Ngày 24 tháng 12
Mùa Vọng
Lc 1,69-79 |
Bài Ðọc I: 2 Sm 7, 1-5.
8b-12. 16
"Vương quốc Ðavít sẽ
tồn tại trước mặt Chúa đến muôn đời".
Trích sách Samuel quyển thứ
hai.
Khi ấy vua Ðavít ngự trong
đền và khi Chúa cho ông được bằng yên tư bề, khỏi mọi quân thù chung quanh, thì
vua nói với tiên tri Nathan rằng: "Ông thấy không? Ta ở trong nhà làm bằng
gỗ bá hương, còn hòm bia Chúa thì để ở trong lều bằng da ư?" Nathan trả
lời với vua rằng: "Ðiều gì vua nghĩ trong lòng, vua hãy đi thực hiện, vì
Chúa ở với vua".
Nhưng xảy ra (là) đêm ấy có
lời Chúa phán cùng Nathan rằng: "Hãy đi nói với Ðavít tôi tớ Ta rằng:
"Chúa phán thế này: Có phải ngươi sẽ xây cất cho Ta một ngôi nhà để ở
chăng?" Ta đã đem ngươi ra khỏi đồi cỏ lúc ngươi còn theo sau đoàn chiên,
để ngươi trở nên thủ lãnh Israel dân Ta, và Ta đã ở cùng ngươi trong mọi nơi
ngươi đi; Ta đã tiêu diệt mọi quân thù trước mặt ngươi. Và Ta sẽ làm cho danh
ngươi nên cao trọng, như danh các bậc vĩ nhân trên mặt đất. Ta sẽ đặt chỉ một
nơi cho Israel dân ta, và Ta sẽ vun trồng nó tại đó. Nó sẽ ở đó và sẽ không còn
bị quấy rối nữa. Con cái sự dữ sẽ không còn đến đàn áp nó như xưa nữa, như ngày
Ta thiết lập các vị Thẩm phán trên Israel dân Ta. Ta sẽ cho ngươi được bằng yên
khỏi mọi quân thù. Và Chúa phán trước cho ngươi biết là Chúa sẽ tạo lập cho
ngươi một nhà. Nhà của ngươi và triều đại ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước
mặt Ta; ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 88, 2-3. 4-5. 27
và 29
Ðáp: Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời
(x. c. 2a).
Xướng: 1) Tôi sẽ ca ngợi tình
thương của Chúa tới muôn đời, qua mọi thế hệ miệng tôi loan truyền lòng trung
thành Chúa, vì Ngài đã phán: "Tình thương của Ta đứng vững muôn đời";
trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. - Ðáp.
2) Ta đã ký minh ước cùng
người Ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ của Ta rằng: "Cho tới
muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn
thế hệ". - Ðáp.
3) Chính người sẽ thưa cùng
Ta: "Chúa là Cha con, là Thiên Chúa và Ðá Tảng cứu độ của con". Ðời
đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi
mãi duy trì. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Lạy Ðức
Thượng Trí của Ðấng Tối Cao, Ngài an bài mọi sự cách mạnh mẽ và dịu dàng, xin
hãy đến dạy dỗ chúng con con đường khôn ngoan. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1, 67-79
"Vầng đông từ cao
thẳm tới viếng thăm chúng ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Khi ấy, Giacaria, cha của
Gioan, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng: "Chúc tụng Ðức Chúa là
Thiên Chúa Israel, Người đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Từ dòng dõi
trung thần Ðavít, Người đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế? để giúp ta, như
Người đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ mà phán hứa tự ngàn xưa: Sẽ cứu ta
thoát khỏi địch thù, thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét; sẽ trọn bề nhân nghĩa với
tổ tiên, và nhớ lại lời xưa giao ước Chúa đã thề với tổ phụ Abraham: rằng sẽ
giải phóng ta khỏi tay địch thù, và cho ta chẳng còn sợ hãi, để ta sống thánh
thiện công chính trước nhan Người mà phụng thờ Người suốt cả đời ta.
"Hài nhi hỡi, con sẽ
mang tước hiệu là ngôn sứ của Ðấng Tối Cao: Con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho
Người, bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ, là tha cho họ hết mọi tội khiên.
Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Ðông tự chốn cao vời viếng thăm ta,
soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối, và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào
đường nẻo bình an".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Dù con người bất tín bất
trung, nhưng Thiên Chúa vẫn một lòng trung tín. Lời Thiên Chúa hứa với các tổ
phụ, giờ đây Người thực hiện cách viên mãn: Dù là con một Thiên Chúa cũng không
tiếc nhưng đã ban tặng cho con người. Thiên Chúa là tình yêu, nên Ngài không
thể không yêu tạo vật của Ngài. Thiên Chúa là sự sáng, nên Ngài không thể để
bóng tối làm chủ vũ trụ của Ngài.
Hãy reo lên, hãy ca lên, hãy
loan báo cho muôn dân biết niềm vui ơn cứu độ Vua bình an, hạnh phúc vĩnh cửu
đã đến giữa con người. Chúng con cầu xin, nhờ Ðức Giêsu, Chúa chúng con. Amen.
Cầu Nguyện:
Lạy Cha, chúng con không biết
phải diễn tả thế nào trước niềm vui, niềm hạnh phúc của chúng con khi cảm
nghiệm được tình Cha yêu thương chúng con. Cha đã yêu chúng con nhưng không,
một tình yêu vô điều kiện, một tình yêu vô vị lợi, một tình yêu không biên
giới. Ðức Giêsu là tình yêu cao cả Cha ban tặng chúng con. Lạy Cha, xin ban cho
chúng con ơn khôn ngoan để chúng con biết tôn trọng đón nhận Ðức Giêsu. Có Ngài
hiện diện, tâm hồn chúng con được bình an, gia đình chúng con sẽ tràn đầy niềm
vui, thế gian này được biến đổi thành địa đàng. Chúng con cầu xin, nhờ Ðức
Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.
Mùa Vọng - Sáng Ngày 24 tháng 12 (Lc 1,67-79)
Lời Ca Ngợi Thiên Chúa Của Zacharia
Trong bài trích sách Samuel
quyển thứ II, chúng ta thấy: "Khi ấy vua David ngự trong đền và khi Thiên
Chúa cho ông được bình an tư bề, khỏi mọi quân thù chung quanh thì David nói
với tiên tri Nathan rằng: Ông thấy không, ta ở trong nhà làm bằng gỗ bá hương,
còn Hòm Bia Chúa thì để ở trong lều bằng da ư? Và xảy ra đêm ấy có lời Chúa
phán cùng Nathan rằng: "Hãy đi nói với David tôi tớ của Ta rằng, có phải
ngươi sẽ xây cất cho Ta một ngôi đền để ở chăng? Ta đã đem ngươi ra khỏi đồi cỏ
lúc ngươi còn theo sau đàn chiên để trở nên thủ lãnh Israel dân Ta, và Ta đã ở
cùng ngươi mọi nơi ngươi đi, Ta sẽ làm cho ngươi nên cao trọng như danh các bậc
vĩ nhân trên mặt đất. Nhà của ngươi và triều đại của người sẽ vững bền đến muôn
đời".
Sau khi đem David ra khỏi
nghề chăn chiên để lên làm vua Israel, dẹp yên mọi quân thù thì ý Thiên Chúa
muốn David làm một ngôi Ðền Thờ để thờ phượng Thiên Chúa. Vua David cũng muốn
thế và ông đã thực hiện. Con người không thể cầu nguyện ở những nơi đông đúc
giữa ngã tư đường phố, nơi chợ búa ồn ào được, nhưng cầu nguyện ở nơi yên tĩnh
để tâm sự nói chuyện với Chúa. Chúa Giêsu đã nổi cơn thịnh nộ khi thấy dân Do
Thái biến nơi tôn nghiêm thành nơi buôn bán đổi chác tiền bạc: "Các ngươi
đã biến nhà Ta thành nơi trộm cắp. Nhà Ta là nhà cầu nguyện".
Thiên Chúa hằng vẫn ở với
chúng ta trong Nhà Tạm, Ngài luôn kêu mời mỗi người chúng ta đến với Ngài, đến
để tìm nguồn an ủi trong cuộc sống, đến để tim nguồn nghị lực và sức mạnh để
lướt thắng mọi trở ngại ngăn lối về nhà Cha. Nhưng mấy ai đã tìm đến với Ngài
hay chỉ có ngọn đèn dầu màu đỏ leo lét hẩm hiu vô tri làm bạn với Chúa hằng
ngày mà thôi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay,
Zacharia được đầy tràn Chúa Thánh Thần, ông nói tiên tri về Chúa Kitô là Ðấng
cứu rỗi sẽ đến. Không phải ai cũng có thể nói tiên tri được, chỉ những người
thánh thiện, sống đẹp lòng Chúa, Chúa mới cho họ quyền nói tiên tri, làm phép
lạ, nói được các thứ tiếng loài người như trong ngày lễ ngũ tuần các tông đồ
chỉ giảng bằng tiếng của mình mà những người nghe đều hiểu theo tiếng bản xứ
của họ.
Nhưng Thiên Chúa yêu thích
hơn nếu chúng ta có tâm tình mến Chúa thực sự: "Nếu tôi được ơn nói tiên
tri mà tôi không có đức mến Chúa thì cũng chẳng có ích gì. Nếu làm được nhiều
phép lạ mà tôi không có lòng mến Chúa thì cũng ích gì cho tôi". Ðức tin và
đức cậy sẽ mất khi con người nhắm mắt, chỉ còn lòng mến Chúa là tồn tại mãi
trong Nước Trời. Cho nên Thập Giới của đạo Công Giáo chỉ tóm gọn trong đức
"Mến Chúa - Yêu Người", vì thế mà đạo Công Giáo còn được gọi là đạo
của "Yêu Thương".
Lạy Chúa, xưa Chúa đã
phán: "Nhà Ta là nhà cầu nguyện", xin Chúa cho chúng con luôn nhớ
điều đó để chúng con luôn tìm đến với Chúa trong những lúc âu lo chán nản, đau
khổ và thất vọng để chính lúc đó chúng con biết cầu nguyện cách thật sốt sắng
và chỉ biết bám chặt, tin tưởng trọn vẹn vào Ngài.
Lạy Chúa, luật của Chúa
thật ngắn gọn và đơn sơ, đó là "Mến Chúa và Yêu Người" nhưng không dễ
áp dụng, xin Chúa cho chúng con nhìn thấy Chúa qua mọi người chung quanh để
chúng con dễ yêu mến họ hơn.
Lạy Chúa, hôm nay là ngày
cuối của Mùa Vọng, xin Chúa cho chúng con biết chuẩn bị tâm hồn và thể xác, bên
trong lẫn bên ngoài để chúng con hiệp ý với Giáo Hội hân hoan mừng đón Chúa
Giáng Sinh, vì Ngài đến để đem ơn cứu rỗi và sự bình an cho mọi người. Amen.
(Veritas Asia)
THIÊN CHÚA VIẾNG THĂM
Cả đời sống Đức Giêsu là một cuộc viếng thăm của
Thiên Chúa. Đây là cuộc viếng thăm độc nhất vô nhị, vì là cuộc viếng thăm của
đích thân Con Thiên Chúa.
Suy niệm:
Sau hơn chín tháng bị câm, khi Gioan đã sinh được tám
ngày,
lời
nói đầu tiên của ông Dacaria là một bài ca chúc tụng.
Ông
chúc tụng Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel
vì Ngài đã
viếng thăm và cứu chuộc dân Ngài (c. 68).
Mọi việc
Thiên Chúa sắp làm cho đoàn dân riêng
được
gói gọn trong một động từ rất đơn sơ: viếng thăm.
Thiên Chúa đi thăm dân Ngài để
cứu độ và ban ơn tha tội (c. 77).
Gioan,
con của ông, được hân hạnh là người đi trước mở đường (c. 76).
Dacaria
vui vì niềm vui của cả dân tộc và của riêng gia đình ông.
Thiên
Chúa đi thăm dân qua Đức Giêsu, Người Con Một.
Đó
là Vị Cứu Tinh quyền thế đến từ dòng dõi Đavít (c. 69).
Do
lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa,
Đấng
Mêsia đã được sai đến như Vừng Đông tự chốn cao vời (c. 78).
Vừng
sáng này đến thăm những ai ngồi trong bóng tối sự chết
và đưa
dắt dân Ngài vào con đường bình an (c. 79).
Bình
an là được giải thoát khỏi tay kẻ thù (c. 71), khỏi tội lỗi (c. 77),
là được
tự do phụng thờ Thiên Chúa trên quê hương (cc. 74-75).
Cả đời sống Đức Giêsu là một cuộc viếng thăm
của Thiên Chúa.
Đây
là cuộc viếng thăm độc nhất vô nhị,
vì là cuộc
viếng thăm của đích thân Con Thiên Chúa.
Ngài
không chỉ thăm như người khách ghé qua.
Ngài đã
thăm và ở lại, dựng lều cư ngụ với loài người (Ga 1, 14).
Khi
Đức Giêsu hoàn sinh người con của bà góa thành Nain,
đám
đông reo lên: Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài (Lc 7, 16).
Nhưng
trong thực tế dân Ngài đã khước từ cuộc thăm viếng ấy.
Ngôi Lời đã đến nhà mình,
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (Ga 1, 11).
Mãi
mãi con người có tự do để ở lại trong bóng tối và sự
chết,
và
cũng có quyền khước từ bình an thật của trời cao (Lc 19, 42).
Giêrusalem đã bị sụp đổ vào năm 70 dưới tay kẻ thù,
vì đã
từ khước sự thăm viếng chở che của Thiên Chúa (Lc 19, 44).
Đó
là một bi kịch và hơn nữa, là một thảm kịch.
Tiếc
thay thảm kịch ấy vẫn tiếp diễn trên thế giới.
Hôm
nay Thiên Chúa từ ái, bao dung vẫn đến thăm con người,
và nhiều
người trong chúng ta vẫn giữ thái độ chối từ, khép kín.
Ơn
cứu độ, ơn giải phóng, ánh sáng, và bình an của trời cao,
là những
điều còn xa lạ với bao người, kể cả các Kitô hữu.
Bóng
tối của sự chết, của hận thù ghét ghen vẫn thống trị địa cầu.
Mừng lễ Giáng Sinh là mừng cuộc viếng thăm của Thiên
Chúa.
Cách
duy nhất để mừng là mở cửa lòng cho Con Thiên Chúa vào.
Hãy
tiếp đón Ngài đến với ta dưới những hình thái bất ngờ:
một
trẻ thơ nghèo hèn, yếu đuối; một Mêsia không tấc sắt trong tay;
một ông
thợ mộc ở vùng quê Nadarét; một tử tội bị đóng
đinh thập tự.
Hãy
thắp lên một ngọn nến trong đêm Noel để chào mừng Ánh Sáng.
Cầu nguyện:
Giữa giá rét của mùa đông,
xin cho con gặp Chúa.
Giữa những long đong
và bấp bênh của phận người,
xin cho con gần Chúa.
Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi,
xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.
Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ,
xin cho con cảm được sự bình an của Chúa,
ngay giữa những âu lo hằng ngày.
Xin cho con đón lấy cuộc đời con
với bao điều không như ý.
Và cuối cùng,
xin cho con dám sống như Chúa
vì Chúa đã dám sống như con.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 12
24 THÁNG MƯỜI HAI
Được Chuộc Lại Bởi
Đấng Cứu Độ
Mùa
Vọng, một cách tự nhiên, đem đến cho môi miệng chúng ta lời cầu xin ơn cứu độ.
Chúng ta nhìn lại nỗi thao thức mong chờ ơn cứu độ qua suốt giòng lịch sử Cựu
Ước và tiếp tục vào giai đoạn Tân Ước. Thánh Phaolô nói: "Chúng ta đã được
cứu trong lòng cậy trông" (Rm 8,24) "Vì qua Thánh Thần, nhờ đức tin,
chúng ta mong đợi niềm hy vọng được nên công chính" (Gl 5,5). Ngay cả
những lời cuối cùng của Thánh Kinh cũng là một tiếng kêu van xin Chúa Giêsu,
Đấng Cứu Độ chúng ta, đến và tỏ hiện hoàn toàn: "Lạy Chúa Giêsu, xin hãy
đến!" (Kh 22,20).
Ơn
cứu độ! Đó là niềm khát vọng sâu xa của con người. Mọi trang Kinh Thánh đều làm
chứng điều đó. Thánh Kinh mời gọi chúng ta khám phá nguồn gốc đích thực của ơn
cứu độ. Thánh Kinh cho chúng ta biết Đấng Giải Thoát và Đấng Cứu Chuộc thực sự
của mình là ai.
Kinh
nghiệm nền tảng về ơn cứu độ mà Dân Thiên Chúa đã trải qua trong Cựu Ước là
cuộc giải phóng khỏi ách nô lệ Ai cập. Thánh Kinh gọi đó là sự cứu chuộc, thục
hồi, giải phóng, cứu độ. Đó là hình thức cứu chuộc đầu tiên mà dân Thiên Chúa
kinh nghiệm một cách tập thể trong lịch sử. Hồi ức về ơn cứu độ này in sâu
trong đức tin của Israel.
Biến
cố cứu độ lớn thứ hai trong Thánh Kinh là sự giải phóng khỏi cuộc lưu đày
Babylon. Cả hai biến cố ấy – giải phóng khỏi Aicập và khỏi Babylon – được đan
kết với nhau trong các Sách Ngôn Sứ. Cuộc giải phóng khỏi tình trạng lưu đày
bên Babylon là sự cứu chuộc thứ hai, hay đúng hơn đó là sự tiếp tục và hoàn
thành cuộc cứu chuộc thứ nhất. Và tác nhân của cuộc cứu chuộc ấy vẫn chính là
Thiên Chúa, Đấng Thánh của Israel, Đấng Giải Thoát và Đấng Cứu Chuộc của dân
Người. Ngôn Sứ Giêrêmia nói: "Chúa phán, đây sắp tới ngày Ta sẽ hoàn tất
lời Ta đã hứa với nhà Israel và nhà Giuđa" (Gr 33,14).
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
2Sm 7, 1-5. 8b-12. 14-16; Lc 1, 67-79.
LỜI
SUY NIỆM: “Chúc tụng Đức Chúa, là Thiên Chúa Ítraen đã
viếng thăm cứu chuộc dân Người. Từ dòng dõi trung thần Đavít. Người đã cho xuất
hiện Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta. Như Người đã dùng miệng các vị thánh
ngôn sứ mà phán hứa tự ngàn xưa” (Lc 1,68-70).
Bài ca của ông Dacaria hỏa hợp với tất cả những lời tạ ơn qua nhiều thời đại,
đã đánh dấu lịch sử của Ítraen diễn tả niềm tin và hy vọng vào Đức Chúa là
Thiên Chúa của họ, Đồng thời bài ca này cũng nói lên sự chúc lành của những Vị
tổ phụ cho những nhân vật có vai trò tích cực trong lịch sử cứu độ. Như Ápraham
chúc lành cho Ixaác. Ixaác chúc lành cho Giacóp, và giờ đây ông Dacaria lại
chúc lành cho con mình: “Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng
Tối Cao. Con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người” (Lc 1,75). Mọi tín hữu sẽ hát
lại bài ca này trong ngày vọng lễ Giáng Sinh để tìm lại được niềm hy vọng về
tương lai.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
24 Tháng Mười Hai
Cặp Kính Lão
Tại một viện dưỡng lão nọ, ai ai cũng cảm thấy
vui, vì ngày Giáng Sinh sắp đến. Lễ Giáng Sinh không những là lễ của nhận quà,
mà còn là của tặng quà nữa. Cho nên, dù không dư dả, các lão ông lão bà cũng
cặm cụi suốt ngày để chuẩn bị một món quà gửi tặng cho thân nhân, người quen.
Duy chỉ có một bà lão xem chừng như dửng dưng
trước những rộn rịp xung quanh. Bà ngồi trong một góc nhà, gặm nhấm từng nỗi cô
đơn của mình. Bà không còn một người thân nào trên trần gian này. Kỳ thực, bà
còn một người con trai, nhưng người con ấy kể như đã chết với bà. Từ lâu, anh
đã bị giam trong một trại khổ sai chung thân.
Dù vậy, đối với trái tim của một người mẹ, một
đứa con, cho dù có đốn mạt đến đâu, vẫn là một người con. Cũng như những lão
ông lão bà khác, người đàn bà đáng thương cũng đã có ý nghĩ gửi một món quà cho
đứa con bạc phước của mình. Nhưng bà không có một đồng xu dính túi. Tất cả tài
sản của bà chỉ là cặp kính lão còn đeo trên mắt... Người đàn bà ước ao được gửi
cho người con của mình một gói thuốc lá. Một gói thuốc không là bao, nhưng gói
trọn tình thương mà bà vẫn dành cho anh.
Bà đi trao đổi với các cụ già, nhưng không ai
có gì để trao tặng bà. Cuối cùng, có một ông lão còn một gói thuốc lá, loại
thuốc mà có lẽ con trai bà ưa thích. Nhưng trong viện dưỡng lão này, dường như
ai cũng sống theo nguyên tắc "có qua có lại". Lão ông chỉ trao cho bà
gói thuốc với điều kiện bà cũng trao tặng cho ông một món quà nào đó.
Người đàn bà đành lấy cặp kính khỏi đôi mắt và
trao cho ông lão. Gương mặt người đàn ông sáng rỡ lên vì ông đã có thể đọc được
tỏ tường. Cuộc trao đổi chấm dứt. Người đàn bà gói bao thuốc lá lại thành một
món quà Giáng Sinh quý giá để gửi tặng cho con.
Trở lại góc phòng của mình, người đàn bà làm
một cử chỉ máy móc: bà đưa tay lên mắt để để sửa lại cặp kính lão. Nhưng cặp
kính không còn nữa. Dù vậy, người đàn bà cảm thấy vui hơn bao giờ hết: bởi vì
người con trai của bà nơi trại khổ sai sẽ vui vì nhận được quà Giáng Sinh, bởi
vì lão ông trong viện dưỡng lão sẽ đọc được báo trong những ngày Giáng Sinh.
Quà
tặng chỉ có ý nghĩa khi nó là biểu tượng của người tặng. Người tặng quà không
chỉ gửi đi một cánh thiệp, một cái áo, một chiếc bánh, một món đồ chơi, mà gói
ghém tất cả tình cảm, sự biết ơn, lòng ngưỡng mộ, tâm tình thương mến của mình.
Một cách nào đó, khi tặng quà, chúng ta muốn trao tặng chính bản thân mình.
Do
đó, sự trao tặng nào cũng là một mất mát: mất mát một chút tiền của, mất mát
một ít thì giờ. Sự mất mát càng lớn, thì quà tặng càng có giá trị. Bà cụ trong
viện dưỡng lão trên đây quả thực đã mất mát nhiều: bà đã mất đi một phần ánh
sáng của mình. Nhưng bù lại, niềm vui của người con và niềm vui của người đồng
viện của bà sẽ lớn hơn. Mất đi một chút ánh sáng để cho người khác được thấy,
chấp nhận một chút đau khổ để cho người khác được vui, thua thiệt một phần để
cho người khác được cười: đó là tất cả ý nghĩa của sự tặng quà đích thực.
Nhưng
đó cũng là niềm vui đích thực, bởi vì niềm vui của người chính là niềm vui của
ta. Mục đích của quà tặng là làm cho người khác được vui. Do đó, niềm vui của
người khác phải là quà tặng đích thực mang lại niềm vui cho ta.
Ðó
chính là nghịch lý của Kitô Giáo chúng ta. Càng trao ban, càng mất mát, chúng
ta càng được nhận lãnh.
Chúng
ta sẽ khám phá được nghịch lý ấy trong những ngày mừng lễ Giáng Sinh. Niềm vui
của Thiên Chúa, Vinh Danh của Ngài, quà tặng cao cả nhất mà Ngài đã trao tặng
cho chúng ta: đó là Người Con Một của Ngài. Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi
đã ban Con Một của Ngài.
Chúng
ta đón nhận qùa tặng của Thiên Chúa với tất cả cảm mến tri ân. Nhưng mùa Giáng
Sinh không chỉ là mùa của nhận quà, mà còn là mùa của tặng quà nữa. Chúng ta
hãy dâng tặng Thiên Chúa tất cả con người của chúng ta.
(Lẽ Sống)
Ngày 24
VỌNG GIÁNG
SINH
Trước lễ
Giáng Sinh vài giờ, chúng ta nên đọc lại bài ca (Chúc tụng
"Benedictus"), mà ông già Dacaria đã cất tiếng hát, nhân ngày sinh
của Gioan, con trai ông. Ông vui sướng vì, cuối cùng, đã có người nối dòng; ý thức về tầm quan trọng của
con trai ông, trong dự định của Thiên Chúa, "vì miệng lưỡi ông lại mở ra
và nói được", nên ông lợi dụng để bộc lộ cảm hứng của mình.
Bài ca của
ông hoà hợp với tất cả những lời tạ ơn, qua nhiều thời đại, đã đánh dấu lịch sử
dân ítraen và diễn tả lòng tin và hy vọng của các nhân vật có vai trò tích cực
trong lịch sử, theo các chúc lành của ông Ápraham và các tổ phụ, như tiếng vang
dội lại những tụng ca chiến thắng của ông Môsê và bà Myriam, sau cuộc giải
phóng khỏi Aicập.
Ngày chiến thắng của Thiên Chúa sắp đến. Bất chấp tình hình khó khăn của dân, thiếu chủ chăn, không có tự do thật sự, bị ô danh bởi sự hiện diện của một quyền lực ngoại bang trên đất họ, nhưng ánh rạng đông mọc lên từ ngày Đức Chúa sẽ khẳng định mình là vua và là Đấng giải phóng.
Ngày chiến thắng của Thiên Chúa sắp đến. Bất chấp tình hình khó khăn của dân, thiếu chủ chăn, không có tự do thật sự, bị ô danh bởi sự hiện diện của một quyền lực ngoại bang trên đất họ, nhưng ánh rạng đông mọc lên từ ngày Đức Chúa sẽ khẳng định mình là vua và là Đấng giải phóng.
Đức Maria có thể hát bài ca tiên tri này bên
cạnh cái nôi của Con Mẹ. Mọi tín hữu sẽ hát lại bài ca trong ngày vọng Giáng
Sinh này, để tìm lại được niềm hy vọng về tương lai.
Michel Pinchón
Thứ Hai 24-12
Thánh Charbel
(1828-1898)
T
|
hánh Charbel tên thật là
Youssef Makhlouf, sinh ngày 8 tháng Năm 1828 ở một làng vùng cao nguyên
Lebanon. Cuộc đời Youssef rất bình thường, cũng đi học, đi nhà thờ như bất cứ
ai khác. Ngài yêu quý Ðức Mẹ và siêng năng cầu nguyện. Ngài có hai người chú là
đan sĩ. Ngài âm thầm cầu xin Ðức Mẹ giúp ngài trở thành một đan sĩ. Khi gia
đình muốn ngài kết hôn vì họ thấy có một thiếu nữ rất xinh đẹp trong làng mà họ
tin sẽ là người vợ lý tưởng của ngài thì Youssef lại tin rằng đã đến lúc phải
theo đuổi ơn gọi làm đan sĩ. Ngài gia nhập đan viện Ðức Mẹ ở Mayfuq khi hai
mươi ba tuổi, lấy tên Charbel của vị tử đạo người Syria. Ngài khấn trọn năm
1853 khi hai mươi lăm tuổi. Charbel học làm linh mục và được thụ phong năm
1858. Ngài ở tu viện St. Maron trong mười sáu năm tiếp đó.
Cha Charbel là một người thâm
trầm mà sự yêu quý cầu nguyện là đặc tính nổi bật của ngài. Thỉnh thoảng ngài
lui vào nơi ẩn dật của dòng để cầu nguyện. Và trong hai mươi ba năm cuối đời,
Cha Charbel sống rất kham khổ. Ăn ít, ngủ trên đất, và cầu nguyện lâu giờ.
Nhiều khi, Cha Charbel bay bổng trên không khi cầu nguyện, và ngài rất yêu quý
Thánh Thể.
Vào ngày 16-12-1898, trong
khi cử hành Thánh Lễ, ngài bị tai biến mạch máu não và tám ngày sau ngài đã thở
hơi cuối cùng vào ngày 24-12-1898.
Phép lạ bắt đầu xảy ra tại
ngôi mộ của vị đan sĩ thánh thiện này. Ngài được phong chân phước năm 1965 và
sau cùng, Cha Charbel được Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI tuyên xưng hiển thánh ngày
9-10-1977. Ðức giáo hoàng giải thích rằng, bằng chính đời sống của mình, Thánh
Charbel đã dạy chúng ta con đường đích thực đến với Thiên Chúa. Trong khi xã
hội chúng ta tuyên dương sự giầu sang và tiện nghi, Thánh Charbel, qua gương
mẫu đời sống, ngài đã dạy chúng ta các giá trị khi trở nên nghèo khó, hy sinh
và siêng năng cầu nguyện.
www.nguoitinhuu.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét