Tuần II Mùa Vọng
Bài Ðọc I: Is 35, 1-10
"Chính Thiên Chúa sẽ
đến và cứu thoát các ngươi".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Sa mạc và hoang địa hãy vui
mừng, đồng cỏ hoang hãy hoan hỉ và nở hoa; hãy nở hoa như cây thuỷ tiên, hãy
tràn đầy hân hoan và niềm vui! Hoang địa sẽ được vinh quang của núi Liban, và
vẻ tráng lệ của Carmel và Saron. Chính họ sẽ được thấy vinh quang của Chúa, và
vẻ tráng lệ của Thiên Chúa chúng ta.
Hãy nâng đỡ những bàn tay mỏi
mệt, và hãy làm vững mạnh những đầu gối rã rời. Hãy nói với những tâm hồn xao
xuyến: Can đảm lên, đừng sợ! Này đây Thiên Chúa các ngươi đến để phục thù.
Chính Người sẽ đến và cứu thoát các ngươi.
Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng
lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, và
người câm sẽ nói được, vì nước sẽ chảy lên nơi hoang địa, và suối sẽ chảy nơi
đồng vắng. Ðất khô cạn sẽ trở thành ao hồ, và hoang địa sẽ trở nên suối nước.
Hang dã thú nơi chó rừng ẩn náu sẽ trở thành vườn lau vườn sậy.
Nơi ấy sẽ có những con đường
người ta sẽ gọi là thánh lộ, không tội nhân nào được qua đường đó; đường này sẽ
thuộc về các ngươi, và những kẻ ngây thơ sẽ không lạc lối. Ðường ấy sẽ không có
vết chân sư tử, và không ác thú nào đi trên đường này, chỉ những kẻ được giải
phóng đi trên đó thôi. Những kẻ được Chúa cứu thoát sẽ trở về, và vào thành
Sion với lời ca vang, cùng với triều thiên hân hoan trên đầu họ. Họ sẽ được
niềm vui và hoan hỉ; họ không còn đau khổ và than van.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 84, 9ab-10.
11-12. 13-14
Ðáp: Này đây Chúa chúng ta sẽ đến và cứu độ chúng ta (Is 35,
4d).
Xướng: 1) Tôi sẽ nghe Chúa là
Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an.
Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa, để vinh quang Chúa ngự
trị trong đất nước chúng tôi. - Ðáp.
2) Lòng nhân hậu và trung
thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức
trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống. - Ðáp.
3) Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi
điều thiện hảo, và đất nước chúng tôi sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi
trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Người. - Ðáp.
Alleluia: Lc 3, 4. 6
Alleluia, alleluia! - Hãy dọn
đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng; và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ
của Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 5, 17-26
"Hôm nay chúng tôi đã
thấy những việc lạ lùng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Ngày ấy, Chúa Giêsu đang ngồi
giảng, có cả những người biệt phái và tiến sĩ luật từ các làng mạc xứ Galilêa,
xứ Giuđêa và Giêrusalem đến nghe Người, và Người dùng quyền lực của Thiên Chúa
chữa nhiều người. Người ta khiêng một người bất toại đến, họ tìm cách vào nhà
để đặt người bất toại trước mặt Người. Nhưng không tìm được lối vào, vì dân
chúng quá đông, họ liền trèo lên sân thượng và thả người bất toại xuống giữa cử
toạ trước mặt Chúa Giêsu. Thấy lòng tin của họ, Người nói: "Hỡi người kia,
tội ngươi đã được tha!"
Các luật sĩ và biệt phái bắt
đầu lý luận rằng: "Người này là ai mà dám nói phạm thượng? Trừ một mình
Chúa, ai có quyền tha tội?" Chúa Giêsu biết rõ điều họ suy tính, liền nói
với họ: "Sao các ngươi lại nghĩ trong lòng như vậy? Nói rằng: "Các
tội của ngươi đã được tha", hay nói: "Ngươi hãy đứng dậy mà đi",
đàng nào dễ hơn? Song (như thế là) để các ngươi biết Con Người có quyền tha tội
ở dưới đất". Người nói với người bất toại rằng: "Ta bảo ngươi, hãy
chỗi dậy vác giường về nhà".
Tức thì anh ta chỗi dậy vác
giường đi về nhà và ca tụng Thiên Chúa. Ai nấy đều sợ hãi và ngợi khen Thiên
Chúa; họ kinh sợ và nói: "Hôm nay chúng ta đã thấy những việc lạ
lùng".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Về phương diện thể lý, anh
bất toại này nghèo vì anh không làm được gì cho bản thân mình, mọi sự phải
nương nhờ người khác. Thế nhưng tâm hồn anh ta rất giàu vì có một niềm tin vững
mạnh vào Thiên Chúa. Chính nhờ niềm tin đó đã giúp anh bám chặt vào Chúa và
được chữa lành.
Cầu Nguyện:
Lạy Cha, chúng con cảm tạ
Cha, vì chúng con đã được diễm phúc làm con Cha, được sống trong ân sủng của
Cha. Thế nhưng, đức tin nơi chúng con vẫn còn lu mờ vẩn đục. Niềm tin của anh bất
toại này đã làm thức tỉnh chúng con. Xin cho dù giữa những thăng trầm trong
cuộc sống, chúng con luôn vững tin rằng Cha vẫn hằng yêu thương che chở. Chúng
con cầu xin, nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Tỉnh Thức Và Ðợi Chờ
Trong chuyện rất ngắn có tựa
đề: "Ðồng Vọng Ngược Chiều" được đăng trong tuyển tập rất ngắn do Nhà
Văn xuất bản. Tác giả Lã Tế Sanh có kể lại chuyện gặp gỡ vô cùng cảm động giữa
hai người mù. Một lão bà mù ăn xin và một bé gái mù cũng ăn xin:
- Bên một đống rác lớn, bà
lão van vỉ nài nỉ khách qua đường giúp đỡ, nhưng không có một hồi âm nào ngoài
tiếng vo ve của mấy con nhặng xanh đang tranh ăn trên một chiếc lá bánh. Bà lão
tiếp tục van vỉ: vẫn điệp khúc cũ, nhưng càng về sau càng thắm thiết não nề,
những câu nói rời rạc như chạy ra từ cái miệng dúm dó xệch xạc của bà.
- Trong khi đó thì tại một
gốc cây sấu già, một bé gái ăn xin mù lòa đang thiu thỉu ngủ, nằm lăn lóc bên
cạnh, bộ ngực gầy trơ của con bé thấp thỏm. Nó gối đầu trên cái túi dúm dó khâu
bằng bốn năm loại vải cũ, sờn, một cái bát sắc hoen rỉ, làn áo cáu bẩn nhầu
nát. Từ sáng tới giờ chưa có gì trong bụng cho nên bé Chi đói rũ người, nó hy
vọng giấc ngủ xua đuổi tan cái đói. Mọi ngày vào tầm này, mẹt ra nó cũng xin đủ
tiền mua hai cái bánh mì, hôm nay xấu quảy thế nào chỉ được tờ 200 đồng mất
góc.
Bỗng bé Chi giật thót người,
có một bàn chân nào đó dẫm lên người nó, đang lúc đói, mệt, nó gầm lên:
- Mù à! Người ta nằm thế mà
dẫm lên.
Bà lão ăn xin mù lại van vỉ:
- Bà mù! Bà mù thật cháu à!
Thôi bà đã trót. Cho bà xin.
Lặng đi một lát. Bé Chi đưa
hai tay sờ mặt mình, từ hai hốc mắt của nó, những giọt nước mắt mặn chác rỉ ra.
Nó ngập ngừng:
- Cháu! Cháu xin lỗi bà: cháu
không biết bà như thế.
Bà lão ngút ngoắc cái đầu như
thể chấp nhận rồi tiếp tục đi về phía có đông người. Ngẫm ngợi điều gì đó lung
lắm, bé Chi lấy trong túi áo ra tờ giấy bạc 200 đồng mất góc quả quyết:
- Bà ơi! Cháu bảo bà này (bà
lão dừng ngay lại). Bà ơi! Cháu biếu bà.
Nhưng gió thổi, lá rơi vào
nón, bà lão ngộ nhận cô gái trác mình, còn cô gái thì lại chờ mãi vẫn không
thấy bà lão nhận tiền.
*
*
*
Quí vị và các bạn thân mến,
Chuyện rất ngắn trên đây có
thể gợi lên cho chúng ta một ít suy nghĩ về Mùa Vọng. Mùa Vọng là mùa của đợi
chờ và tỉnh thức. Hai nhân vật mù trên đây quả thực có thể gợi lên cho chúng ta
một thái độ đợi chờ và tỉnh thức theo đúng nghĩa của Tin Mừng.
Cụ già mù lỡ dẫm lên chân của
cô gái đã có thể mở miệng khiêm tốn nói lên hai tiếng xin lỗi. Cô gái mù không
những biết mở miệng xin lỗi cụ già lại còn biếu tặng cho cụ già phần mình kiếm
được giữa lúc bụng không có lấy một hạt cơm. Xem ra những người mù trong câu
chuyện còn sáng suốt hơn chính những người khỏe mạnh vẫn tiếp tục mù điếc trước
những nỗi khổ và những lời van vỉ của những kẻ túng cùng.
Mùa Vọng là mùa của đợi chờ.
Sự đợi chờ của mùa vọng xoay quanh ba biến cố: Chúa Giêsu đã đến - Ngài đang
đến và Ngài sẽ đến trong ngày sau hết: Ðã đến, đang đến và sẽ đến đối với Chúa
Giêsu cũng là một. Hôm qua, hôm nay và mãi mãi Ngài vẫn là một, cho nên người
tín hữu Kitô luôn luôn tỉnh thức để đợi chờ ngày Ngài đến trong từng biến cố
của cuộc sống.
Ðợi chờ và tỉnh thức chính là
biết luôn sẵn sàng đợi chờ và đón nhận Ngài trong từng con người, nhất là những
người cùng khổ. Cuộc sống như thế là một đợi chờ và tỉnh thức triền miên. Nó
không cần có những biến cố lớn để trở thành đáng sống mà được dệt bằng muôn vàn
những gặp gỡ từng ngày, từng phút, từng giây, trong đó, một cử chỉ nhỏ như một
lời chào hỏi, một tiếng xin lỗi, một lời cám ơn, một ánh mắt chào đón, một nụ
cười tươi, cũng đủ để trở thành một gặp gỡ với Chúa Kitô.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần II MV
Bài đọc: Isa
35:1-10; Lk 5:17-26.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Tội lỗi
Truyền thống Do-Thái tin
có một sự liên hệ giữa tội lỗi và hình phạt. Một ví dụ điển hình là chủ đề
chính của các Sách Tiên Tri: vì Israel phạm tội bất trung với Thiên Chúa, nên
Ngài đã dùng Assyria và Babylon như roi để sửa phạt họ. Tuy nhiên, Thiên Chúa
không muốn họ bị tiêu diệt muôn đời, nhưng muốn họ ăn năn hối cải để được sống.
Trong Bài đọc I, Tiên Tri Isaiah cho thấy hình ảnh huy hòang khi dân chúng biết
ăn năn xám hối, họ sẽ được trở về từ nơi lưu đày và được gặp gỡ Thiên Chúa.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu Thế mà các tiên tri nói tới. Ngài
có năng quyền chữa lành mọi bệnh phần hồn (tội lỗi) và phần xác.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Niềm
vui vì được cứu độ
1.1/ Sự khác biệt giữa 2
cuộc sống: có
Chúa và không có Chúa.
(1) Khi có Chúa can
thiệp, sa mạc khô cằn trở nên vùng đất phì nhiêu: “Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ
cháy, vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông, hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ,
và hân hoan múa nhảy reo hò. Sa mạc được tặng ban ánh huy hoàng của núi Liban,
vẻ rực rỡ của núi Carmen và đồng bằng Sharon. Thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy
hoàng của Đức Chúa, và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng ta.”
(2) Con người có can đảm
để sống:
“Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ, cho những đầu gối bủn rủn được
vững vàng. Hãy nói với những kẻ nhát gan: "Can đảm lên, đừng sợ! Thiên
Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công,
phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em."”
(3) Mọi bệnh tật sẽ được
chữa lành:
“Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy
nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.”
1.2/ Chỉ có những ai tay
sạch lòng thanh mới được tiến về Núi Thánh: Kẻ dữ sẽ không được trở về: “Ở đó sẽ có một
đường đi mang tên là thánh lộ. Kẻ ô uế sẽ chẳng được qua. Đó sẽ là con đường
cho họ đi, những kẻ điên dại sẽ không được lang thang trên đó.” Những người
được Đức Chúa giải thoát sẽ trở về, tiến đến Sion giữa tiếng hò reo, mặt rạng
rỡ niềm vui vĩnh cửu. Họ sẽ được hớn hở tươi cười, đau khổ và khóc than sẽ biến
mất.
2/
Phúc Âm: Này
anh, anh đã được tha tội rồi!
2.1/ Năng quyền chữa bệnh
của Đức Kitô:
Không ai có thể phủ nhận năng quyền chữa bệnh của Đức Kitô, ngay cả các Kinh-sư
và Biệt-phái. Điểm đặc biệt trong trình thuật của Tin Mừng Luca hôm nay là cách
thức họ đưa bệnh nhân đến với Chúa Giêsu và cuộc đối thọai giữa Chúa Giêsu với
các Kinh-sư và Biệt-phái về năng quyền tha tội của Ngài.
“Một hôm, khi Đức Giêsu
đang giảng dạy, có mấy người Biệt-phái và Kinh-sư ngồi đó; họ từ khắp các làng
mạc miền Galilee, Judah, và Jerusalem đến. Quyền năng Chúa ở với Người, khiến
Người chữa lành các bệnh tật. Bỗng có mấy người khiêng đến một bệnh nhân bị bại
liệt nằm trên giường, họ tìm cách đem vào đặt trước mặt Người. Nhưng vì có đám
đông, họ không tìm được lối đem người ấy vào, nên họ mới lên mái nhà, dỡ ngói
ra, thả người ấy cùng với cái giường xuống ngay chính giữa, trước mặt Đức
Giêsu.”
2.2/ Năng quyền tha tội
của Đức Kitô:
Cuộc đối thọai của Chúa Giêsu và các Kinh-sư cùng Biệt-phái tập trung trong đề
tài chính là Chúa Giêsu có quyền tha tội không? Để chứng minh cho họ thấy Ngài
vừa có quyền chữa bệnh vừa có quyền tha tội; nói cách khác, Ngài chính là Thiên
Chúa; Chúa Giêsu dùng 2 niềm tin của họ để dẫn họ đến những điều họ phải chấp
nhận.
(1) Niềm tin thứ nhất: tội lỗi và hình phạt.
Truyền thống Do-Thái tin có sự liên hệ giữa tội lỗi và hình phạt; bệnh tật có
thể là do tội của cá nhân đó hay cha mẹ anh ta, vì “đời cha ăn mặn, đời con
khát nước” (Jn 9:2, 34). Sách Xuất Hành tin cơn giận của Thiên Chúa sẽ gíang
xuống tới 5 đời con cháu (Exo 20:5).
(2) Niềm tin thứ hai: chỉ Thiên Chúa mới có
quyền tha tội. Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đối thọai với họ về năng quyền tha tội,
khi Người bảo anh bại liệt: "Này anh, anh đã được tha tội rồi." Các
Kinh-sư và các người Biệt-phái bắt đầu suy nghĩ: "Ông này là ai mà nói
phạm thượng như thế? Ai có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa?" Điều
họ nghĩ không sai: chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội (Isa 43:25, 55:7). Bất
cứ ai tự nhận mình có quyền tha tội là phạm thượng, vì đã tự coi mình ngang
hàng với Thiên Chúa.
(3) Lý luận của Chúa
Giêsu: Hình
phạt được tha là tội lỗi được tha. Theo thủ tục của tòa án, hình phạt chỉ ra
sau khi đã kết án tội phạm; nếu chánh án tuyên bố tha bổng, đương sự không có
tội gì nữa. Ngay cả trong trường hợp đang xảy ra: Nếu các Kinh-sư và Biệt-phái
tin hình phạt là do tội lỗi gây ra, họ cũng phải tin nếu hình phạt (bệnh liệt)
bị lấy đi, tội lỗi cũng được tha.
Chúa Giêsu thấu biết họ
đang suy nghĩ như thế, nên Người lên tiếng bảo họ rằng: "Các ông đang nghĩ
gì trong bụng vậy? Trong hai điều: một là bảo: "Anh đã được tha tội
rồi!" hai là bảo: "Đứng dậy mà đi!" điều nào dễ hơn? Đối với họ,
điều dễ là điều thứ nhất; đối với Chúa Giêsu, cả hai điều đều dễ dàng. Ngài có
cả quyền chữa lành và quyền tha tội.
(4) Hệ quả thứ nhất: Đức Kitô có quyền tha
tội. Chúa Giêsu nói với họ: “Vậy, để các ông biết ở dưới đất này, Con Người có
quyền tha tội, Đức Giêsu bảo người bại liệt: “Tôi truyền cho anh: Hãy đứng dậy,
vác lấy giường của anh mà đi về nhà!" Ngay lúc ấy, người bại liệt trỗi dậy
trước mặt họ, vác cái anh đã dùng để nằm, vừa đi về nhà vừa tôn vinh Thiên
Chúa.
(5) Hệ quả thứ hai: Đức Kitô là Thiên Chúa.
Nếu các Kinh-sư và Biệt-phái thành tâm theo niềm tin của họ tới cùng, đó là:
“Không ai có quyền tha tội ngòai Thiên Chúa;” họ sẽ nhận ra Đức Kitô là Thiên
Chúa, vì Ngài vừa có năng quyền chữa bệnh vừa có năng quyền tha tội. Nhưng họ
đã không nhận ra những gì mà tòan dân nhận ra, vì sự ghen tị của họ: “Mọi người
đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa. Họ kinh hãi bảo nhau: "Hôm nay, chúng
ta đã chứng kiến những chuyện lạ kỳ!"”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta không thể đón
Chúa với tâm hồn tội lỗi, vì Chúa là Đấng vô cùng Thánh Thiện (I Jn 1:5).
- Con người chúng ta ai
cũng phạm tội; vì thế, chúng ta cần xưng thú tội lỗi trước khi được tha thứ và
giao hòa với Thiên Chúa. Nếu ai nói mình không phạm tội, người đó là kẻ nói dối
và sự thật không có trong họ (I Jn 1:8).
- Chúa Giêsu có quyền
tha tội, và Ngài ban cho các môn đệ và các linh mục (những người kế vị) quyền
cầm giữ và tháo cởi (x/c Mt 16:19, Lk 24:47, Jn 20:23). Chỉ cần chuẩn bị một
thời gian ngắn và xưng thú tội lỗi, chúng ta sẽ được Chúa ngự vào lòng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
Thứ Hai tuần 2 Mùa Vọng
Sứ điệp: Người ta đã khiêng người bại liệt đến cùng Chúa
Giêsu. Họ dỡ ngói và thả người ấy xuống. Thấy họ có lòng tin, Chúa Giêsu đã tỏ
dấu yêu thương người bại liệt ấy. Chúa vẫn hằng sống, Ngài sẵn sàng tỏ dấu yêu
thương chúng ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con đến với Chúa đem theo những người thân trong
gia đình. Con đến với Chúa đem theo mọi người trên thế giới: những con người
mỏng dòn và đầy khuyết điểm. Con đang rẽ qua các lo toan, qua các công việc,
qua mọi cảnh huống, qua cả những mệt nhọc sau một ngày lao động, và qua cả
những khuynh hướng muốn an nhàn nghỉ ngơi thoải mái, con rẽ qua và cố gắng vượt
mọi khó khăn để đến với Chúa. Con biết Chúa đến không phải vì mục đích trần
tục, vật chất, nhưng vì yêu chúng con và muốn giải thoát chúng con khỏi chứng
bại liệt thiêng liêng, khỏi những tính hư tật xấu. Như Chúa đã tha tội cho
người bại liệt, thì xin Chúa cũng thương tha thứ những yếu đuối của con và những
người con yêu mến.
Chính vì Chúa nhìn thấy tình thương và lòng tin
của những người khiêng, mà Chúa đã làm cho người bại liệt được khỏi. Con cũng
muốn thực sự yêu thương và hy sinh giúp đỡ, để đưa người khác đến với Chúa. Xin
Chúa giúp con.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến để tỏ cho con biết bộ
mặt thật của Thiên Chúa: bộ mặt “Yêu thương tha thứ” chứ không phải bộ mặt hình
sự hay bộ mặt kết án. Ngày ngày biết bao người thuộc mọi lứa tuổi và bậc sống
hằng được Chúa cho “chỗi dậy” nhờ quyền năng vô hình của ân sủng cứu độ. Xin
cho con luôn biết tin tưởng và đầy lòng thống hối mà đến cùng Chúa. Amen.
Ghi nhớ:"Hôm nay chúng tôi đã thấy
những việc lạ lùng".
www.phatdiem.org
10/12/12 THỨ HAI TUẦN 2
MV
Lc 5,17-26
Lc 5,17-26
MONG CHỜ BẰNG
LÒNG TIN
"Vì có đám đông, họ
không tìm được lối đem người ấy vào, nên họ mới lên mái nhà, dỡ ngói ra, thả
người ấy cùng với cái giường xuống ngay chính giữa, trước mặt Đức Giê-su".(Lc 5,19)
Suy niệm: Người ta thường nói: “Hữu sự
vái tứ phương.” Các người thân của người bại liệt này không vái tứ phương mà họ
tin, tin vào Đức Giêsu có quyền năng chữa lành mọi bệnh tật. Ngay cả khi mọi
ngõ ngách vào nhà đã bị bịt kín, họ vẫn tìm ra một lối đi “không giống ai”, đó
là dỡ mái nhà, đưa người bại liệt xuống “trước mặt Chúa Giêsu” để được Ngài
chữa lành. Lòng khao khát được chữa lành được đức tin thúc đẩy khiến họ đã nghĩ
ra những phương thức mà bình thường chẳng ai nghĩ ra, dám có những hành động mà
sự thường chẳng ai dám làm. Họ đã mở một “lối đi” riêng mà chỉ những người có
lòng tin mới “sáng kiến” ra. Trước lòng tin này, Đức Giêsu đã ban cho họ điều
họ mong chờ, là chữa lành người bại liệt.
Mời Bạn: Mùa Vọng là mùa mong chờ: mong
chờ Chúa lại đến trong vinh quang khi tưởng niệm Chúa giáng sinh trong xác
phàm. Mong chờ không phải là ngồi há miệng chờ sung, mà là vạch một con đường
hành động đưa mình đến với tha nhân và đưa tha nhân cùng với mình đến với Chúa.
Lòng mong chờ trong niềm tin được hiện thực hoá bằng việc làm của đức tin, vì:
“Đức tin không việc làm là đức
tin chết” (Gc 2,17).
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày suy niệm Lời Chúa, bạn
hãy quyết tâm làm một việc cụ thể, dù nhỏ, để thực thi Lời Chúa đó.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, để chữa bệnh cho một
người có khi Chúa dùng đức tin của những người khác. Xin cho chúng con có một
đức tin mạnh mẽ để chúng con đưa tha nhân đến với Chúa.
www.5phutloichua.net
Đứng dậy mà đi
Mùa Vọng là thời gian trỗi dậy, ra khỏi sự bất toại và bước
đi. Có những bệnh bất toại về mặt thiêng liêng, khiến tôi không đến gần Chúa
được, cũng không dám đến với anh em.
Suy niệm:
Bệnh tật nơi thân xác con
người
có thể tượng trưng cho một thứ
bệnh tật nào đó nơi tinh thần.
Ít người mắc bệnh câm, nhưng
ai cũng có kinh nghiệm về sự câm nín,
do sợ hãi của chính mình hay
do bị đe dọa bắt phải im.
Ít người mắc bệnh điếc, nhưng
lại có quá nhiều cuộc đối thoại
mà hai bên chẳng hiểu nhau, vì
mất khả năng nghe.
Người mù không phải chỉ là
người không thấy ánh mặt trời,
nhưng còn là người không dám
thấy ánh sáng của sự thật,
không nhận ra hình ảnh người
anh em nơi khuôn mặt kẻ thù.
Không phải ai cũng có bàn tay
khô bại, không duỗi ra được,
nhưng ai cũng có lần thấy mình
khó đưa tay ra để bắt tay người khác.
Đức Giêsu đã chữa cả thảy bao
nhiêu bệnh nhân, chúng ta không biết.
Nhưng chắc Ngài đã không dừng
lại ở việc chữa lành thân xác.
Ngài muốn một sự lành mạnh nơi
toàn diện con người.
“Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót
như nai” (Is 35, 6).
Lời của ngôn sứ Isaia trong
bài đọc 1 đã ứng nghiệm.
Khi anh bại liệt trỗi dậy, vác
giường và đi một mạch về nhà,
chúng ta thấy niềm vui bừng
tỏa trên khuôn mặt của anh và các bạn.
Cả gia đình của anh cũng sẽ
ngập tràn hạnh phúc
khi thấy anh trở về, đi đứng
như một người bình thường.
Nhưng có điều họ không nhận ra
đó là chuyện anh được tha tội.
Đức Giêsu đã tha tội cho anh
dù anh không xin,
vì điều anh quan tâm chỉ là sự
bất toại thể lý.
Nhưng tâm hồn anh đã bước đi,
trước khi đôi chân anh đi
được.
Sự trỗi dậy của anh là sự trỗi
dậy của cả hồn lẫn xác.
Đức Giêsu có cơ hội để tỏ cho
nhóm các luật sĩ và Pharisêu thấy
không nhất thiết phải đi gặp
tư tế và dâng lễ đền tội mới được tha.
Chỉ bằng một lời nói đơn sơ dễ
dàng, Ngài có quyền ban ơn tha thứ.
Chính việc anh bất toại được
chữa lành làm chứng về quyền năng này.
Ngược với thái độ tin tưởng
táo bạo của anh bất toại và các bạn,
là thái độ thụ động ngồi của
các luật sĩ và Pharisêu.
Họ cứng nhắc trong suy nghĩ
truyền thống của mình :
chỉ một mình Thiên Chúa mới có
thể tha tội.
Họ không tin Đức Giêsu được
chia sẻ quyền ấy từ Cha,
dù họ đã tận mắt thấy anh bất
toại đi được.
Mùa Vọng là thời gian trỗi
dậy, ra khỏi sự bất toại và bước đi.
Có những bệnh bất toại về mặt
thiêng liêng,
khiến tôi không đến gần Chúa
được, cũng không dám đến với anh em.
Có những bất toại về trí tuệ
khiến tôi bị kẹt
trong những định kiến, thiên
kiến, thành kiến,
không dám mở ra để đón nhận
những sự thật bất ngờ và đáng sợ.
Có những bất toại về tình cảm
khiến tim tôi như bị cầm tù,
không sao thoát khỏi được
chuyện yêu ghét oán hờn dai dẳng.
Xin Giêsu giải phóng tôi, cho
tôi khỏi bất toại, để tôi được tự do.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sống cho Chúa thật là điều
khó.
Thuộc về Chúa thật là một
thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con
và thuộc về con từ lâu. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
"Hôm nay chúng tôi đã thấy những việc lạ lùng".
Chữa người bất
toại, Quyền tha tội.
Một
buổi sáng tháng 7/1971, tại một thành phố bên Hoa kỳ, một người đàn ông đã đến
nộp mình tại một trạm cảnh sát gần nhà. Ông thú nhận đã giết một người đàn bà
cách đó 21 năm. Ông cho biết trong 21 năm qua, ông không bao giờ chợp mắt được
mỗi khi màn đêm phủ xuống. Ông nói: “Chỉ vì một phút say sưa, tôi đã biến 21
năm qua thành một cơn ác mộng. Giờ đây sau khi thú nhận tội lỗi, tôi cảm thấy
thanh thản trong lương tâm, tôi cảm thấy như được tái sinh”.
Những
câu chuyện nộp mình và thú nhận tội lỗi như trên đây không phải là chuyện hiếm
có trong lịch sử nhân loại. Riêng với người Kitô hữu, đó là một phần của cuộc
sống đức tin. Trong những cao điểm của năm phụng vụ, lời nhắc nhở của Giáo Hội
về nghĩa vụ này lại càng tha thiết hơn. Đặc biệt mỗi khi Mùa Vọng về, Giáo Hội
khẩn khoản kêu mời chúng ta chuẩn bị tâm hồn đón Chúa Giáng sinh, Chúa của Hòa
bình. Làm sao chúng ta cảm nhận được bình an trong tâm hồn, nếu tội lỗi vẫn còn
đè nặng lương tâm của chúng ta?
Có
lẽ, vì muốn nhắc nhở chúng ta về sự cần thiết của Bí tích giao hòa, mà hôm nay
Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe việc Chúa Giêsu chữa lành một người bất toại.
“Này anh, tôi anh đã được tha rồi”. Lời khẳng quyết của Chúa Giêsu với người
bất toại cho chúng ta thấy được ý nghĩa đích thực của niềm tin được tuyên xưng
bởi chính miệng anh và đám đông khiêng anh đến trước mặt Chúa. Thật thế, tuyên
xưng niềm tin trước tiên là nhìn nhận thân phận tội lỗi bất toàn của mình. Ngày
nay, nhiều người đã có lý để liên kết cơn khủng hoảng đức tin với việc đánh mất
ý thức tội lỗi. Quả thực khi con người không còn ý thức về tội lỗi nữa, thì
điều đó cũng có nghĩa là trong sâu thẳm của tâm hồn, con người cũng không còn
cảm nhận được mối liên kết của mình với Thiên Chúa nữa. Đánh mất ý thức về tội
lỗi cũng có nghĩa là gạt bỏ Thiên Chúa và chối bỏ những giá trị siêu việt trong
cuộc sống.
Tuyên
xưng đức tin không những là nhận ra thân phận tội lỗi, bất toàn của mình, nhưng
còn là nhìn nhận quyền năng cứu rỗi của Thiên Chúa. Chỉ một mình Thiên Chúa
Đấng tạo dựng con người mới có thể tái tạo, nghĩa là tha thứ cho con người. Tha
thứ đối với con người là tái lập một quan hệ đã bị phá vỡ. Còn đối với Thiên
Chúa, tha thứ chính là tái tạo, là ban lại một sức sống mới đã bị đánh mất.
Quyền năng tái tạo ấy của Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã muốn thể hiện qua các phép
lạ của Ngài, nhất là các phép lạ chữa bệnh tật con người. Qua các phép lạ ấy,
Chúa Giêsu cho chúng ta thấy chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tha thứ cho con
người, chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tái tạo con người. Đó là lý do tại
sao trong phép lạ chữa người bất toại, Ngài đã nói đến hành động tha thứ của
Thiên Chúa.
Được
Thiên Chúa tha thứ, được Thiên Chúa cứu rỗi, được Thiên Chúa tái tạo để biến
thành một tạo vật mới, đó là sứ điệp quan trọng nhất mà Chúa Giêsu đã mang đến
cho con người. Ngày nay, qua Giáo Hội, Chúa Giêsu cũng không ngừng nói với
chúng ta sứ điệp ấy. Qua Giáo Hội, Ngài không ngừng nói với chúng ta như Ngài
đã từng nói với các bệnh nhân và những người tội lỗi đương thời của Ngài: “Hãy
can đảm lên, tôi con đã được tha”. “Ta cũng không kết án con”.
Mùa
Vọng, tâm hồn chúng ta cảm thấy rạo rực hân hoan vì bầu khí chuẩn bị mừng Chúa
Giáng sinh. Những chuẩn bị bên ngoài là cần thiết để gợi lên cho chúng ta ý
nghĩa đích thực của Lễ Giáng sinh. Chúa Giêsu đã Giáng sinh là để chúng ta được
sinh lại, được tái sinh. Chúng ta cần được Ngài tha thứ và tái tạo, do đó không
có chuẩn bị nào cần thiết hơn là đến với Ngài trong Bí tích giải tội để được ơn
tha thứ. Vào cuối đời, Đức Gioan XXIII đã ghi lại trong nhật ký của Ngài: “Có
hai ngõ dẫn chúng ta vào thiên đàng: một là tấm lòng trong sạch, hai là sự
thống hối. Là những con người yếu đuối mỏng dòn, không ai trong chúng ta dám
nghĩ đến ngõ thứ nhất, tuy nhiên chúng ta có thể tin chắc vào ngõ thứ hai, Chúa
Giêsu đã đi qua ngõ ấy”. Ngài đã mang lấy Thập giá để đền bù tội lỗi chúng ta
và mời gọi chúng ta bước theo Ngài. Nhưng theo Ngài cũng có nghĩa là sám hối,
chấp nhận mỗi ngày cần được thanh tẩy thêm.
Ước
gì Bí tích giải tội mà chúng ta sốt sắng lãnh nhận trong mùa vọng này đem lại
cho chúng ta bình an đích thực, bình an mà các Thiên thần loan báo trong đêm
Giáng sinh:
“Vinh
danh Thiên Chúa trên trời,
Bình
an dưới thế cho người thiện tâm”
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Chúng ta không có
tội ư?
“Vậy, để các ông biết: ở dưới
đất này, Con Người có quyền tha tội- Đức Giêsu bảo người bại liệt-: tôi truyền
cho anh: hãy đứng dậy, vác lấy gường của anh mà đi về nhà”. Ngay lúc ấy, người
bại liệt chỗi dậy trước mặt họ, vác cái anh đã dùng để nằm, vừa đi về nhà vừa
tôn vinh Thiên Chúa. (Lc. 5, 24-25)
Thật đáng kinh ngạc, Đức Kitô
suốt đời bận tâm lo lắng cho các tội nhân. Thánh Mát-thêu nói với chúng ta
rằng: “Chính là để cứu dân mình khỏi tội lỗi, Người đã sinh ra bởi Đức Nữ đồng
trinh Maria” (Mt. 1, 21). Thánh Phao-lô quả quyết: “Đức Kitô đã chết cho chúng
ta là những kẻ tội lỗi” (1Cor. 15, 3). Tin mừng hôm nay nhắc chúng ta nhớ rằng
Đức Kitô đã chữa người tê liệt để cho chúng ta biết rằng: “Con Người có quyền
tha tội trên trái đất”.
Khi chúng ta ý thức mình thật sự
là kẻ tội lỗi, chúng ta sẵn sàng xưng thú tội lỗi, mới là bằng chứng tốt đẹp
nhất.
Từ nhiều năm nay, có nhiều cái
thay đổi rất lớn. Chẳng những chúng ta không xưng tội - mà có thể nói hơn nữa -
càng ngày chúng ta càng mất ý thức về mình là kẻ tội lỗi. Chúng ta đã đi từ
thái cực này đến thái cực kia: xưa đã thấy tội ở khắp nơi. “Nay không có tội
nữa”, ngày nay người ta nghe nói như thế.
Có chắc như vậy không? Nếu chúng
ta có can đảm và lương thiện xét mình một cách nghiêm chỉnh dưới ánh sáng của
Tin mừng, chúng ta sẽ thấy ngay rằng chúng ta cần được tha thứ thường xuyên.
Thiên Chúa muốn chúng ta sống cho
người khác, còn chúng ta lại luôn luôn chỉ nghĩ đến mình. Thiên Chúa muốn chúng
ta hướng tới những người đau khổ và chia sẻ với những người xấu số hơn mình;
còn chúng ta vẫn sống keo kiệt về thời giờ, tiền bạc, tình yêu. Thiên Chúa mong
cho chúng ta là những chứng nhân Tin mừng trong thế gian; còn chúng ta quá e dè
đỏ mặt vì mình là người Kitô hữu.
Thánh Gioan Tông đồ đã viết: “Nếu
chúng ta cho mình là không có tội, chúng ta đã tự lừa dối mình, và sự thật
không có ở trong chúng ta” (1Ga. 1, 8)
Để cử hành Thánh lễ, cần phải
sống trong sự thật.
J.Y.G.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 12
10 THÁNG MƯỜI HAI
Đức Ma-ri-a Vô Nhiễm
‘Vô
Nhiễm’ không duy chỉ có nghĩa rằng Đức Maria đã được dành cho một chỗ đặc biệt
trên tất cả số còn lại của chúng ta. ‘Vô Nhiễm’ cũng không có phải là Mẹ được
tách ra khỏi tất cả chúng ta – là những kẻ phải chịu di lụy của tội nguyên tổ.
Phải
nói hoàn toàn ngược lại mới đúng. Mẹ đứng ở giữa cuộc chiến thiêng liêng chống
lại Vua của Tối Tăm và Cha của Dối Trá – là kẻ thù của người phụ nữ và miêu duệ
người phụ nữ.
Qua
Sách Sáng Thế, chúng ta có thể nhìn thấy Đức Nữ Trinh Vô Nhiễm với tất cả sự
thật của việc Mẹ được tuyển chọn. Chúng ta có thể nhìn thấy Mẹ ở tột đỉnh của
mối thù ấy: dưới chân Thập Giá Chúa Kitô trên đồi Canvê. Chính ở đó mà ‘Người
sẽ đạp nát đầu mi, còn mi cố cắn gót chân Người’. Trả giá bằng chính mạng sống
mình, Đức Kitô đem lại cho chúng ta sự chiến thắng trên Satan, trên tội lỗi và
sự chết.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Is 35, 1-10; Lc 5, 17-26.
LỜI
SUY NIỆM: “Và kìa có mấy người khiêng đến một bệnh nhân
bị bại liệt nằm trên gường, họ tìm cách đem vào đặt trước mặt Người” (Lc 5,18).
Trong câu chuyện mấy người cùng khiêng một người bại liệt đến với Chúa Giêsu để
xin Ngài chữa lành, khi gặp trở ngại bởi đám đông họ không thể đến gần được, họ
đã trèo lên mái nhà, lật mái để thòng bệnh nhân trước mặt Chúa, điều này chắc
có rất nhiều người cho là khùng điên. Trong xã hội ngày hôm nay, giữa chúng ta
biết bao nhiêu tổ chức từ thiện họ cũng đang làm như vậy, như là thực hiện căn
nhà tình thương, căn nhà mơ ước, vượt lên chính mình, lục lạc vàng, trái tim
cho em… và còn rất nhiều chương trình phục vụ người nghèo và người khuyết tật
nữa, nhưng rồi có rất nhiều người lại cho đó là cách quảng bá thương hiệu để
làm giàu. Còn mỗi người của chúng ta thì sao? Trong khi Giáo hội đặt chúng ta
trước một nguyên tắc sống “Ưu tiên chọn lựa người nghèo”
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
10 Tháng Mười Hai
Quyền Con Người
Ngày mùng 10 tháng 12 năm 1948, Ðại Hội Ðồng
Liên Hiệp Quốc đã long trọng tuyên bố bản tuyên ngôn quyền con người... Ðây là
lần đầu tiên trong lịch sử nhận loại, cộng đồng thế giới đã đảm nhận trách
nhiệm quảng bá và bênh vực quyền con người như một nghĩa vụ trường kỳ.
Khoản 1 và 2 của bản tuyên ngôn nhân quyền đã
khẳng định rằng: Tất cả mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng trong phẩm giá
và quyền lợi, và mỗi một cá nhân, không phân biệt chủng tộc, màu da, phái tính,
ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, nguồn gốc dân tộc hay xã hội... đều được hưởng
mọi quyền lợi và tự do, được công bố trong bản tuyên ngôn.
Trong 21 khoản đầu của tuyên ngôn, chúng ta có
thể kể ra những quyền cơ bản sau đây: quyền được sống, được tự do và được đảm
bảo an ninh cá nhân, quyền không bị bắt làm nô lệ, quyền không bị tra tấn hay
chịu những hình phạt độc ác, vô nhân đạo hay chà đạp phẩm giá con người, quyền
được bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng,
quyền được nại đến sự xét xử của những tòa án quốc gia có thẩm quyền, quyền
không bị bắt giữ, giam cầm hay dày ải trái phép, quyền không bị độc đoán vào
đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín, quyền được đi lại, quyền được cư
trú, quyền được một quốc tịch, quyền được kết hôn và lập gia đình, quyền được
sở hữu, quyền được tự do tư tưởng, lương tâm, tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do
phát biểu, tự do hội họp.
Ðó là một số những quyền và tự do cơ bản của
con người.
Bản
tuyên ngôn nhân quyền đã được công bố một thời gian ngắn sau đệ nhị thế chiến.
Thảm kịch của chiến tranh đã cho nhân loại mỗi lúc một hiểu rằng hòa bình chỉ
thực sự có khi con người biết tôn trọng quyền lợi và tự do căn bản của con
người. Ngược lại, nơi nào quyền con người bị phủ nhận và chà đạp, thì cho dẫu
không có chiến tranh đẫm máu, người ta chỉ sống trong một thứ hòa bình giả tạo
mà thôi.
Nhìn
nhận và tôn trọng quyền con người là bổn phận hàng đầu của người Kitô chúng ta
vì chúng ta tin nhận rằng con người đã được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên
Chúa và được cứu rỗi bằng chính Máu của Ðức Kitô. Ðó là tất cả phẩm giá của con
người.
Với
ý thức ấy, người Kitô luôn được kêu mời để nhận ra hình ảnh và sự hiện diện của
Thiên Chúa trong mọi người và mỗi người, nhất là những người kém may mắn, cùng
khổ nhất.
Trong
một cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Edward Desmond được đăng trên tạp chí Time
số ra ngày 04 tháng 12 năm 1989, Mẹ Têrêxa Calcutta, người được giải thưởng
Nobel Hòa Bình năm 1979 vì công tác phục vụ người nghèo tại Ấn Ðộ, đã xác quyết
về công cuộc của Mẹ: đó là cái nhìn tôn trọng đối với người nghèo. Ðược hỏi: ơn
cao trọng nhất mà Chúa đã ban cho Mẹ là gì? Vị sáng lập dòng Nữ Tử Thừa Sai Bác
Ái đã đáp gọn: "Ðó là người nghèo". Bởi vì, theo Mẹ Têrêxa, với người
nghèo Mẹ có dịp ở với Chúa Giêsu 24 giờ mỗi ngày. Mẹ nói: "Họ là Chúa Giêsu
đối với tôi. Tôi tin tưởng ở điều đó còn hơn là làm những điều lớn lao cho
họ".
Nhìn
những người nghèo, những người cùng khổ, những người bị xã hội tước đoạt mọi
quyền lợi và bị đẩy ra bên lề, như chính hiện thân của Chúa Giêsu: đó phải là
cái nhìn và động lực của mọi hoạt động của người Kitô chúng ta. Tôn trọng nhân
quyền, bệnh vực nhân quyền là thế đó.
(Lẽ Sống)
Ngày 10 tháng
12
THÁNH MENKIAS, GIÁO HOÀNG TỬ ĐẠO
GH.Melchiades |
Sử liệu không
để lại gì về đời thơ ấu của thánh nhân, song bằng vào công việc và nhân đức lúc
trên ngai Giáo hoàng, người ta có thể đoán rằng buổi thiếu thời, Đức Menkias đã
có một đời sống trong sạch đạo đức và một trí khôn minh mẫn. Ngài kế vị Đức
Giáo Hoàng Êuxêbiô và ở Toà thánh Phêrô trong giai đoạn chót các cuộc bách hại
công giáo nghĩa là khoảng từ năm 311 đến 314.
Ý thức tình
trạng khó khăn, Giáo hội đang phải trải qua và nhiệm vụ cao cả của ngôi Giáo
hoàng, Đức Menkias cố gắng đem hết tài lực ra làm vinh danh Chúa và dẫn dắt
giáo hữu khỏi những điều sai lầm có nguy hại đến đức tin hay luân lý.
Thời ấy, lương
dân có thói quen giữ chay ngày thứ năm và chủ nhật, vì tin rằng giữ chay vào
những ngày đó sẽ đem lại nhiều hạnh phúc tránh được nhiều rủi ro. Thói quen ấy
dần lan rộng và gây nên một phong trào đến nỗi nhiều giáo hữu ở Rôma đã đua theo.
Nhận thấy các giáo hữu đã không giữ chay những ngày luật định, hơn nữa lại đã
có sự lầm lạc gần như mê tín về ý nghĩa và công hiệu của việc chay tịnh, Đức
Giáo Hoàng liền ra một thông điệp giảng dạy cho giáo dân hiểu rõ mục đích việc
giữ chay, đồng thời ngài ngăn cấm giáo dân không được hùa theo thói tục của
lương dân.
Mặc khác, đó
cũng là thịnh đạt của lạc thuyết Manikê chủ trương có hai nguyên lý: một cho sự
thiện và một cho sự ác. Học thuyết này cũng đã lôi cuốn được rất nhiều người mê
theo, nhất là đám thanh niên và trí thức. Không thể để tình trạng này kéo dài
được nữa, ngài liền gắng sức cầu nguyện xin Chúa xuống ơn và nỗ lực lấy lời lẽ
khôn ngoan giảng khuyên những người con lạc đường ấy mau về nhà Cha. Kết quả
thật vẻ vang, chỉ trong một thời gian ngắn, giáo đoàn Rôma lại duy nhất trong
một đức tin, một chân lý và sốt sắng ganh đua nhau giữ đạo thánh Chúa.
Với tấm lòng
cha chung rộng như trời bể, ngài còn nhìn rộng xem xa khắp các giáo đoàn trên
thế giới, để hướng dẫn giáo hữu theo đúng con đường Chúa Kitô đã vạch. Nhận
thấy bên Tây Ban Nha có sự hiểu nhầm về hai phép bí tích: rửa tội và thêm sức,
Đức Thánh Cha liền gửi thư cho các Đức Giám mục Tây Ban Nha, đại ý ngài khuyên
các đấng trọng quyền ưu tiên của Giáo hoàng, cũng như các thánh tông đồ xưa đã
phục tùng thánh Phêrô, sau đó ngài cắt nghĩa cho các đấng hiểu rõ hiệu quả, giá
trị của từng phép bí tích rửa tội và thêm sức. Ngài nhấn mạnh rằng: phép bí
tích rửa tội cần thiết hơn phép thêm sức, vì nếu không chịu phép rửa tội, người
ta không thể được rỗi linh hồn. Lại nhận thấy có sự lạm dụng trong việc thi
hành phép thêm sức, nên ngài nhấn mạnh rằng thừa tác viên phép thêm sức phải có
chức cao quý và xứng đáng, nên từ đó chỉ ai có chức Giám mục mới được ban nhiệm
tích ấy.
Ngoài sự lo
lắng về vấn đề đức tin và các phép bí tích, ngài còn lo chấn chỉnh hàng giáo
phẩm và tăng cường số giáo sĩ. Vì thế ngài đã mở công đồng hàng tỉnh tại
Nêôcêsarê để bàn về việc đó. Đồng thời ngay trong tháng chạp, ngài đã phong
chức cho 11 Giám mục, 6 linh mục và 5 phó tế.
Tới khi Giáo
hội được hưởng những ngày bình an do sắc lệnh của Hoàng đế Constantinô thì Đức
Menkias lại nhắm mắt từ trần yên hàn trong tay Chúa Kitô ngày 10 tháng 12 năm
313. Ngài cai trị Giáo hội 2 năm 2 tháng 7 ngày.
Tuy ngài không
được đổ máu ra để tuyên xưng đức tin, nhưng Giáo hội đã coi ngài như đấng tử
đạo vì suốt đời ngài đã chịu nhiều đau khổ vì đạo Chúa, nhất là trong cuộc bách
hại lâu dài của Mácximianô.
Thi hài ngài
được mai táng trong đất thánh Calixtô trên đường đi Apia.
Ta hãy học nơi
thánh Giáo hoàng Menkias lòng mạnh dạn can đảm tuyên xưng đức tin, và sốt sắng
trong việc tông đồ, dù phải đau khổ hay bách hại, sẵn sàng hy sinh mạng sống vì
tin yêu Chúa Giêsu Kitô.
www.tinmung,net
Thứ
Hai 10-12
Chân Phước Honoratus Kosminski
(1829
- 1916)
N
|
gài sinh ở Biala Podlaska (Ba
Lan), và học về kiến trúc tại trường Nghệ Thuật ở Warsaw. Khi Wenceslau lên 16
tuổi thì mồ côi cha. Vì bị tình nghi là có tham gia trong nhóm phản loạn, ngài
bị bắt và bị cầm tù từ tháng Tư 1846 đến tháng Ba năm sau. Năm 1848, ngài gia
nhập dòng Phanxicô và lấy tên Honoratus Kosminski. Năm 1855 ngài giúp Chân
Phước Mary Angela Truszkowska thành lập dòng Nữ Tu Felix.
Năm 1860, Cha Honoratus làm
giám đốc một tu viện ở Warsaw. Ngài dành mọi nỗ lực trong việc rao giảng, hướng
dẫn tinh thần các đệ tử sinh và giải tội. Ngoài ra ngài còn làm việc không biết
mệt cho dòng Ba Phanxicô.
Cuộc cách mạng năm 1864, nhằm
lật đổ Nga hoàng Alexander III, đã bất thành đưa đến việc đàn áp các dòng tu ở
Ba Lan. Các tu sĩ Capuchin bị đẩy ra khỏi Warsaw và buộc phải sống ở Zakroczym,
là nơi Cha Honoratus tiếp tục sứ vụ của ngài và thành lập 16 tu hội nam cũng
như nữ, mà các thành viên không phải mặc áo tu sĩ cũng như không phải sống
trong khuôn viên của tu hội. Họ sinh hoạt giống như các tổ chức dòng ba bây
giờ. Cho đến nay, vẫn còn mười bảy tu hội ấy hoạt động.
Các văn bản của Cha Honoratus
thì vô số kể: 42 tập bài giảng, 21 tập thư tín và 52 ấn bản thần học về sự khổ
hạnh, sự sùng kính Ðức Maria, về lịch sử, về mục vụ -- chưa kể các thư từ ngài
viết cho các tu hội mà ngài sáng lập.
Vào năm 1906, một vài giám
mục tìm cách đưa các tu hội ấy dưới thẩm quyền của họ; Cha Honoratus chống lại
quyết định đó để bảo vệ sự độc lập của các tu hội, và ngài bị cách chức giám
đốc vào năm 1908. Sau đó, ngài khuyên các thành viên của các tu hội hãy vâng
phục quyết định của Giáo Hội dù tương lai có ra sao.
Một người đương thời với ngài
cho biết, Cha Honoratus "luôn luôn bước đi trong con đường của Thiên
Chúa." Vào năm 1895, ngài được bổ nhiệm làm Tổng Ðại Diện cho các tu
sĩ Capuchin ở Ba Lan.
Ngài được phong chân phước
năm 1988.
Lời Bàn
Chân Phước Honoratus đã làm
việc hăng say để phục vụ Giáo Hội, một phần qua việc thiết lập các tu hội nhằm
đáp ứng với hoàn cảnh đặc biệt của Ba Lan thời bấy giờ. Ngài đã có thể rút lui một
cách cay đắng và oán hờn khi đường hướng các tu hội ấy bị tước đoạt khỏi tầm
tay; nhưng ngài đã coi đó là những "niềm vui tuyệt đối." Ngài khuyên
các thành viên hãy sẵn sàng và vui vẻ vâng phục, đem khả năng của mình để phục
vụ Tin Mừng của Ðức Giêsu Kitô.
Lời Trích
Khi Giáo Hội lấy đi quyền
điều khiển các tu hội của ngài và thay đổi đường hướng các tu hội ấy, Chân
Phước Honoratus viết: "Ðấng Ðại Diện Ðức Kitô đã cho chúng ta biết
thánh ý của Thiên Chúa, và tôi lãnh nhận mệnh lệnh này với đức tin& Anh chị
em thân mến, hãy nhớ rằng đây là cơ hội để anh chị em chứng tỏ sự tuân phục một
cách quả cảm đối với Giáo Hội."
www.nguoitinhuu.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét