mạnh để bắt ép và tiêu diệt, nhưng bằng lời
rao giảng về sự thật, yêu thương, và tha thứ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
Thứ Bảy tuần 2 Mùa Vọng
Sứ điệp: Đứng trước lịch sử hoặc
các sự kiện xảy ra trong đời, chúng ta thường hời hợt và cắt nghĩa nông cạn. Ta
cần phải tìm hiểu Thánh Ý Chúa. Hãy đến để hỏi Chúa Giêsu như các môn đệ xưa.
Cầu nguyện: Chúa ơi, Chúa có
đau lòng không, khi Chúa đến giữa Dân Chúa mà Dân Chúa không nhận ra Chúa là
Đấng phải đến ? Chỉ vì họ đã cắt nghĩa lời hứa của Chúa Cha một cách hẹp hòi.
Họ cứ chờ đợi Ê-li-a phải đến trước.
Trong cuộc sống con, chắc chắn con không từ chối
tiếp nhận Chúa đến với con dưới hình ảnh một vị Vua uy nghi. Nhưng hằng
ngày Chúa đến với con thật sự, mà con lại dửng dưng. Con không thấy hấp
dẫn và cần thiết mấy. Nhiều khi con còn coi như bị mất giờ nữa. Nếu con hiểu
được sự hiện diện cao siêu của Chúa trong Bí Tích Thánh Thể, chắc mỗi lần đến
với Chúa, con phải chuẩn bị kỹ lưỡng. Nếu con hiểu được sự hiện diện của Chúa
trong những người nghèo khổ, chắc con đã không khinh miệt họ. Chúa đang đến với
con qua những lần con gặp gỡ những ai bệnh tật, nhưng con ít khi nhìn ra Chúa.
Vâng, lạy Chúa Giêsu, các thánh khác chúng con ở
chỗ: các ngài luôn nhận ra Ý Chúa trong bất cứ cảnh sống nào, và luôn nhận ra
khuôn mặt của Chúa trong bất cứ người nào.
Xin cho Mùa Vọng năm nay mang lại cho con sự
khôn ngoan chân thật của Chúa để con biết nhận ra Chúa đang đến với con trong
cuộc sống hằng ngày. Xin cho con luôn thấu hiểu Thánh Ý Chúa đầy tình yêu
thương trong mọi cảnh sống. Amen.
Ghi nhớ: "Elia đã đến rồi, và họ không nhận biết ông".
www.phatdiem.org
15/12/12 THỨ
BẢY TUẦN 2 MV
Mt 17,10-13
Mt 17,10-13
SỨ MẠNG NỐI TIẾP SỨ MẠNG
Chúa Giê-su nói :"Ông
Ê-li-a đã đến rồi mà họ không nhận ra lại còn xử với ông theo ý họ muốn. Con
Người cũng sẽ phariddau khổ vì họ như thế." Bấy giờ, môn đệ hiểu Người muốn
nói về Gio-an Tẩy Giả. (Mt 17,12-13)
Suy niệm: Trong lịch sử nước Mỹ, có hai
vị tổng thống, Lincoln và Kennedy, giống nhau một cách kỳ lạ từ cuộc sống, sự
nghiệp cho đến cái chết. Người ta liệt kê được hàng chục điểm tương đồng giữa
hai bậc danh nhân đó. Trong lịch sử cứu độ cũng có hai nhân vật như thế: Nói
đến Gioan Tẩy Giả lại nhớ tới ngôn sứ Êlia. Êlia bị truy nã săn đuổi bởi bà
hoàng độc ác Ideven (1V 19,1tt). Gioan cùng chung số phận: bị chém đầu do sự
xúi xiểm của Hêrôđia, người phụ nữ lăng loàn (Mt 14,3tt). Gioan không chỉ nối
tiếp sứ mạng của “Êlia, người phải đến”. Cuộc sống và cả cái chết của ông còn
là một chứng từ cho Đấng phải đến sau ông: Con Người, tức là Đức Ki-tô, sẽ phải chịu đau khổ giống như
thế.
Mời Bạn: Liệt kê những điểm giống nhau
không phải để mua vui, mà để nhận ra điều Đức Kitô muốn gửi gắm cho bạn: sứ
mạng của bạn là tiếp nối sứ mạng của Chúa Kitô, là trở thành chứng nhân trung
thành cho Ngài trong cuộc sống của bạn, sao cho mọi người nhìn vào công việc
bạn làm mà nhận ra sự hiện diện của Ngài.
Chia sẻ: Tính cách nào của Chúa Giêsu
đánh động bạn nhất và bạn muốn thể hiện trong cuộc sống của bạn nhất?
Sống Lời Chúa: Trước khi làm một công việc gì,
bạn tự hỏi nếu là Giê-su, Ngài sẽ làm công việc này như thế nào?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, được phụng sự Chúa là
vinh dự, được thuộc về Chúa là hạnh phúc đời con. Xin biến đổi con trở nên hiện
thân trung thực và sống động của Chúa. Amen.
www.5phutloichua.net
Ê-li-a đã đến rồi
Thế giới hôm nay vẫn cần những ngôn sứ như
Gioan, làm chứng bằng lời giới thiệu và bằng đời sống. Lời giới thiệu hấp dẫn
nhờ đời sống thanh liêm. Đời sống thu hút nhờ lời giới thiệu soi sáng.
Suy niệm:
Các
nhà thông luật, dựa trên ngôn sứ Malaki,
nói
rằng Êlia phải đến trước để dọn đường cho Chúa (c. 10),
để
“đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu,
và
đưa tâm hồn con cháu trở lại với cha ông” (Ml 3, 1. 24).
Đức
Giêsu nhất trí với họ, nhưng nhấn mạnh:
“Êlia
đã đến rồi, và họ đã không nhìn nhận ông,
nhưng
đã xử với ông theo ý họ muốn” (c. 12a).
Theo
Đức Giêsu, chẳng cần phải đợi Êlia nữa.
Gioan
Tẩy giả chính là Êlia (c. 13).
Gioan
đã đến để chỉnh đốn mọi sự (c. 11).
Đời
ông đã là một tiếng kêu to trong hoang địa.
Ông
mời mọi người sinh hoa trái diễn tả lòng sám hối ăn năn.
Dân
chúng đã đổ xô đến với ông như đến với một ngôn sứ,
để
thú tội và nhận phép rửa của ông ở sông Giođan.
Ông
trở nên nổi tiếng đến độ có người tưởng ông là Đấng Mêsia.
Gioan
đã không bao giờ nhận mình là Đấng Cứu thế.
Ông
chỉ xin được cúi xuống cởi dây giày
cho
Đấng đến sau ông, nhưng cao trọng hơn ông.
Kết
cục của đời ông là bị cầm tù (Mt 11, 2),
và
sau đó là một cái chết bi đát và đột ngột (Mt 14, 10-12).
Đầu
ông rơi dưới tay của Hêrôđê, người vừa sợ, vừa kính nể ông.
Vào
Mùa Vọng, chúng ta lại được Đức Giêsu nhắc đến cái chết
của
người đã giới thiệu Ngài với chính đồng bào của mình.
Gioan
đã chu toàn nhiệm vụ của tiếng, nhưng ông không phải là lời.
Ông
là ngọn đèn, nhưng không phải là ánh sáng (Ga 1,
8; 5, 35).
Bạo
quyền có thể làm cho tiếng phải im, ngọn đèn phải tắt,
nhưng
lời chứng của Gioan thì vẫn còn mãi trong dòng lịch sử cứu độ.
Ông
đã sống một đời sống tuyệt vời, hoàn toàn xóa mình,
nên
nhân loại hôm nay, qua ông, có thể tin vào Đức Giêsu.
Êlia
đã chịu nhiều đau khổ.
Gioan
và Đức Giêsu cũng không được nhìn nhận (c.12b).
Số
phận của các ngôn sứ trong mọi thời đại đều như nhau.
Họ
chịu khổ vì phải nói hay làm một điều gì đó đòi người ta thay đổi.
Họ
gây khó chịu cho những người có quyền thế vững vàng.
Nhìn
kết cục cuộc đời của Gioan và Đức Giêsu ta thấy khó tin.
Một
người chết vì bị xử trảm, một người chết vì bị đóng đinh.
Khó
mà tin được một vị là Êlia, vị kia là Mêsia.
Êlia
phải quyền thế hơn nhiều, Mêsia thì không hề nếm mùi thất bại.
Để
đón lấy một Êlia như Gioan, đón lấy một Mêsia như Giêsu,
phải
bỏ những định kiến khô cứng, vì Chúa đi đường chẳng ai ngờ.
Thế
giới hôm nay vẫn cần những ngôn sứ như Gioan,
làm
chứng bằng lời giới thiệu và bằng đời sống.
Lời
giới thiệu hấp dẫn nhờ đời sống thanh liêm.
Đời
sống thu hút nhờ lời giới thiệu soi sáng.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,
xin cho con dám liều theo Chúa
mà không tính toán thiệt hơn,
anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của người một lòng theo Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
"Elia đã đến rồi, và họ không nhận biết ông".
Êlia sẽ đến lại.
Ngày
10/11/1948 / Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã long trọng công bố bản Tuyên ngôn
nhân quyền. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, cộng đồng thế giới đã
đảm nhận trách nhiệm quảng bá và bênh vực quyền con người như một nghĩa vụ
trường kỳ. Gia nhập Liên hiệp quốc có nghĩa là ký tên vào bản tuyên ngôn này và
đương nhiên cam kết bênh vực quyền con người.
Thật
ra, chỉ Thiên Chúa là Đấng có thể ban cho con người quyền và phẩm giá được làm
người mà thôi. Trong tác phẩm: “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng” Đức Gioan Phaolô II
đã viết:
“Thật
hiển nhiên là quyền con người đã được Đấng sáng tạo ghi khắc trong trật tự của
công cuộc sáng tạo. Như vậy chúng ta không thể nói đến những ban nhượng từ phía
các tổ chức của con người. Những tổ chức này không làm gì khác hơn là diễn tả
những gì chính Thiên Chúa đã ghi khắc trong trật tự Ngài đã tạo dựng: trong
lương tâm hay trong quả tim con người như Phaolô đã giải thích trong thư Rôma.
Tin Mừng là sự khẳng quyết trọn vẹn nhất về mọi quyền con người. Không có Tin
Mừng, chúng ta rất dễ xa lạc với chân lý về con người. Thật thế, Tin Mừng cho
thấy các luật thần linh đang bảo toàn trật tự luân lý của vũ trụ và củng cố nó,
nhất là qua cuộc Nhập thể. Con người là ai mà Con Thiên Chúa mặc lấy bản tính
con người. Con người phải là ai nếu Con Thiên Chúa đã phải trả một giá đắt nhất
cho phẩm giá của nó. Mỗi năm, phụng vụ diễn tả sự thán phục sâu xa của mình khi
chiêm ngắm chân lý và mầu nhiệm này trong lễ Giáng sinh cũng như trong đêm Vọng
Phục Sinh. “Ôi tội hồng phúc vì ngươi đã mang lại cho chúng ta Đấng Cứu chuộc
cao cả”. Đấng Cứu chuộc khẳng quyết quyền con người bằng cách tái lập sự toàn
ven của phẩm giá mà con người đã lãnh nhận khi Thiên Chúa tạo dựng nó theo và
giống hình ảnh Thiên Chúa.
Những
lời trên đây giúp chúng ta hiểu được sứ điệp Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói
đến Êlia, Gioan Tẩy giả và chính thân phận của Ngài. Êlia là hiện thân của một
cuộc tranh đấu không ngơi nghỉ cho công bằng và quyền con người, Ngài mở ra một
thế hệ các tiên tri luôn lên tiếng tố cáo những bất công và kêu gọi tôn trọng
phẩm giá con người, nhất là những người cùng khổ, bị áp bức. Chúng ta cũng bắt
gặp dung mạo ấy trong vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước là Gioan Tẩy giả. Lời
kêu gọi sám hối của Gioan cũng là một cảnh cáo trước những bất công xã hội và
vi phạm nhân quyền, nhất là những người thấp cổ bé miệng trong xã hội. Chúa
Giêsu xuất hiện trong truyền thống tiên tri ấy. Ngài là tiên tri của các tiên
tri, Ngài không những lên tiếng tố cáo bất công, mà còn đề cao quyền và phẩm
giá cao trọng của con người nơi những kẻ bé mọn, bị đẩy ra bên lề xã hội. “Con
Người cũng phải đau khổ như thế”. Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá trước
hết là một điển hình cho những vi phạm tôn giáo, nhân danh quyền lợi dân tộc và
theo một hình thức tố tụng tùy tiện và độc đoán nhất, người ta đã kết án Ngài
phải chết cách bỉ ổi nhất. Tuy nhiên, cũng qua cái chết ấy, Chúa Giêsu đã thể
hiện phẩm giá cao cả của con người.
Chân
lý của con người đã được thể hiện trong cái chết của Chúa Giêsu. Cái chết ấy là
một lời ngỏ của Thiên Chúa với con người. Con người cao cả đến độ Thiên Chúa đã
thí ban người Con Một của Ngài. Dù muốn hay không, không ai chối cãi được rằng
ý niệm về nhân quyền như được đề cao trong bản Tuyên ngôn nhân quyền đã cắm rễ
sâu trong mầu nhiệm nhập thể và cứu chuộc của Kitô giáo. Người ta không thể
hiểu và chấp nhận phẩm giá cũng như các quyền con người, nếu không nhìn nhận
nền tảng là con người đã được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa và
được cứu chuộc bằng chính cái chết của Chúa Giêsu.
Ước
gì cái nhìn ấy luôn là động lực thúc đẩy các kitô hữu nhìn nhận và tôn trọng
phẩm giá và quyền con người trong cuộc sống từng ngày nhất là phẩm giá và quyền
của những người cùng khổ bị đẩy ra bên lề xã hội.
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Tranh cãi của luật sĩ
Nhưng Thầy nói cho anh em biết: Ông Ê-li-a đã đến rồi mà họ
không nhận ra, lại còn xử với ông theo như ý họ muốn. Con Người cũng sẽ phải
đau khổ vì họ như thế.” Bấy giờ các môn đệ hiểu Người có ý nói về ông Gioan Tẩy
Giả. (Mt. 17, 12-13)
Dân
Ít-ra-en cứ tưởng rằng Thiên Chúa sẽ sai Ê-li-a đến dọn đường cho Đấng Thiên
sai. Ma-la-ki-a, vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước đã viết: “Đây Ta sai Ê-li-a
làm sứ giả đến trước ngày quang minh chính đại lạ lùng của Đức Chúa. Ông sẽ
hướng con tim của cha ông về cùng con cháu, và hướng con tim của con cháu về
những con tim của cha ông kẻo Ta đến chúc dữ xứ này” (3, 23-24). Điều gì sẽ xảy
ra nếu lời tiên tri này không thực hiện?
Chính
lối tranh luận về lời tiên tri trên mà người ta thường phi bác thái độ cứu thế
của Đức Giêsu. Người đã sẵn sàng mất thời gian chịu đựng cách phi thường lối
sống cuồng tín lầm lẫn đáng sợ đó.
Đối
với môn đệ, Người quả quyết cho các ông biết rằng Ê-li-a đã đến và đã phục hưng
tất cả, nhưng Người thêm rằng: Người ta đã không nhận biết ông và còn xử tệ với
ông như đã hãm hại tất cả các tiên tri. Ông đã san phẳng những con đường, đã
lấp đầy những thung lũng, đã bạt thấp những núi đồi … Ông đã loan báo Đấng đến
sau ông. Ngài lớn hơn ông, cầm sàng sẵn trong tay, xẩy sạch các hạt lúa phơi
trong sân, đốt sạch rơm rạ, đưa cất những lúa tốt vào kho lẫm của Thiên Chúa …
Bấy giờ các môn đệ hiểu Người nói về Gioan tẩy giả.
Đức
Giêsu nói về các luật sĩ rằng họ đã không nhận ra dấu chỉ của thời đại, nên họ
không thể nhận ra đặc tính của Đấng Cứu thế. Cho nên Con Người sẽ phải chịu
khốn khổ bởi họ.
Nếu
các luật sĩ cố chấp không hiểu, thì các môn đệ đã hiểu sứ vụ của Người và các
ông bắt đầu tìm hiểu lời tiên báo về thập giá.
Chúng
ta dễ thấy bực mình về những rắc rối của luật sĩ, vậy chúng ta cần phải thi
hành lời Chúa để đáp lại những lý luận của những kẻ mê muội đó. Đức Giêsu đã
không ngừng rao giảng sự cứu độ cho cả những tối dạ không biết suy nghĩ đó.
Người cũng không ngừng bị cám dỗ chỉ nói cho những kẻ đón nhận lời Người thôi.
Chúng ta tuy vào số những người hiểu lời Chúa, nhưng lại nhốt lời Chúa như nhốt
tù, không lo sống và rao giảng lời Chúa.
G.M
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 12
15 THÁNG MƯỜI HAI
Ngài Đã Vượt Qua Mọi
Giới Hạn
Một
trong những đặc điểm của đức tin Kitô giáo chúng ta, đó là Thiên Chúa hiện diện
rất gần gũi chúng ta. Thánh Tông Đồ Phaolô tuyên bố: “Chúa đang đến gần,” và
chân lý này không ngừng âm vang trong suốt cuộc đời chúng ta. Thiên Chúa gần
gũi bởi vì Ngài đã tự mạc khải chính Ngài cho con người. Ngài đã ngỏ lời qua
các ngôn sứ, và trong thời sau hết, Ngài đã nói qua Con của Ngài (Dt 1,1-2).
Thiên
Chúa gần gũi, bởi vì nơi người Con này, nơi Lời vĩnh cửu, Ngài đã trở thành
phàm nhân. Sinh hạ tại Bê-lem bởi Đức Trinh Nữ Maria, Đức Giêsu Na-da-rét đã
‘làm việc bằng đôi tay con người, suy nghĩ bằng trí óc con người, đã yêu mến
bằng trái tim con người’ – như chúng ta đọc thấy trong một văn kiện của Công
Đồng. “Ngài đã thực sự trở nên một người ở giữa chúng ta, giống chúng ta mọi
đàng ngoại trừ tội lỗi” (MV 22). Thậm chí Ngài đã trở thành thấp hèn, vâng phục
cho đến chết. Ngài bị xử tử trên Thập Gía. Có thể nói rằng trong hành động tiến
tới với con người, Ngài đã vượt qua mọi giới hạn.
Hơn
nữa, tiến tới với con người, Ngài đã mặc lấy hình dạng của bánh và rượu trong
Bí Tích Thánh Thể. Ngài đã trở nên lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta. Một
lần nữa, qua Bí Tích Thánh Thể, Ngài đã vượt qua mọi giới hạn mà con người có
thể tưởng tượng ra.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Hc 48, 1-4. 9-11; Mt 17, 10-13.
LỜI
SUY NIỆM: “Thầy nói cho anh em biết: ông Êlia đã đến rồi mà họ không nhận
ra, lại còn xử với ông theo ý họ muốn. Con Người cũng sẽ phải đau khổ vì họ như
thế” (Mt 17,12).
Sau khi ba môn để chứng kiến sự biến hình của Chúa Giêsu, các ông có nhìn thấy
tiên tri Êlia xuất hiện với Thầy mình, và nghe lời công bố của Chúa Cha: “Đây
là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời
Người!”. Các ông đã nhận ra và tin Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, nhưng rồi các ông
vẫn còn thắc mắc về điều Kinh Thánh nói: trước khi Đấng Mêsia xuất hiện, thì
tiên tri Êlia phải đến trước để chỉnh đốn mọi sự. Chúa Giêsu đã cho các ông
biết Êlia chính là Gioan Tẩy Giả. Vị Tiền Hô của Ngài. Qua cái chết của vị Tiền
Hô thế nào thì chính Ngài cũng phải chịu như vậy. Nhưng sau cái chết của Ngài,
Ngài sẽ Phục Sinh để chiến thắng cái chết đem lại sự sống cho toàn thể nhân
loại.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
15 Tháng Mười Hai
Xin Một Chút Ánh
Sáng
Triết gia Diogène nổi tiếng là người hạnh phúc
nhất trên đời, thế nhưng cuộc sống của ông lại rất đơn sơ nghèo nàn. Ông sống
trong một cái thùng, ngày ngày nằm đọc sách nhờ ánh sáng qua lỗ hỏng ở vách
thùng. Cơ nghiệp của ông vỏn vẹn chỉ có một cái bát gỗ dùng để múc nước sông mà
uống. Thế nhưng, một hôm ra sông để lấy nước, ông thấy có một em bé chăn cừu
dùng hai tay để vục nước mà uống. Thế là ông ném cái bát đi và từ đó chỉ dùng
tay mà uống nước.
Vua Hy Lạp nghe biết ông là người hạnh phúc
nhất đời bèn tìm đến tận nơi để thăm. Thấy ông đang nằm đọc sách, nhà vua lại
gần để hỏi xem ông có cần gì không. Diogène không trả lời. Nhà vua hỏi vặn
nhiều lần, ông điềm tĩnh trả lời như sau: "Hạ thần chỉ xin bệ hạ một điều
và chỉ một điều mà thôi: xin bệ hạ tránh ra để hạ thần có đủ ánh sáng mà đọc
sách". Diogène đã đuổi khéo nhà vua vì sợ bị sa vào tròng danh lợi mà mất
cái niềm vui thảnh thơi trong cuộc đời thanh bần đơn sơ.
Ai
trong chúng ta cũng muốn giàu có. Thế nhưng giàu có không hẳn đem lại hạnh phúc
thật sự cho chúng ta. Chỉ có những ai có tinh thần nghèo khó, chỉ có những ai
không coi tiền của như cứu cánh của cuộc đời, những người đó mới thực sự có
hạnh phúc.
(Lẽ Sống)
Ngày 15
Chúng ta chỉ có
thể hiểu được Đức Maria, trong mối quan hệ của Mẹ với Đức Giêsu. Lúc đó, chúng ta có thể
đọc cuộc đời Mẹ như bản tóm tắt câu trả lời của con người cho sự ước muốn và cho những sáng kiến của Thiên
Chúa, được biểu lộ trong Đức Kitô. Đức Maria của Mùa Vọng chính là Đấng, trong
khiêm nhường và hoàn toàn sẵn sàng, đã sống một mầu nhiệm bị chôn vùi, một mầu
nhiệm xác thịt và vô hình, một mầu nhiệm của lời hứa.
Tôi yêu mến Đức Maria của Mùa Vọng, vì Mẹ tập trung nơi Mẹ
tất cả sự chờ đợi của thế giới sùng đạo. Đừng quên có hàng triệu con người sống rải rác trong hàng triệu năm, và
chắc chắn họ cũng mang trong lòng một niềm hy vọng.
Tôi yêu
mến Đức Maria của Mùa Vọng, vì rõ ràng Mẹ là bàMaria người Do Thái, là con gái Xion, Đấng
xuất hiện như bông hoa nở trên đồi dốc của Dân
tộc được chọn. Một Dân tộc đồng nhất hoá với những người nghèo của Giavê,
đang chờ đợi sự thực hiện Lời Hứa.
Cuối cùng, Tôi yêu
mến Đức Maria của Mùa Vọng, vì Mẹ là người cưu mang
Đấng đưa tất cả
chúng ta tới đích. Đức Maria là người duy nhất sinh ra Người Con,
được công nhận là Con Thiên Chúa. Nhưng Mẹ cũng xuất hiện như một người Chị Cả dạy chúng
ta rằng: chúng ta chỉ cho đi điều
mà chúng ta nhận được.
Henri Denis
Ngày 15 tháng 12
THÁNH MARIA THÁNH GIÁ ROSA
SÁNG LẬP HỘI DÒNG BÁC ÁI
Ông Clêmentê
Rôsa, thân phụ thánh nữ Maria Thánh giá Rôsa là một hiệp sĩ nổi tiếng. Bạn ông
là bà công tước Camilla Albani. Hai ông bà sinh hạ được chín người con; Paula
Phanxica Maria là người thứ sáu. Paula chào đời ngày mồng 6 tháng 11 năm 1813,
và được rửa tội tại nhà thờ thánh Laurensô ngày 22 tháng 12. Nhờ nhân đức của
cha mẹ, Paula sống qua những ngày niên thiếu đầy hạnh phúc. Nhưng chưa đầy 12
tuổi, Paula đã phải đau đớn chịu tang mẹ. Mất mẹ, không những Paula mất một
nguồn tình yêu, nhưng còn mất một tấm gương sáng ngời nhân đức. Nhưng vốn là
người cha có nhiều thiện chí giáo dục con cái, ông Clêmentê tìm mọi cách bù đắp
lại cho các con khỏi phải thiệt thòi vì cảnh “gà trống nuôi con”. Ông giao phó
các con cho những người bà con thân thuộc có tiếng là đạo đức coi sóc. Nhờ đó,
dù sớm mồ côi mẹ, Paula cũng được hưởng một nền giáo dục căn bản. Người ở với
một bà dì tại Brescia cho đến năm 17 tuổi mới về nhà giúp việc nội trợ cho cha.
Trong suốt 5 năm sống bên người dì thánh thiện, Paula đã thấm nhiễm sâu xa tinh
thần tu đức của thánh Phanxicô Salê. Và đó là nền móng đời sống tận hiến và bác
ái của người sau này.
Về nhà chưa đầy
sáu tháng, Paula đã được lệnh cha bắt phải lập gia đình. Cô bối rối không biết
phải xử trí thế nào, vâng lời cha hay phải giữ trọn lời đã khấn với Chúa. Suốt
đêm hôm ấy, Paula chỉ thổn thức trong lời cầu nguyện hòa với hai giòng nước
mắt. Sáng hôm sau, người đến gặp và kể lại cho cha Faustino Pinzoni rằng: “Thưa
cha, con đã khóc rất nhiều, nước mắt con đã thấm đẫm mẫu ảnh chuộc tội và hai
trang sách Phúc âm. Con thấy rằng con phải tuân theo lời Chúa phán: “Ai yêu cha
mẹ hơn Ta thì không đáng làm môn đệ Ta”. Xin cha cầu nguyện cho con để con
trung thành với ơn Chúa, sống chết với lý tưởng tận hiến và bác ái. Nhờ ơn Chúa
và lời khích lệ của cha Faustinô, Paula đã trấn tĩnh và làm dịu được ý định của
thân phụ. Ông bằng lòng để con gái được tự do theo tiếng Chúa gọi.
Paula không lập
gia đình theo ý cha, nhưng nhất định sống ở nhà lo việc nội trợ giúp đỡ cha một
thời gian. Vì cha cô là giám đốc một hãng sợi, nên Paula phải vất vả giúp ngài
điều khiển hơn một trăm người làm. Dù chưa đầy 18 tuổi, Paula đã biết xử đối
với mọi người một cách rất khôn ngoan và bác ái. Ai ai cũng bằng lòng với cách
sống của người. Trăm người như một, họ đều công nhận: Paula là một bà chủ vừa
trẻ đẹp, vừa tinh nhanh, đại lượng và nhân hậu. Người ta kể: Tết năm 1833, tất
cả thợ làm trong xưởng dệt đã dâng cho Paula một vòng hoa tươi có kết hai chữ
“Tận hiến và bác ái”. Coi đó là ý Chúa muốn nhắc mình phải trung thành và tăng
cường lý tưởng nên thánh, Paula đã ghi vào sổ nhật ký như sau: “Lạy Chúa, Chúa
đã nhắn nhủ con không phải bằng một tiếng, nhưng bằng trăm tiếng của những
người thợ. Họ kết những tiếng Chúa dạy con bằng hoa tươi, nhưng con phải ghi
những tiếng ấy bằng hi sinh của việc làm trong chính thẩm cung của lòng con”.
Từ đó, Paula
hằng tìm cách mở rộng chương trình thực hiện bác ái. Tháng 4 năm 1834, người đã
thành lập một hội các bà đạo đức, nhằm mục đích giúp việc truyền giáo trong các
họ đạo. Hội này dần dần phát triển và được các cha sở hưởng ứng đặc biệt.
Đến năm 1836,
bệnh dịch phát triển tại Ý, sát hại nhiều người nhất là ở chính Brescia quê tổ
của Paula. Theo ý của cha Faustinô, người đã xin phép thân phụ ngày ngày đi
thăm bệnh nhân trong các nhà thương. Lời nói dịu dàng và cử chỉ săn sóc tận tâm
của Paula đã làm cho nhiều người cảm phục. Đặc biệt có mấy người tội lỗi đã vì
gương sáng và lời cầu nguyện của người mà tìm lại được ơn Chúa.
Năm sau, được cha Faustinô bảo trợ, Paula
thiết lập một trường học dành riêng cho những người câm điếc. Người lo liệu
công việc cho đến khi nhà trường có nề nếp rồi mới trao lại cho các dì phước
Canossa điều khiển. Cũng từ đó, người bắt đầu nhận sứ mệnh cải huấn các thiếu
nữ xấu nết. Công việc thực nặng nhọc, nhưng tinh thần tận hiến và lòng bác ái
theo gương Chúa Kitô đã giúp người thu lượm nhiều kết quả tốt đẹp. Ngoài ra,
Paula còn lo lắng dạy đạo lý cho các trẻ em trong xứ. Người rất ưa dạy giáo lý,
vì cho đó là dịp thấm nhuần những chân lý căn bản của đời sống thánh thiện.
Cộng tác với Paula, có bà quả phụ Gabriel Echenos Bornati và hai thanh nữ đạo
đức khác. Những phụ nữ này sẽ là những phần tử đầu tiên trong Hội Bác Ái do
Paula thiết lập vào năm 1840, mục đích của Hội là chuyên việc coi sóc bệnh
nhân, làm việc tông đồ trong các bệnh viện. Vì thế, ngoài các nhà thương vẫn
có, Paula còn xuất tiền ra xây cất một nhà thương đầy đủ tiện nghi tại Brescia
để thu nhận các bệnh nhân. Chỉ hơn một năm sau khi thành lập, nhân viên của Hội
đã lên tới số 22.
Nhiều vị thượng
cấp đạo và đời đã không ngớt lời ca tụng việc làm của Hội từ thiện đó. Tuy
nhiên, không phải không có những ngăn trở. Vướng trở đầu tiên là thái độ cứng
rắn của chính quyền thành phố Milanô. Vì căn cứ theo một vài báo cáo xuyên tạc,
nhà cầm quyền thành phố này nhất định không cho Hội Bác Ái được hợp thức hóa.
Để đối phó lại, Paula cương quyết bỏ hẳn các nhà thương, không phụ giúp chính
quyền trong việc điều dưỡng các bệnh nhân. Công việc xảy ra đã làm dân chúng
náo động và buộc lòng Đức Tổng Giám mục Milanô phải can thiệp. Sau cùng đầy tớ
Chúa đã toàn thắng, chính quyền Milanô bằng lòng cho Hội Bác Ái được hợp thức
hóa. Ngoài ra chị Paula còn phải đối phó với nhiều trở ngại khác, như lời người
đã viết cho chi hội ở Crêmonê: “Vì yêu chúng ta mà Thiên Chúa hằng tiếp tục ban
Thánh giá cho chúng ta... Vì thế chúng ta đừng coi việc xảy đến là Thánh giá
cuối cùng”.
Năm 1843, ông
Clêmentê bằng lòng cho Paula cả khu nhà để làm trụ sở trung ương của hội. Cũng
năm ấy, người soạn quy luật và được Đức Giám mục địa phận châu phê. Công việc
vừa khá thành tựu thì quả phụ Gabriel và cha Faustinô lần lượt được Chúa gọi về
trời để lại tất cả gánh nặng cho Paula.
Ngoài những nhà
thương đã quen đảm nhiệm, năm 1844, hội còn phải lo cho hai nhà thương khác,
trong số đó có một quân y viện. Chính ở bệnh viện này Chúa đã cho thánh nữ làm
một phép lạ mà chúng tôi sẽ tường thuật dưới đây, chứng tỏ nhân đức và sự thánh
thiện của chị Paula.
Theo tinh thần
bác ái của Chúa Kitô, chị Paula truyền cho các chị em phải săn sóc không những
các quân y Ý mà cả những tù binh Áo nữa. Thấy như thế, một số người yêu nước
quá khích đã đưa lên mặt báo một loạt bài chỉ trích hội Bác Ái, đặc biệt chị Hội
trưởng Paula. Không xem sao những lời chỉ trích, hội nhất định giữ vững tinh
thần. Vì thế bầu khí mỗi ngày một căng thẳng. Một buổi chiều kia, họ tổ chức
một đám cướp, định vào cướp phá nhà thương. Chị Paula bình tĩnh bảo chị em vào
nhà thờ cầu nguyện, còn người thì vác một cây Thánh giá lớn đứng trước cửa
chính ra vào nhà thương. Quân cướp hung hăng ùa tới. Nhưng khi trông thấy Paula
vác Thánh giá hùng dũng đứng trước cửa, chúng như bị một sức siêu nhiên nào
ngăn cản, không ai bảo ai, bọn cướp từ từ lui bước. Nhờ đó bệnh viện được an
toàn và phong trào khích bác kia đã bị dập tắt. Cũng từ đó, cây Thánh giá mà
Paula đã vác, trở nên cây Thánh giá hay làm phép lạ chữa khỏi nhiều bệnh nhân.
Năm 1849, cha
kinh sĩ Luigi Bianchini được cử làm tuyên úy cho hội thay cha Faustinô. Cha tân
tuyên úy khuyên chị Paula đệ trình quy luật của hội lên Toà thánh. Vì thế đầu
năm 1850, chị Paula đi Rôma yết kiến Đức Giáo Hoàng Piô IX và ngày 24 tháng 10,
Toà thánh ban sắc lệnh châu phê và tán thưởng Hội Bác ái. Thế là sau 10 năm
hoạt động, Hội Bác ái của chị Paula đã được chính quyền và Toà thánh công nhận.
Mùa hè năm 1852, một lớp chị em đầu tiên trong đó có cả Paula, người sáng lập
duy nhất, được Đức Giám mục Brescia nhận lời tuyên khấn. Ngoài ba lời khấn vâng
lời, khó khăn và trinh khiết, chị em còn thêm lời khấn chuyên lo săn sóc bệnh
nhân và tù phạm. Từ nay chị Paula đổi tên là dì phước Maria Thánh giá.
Sau bước tiến
lịch sử ấy, Hội Bác ái phát triển mau lẹ. Hầu hết các miền trong địa phận
Brescia và các địa phận lân cận đều có cơ sở của Hội. Hội mở thêm nhiều bệnh
xá, nhiều cô nhi viện và dưỡng đường. Từ con số 25 chị em khấn đầu tiên, ba năm
sau số hội viên đã lên tới 65.
Nhìn thấy những
kết quả công việc, dì phước Maria Thánh giá không thể không vui mừng. Dì thường
nói với chị em: “Tất cả là của Chúa và do Chúa, Người làm để vinh danh Đấng
Kitô và chan hòa niềm vui cho đoàn con cái. Chị em thân mến, chúng ta không thể
tự phụ vì những kết quả của công việc, vì đó là do ơn Chúa, nhưng chúng ta phải
vui mừng vì đó là dấu của tình yêu Chúa đối với chúng ta”. Hiểu rõ như thế nên
người càng hăng hái sống theo tinh thần tận hiến và bác ái hơn. Tên Maria Thánh
giá là khẩu hiệu giúp thánh nữ hiên ngang trước mọi thử thách và dấn thân trong
mọi công việc. So sánh việc làm vất vả với cái sức khỏe yếu ớt và thân hình quá
gầy ốm của người, ai cũng cho đó là một phép lạ. Riêng thánh nữ, người không kể
gì đến sức khỏe. Mặc dầu đau ốm, năm 1855 người còn đích thân đem một số chị em
đi chăm sóc những người bị bệnh dịch tả và tìm nơi dựng thêm cho hội những cơ
sở mới. Trên đường công vụ, thánh nữ đã ngã bệnh tại Mantua và được chị em đưa
về Brescia. Sau ba tuần liệt giường, thánh nữ được Chúa đưa về trời ngày 15
tháng 12 năm 1855. Được tin thánh nữ qua đời, hầu hết các chị em Hội Bác ái thuộc
80 nhà đều tuôn về Brescia cùng với dân chúng tổ chức tang lễ trọng thể. Xác
người được đặt trong nhà nguyện của chị em. Trên mộ, người ta đặt một tấm bia,
ghi những dòng chữ: “Lúc bình sinh người thường nói: Lương tâm tôi không thể
yên ngủ bao lâu chưa ngăn ngừa được sự dữ và giúp người ta thực hiện điều lành.
Nhưng, toàn thể dân chúng thuộc mọi cấp đều đồng thanh tán tụng rằng: mặc dầu
sức khỏe mỏng dòn, người đã hoàn tất trách vụ cao cả là đã hết sức nâng đỡ
người góa bụa và những kẻ sa cơ lỡ bước. Người là ân nhân đặc biệt của những
thanh thiếu nữ trụy lạc, là mẹ hiền của nhiều trẻ em mồ côi, đau khổ. Nói tắt,
người là gương mẫu đời sống bác ái theo tinh thần Phúc âm Chúa Kitô”.
Thánh nữ được
phong bậc chân phước ngày 26 tháng 5 năm 1940, và được suy tôn bậc hiển thánh
ngày 13 tháng 6 năm 1954, dưới thời Đức Piô XII.
www.tinmung.net
Thứ
Bẩy 15-12
Chân Phước Mary Frances Schervier
(1819
- 1876)
N
|
gười phụ nữ này từng ao ước
trở nên một nữ tu dòng Trappist, nhưng Thiên Chúa đã dẫn dắt ngài đến việc
thành lập một tu hội cho các nữ tu chuyên lo việc chăm sóc bệnh nhân và người
già ở Hoa Kỳ và khắp nơi trên thế giới.
Sinh trưởng trong một gia
đình có thế giá ở Aix-la-Chapelle, nước Pháp, sau khi người mẹ từ trần cô
Frances coi sóc gia đình, và nổi tiếng là người độ lượng với người nghèo. Vào
năm 1844, cô gia nhập dòng Ba Phanxicô. Ðến năm kế tiếp, cùng với bốn người
cộng sự, cô thành lập một tu hội chuyên chăm sóc người nghèo. Năm 1851, tu hội
Nữ Tu Nghèo Hèn của Thánh Phanxicô được đức giám mục địa phương chấp thuận
thành lập; không bao lâu tu hội phát triển mau chóng. Tại Hoa Kỳ, tu hội được
thành lập đầu tiên vào năm 1858.
Vào năm 1863, Mẹ Frances sang
Hoa Kỳ để giúp các nữ tu chăm sóc các thương binh của cuộc Nội Chiến. Năm 1868,
ngài lại sang Hoa Kỳ một lần nữa. Khi thầy Philip Hoever thiết lập tu hội Anh
Em Nghèo Hèn của Thánh Phanxicô, thì đó là nhờ Mẹ Frances khuyến khích.
Khi Mẹ Frances từ trần, lúc
ấy đã có khoảng 2,500 thành viên của tu hội trên khắp thế giới. Con số ngày
càng gia tăng. Họ vẫn còn hoạt động trong các bệnh viện và trung tâm dưỡng lão
ngày nay. Mẹ Frances được phong chân phước năm 1974.
Lời Bàn
Người đau yếu, nghèo khổ và
già nua thường bị nguy hiểm vì bị coi là thành phần "vô dụng" của xã
hội, do đó họ bị quên lãng. Chúng ta cần noi gương Mẹ Frances nếu chúng ta tôn
trọng phẩm giá và định mệnh của con người mà Thiên Chúa đã ban cho.
Lời Trích
Năm 1868, Mẹ Frances viết cho
các nữ tu, nhắc nhở họ về lời của Ðức Kitô: "Các con là bạn hữu của Thầy
nếu các con thi hành những gì Thầy truyền cho các con... Thầy ban các giới răn
này là để các con yêu thương nhau" (Gioan 15:14,17).
Mẹ Frances viết tiếp: "Nếu
chúng ta trung thành và hăng say thi hành điều này, chúng ta sẽ cảm nghiệm được
chân lý của lời cha Thánh Phanxicô, là người đã nói rằng tình yêu làm vơi bớt
mọi khó khăn và làm dịu ngọt mọi cay đắng. Cũng thế, chúng ta sẽ được hưởng
những ơn lành mà Thánh Phanxicô đã hứa ban cho con cái của người, trong hiện
tại cũng như tương lai, sau khi nhắc nhở họ hãy yêu thương nhau như người đã và
đang yêu thương họ."
www.nguoitinhuu.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét