Trang

Thứ Sáu, 21 tháng 12, 2012

22-12-2012 : THỨ BẢY TUẦN III MÙA VỌNG


Ngày 22 tháng 12
Mùa Vọng
1Sm 1,24-28

Bài Ðọc I: 1 Sm 1, 24-28
"Bà Anna tạ ơn Chúa vì được sinh Samuel".
Trích sách Samuel quyển thứ nhất.
Ngày ấy, sau khi đã cho Samuel dứt sữa, bà Anna liền bắt một con bò ba tuổi, lấy ba cân bột, một vò rượu, và dẫn con đến nhà Chúa ở Silô. Con trẻ lúc đó còn nhỏ bé. Họ tế lễ con bò và dâng con trẻ cho ông Hêli. Anna thưa: "Kính lạy ngài, chúc ngài khang an! Tôi là người đàn bà nọ đã đứng cầu xin Chúa nơi đây trước mặt ngài. Tôi đã cầu xin vì trẻ này, và Chúa đã cho tôi được như tôi xin. Vậy tôi xin dâng lại cho Chúa, trót mọi ngày nó thuộc về Chúa". Và họ thờ lạy Chúa ngay ở đó.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: 1 Sm 2, 1. 4-5. 6-7. 8abcd
Ðáp: Lòng tôi nhảy mừng trong Chúa cứu độ tôi (c. 1a).
Xướng: 1) Lòng tôi nhảy mừng trong Chúa, khí phách tôi hướng lên Thiên Chúa của tôi, miệng tôi rộng mở chống quân thù, tôi vui mừng vì Chúa cứu độ tôi. - Ðáp.
2) Cung nỏ người hùng bị bẻ tan, người kiệt sức lại nai nịt dũng khí; kẻ no đầy nay làm thuê vì miếng bánh, người đói lả nay lại được no nê. Người son sẻ lại con đàn cháu đống, kẻ nhiều con lại trở nên héo tàn. - Ðáp.
3) Chúa cho chết và Chúa làm cho sống, cho đi xuống mồ rồi lại đem lên, làm cho nghèo rồi cho nên giàu có, hạ xuống thấp rồi lại nhắc lên cao. - Ðáp.
4) Cho kẻ bần cùng đứng dậy khỏi bụi tro, nâng cao kẻ nghèo khỏi phân nhơ rác rến, cho ngồi chung với vua quan tướng lãnh, đặt cho họ một ngai báu vinh quang. - Ðáp.

Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Lạy Vua muôn dân và Ðá Góc toà nhà Hội thánh, xin hãy đến cứu độ con người mà Chúa đã tạo dựng bằng bùn đất! - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 1, 46-56
"Ðấng Toàn Năng đã làm cho tôi những sự trọng đại".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Maria nói rằng: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi có phước, vì Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại, và danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những ai kính sợ Chúa. Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai lòng trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng, và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi Người đến muôn đời!"
Maria ở lại với bà Isave độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà mình.
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Khi bà Êlisabéth ca tụng Ðức Mẹ diễm phúc. Mẹ liền chuyển đối tượng của lời ca tụng lên Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa làm cho Mẹ nên cao trọng. Chính Thiên Chúa đã nâng người khiêm nhường để triệt hạ kẻ kiêu căng. Hồng ân nhưng không của Chúa đã ban cho người Chúa thương.

Cầu Nguyện:
Lạy Cha, mọi sự chúng con có là nhận được từ nơi Cha: Sức khoẻ của chúng con, tiền tài của chúng con, con người của chúng con... đều là của Cha. Xin đừng để chúng con kiêu căng với những gì đã lãnh nhận. Cũng đừng để chúng con mặc cảm với những gì chúng con thiếu kém. Xin cho chúng con biết dùng những hồng ân Cha ban để phụng sự Cha và phục vụ tha nhân. Xin nhận lời chúng con cầu xin nhờ danh Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.
Lc 1,46-56


Mùa Vọng Là Mùa Chờ Ðợi

Mùa Vọng là mùa hy vọng, là ước mong, là đợi chờ. Mùa nắng hạn đã qua, mùa mưa bão cũng chấm dứt, chúng ta đang hy vọng có được một mùa Giáng Sinh tươi đẹp.
Sống là hy vọng, là ước mơ, là đợi chờ. Cuộc sống con người từ lúc mở mắt chào đời cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay được dệt bằng những chờ đợi triền miên. Trước năm 1975, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết trong một khúc ca nào đó như sau: Nơi đây tôi đợi. Nơi kia anh chờ. Có đợi chờ là có ước mơ.
Cách đây trên 25 thế kỷ, vào giữa lúc dân Do Thái đang phải sống kiếp đọa đày nơi đất khách quê người, thì Tiên Tri Isaia đã nói như sau: "Ngày đó họ sẽ lấy gươm mà rèn lưỡi cày. Lấy giáo mà rèn nên lưỡi liềm. Nước này không còn tuốt gươm ra đánh nước kia nữa. Người ta cũng không còn thao luyện để chiến đấu nữa".
Giấc mơ của Tiên Tri Isaia ngày nay đã trở thành giấc mơ của toàn thể nhân loại bởi vì những lời này đã được ghi trước trụ sở Liên Hiệp Quốc tại New York bên Hoa Kỳ. Tại Hoa Kỳ, vào khoảng cuối thập niên 1960. Chứng kiến không biết bao nhiêu ngược đãi mà cộng đồng người da đen phải chịu qua hằng bao thế kỷ. Cố mục sư Martin Luther King đã nói lên giấc mơ của mình như sau:
"Tôi mơ ước một ngày nào đó: những đứa con của những người da đen sẽ được ngồi ăn đồng bàn với những đứa con của những chủ nhân da trắng". Năm 1968, mục sư đã bị mưu sát, nhưng cái chết của ông đã biến giấc mơ của ông đã thành hiện thực. Ngày nay, con cái của những người nô lệ da đen đã hoàn toàn bình đẳng với con cái của những chủ nhân da trắng. Không có gì đẹp cho bằng giấc mơ trên đây. Thế nhưng lịch sử nhân loại chúng ta chưa được viết bằng những giấc mơ này. Lịch sử nhân loại còn đầy những ác mộng và hy vọng hảo huyền.
*
* *
Quí vị và các bạn thân mến,
Chờ đợi, ước mơ, hy vọng. Ðó là hạt giống của bất tử mà Thiên Chúa đã đặt để trong trái tim của con người. Thánh Augustinô đã diễn tả một cách tuyệt mỹ niềm mơ ước và hy vọng ấy khi Ngài thưa với Chúa Giêsu: "Lạy Chúa, Chúa dựng nên con vì Chúa, cho nên hồn con sẽ mãi mãi mòn mỏi xao xuyến cho đến khi nào được nghỉ an trong Chúa". Quả thực, chỉ trong Thiên Chúa là cùng đích của mọi khát vọng, con người mới hết chờ đợi, hết ước mơ và hết hy vọng. Bao lâu còn sống là còn mỏi mòn đợi trông. Còn sống là còn mò mẫn tìm kiếm.
Lịch sử của dân tộc Israel là điển hình của sự mò mẫm tìm kiếm ấy. Nhưng cũng qua dòng lịch sử ấy, Thiên Chúa đã mạc khải cho con người biết đâu là cùng đích của mọi ước mơ và hy vọng của con người. Trong Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã cho niềm hy vọng của con người được thành tựu. Chúa Giêsu Kitô là điểm đến của lịch sử con người. Tất cả mọi chờ đợi, mọi hy vọng, mọi nổ lực kiến tạo của con người đều quy hướng về Chúa Giêsu Kitô. Ngài là Ðấng đang hiện diện. Ngài là Ðấng đang đến. Ngài là Ðấng đang tác động trong từng biến cố của lịch sử con người. Chỉ có Ngài mới mang lại ý nghĩa cho cuộc sống con người. Chỉ có Ngài mới có thể thỏa mãn được tất cả mọi ước vọng của con người. Ðây chính là trọng tâm của niềm tin Kitô mà hằng năm mỗi mùa khi mùa vọng trở lại Giáo Hội không ngừng mời gọi chúng ta đào sâu.
Mọi ước mơ, chờ đợi và hy vọng của chúng ta chỉ được thành tựu trong Chúa Giêsu Kitô mà thôi. Ngài là đối tượng của mọi chờ đợi và hy vọng của con người. Ngài đang đến trong từng biến cố của cuộc sống chúng ta.
Thảm trạng lớn nhất của con người là khước từ Ðấng đang đến, và như vậy cũng đánh mất ý nghĩa của cuộc sống. Ngài đã đến với dân tộc Ngài tuyển chọn, nhưng họ đã không đón nhận Ngài. Cái chết trên thập giá của Ngài vừa là biểu trưng vừa là tuyệt đỉnh của mọi khước từ. Sự khước từ vẫn tiếp tục diễn ra mỗi khi con người chối bỏ chính nhân phẩm của mình để sống theo những dục vọng và khuynh hướng thấp hèn của mình. Sự khước từ ấy vẫn tiếp tục diễn ra mỗi khi do mù quáng và ích kỷ con người chối bỏ và chà đạp phẩm giá của con người anh em của mình.
Chúa Kitô vẫn tiếp tục đến một cách âm thầm và bất ngờ trong từng biến cố và gặp gỡ mỗi ngày trong cuộc sống của chúng ta. Ngài vẫn tiếp tục đến một cách bất ngờ trong người anh em bé mọn nhất của chúng ta. Ðó là điều Ngài muốn nói với chúng ta khi dùng lụt đại hồng thủy hay của kẻ trộm trong Tin Mừng hôm nay.
Hãy tỉnh thức để không ngừng đón nhận Ngài trong từng biến cố của cuộc sống. Ðó là sứ điệp mà Mùa Vọng hằng năm nhắc nhở cho chúng ta. Trong phép Thánh Thể, bánh rượu, thành quả của công lao của con người sẽ biến thành Mình Máu Chúa Kitô. Ðó là sự hiện diện mật thiết nhất mà Chúa Giêsu Kitô muốn bày tỏ cho mỗi người. Sự hiện diện này sẽ nhắc nhở cho chúng ta, trong mọi sinh hoạt của con người, Ngài luôn có mặt và tác động bằng mọi cách thế chúng ta không thể ngờ được.
Hãy luôn tỉnh thức để đón nhận Ngài. Ðó là ơn cần thiết nhất mà chúng ta phải cầu xin trong suốt Mùa Vọng này.
 (Veritas Asia)

Lời Chúa Mỗi Ngày
Ngày 22 tháng 12 MV
Bài đọc: I Sam 1:24-28; Lk 1:46-56.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Nhận biết và cám ơn quà tặng của Thiên Chúa.

Nhận ra hồng ân Thiên Chúa ban cho đã khó, biết cám ơn Thiên Chúa còn khó hơn. Trong Phúc Âm, Chúa chữa lành 10 người phong cùi; nhưng chỉ có một người ngọai biết quay trở lại để cám ơn Thiên Chúa. Cám ơn Thiên Chúa đã khó, biết dâng lại những gì Thiên Chúa ban còn khó hơn gấp bội. Thế mà có những người mẹ không con, sau khi được Thiên Chúa ban cho một người con, lại dám can đảm hy sinh dâng lại người con duy nhất để làm việc cho Thiên Chúa. Các Bà tuy rất thương và muốn con ở với mình, nhưng lòng biết ơn Thiên Chúa mạnh hơn tính ích kỷ cá nhân. Các bà biết rõ: nếu Thiên Chúa không can thiệp, chẳng bao giờ các bà có được người con đó.
Các Bài đọc hôm nay tường thuật tâm tình biết ơn của hai người mẹ anh hùng này. Trong Bài đọc I, Bà Anna hiểu thấu nỗi ô nhục của người không có con: đối phương của Bà chọc tức Bà. Quá đau khổ, Bà cầu xin Thiên Chúa thương ban cho mình một mụn con, và sẽ dâng nó lại cho Thiên Chúa để phục vụ trong Đền Thờ. Khi được Thiên Chúa ban cho một con trai, Samuel, Bà đã giữ lời hứa, dâng con mình lại cho Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Đức Trinh Nữ Maria biết rõ mình chỉ là một nữ tỳ tầm thường trước mặt Thiên Chúa; nhưng được Thiên Chúa cất nhắc lên thiên chức “Mẹ Đấng Cứu Thế” là do hòan tòan quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Mẹ Maria cũng sẵn sàng dâng Chúa Giêsu lại cho Thiên Chúa, để Ngài hòan tất sứ vụ đã được Chúa Cha trao phó.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Bà Anna dâng lại đứa trẻ Thiên Chúa ban để nó phục vụ Thiên Chúa.
1.1/ Nỗi ô nhục của người vợ không con: Ông Elkanah có hai vợ: một bà tên là Anna, một bà tên là Peninnah. Bà Peninnah có con, còn bà Anna không có con. Đến ngày ông Elkanah dâng hy lễ, ông thường chia các phần cho bà Peninnah, vợ ông, và cho các con trai con gái bà ấy. Còn bà Anna, ông chia cho một phần ngon vì ông yêu bà, mặc dù Đức Chúa đã làm cho bà không sinh sản được. Bà kia, đối thủ của bà, cứ chọc tức để hạ nhục bà, vì Đức Chúa đã làm cho bà không sinh sản được. Ông Elkanah vẫn làm như thế năm này qua năm khác, mỗi lần ông lên Nhà của Đức Chúa tại Shiloh; còn bà kia cứ chọc tức bà Anna như thế. Mỗi lần xảy ra, Bà chỉ biết khóc và không chịu ăn.

1.2/ Bà Anna cầu nguyện và xin Thiên Chúa ban cho một đứa con: Tâm hồn cay đắng, bà cầu nguyện với Đức Chúa và khóc nức nở. Bà khấn hứa rằng: "Lạy Đức Chúa các đạo binh, nếu Ngài đoái nhìn nỗi khổ cực của nữ tỳ Ngài đây, nếu Ngài nhớ đến con và không quên nữ tỳ Ngài, nếu Ngài cho nữ tỳ Ngài một mụn con trai, thì con sẽ dâng nó cho Đức Chúa mọi ngày đời nó, và dao cạo sẽ không đụng tới đầu nó." Tư-tế Eli khuyên: "Bà hãy về bình an. Xin Thiên Chúa của Israel ban cho bà điều bà đã xin Người!" Bà thưa: "Ước chi nữ tỳ của ngài đây được đẹp lòng ngài!" Rồi bà Anna ra về; bà dùng bữa và nét mặt bà không còn sầu khổ như trước nữa.

1.3/ Lời cầu xin của Bà Anna được Thiên Chúa nhận lời: Sau đó, ông Elkanah ăn ở với bà Anna, vợ mình, và Đức Chúa đã nhớ đến bà. Ngày qua tháng lại, bà Anna thụ thai, sinh con trai và đặt tên cho nó là Samuel, vì bà nói: "Tôi đã xin Đức Chúa được nó." Năm sau, Elcanah lên Shiloh với cả gia đình, để dâng hy lễ thường niên cho Đức Chúa, và để giữ trọn lời khấn hứa của mình. Bà Anna không lên, và bà nói với chồng: "Đợi cho đến khi đứa trẻ cai sữa đã. Khi đó em sẽ đưa nó đi, nó sẽ ra mắt Đức Chúa và sẽ ở lại đó mãi mãi." Ông Elkanah bảo bà: "Em nghĩ thế nào là phải thì cứ làm; cứ ở lại cho đến khi cai sữa cho nó. Chỉ xin Đức Chúa thực hiện lời Người."

1.4/ Bà Anna dâng lại cho Thiên Chúa người con Ngài ban tặng: Sau khi cai sữa cho con, bà đưa nó lên với mình, mang theo một con bò mộng ba tuổi, hai thùng bột và một bầu da đầy rượu. Bà đưa con vào Nhà Đức Chúa tại Shiloh; đứa trẻ còn nhỏ lắm. Họ sát tế con bò và đưa đứa trẻ đến với ông Eli. Bà nói: "Thưa ngài, xin thứ lỗi, tôi xin lấy mạng sống ngài mà thề: tôi là người đàn bà đã đứng bên ngài, tại đây, để cầu nguyện với Đức Chúa. Tôi đã cầu nguyện để được đứa trẻ này, và Đức Chúa đã ban cho tôi điều tôi đã xin Người. Đến lượt tôi, tôi xin nhượng nó lại cho Đức Chúa. Mọi ngày đời nó, nó sẽ được nhượng cho Đức Chúa." Và ở đó, họ thờ lạy Đức Chúa.

2/ Phúc Âm: Đức Mẹ Maria ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa.

2.1/ Thiên Chúa là nguồn mạch mọi ơn lành: Mẹ Maria biết rõ mình chỉ là một nữ tỳ hèn hạ trước mặt Thiên Chúa; hơn nữa, Mẹ cũng chỉ là một tạo vật thấp hèn được Thiên Chúa tạo dựng. Nhưng chỉ vì Thiên Chúa đã đóai thương nhìn đến, mà Mẹ được cất nhắc lên để làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Hồng ân này không những làm cho mẹ được ơn cứu độ, mà còn ban rộng ra đến tất cả mọi người. Với tâm tình biết ơn Thiên Chúa, Mẹ vui mừng ca tụng Ngài: "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!”

2.2/ Thiên Chúa xót thương những ai kính sợ Ngài: Biết kính sợ Thiên Chúa không những là nguồn gốc mọi khôn ngoan, mà còn là điều kiện để được hưởng muôn ơn lành. Chỉ trong 3 câu ngắn ngủi, tác giả của Bài Magnificat đã nêu lên 3 điều cách mạng chính của Thiên Chúa:
(1) Cách mạng luân lý: Thiên Chúa chống kẻ kiêu căng và đề cao người khiêm nhường; trong khi người thế gian thường thích kiêu căng, cậy sức mình, và khinh thường Thiên Chúa.
(2) Cách mạng xã hội: Thiên Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những kẻ thấp hèn; trong khi người thế gian thường cậy quyền thế và đàn áp kẻ khó nghèo.
(3) Cách mạng kinh tế: Thiên Chúa cho kẻ đói nghèo được dư dật và đuổi người giầu về tay trắng; trong khi ở thế gian: người giầu lại giầu thêm, còn kẻ nghèo càng nghèo hơn.

2.3/ Thiên Chúa trung thành thực thi Lời Hứa: Tất cả những gì Thiên Chúa hứa, Ngài sẽ thực thi; không phải vì con người xứng đáng được hưởng, nhưng chỉ vì lòng thương xót của Ngài: “Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Abraham và cho con cháu đến muôn đời."

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa là Đấng giầu lòng xót thương: nếu chúng ta kiên trì biểu lộ niềm tin của chúng ta, Ngài sẽ ban cho chúng ta điều chúng ta xin.
- Chúng ta phải có lòng khiêm nhường và biết kính sợ Thiên Chúa. Chúng ta phải có lòng biết ơn về những quà tặng Thiên Chúa ban.
- Quà tặng Chúa ban là để phục vụ, chứ không ích kỷ giữ cho mình. Chúng ta phải biết dùng những quà tặng Thiên Chúa ban để phục vụ Ngài.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP

Ngày 22/12
Sứ điệp: Đức Mẹ vui mừng dâng lời ngợi khen cảm tạ Thiên Chúa vì Người đoái thương nhìn đến phận nữ tỳ hèn mọn của Mẹ. Chúa hạ bệ những kẻ cao ngạo và nâng cao kẻ khiêm nhường.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, trong phút cầu nguyện hôm nay, con muốn nối tiếp lời tạ ơn của Mẹ Maria để dâng lên Chúa lời ngợi khen cảm tạ của chính con. Nhìn vào bản thân con, đời sống con, những người thân yêu của con, con nhận thấy muôn vàn ân huệ Chúa đã tuôn đổ trên chúng con. Có những ơn con thấy được, nhưng cũng có rất nhiều ơn con không nhận ra. Dù con chưa nhận ra, nhưng con biết rằng toàn thân con, tất cả nhưng gì làm nên đời sống con, những gì con đang được hưởng, và lạy Chúa, ngay cả những gì con đang gánh chịu, tất cả đều do tình thương Chúa ban tặng cho con. Có gì con có mà không phải nhận lãnh đâu.
Lạy Chúa, con chỉ là tạo vật hèn mọn, đôi tay bất xứng lại luôn xòe rộng để hứng đón hồng ân. Con chẳng là gì cả, nhưng Chúa vẫn đoái nhìn đến con. Chúa vẫn cho con là quan trọng và ban tặng hồng ân. Con xin Chúa cho con mang lấy tâm tình của Mẹ Maria: càng được Chúa đoái nhìn và cho là quan trọng, thì Mẹ lại càng thấy mình chẳng là gì cả.
Phần con, con chẳng là gì, nhưng  đôi khi con lại cho mình là quan trọng, con đưa mình lên cao quá, con tự mãn về mình. Con biết Chúa yêu kẻ khiêm nhường và chống lại kẻ kiêu ngạo. Xin Chúa cho con biết sống khiêm nhường để được Chúa nâng cao trong trái tim Chúa. Xin cho con sống tâm tình biết ơn để xứng đáng tiếp tục nhận lãnh tình thương của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: "Ðấng Toàn Năng đã làm cho tôi những sự trọng đại".
www.phatdiem.org
22/12/12 THỨ BẢY TUẦN 3 MV
Lc 1,46-56

KHIÊM - TIN NHƯ MẸ
"Phận nữ tỳ hèn mọn. Người đoái thương nhìn tới!" (Lc 1,48)
Suy niệm: Trong tuần cửu nhật trước lễ Giáng Sinh (17-25/12), và đặc biệt trong Năm Đức Tin này, Hội Thánh mời ta nhìn vào Đức Maria, nhân vật gắn liền với mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, là gương mẫu đức tin cho Hội Thánh và mỗi người. Bài ca Magnificat là một lời nguyện tuyệt đẹp, dâng lên Chúa trong niềm thành tín. Mẹ ca tụng Chúa là Đấng Cứu độ (c.47),  Đấng Toàn Năng (c.48), Đấng trung tín, giàu lòng thương xót (c.55), đoái nhìn kẻ khiêm nhu (c.52)... Phần Mẹ, Mẹ tự nhận là một nữ tì hèn mọn (c.48). Nhưng chính vì sự khiêm tốn thẳm sâu trong lòng tin tuyệt đối mà Chúa đã đoái thương làm cho Mẹ bao điều cao cả, nhờ đó Mẹ trở nên người diễm phúc nhất (c.48) của mọi thời, như lời bà Êlisabét: “Em thật diễm phúc vì đã tin!” (Lc 1,45). Đức tin đã nâng Mẹ lên địa vị cao trọng làm Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Hội Thánh, Mẹ của những kẻ tin.
Mời Bạn: “Khi viếng thăm bà Êlisabét, Mẹ cất bài ca chúc tụng Đấng Tối Cao vì những kỳ công Chúa thực hiện nơi những người tín thác nơi Ngài” (x. Tông huấn Cửa Đức Tin,số 13). Xác tín rằng nếu bạn muốn được diễm phúc như Mẹ, bạn cần khiêm tốn tín thác vào Chúa.
Sống Lời Chúa: Suy gẫm những lời nguyện khiêm-tin trong Tin Mừng như: ‘Lạy Thầy xin hãy xa con ra, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8); “Lạy Thầy tôi tin, nhưng xin nâng đỡ lòng tin yếu kém của tôi” (Mc 9,24); Lạy Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi,...” (Mt 8,8); “Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mt 15,22).
Cầu nguyện: Cùng hát vang bài ca MAGNIFICAT trong tâm tình tin-yêu-khiêm-thác như Mẹ Maria.
www.5phutloichua.net

NỮ TỲ HÈN MỌN
Để sinh Đức Giêsu cho thế giới hôm nay, vẫn cần có những Maria chấp nhận cưu mang, chấp nhận vượt cạn, chấp nhận kiên nhẫn chờ đợi để sinh những Giêsu cứng cáp cho thế giới. 
Suy nim:
Bài ca ngợi khen Đức Chúa bật ra trên môi Maria
sau khi bà Êlisabét cất tiếng ca ngợi Mẹ.
Êlisabét ca ngợi Maria là người được chúc phúc hơn mọi phụ nữ
vì Mẹ đang cưu mang trong dạ Đấng Cứu Tinh.
Bà còn ca ngợi Maria có phúc vì đã dám tin vào lời Chúa phán,
và dám liều để cho lời ấy dẫn dắt đời mình.
Nhờ được tràn đầy Thánh Thần, Êlisabét mới biết được Tin Vui
mà Maria tưởng rằng đó là bí mật chỉ riêng mình biết.
Khi đứng trước bà chị cao niên đang mang thai,
Maria xác tín hơn vào những lời sứ thần nói,
và vào mầu nhiệm đang âm thầm lớn lên nơi cung lòng mình.
Khi bà chị Êlisabét ca ngợi Mẹ, thì Mẹ hân hoan ca ngợi Thiên Chúa.
Maria nhìn nhận Ngài là Đấng Cứu Độ của Mẹ (c. 47).
Nếu Mẹ được đầy ân sủng, được Chúa ở cùng và được đẹp lòng Ngài,
nếu Mẹ được thụ thai Con Đấng Tối Cao nhờ Thánh Thần (Lc 1, 28-35),
thì đó không phải là do công của Mẹ, nhưng là ơn của Chúa.
“Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả” (c. 49).
Maria không có một sự khiêm nhường giả tạo về mình.
Khiêm nhường thực sự là nhìn nhận sự thật.
Mẹ nhìn nhận những điều độc nhất vô nhị Chúa làm cho đời mình.
Ngài đã nhìn xuống đời Mẹ, cuộc đời thấp hèn của một tỳ nữ.
Và cái nhìn cúi xuống của Ngài đã nâng Mẹ lên cao,
khiến cho muôn thế hệ phải ngợi khen, tôn kính (c. 48).
Nhưng Maria không phải là người duy nhất được Thiên Chúa thi ân.
Ngài thương xót những ai hèn mọn, đói nghèo, biết kính sợ Chúa.
Ngược lại, Ngài giơ cánh tay biểu dương sức mạnh (cc. 50-53),
để dẹp tan kẻ kiêu căng, hạ bệ người quyền thế, đuổi đi kẻ giàu sang.
Thiên Chúa đầy thương xót, nên cũng mạnh tay để tạo lại sự công bằng,
để đem lại sự no đủ cho người nghèo và sự tự do cho người bị áp bức.
Thiên Chúa ấy cũng trung tín giữ lời hứa với Dân Ítraen (cc. 54-55).
Maria đã ở lại với bà chị họ độ ba tháng mới trở về nhà.
Ba tháng mang thai đầu tiên của một người mẹ trẻ đâu có dễ.
Maria đã ở lại để phục vụ cho bà Êlisabét gần ngày sinh.
Mẹ quên gánh nặng của mình để mang gánh nặng của người khác.
Êlisabét hẳn là vui vì được hầu hạ bởi Thân Mẫu Chúa.
Gioan trong bụng mẹ sung sướng vì được gần Đấng Thiên Sai.
Ít khi ta suy niệm chuyện Đức Maria mang thai hơn chín tháng.
Thai Nhi Giêsu lớn dần lên từng ngày trong dạ mẹ, chờ ngày chào đời.
Tình Mẹ-Con cũng lớn lên, thân thiết, gần gũi.
Mang thai và sinh con là niềm vui, nhưng đòi bao hy sinh nhọc nhằn,
nhất là vào thời xưa, khi vệ sinh và tiện nghi không có.
Để sinh Đức Giêsu cho thế giới hôm nay, vẫn cần có những Maria
chấp nhận cưu mang, chấp nhận vượt cạn,
chấp nhận kiên nhẫn chờ đợi để sinh những Giêsu cứng cáp cho thế giới.
Cầu nguyn:
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì
Cha làm cho đời con.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

"Ðấng Toàn Năng đã làm cho tôi những sự trọng đại".
Magnificat
Đức Kitô không những giao hoà con người với Thiên Chúa, Ngài còn là kiểu mẫu của con người đã được giao hoà. Ngài đến để mang lại Tin mừng. Tin mừng ấy chính là con người với Tin mừng cho bằng thái độ phấn khởi vui tươi trong cuộc sống.
Đức Maria là người đầu tiên đã đón nhận ơn cứu độ. Thái độ của Ngài cũng là thái độ mẫu mực cho người Kitô hữu. Người đã mau mắn ra đi đến với Isave để báo tin vui, và trong một giây phút xuất thần, Người đã để cho lời ca của cả một dân tộc được hát lên. Bài ca ấy qua muôn thế hệ được Giáo Hội lấy làm chính lời kinh của mình.
Trong Giáo hội và cùng với Giáo hội, mỗi Kitô hữu cũng được mời gọi để không ngừng hát lên và sống bài ca ấy. “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Thần trí tôi hớn hở trong Đấng cứu độ tôi”, đó phải là bài ca trong từng phút giây cuộc đời chúng ta. Không vui sao được khi biết rằng mình được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc bằng chính máu của Con Một Ngài; không vui sao được khi biết rằng trong người Con Một ấy, chúng ta tìm được ánh sáng chân lý, bình an và hy vọng, không vui sao được khi biết rằng trong hành trình về nhà cha, có biết bao người cùng tiến bước với chúng ta.
Ước gì niềm vui ơn cứu độ luôn tràn ngập tâm hồn chúng ta, ước gì cùng với Đức Maria, lời kinh muôn thủa của chúng ta luôn là lời ca tán dương Chúa trong từng phút giây cuộc sống.
www.gplong xuyen.net
Magnificat
Phân tích
Đây là bài ca Magnificat mà Giáo Hội vẫn thường hát và thích hát.
- Hoàn cảnh: Đức Maria vừa được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế mà muôn dân trông đợi hàng bao nhiêu thế kỷ nay. Người hay tin bà chị họ là Êlisabét cũng đã mang thai trong lúc tuổi già, nên Người vội vã lên đường đến thăm và giúp đỡ người chị họ ấy. Khi hai người gặp nhau, Bà Êlisabét chức mừng Đức Maria “Em có phúc hơn mọi người phụ nữ”; còn bà Êlisabét thì tràn ngập vui mừng “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến thăm tôi”; ngay cả bào thai trong bụng bà Êlisabét cũng vui mừng đến nỗi nhảy lên! Trong bầu khí tràn ngập vui mừng ấy, Đức Maria đã hát lên bài ca này để tán dương và tạ ơn Thiên Chúa vì đã thương đến những người hèn mọn khiêm nhu.
- Bối cảnh: Thực ra bài ca này không phải do Đức Mẹ đã một mình sáng tác. Nó là cô đọng cả một trào lưu suy tư của những người hèn mọn trải suốt lịch sử cứu độ. Từ xưa đến nay và mãi tới muôn đời, hễ ai hèn mọn nhưng biết khiêm tốn nương nhờ nơi Thiên Chúa thì Ngài sẽ bênh vực che chở. Còn những người “lớn” và “mạnh” mà kiêu căng ỷ sức mình hay cậy vào những thứ mình đang có thì Thiên Chúa sẽ hạ bệ. Đức Maria chỉ làm công việc đúc kết tất cả những cảm nghiệm ấy trong bài ca Magnificat này.
Suy gẫm
1. “Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả”: không phải chỉ một mình Đức Mẹ có thể thốt lên lời ca này, không phải chỉ có các thánh mới có thể hát như Đức Mẹ, mà bất cứ ai cũng đều có thể như thế, miễn là phải chịu khó nhìn lại đời mình và nhận ra những ơn lành Thiên Chúa đã tuôn đổ xuống trên mình.
Hãy nhìn lại dòng đời của mình, xin Chúa và Đức Mẹ mở trí mở lòng để chúng ta nhận ra những ơn của Ngài, và chúng ta hãy cùng Đức Mẹ hát lên những lời tạ ơn tán tụng.
2. “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao những kẻ khiêm nhu”: Đây là một chân lý, chân lý đã được chứng minh qua hàng bao nhiêu ngàn năm. Thế thì tại sao tôi lại cứ mãi ngu dại sống kiêu căng tự phụ. Người kiêu căng tự phụ không những sẽ bị mọi người ghét bỏ, mà ngay cả chính Thiên Chúa cũng hạ bệ.
3. Mỗi Kitô hữu cũng được mời gọi để không ngừng hát lên và sống bài ca Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, thần trí tôi hớn hở trong Đấng cứu độ tôi.” Đó phải là bài ca trong từng phút giây cuộc đời chúng ta. Không vui sao được khi biết rằng mình được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc bằng chính Máu của Con Một Ngài; không vui sao được khi biết rằng trong Người Con Một ấy chúng ta tìm được ánh sáng chân lý, bình an và hy vọng; không vui sao được khi biết rằng trong hành trình về nhà Cha, có biết bao người cùng tiến bước với ta.
4. “Đức Maria nói: Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi” (Lc 1,46-47)
Thuở còn bé, khi tôi xoè bàn tay nhỏ xíu hứng những giọt nước mưa, những hạt nước chảy tràn ra ngoài. Tôi cảm thấy thiên nhiên thật kỳ diệu! Lớn lên, cũng với bàn tay ấy, tôi mở ra để đón nhận hồng ân Thiên Chúa, những ân huệ của Người và của Đời. Không biết vì tay tôi lớn hay vì ân huệ kia quá ít mà chưa bao gờ tôi cảm thấy đủ, để nói lên lời tạ ơn. Tôi đã không nhận ra những ân huệ đang tuôn đổ trên tôi mỗi ngày.
Đức Maria đã nhận ra tình thương của Thiên Chúa và đón nhận với tâm tình ngợi khen, cảm tạ. Vì khiêm nhu nhỏ bé, Mẹ đã nhận ra ơn Người thật lớn lao.
Lạy Cha, xin ban cho con quả tim đơn sơ, luôn biết ngỡ ngàng trước tình yêu Cha dành cho con, để có thể cất lên lời tạ ơn Cha mỗi ngày trong đời con.
Lm. Carôlô
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, thật hạnh phúc cho chúng con khi được Chúa viếng thăm. Chúa là Thiên Chúa cao cả nhưng lại đến cư ngụ giữa những người phàm hèn chúng con. Chúa là Thiên Chúa chí thánh nhưng lại ngự vào tâm hồn yếu đuối của chúng con. Chúng con xin được chúc tụng, tạ ơn Chúa.
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, ở đời rất cần hai tiếng cám ơn. Cám ơn Chúa, cám ơn đời vì biết bao quà tặng của cuộc sống mang đến cho chúng con. Nhưng Chúa ơi, con mắt kiêu căng đã khiến chúng con không nhận ra ân huệ Chúa ban. Chúng con còn tự cao tự đại nên càng không nhận ra những hy sinh mà anh em đã dành cho chúng con. Chúng con còn thiếu khiêm tốn để có thể nói lời cám ơn. Xin tha thứ cho chúng con. Xin mặc cho chúng con tâm tình như Mẹ Maria để chúng con biết ca tụng Chúa, cám ơn đời vì biết bao niềm vui mà cuộc đời ban tặng.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tâm hồn đơn sơ luôn biết ngỡ ngàng trước ân ban của Chúa, để có thể cất lên lời tạ ơn Chúa, tạ ơn đời trong mỗi ngày sống của cuộc đời chúng con. Amen

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 12
22 THÁNG MƯỜI HAI
Một Khởi Đầu Mới
Trên Con Đường Dẫn Về Vĩnh Cửu
Mùa Vọng đem lại cho chúng ta niềm vui lớn lao bởi vì chúng ta “sẽ tiến về nhà Chúa" (Tv 122,1). Chúng ta có thể nhìn thấy kết cục của cuộc hành trình vĩ đại này, cuộc hành hương của kiếp người trên trần gian. Chúng ta được mời gọi để cư ngụ trong "nhà của Chúa". Đó là quê hương đích thực của chúng ta.
Mùa Vọng là mùa mong chờ ngày của Chúa, mong chờ giờ của sự thật. Đó là sự chờ mong ngày "Ngài sẽ xét xử các quốc gia, và phân xử các dân tộc" (Is 2,4). Chân lý trọn vẹn của Thiên Chúa sẽ là nền tảng cho nền hòa bình phổ quát và viên mãn của Đức Kitô. Đó là mục tiêu mà mọi người thiện chí hướng vọng.
Như vậy, một lần nữa Mùa Vọng giúp chúng ta nhận ra con đường vĩnh cửu dẫn con người đến với Thiên Chúa. Mỗi năm, Mùa Vọng là một khởi đầu mới. Đời sống con người không đi về chỗ bế tắc. Không, đời sống chúng ta đưa chúng ta về gặp gỡ Thiên Chúa ở cuối thời gian.
Trong Mùa Vọng cũng có một tiên báo về những con đường sẽ dẫn các mục đồng và các đạo sĩ Đông phương đến máng cỏ của Hài Nhi Giêsu ở Bêlem.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
1Sm 1, 24-28; Lc 1, 46-56.
LỜI SUY NIÊM: “Bấy giờ bà Maria nói: Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì thiên Chúa , Đấng cứu độ tôi” (Lc 1, 46-47).
          Đức mẹ đã cất lên lời Ngợi Khen Thiên Chúa. Đức Mẹ là linh hồn của dân tộc Ítraen, Đức Mẹ loan báo cho nhân loại biết Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng và là Đấng cứu độ. Thiên Chúa luôn yêu thương và lắng nghe người nghèo khổ và nâng họ lên. Nơi Đức mẹ, chúng ta tìm được phương thức để biết những gì làm cho cuộc sống được tràn đầy niềm hân hoan của Thiên Chúa. Khi tâm niệm lời Mẹ, chúng ta thấy được tình yêu cao cả của Thiên Chúa quan tâm đến thân phận hèn mọn của chúng ta. Chúng ta vốn không là gì cả nhưng đã được Ngài nâng cao lên, làm con của Ngài, để ngày sau được sống cùng Ngài trong bình an hạnh phúc.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
22 Tháng Mười Hai
Mùa Của Gửi Thiệp Tặng Quà

Người Anh thường nói: "Một quà tặng không có người tặng là một quà tặng trống rỗng trơ trụi". Giá trị của một quà tặng do đó, không tùy thuộc nhiều ở giá trị vật chất của nó, mà đi chính tâm tình của người tặng quà.
Ngày nay, cũng giống như ở bất cứ thời đại nào, cuộc gặp gỡ giữa các nhà lãnh đạo quốc gia thường đi kèm với nghi thức trao tặng quà cho nhau. Trong một cuộc họp thượng đỉnh ở ngoài khơi đảo quốc Malta cuối năm 1989, tổng thống Bush của Hoa Kỳ đã tặng cho chủ tịch Gorbachov của Liên Xô một viên gạch lấy từ bức tường ô nhục Bá Linh. Dù chỉ là một viên gạch, nhưng đây lại là một món quà vô giá, bởi vì tổng thống Bush đã muốn gói ghém trong đó tất cả thiện chí và ước muốn xây dựng hòa bình của ông, của nhân dân Hoa Kỳ, cũng như của tất cả những ai yêu chuộng hòa bình.
Trước đó vài ngày, chủ tịch Gorbachov cũng đã trao tặng và nhận quà trong cuộc gặp gỡ với Ðức Thánh Cha. Nhà lãnh đạo của Liên Xô đã tặng cho Ðức Thánh Cha một tập thánh vịnh in vào thế kỷ thứ 13 và 14, qua đó ông muốn khẳng định rằng những giá trị đạo đức và luân lý do tôn giáo đề ra là những nhân tố cần thiết cho việc xây dựng xã hội.
Ðáp lại, Ðức Thánh Cha đã tặng cho nhà lãnh đạo Liên Xô một quyển Tân Ước có ghi hàng chữ: "Ta là Ðường, là Sự Thật, và là Sự Sống".
Ðó là tất cả những gì mà Ðức Gioan Phaolô II và qua ngài, toàn thể Giáo Hội có thể trao tặng cho một xã hội đã từ lâu muốn gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.
Riêng với bà Raissa, phu nhân của chủ tịch Gorbachov, Ðức Thánh Cha đã tặng một cỗ tràng hạt. Lòng yêu mến đối với Nữ Vương của hòa bình: đó là món quà cao quý nhất mà một vị Giáo Hoàng đã có thể tặng cho tất cả những ai đang mưu tìm hòa bình cho nhân loại.
Mùa Vọng là mùa của gửi thiệp và tặng quà Giáng Sinh.
Chúng ta gửi thiệp chúc mừng đến những người thân thương quen thuộc đã đành, chúng ta cũng gửi đi những cánh thiệp xã giao đến những người chỉ một lần gặp gỡ, quen biết... Có một cánh thiệp nào, một quà tặng nào cho những người không quen biết, cho những người đầu ngõ cuối xóm mà chúng ta không hề muốn đưa mắt nhìn đến, cho những người hành khất bên vệ đường, cho những kẻ không nhà không cửa, cho những ai đang rét run vì giá lạnh, vì cô đơn không?
Hãy nhiệt tình chào hỏi những người mà chúng ta ghét cay ghét đắng. Hãy làm hòa với những ai chúng ta vừa gây gổ. Hãy dọn một bữa ăn cho những người hành khất quen thuộc. Hãy thăm viếng một người bệnh đang chờ một lời an ủi, đỡ nâng. Hãy san sẻ đôi chút với những người hàng xóm đang túng thiếu hơn ta.
Ðó là những cánh thiệp, những món quà Giáng Sinh có giá trị nhất mà chúng có thể gửi ngay đi trong Mùa Vọng này, bởi vì đó là phần cao đẹp nhất của chúng ta.
(Lẽ Sống)
Ngày 22
Magnificat (Bài ca “Ngợi khen”)


Khi đặt bài ca này trên môi miệng Đức Maria, thánh Luca tuyên b về thân phận người môn đệ và về Phúc Âm. Với biên c Truyền Tin, Đức Maria trở thành người môn đệ thứ nhất, và cũng là người Kitô hữu đầu tiên, khi nghe và đón nhận Lời, nghĩa là TinMừng về căn tính của Đức Giêsu, Đấng Mêxia và Con Thiên Chúa.
 
Ngày Truyền Tin, Mẹ vội vã báo tin cho nhiều người khác về li này của Phúc Âm, và ngày nay, với bài ca Magnificat, chúng ta có cách diễn giải của Mẹ về Lời này, ging như cách diễn giải của Con Mẹ, trong sứ vụ. Bài ca này mở ra cho chúng ta những quan điểm lý thú về Kitô học và về cách diễn giải.
 
 khởi đầu sứ vụ công khai, trong Tin Mừng của Luca (cũng như trong các Tin Mừng khác), tiếng Thiên Chúa xác định Đức Giêsu là Con của Người. Từ thuở đời đời, Tin Mừng thuộc về Đức Kitô. Nhưng khi Đức Giêsu rao giảng Phúc Âm, Người không nói lại về căn tính của Người, không nói với dân chúng: "Tôi là Con Thiên Chúa".
 
Người ưa giải thích hơn ý nghĩa về việc Con Người được sai đi, để những người hạnh phúc và bất hạnh làm chứng về những kết quả cho việc cứu độ và xét xử.

Raymond E. Brown

Ngày 22 tháng 12
 THÁNH NỮ PHANXICA CABRINI
SÁNG LẬP DÒNG CHỊ EM TRUYỀN GIÁO

Trong khi hết mọi xã hội đều phải qua bước suy tàn, và cùng với thời gian mất đi nguồn nhựa sống thì Giáo hội vẫn hằng tỏ ra trẻ trung, mặc dầu trải qua 20 thế kỷ. Cùng với vẻ xuân sắc của mình, Giáo hội luôn luôn sinh ra muôn vàn vị thánh, ở mọi thời mọi nơi, thuộc mọi chủng tộc và ở trong mọi tầng lớp xã hội.
Thế kỷ thứ 19, giữa lúc nhân loại đang đi vào con đường xa Chúa, vùi đầu vào cuộc đời vật chất, không kể gì là công bình bác ái, thì Giáo hội lại xướng xuất ra nhiều phong trào đạo đức. Giáo dân đua nhau tổ chức các hội đoàn để thực hiện chương trình bác ái nhất là nơi dân chúng nghèo khổ.
Thánh nữ Phanxica là một người rất nhiệt thành với mọi công cuộc bác ái. Chính tay bà đã cứu trợ nhiều người Ý tị nạn ở Mỹ châu.
Phanxica sinh ngày 15 tháng 7 năm 1850 trong địa phận Lodi. Người là con thứ 13 của một gia đình nông dân nước Ý. Từ thuở mới lọt lòng mẹ, Phanxica vốn ốm yếu hơn các anh chị em, đến nỗi ai nấy hầu thất vọng không trông cô có thể sống nên thân nên người được. Nhưng, trái lại, với cái thân hình ẻo lả ấy, Phanxica cứ mỗi ngày mỗi khôn lớn đồng thời lòng kính mến Chúa cũng tăng tiến.
Khi vừa chẵn 13 tuổi, Phanxica khấn giữ trinh khiết để suốt đời tận hiến cho Chúa và phục vụ anh em đồng loại. Với thời gian trôi qua, năm 18 tuổi, sau kỳ thi mãn khóa lớp sư phạm, Phanxica trúng tuyển và trở thành một nữ giáo viên.
Dạy học được hai năm thì vào năm 1870, cô phải chịu hai tang lớn của song thân. Sau đó, để tận hiến toàn thân cho Chúa, hầu tròn nhiệm vụ tôi ngay con thảo, Phanxica đến gõ cửa một tu viện, nhưng vì điều kiện sức khỏe quá thiếu thốn, nên không được thâu nhận. Biết đó là ý Chúa, cô liền khiêm tốn quay về sống cuộc đời một giáo dân hết mực đạo đức.
Năm 1874 cha xứ Codogno có ý nhờ Phanxica đứng ra lo việc từ thiện, săn sóc viện mồ côi trong xứ lúc đó đang thiếu người trông nom, nên công việc tổ chức đều không được chu đáo lắm. Vâng lời cha xứ, Phanxica đã nhận trách nhiệm đó và đêm ngày những lo lắng tổ chức cho viện được hoàn hảo. Người đã chăm sóc và giáo dục các em với tất cả tình thương yêu và lòng tận tụy của một người mẹ đạo đức. Trong khi đó, cũng có mấy người phụ nữ khác cùng phụ việc với Phanxica. Lòng đạo đức đã khiến họ ý hợp tâm đồng, để rồi hội nhau cùng soạn thảo một qui luật riêng với những lời khấn hứa để giúp nhau nên trọn lành hơn. Sau khi thảo xong bản nội qui, các chị em cùng nhau thi hành và nhận thánh Phanxicô Xaviê làm bổn mạng của hội.
Ba năm sau, vì công việc trong viện mồ côi không còn nữa, nên viện phải đóng cửa. Tuy nhiên hội đó vẫn tồn tại và đổi sang hoạt động truyền giáo rất mạnh mẽ, đến nỗi đã được Đức Giám mục địa phận chấp thuận và cho phép tổ chức thật hoàn toàn chu đáo.
Năm 1880, tại Codogno một tu viện đầu tiên được thành lập với mục đích huấn luyện các thiếu nữ, nhất là hướng dẫn các thiếu nữ lầm đường lạc lối.
Tới năm 1888, với bộ qui luật mới, tu viện được Toà thánh chính thức châu phê. Ngoài mục đích chính như vừa trình bày, mỗi ngày nữ tu còn phải dành bốn giờ để chuyên việc cầu nguyện và chầu Chúa trong thinh lặng.
Chị Phanxica được đề cử làm bề trên dòng. Mặc dầu phải gánh trọng trách nặng nề, chị cũng không hề quên lý tưởng truyền giáo. Chị mong được sang truyền giáo tại Á đông, nhất là nước Trung hoa, nhưng vì hoàn cảnh chưa cho phép, nên các chị em khuyên chị hãy lưu ý đến các kiều dân Ý bên Mỹ châu. Tại đó có tới hàng vạn người đang cần săn sóc giúp đỡ, vì họ quá túng thiếu về cả vật chất lẫn tinh thần.
Hưởng ứng lời khuyên nhủ của chị em, năm 1889, Phanxica cùng với một số chị em vượt biển sang Mỹ châu để thi hành sứ mạng. Sau nhiều ngày vượt trùng dương gian nguy, các chị mới tới đất Mỹ châu. Tới nơi, dân chúng nhất là những người tỵ nạn, hết sức mừng rỡ và đón tiếp các chị rất nồng hậu. Sau đó họ góp ý kiến giúp đỡ các chị lập một viện cô nhi, mở trường dạy học cho các trẻ em người Ý. Nhưng công việc của các chị đều gặp nhiều cản trở lớn lao. Cản trở thứ nhất là chính Đức Giám mục ở Mỹ châu không muốn tiếp nhận các chị, cản trở thứ hai là vấn đề vật chất rất thiếu kém khiến không thể thi hành chương trình đã hoạch định. Dầu vậy chị Phanxica và các chị đồng hành cũng không hề thất vọng. Các chị hoàn toàn phó mặc Chúa định liệu vì biết rằng, nếu công việc đẹp lòng Chúa nhất định sẽ thành công tốt đẹp. Thật vậy, Chúa đã không phụ lòng tin tưởng của con cái. Người đã cho các chị lượm được nhiều kết quả quá lòng sở ước: một viện cô nhi được thành lập để săn sóc những trẻ em nghèo khó; tiếp đến một học đường được xây cất và chính các chị đảm nhận việc điều khiển và huấn luyện các học sinh. Qua năm này sang năm khác, các cơ sở của tu viện được tuần tự thiết lập để rồi trở nên như trung tâm của dòng chị em truyền giáo.
Say sưa với công việc truyền giáo ấy, chị Phanxica đã xuất toàn lực hầu làm vinh danh Chúa, vì thế thân thể mỗi ngày một hao mòn. Sau một thời gian lâm trọng bệnh, chị được Chúa đem về nơi vĩnh phúc. Hôm đó là ngày 22 tháng 12 năm 1917. Thi hài người được mai táng tại New York.
Để thưởng công và nhất là để nêu gương nhiệt thành truyền giáo của chị Phanxica cho muôn thế hệ ghi nhớ và bắt chước. Đức Giáo Hoàng Piô XI đã tôn phong người lên bậc chân phước vào năm 1938. Tới năm 1949, Thiên Chúa lại muốn làm vinh danh người con yêu dấu của mình hơn nữa, nên đã khiến Đức Thánh Cha Piô XII phong người lên bậc hiển thánh.
www.tinmung.net
Thứ Bẩy 22-12
Chân Phước Jacopone ở Tadi
(c. 1306)

J
acomo, hoặc James (Giacôbê), sinh trong một gia đình quyền quý thuộc dòng họ Benedetti ở thành phố Todi thuộc phía bắc nước Ý. Ông trở nên một luật sư thành công và kết hôn với một phụ nữ đạo đức, độ lượng tên là Vanna.
Người vợ trẻ của ông đã tự ý hy sinh hãm mình một cách kín đáo để đền bù cho những thói tục thế gian quá đáng của chồng. Một ngày kia, do sự nài nỉ của ông Jacomo, bà Vanna đã theo chồng đến tham dự một cuộc tranh giải thể thao. Chẳng may phần khán đài chỗ bà ngồi cùng với các phụ nữ quý tộc khác bị sâïp, và bà bị tử thương. Ðang rúng động trước cái chết thảm khốc của vợ, ông Jacomo lại còn bối rối hơn nữa khi biết cái giây lưng đền tội mà bà đeo trong mình là vì tội lỗi của ông. Ngay lúc ấy, ông thề thay đổi đời sống.
Ông chia bớt tài sản cho người nghèo và gia nhập dòng Ba Phanxicô. Vì ông luôn mặc áo nhặm để đền tội nên ông bị chế nhạo là điên khùng, và bị chúng bạn cũ gọi là Jacopone, hay tên "Giacôbê khùng". Cái tên ấy đã gắn liền với cuộc đời ông.
Sau 10 năm chịu nhục nhã, ông xin được trở thành một tu sĩ Dòng Phanxicô. Vì sự nổi tiếng của ông, nên lúc đầu ông bị từ chối. Ông đã sáng tác một bài thơ thật hay về sự phù hoa của thế gian, và hành động ấy đã giúp ông được nhận vào Dòng năm 1278. Ông tiếp tục một cuộc đời kham khổ, hy sinh đền tội của một thầy dòng và từ chối không nhận chức linh mục. Trong khi đó ông vẫn tiếp tục sáng tác nhiều bài thánh ca bằng tiếng bản xứ.
Thầy Jacopone bỗng dưng trở nên nhà lãnh đạo của phong trào linh đạo đang gây nhiều xáo trộn trong dòng Phanxicô. Phong trào này được gọi là "Linh Ðạo", muốn trở về lối sống nghèo hèn đích thực của Thánh Phanxicô. Họ được sự hậu thuẫn của hai đức hồng y và Ðức Giáo Hoàng Celestine V. Tuy nhiên, hai vị hồng y lại chống đối đấng kế vị Ðức Celestine, là Ðức Giáo Hoàng Boniface VIII. Vào lúc 68 tuổi, Thầy Jacopone bị phạt vạ tuyệt thông và bị cầm tù. Mặc dù thầy nhìn nhận lỗi lầm, nhưng không được tha mãi cho đến năm năm sau, khi Ðức Benedict XI lên ngôi giáo hoàng. Thầy Jacopone chấp nhận thời gian tù đầy như để đền tội. Thầy sống ba năm còn lại một cách thánh thiện, than khóc về lỗi lầm của mình. Trong thời gian này, thầy đã sáng tác bài thánh ca nổi tiếng bằng tiếng Latinh, bài Stabat Mater.
Vào Ðêm Giáng Sinh 1306, Thầy Jacopone cảm thấy đã đến lúc từ giã cõi đời. Lúc ấy thầy ở trong tu viện của Dòng Thánh Clara Nghèo Hèn với một người bạn, sau này là Chân Phước Gioan ở xứ La Verna. Noi gương Thánh Phanxicô, Thầy Jacopone đã chào đón "Chị Tử Thần" với một bài ca nổi tiếng của thầy. Người ta kể rằng khi thầy chấm dứt bài hát và trút hơi thở cuối cùng thì ở nhà thờ, vị linh mục cũng vừa cất bài Vinh Danh trong Thánh Lễ Ðêm Giáng Sinh. Từ lúc từ trần cho đến nay, Thầy Jacopone vẫn được tôn kính như một vị thánh.
www.nguoitinhuu.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét