Trang

Thứ Sáu, 28 tháng 2, 2025

POPE: LITURGICAL LEADERS ARE SERVANTS OF PRAYER AND COMMUNITY

 


A moment of the liturgy  (ANSA)

 

Pope: Liturgical leaders are servants of prayer and community

From the Gemelli Hospital, where he is undergoing treatment for pneumonia, Pope Francis sends a message to staff and students of the Pontifical Institute of Liturgy marking the inauguration of the course for those responsible for liturgical ceremonies celebrated by a bishop.

By Linda Bordoni

Pope Francis has sent a message to participants in the course for those responsible for episcopal liturgical celebrations at the St. Anselm Pontifical Institute of Liturgy in which he offers words of encouragement and advice in their mission to promote and safeguard liturgical life.

The Pope’s message, “from Gemelli Hospital” and dated 26 February, was written as he undergoes treatment for bilateral pneumonia at Rome's Polyclinic. Twice-daily health bulletins have noted that the Pope continues to engage in work-related activities as he continues his medical therapies.

Addressing the Abbot Primate of the Institute and its Dean, as well as professors and students, the Pope acknowledged their commitment to deepening liturgical knowledge and highlighted the importance of studying the liturgy both theologically and in terms of its celebratory practice, which he described as essential to the spiritual life of the People of God.

"The person responsible for liturgical celebrations is not just a teacher of theology; he is not a scribe, who applies the norms; he is not a sacristan, who prepares what is needed for the celebration,” he stated, “He is a teacher placed at the service of the prayer of the community.”

Attention towards theology and pastoral ministry

Pope Francis underlined the role of liturgical leaders as mystagogues, responsible for preparing celebrations with attention to both theological principles and pastoral practice. He pointed to their duty to assist bishops in promoting and safeguarding liturgical life, allowing the diocesan community to participate fully in worship.

"I urge you, therefore, to propose and foster a liturgical style that expresses the following of Jesus, avoiding unnecessary pageantry or prominence," he wrote. He called for discretion in ministry and urged those responsible for celebrations to carry out their roles without seeking personal recognition. This attitude, he noted, should be instilled in those serving in the liturgy, such as altar servers, lectors, and cantors.

Reflecting on the relationship between divine and human wisdom, Pope Francis cited St. Teresa of Avila, describing her mystical experience as "a love that becomes light and wisdom: the wisdom of the divine and the human."

He encouraged liturgical leaders to acquire divine wisdom through prayer, meditation, and contemplation, and to develop human wisdom through study, analysis, and attentive listening.

Pope Francis concluded by reminding liturgical leaders to remain attentive to the people they serve and understand the needs of the faithful to foster participation in the Church's liturgical life. I hope that every one of you will always have at heart the People of God, whom you accompany in worship with wisdom and love," he said, adding, "And do not forget to pray for me."

https://www.vaticannews.va/en/pope/news/2025-02/pope-francis-message-pontifical-liturgical-institute-course.html

POPE FRANCIS HAS RESTFUL NIGHT AMID CLINICAL IMPROVEMENTS

 


Statue of St. John Paul II at Rome's Gemelli Hospital  (ANSA)

 

Pope Francis has restful night amid clinical improvements

The Holy See Press Office said on Friday morning that Pope Francis had a restful fifteenth night in Rome's Gemelli hospital, where he is being treated for bilateral pneumonia.

By Vatican News

"As in recent days, the night passed calmly, and the Pope is now resting," read a Holy See Press Office statement on Friday morning, as Pope Francis receives treatment for bilateral pneumonia at Rome's Gemelli Hospital.

After waking up this morning, the Holy Father ate breakfast and read a few newspapers. He continues his treatment and breathing physiotherapy.

The Vatican also announced on Friday that Cardinal Angelo De Donatis, Major Penitentiary of Apostolic Penitentiary, will preside at the traditional celebration of the Ash Wednesday liturgy on the Aventine, which will take place on 5 March.

According to the Thursday evening press release, the Pope's clinical condition continued to improve, though it remains "complex." The Press Office added that his prognosis remains guarded.

"He alternated high-flow oxygen therapy with a Ventimask. Due to the complexity of the clinical picture, further days of clinical stability are needed to clarify the prognosis," said the Thursday statement.

He spent Thursday afternoon in prayer in the chapel of his private apartment at the Gemelli hospital and received the Eucharist. He also engaged in several work-related activities.

https://www.vaticannews.va/en/pope/news/2025-02/pope-francis-has-a-restful-night.html

CẬP NHẬT SỨC KHỎE CỦA ĐỨC THÁNH CHA (TỐI 27 VÀ SÁNG 28/2): TIẾP TỤC CÓ DẤU HIỆU CẢI THIỆN

 


Cập nhật sức khoẻ của Đức Thánh Cha (tối 27 & sáng 28/2): tiếp tục có dấu hiệu cải thiện

Đức Thánh Cha luân phiên sử dụng liệu pháp oxy liều cao và mặt nạ thở. Cần thêm một số ngày để đảm bảo sự ổn định lâm sàng trước khi có thể đưa ra tiên lượng.

Vatican News

Theo thông báo của Phòng Báo chí Tòa Thánh tối ngày 27/2, tình trạng sức khỏe của Đức Thánh Cha tiếp tục có dấu hiệu cải thiện. Ngài đã luân phiên sử dụng liệu pháp oxy liều cao và mặt nạ thở. Do tính chất phức tạp của tình trạng sức khỏe, cần thêm một số ngày để đảm bảo sự ổn định lâm sàng trước khi có thể đưa ra tiên lượng.

Buổi sáng, Đức Thánh Cha dành thời gian cho vật lý trị liệu hô hấp, đan xen với nghỉ ngơi. Buổi chiều, sau một buổi trị liệu khác, ngài đã đến cầu nguyện tại Nhà nguyện ở tầng 10, lãnh nhận Thánh Thể, và tiếp tục các hoạt động công việc.

Đức Thánh Cha đã qua giai đoạn nguy kịch nhất, nhưng tình trạng vẫn còn phức tạp nên vẫn chưa thể đưa ra tiên lượng. Đức Thánh Cha đã nhập viện tại Bệnh viện Gemelli được mười ba ngày.

Sáng ngày 28/2: Đức Thánh Cha trải qua một đêm an lành và bây giờ ngài đang nghỉ ngơi.

https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2025-02/cap-nhat-suc-khoe-cua-dtc-toi-27-sang-28-2.html

 

GIỚI THIỆU 12 VỊ CÓ NHIỀU KHẢ NĂNG TRỞ THÀNH GIÁO HOÀNG: NẾU ĐƯỢC BẦU LÀM GIÁO HOÀNG, NGÀI SẼ LÀ ĐỨC GIÁO HOÀNG PHAN-XI-CÔ ĐỆ NHỊ

 

Giới thiệu 12 vị có nhiều khả năng trở thành Giáo Hoàng: Nếu được bầu làm Giáo Hoàng, ngài sẽ là Đức Giáo Hoàng Phanxicô Đệ Nhị

J.B. Đặng Minh An  27/Feb/2025

 


Đức Hồng Y Matteo Maria Zuppi, Tổng giám mục Bologna, Ý, sinh ngày 11 tháng 10 năm 1955, tại Rôma. Ngài được Đức Thánh Cha Phanxicô tấn phong Hồng Y ngày 5 tháng 10 năm 2019. Khẩu hiệu Giám Mục của ngài là “Gaudium Domini Fortitudo Vestra”, nghĩa là “Hãy để niềm vui của Chúa là sức mạnh của anh em”

Đức Hồng Y Matteo Maria Zuppi là ngôi sao đang lên nhanh chóng trong hàng giám mục Ý, một giám mục người Ý theo khuynh hướng chính trị cánh tả của Giáo hội, người có khả năng sẽ tiếp tục di sản của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng từ cộng đồng giáo dân Sant'Egidio mà ngài có mối quan hệ chặt chẽ. Hiện nay, ngài là chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Ý. Việc thăng tiến nhanh chóng của ngài được nhiều người cho là theo ý của Đức Thánh Cha Phanxicô muốn Đức Hồng Y kế vị ngài. Theo các quan sát viên về Vatican, nếu được bầu làm Giáo Hoàng, ngài sẽ lấy danh hiệu là Đức Giáo Hoàng Phanxicô Đệ Nhị.

Sinh ra và lớn lên tại Rôma, ngài có mối quan hệ gia đình gần gũi với Vatican. Cha của ngài, Enrico, là một nhà báo và nhiếp ảnh gia mà khi đó là Đức Tổng Giám Mục Giovanni Battista Montini, Phụ Tá Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, đã bổ nhiệm làm biên tập viên của L'Osservatore della Domenica, một ấn bản minh họa hàng tuần của L'Osservatore Romano hay tờ Quan Sát Viên Rôma. Đức Tổng Giám Mục Giovanni Battista Montini sau này là Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục.

Mẹ của Đức Hồng Y Matteo, Carla Fumagalli, là cháu gái của Hồng Y Carlo Confalonieri, người từng là thư ký của Đức Giáo Hoàng Piô XI, khi đó là tổng trưởng Bộ Giám mục và là niên trưởng Hồng Y đoàn tại các lễ tang của Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô I.

Là người con thứ năm trong gia đình sáu người con, cậu Matteo thời trẻ đã học trung học ở trung tâm lịch sử của Rôma và ở đó đã gặp Andrea Riccardi, người sáng lập phong trào Sant'Egidio. Ngài sớm tham gia vào cộng đồng mới thành lập, nơi mà ngài coi là “một Phúc âm khác và một Giáo hội khác”. Năm 1977, ở tuổi hai mươi hai, ngài đã hoàn thành bằng cấp về văn học và triết học tại Đại học La Sapienza ở Rôma, với luận án về cuộc đời của Đức Hồng Y Alfredo Ildefonso Schuster. Sau đó, ngài vào một chủng viện ở Giáo phận Palestrina ngoại ô Rôma và học để trở thành linh mục tại Đại học Giáo hoàng Latêranô, nơi ngài đã lấy bằng cử nhân thần học. Được thụ phong linh mục cho Giáo phận Palestrina vào năm 1981, ngài đầu tiên được bổ nhiệm làm phó xứ Santa Maria ở Trastevere dưới quyền của Cha Vincenzo Paglia. Trong thời gian ở đó, ngài đã giữ một số chức vụ bổ sung, bao gồm cả cha sở của một nhà thờ gần đó và là nhà lãnh đạo hội đồng linh mục giáo phận. Năm 1992, Cha Zuppi đóng vai trò chủ chốt trong các hiệp định hòa bình do Sant'Egidio làm trung gian với Mozambique, giúp ngài trở thành công dân danh dự của đất nước này.

Năm 2000, khi Cha Vincenzo Paglia được bổ nhiệm làm giám mục Terni, Cha Zuppi đã thay thế ngài làm linh mục chánh xứ Santa Maria ở Trastevere và làm linh hướng cho Sant'Egidio. Năm 2006, Đức Bênêđíctô XVI đã trao cho ngài danh hiệu danh dự là Linh mục cho Đức Thánh Cha. Năm 2010, ngài được điều động đến phục vụ tại một trong những giáo xứ lớn nhất của Rôma ở ngoại vi thành phố, và năm 2012, Đức Bênêđíctô XVI đã bổ nhiệm ngài làm Giám Mục Phụ Tá của Rôma. Tổng giám mục Paglia là một trong những người đồng tấn phong của ngài. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã bổ nhiệm Đức Cha Zuppi làm tổng giám mục Bologna vào năm 2015, kế nhiệm Đức Hồng Y Carlo Caffarra, và nâng ngài lên hàng Hồng Y vào năm 2019.

Ngoài tiếng Ý bản xứ, Đức Hồng Y Zuppi còn biết một ít tiếng Anh nhưng không được liệt kê là có thể nói thành thạo bất kỳ ngôn ngữ nào khác.

Đức Hồng Y Matteo Zuppi là một giáo sĩ dễ gần gũi có bạn bè thuộc mọi tầng lớp chính trị tại quê hương Rôma của ngài. Là một người luôn quan tâm đến người nghèo và người bị thiệt thòi, được hình thành thông qua mối quan hệ chặt chẽ với cộng đồng Sant'Egidio, vị giáo sĩ người Ý này cho thấy mình là một người con thực sự của tinh thần Công đồng Vatican II, một người luôn tìm cách tham gia liên tục vào thế giới hiện đại và thực hiện “sự thay đổi sâu sắc” mà ngài tin rằng Công đồng mong muốn cho Giáo hội.

Điều đó có nghĩa là giúp Giáo hội “lắng nghe lại nhiều câu hỏi của thế giới”, bắt đầu bằng khái niệm về lòng thương xót, mà theo ngài, “đại diện cho thái độ của Giáo hội hậu công đồng”. Đường lối của ngài là “từ chối thù hận”, tạo ra “sự đoàn kết đích thực”, chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên tôn giáo và “tình huynh đệ”, và đi ra vùng ngoại vi để giúp đỡ người nghèo và những người bị thiệt thòi — dù họ là những người nghiện ma túy khốn khổ, trẻ em gypsy nghèo đói hay người già bị bỏ rơi — giúp ngài có được biệt danh là “linh mục đường phố”. Ngài cũng nỗ lực bao gồm những người bị thu hút bởi người đồng giới và những người đã ly hôn và “tái hôn” theo luật dân sự, đồng thời thu hút người Hồi giáo, người Do Thái và những mối quan tâm của người di cư.

Được Đức Giáo Hoàng Phanxicô bổ nhiệm làm Tổng giám mục và tấn phong Hồng Y, Đức Tổng Giám Mục Matteo Zuppi cho thấy mình hoàn toàn cam kết tuân thủ tầm nhìn của triều đại giáo hoàng này và mong muốn thấy nó thành hiện thực, bắt đầu với Tông huấn Evangelii Gaudium của Đức Phanxicô và bao gồm cả văn kiện liên tôn có ý nghĩa quan trọng và gây tranh cãi của triều đại giáo hoàng này về tình huynh đệ nhân loại, được ký tại Abu Dhabi vào năm 2019. Ngài đã tham gia một số Thượng hội đồng của Vatican; ngài coi tính công đồng là nền tảng để đổi mới Giáo hội và giúp các cộng đồng giáo hội vượt qua sự cô lập cố hữu.

Đối với Đức Hồng Y Zuppi, chủ nghĩa cá nhân là điều tối kỵ và cộng đồng, chủ nghĩa hoạt động và sứ mệnh phải được đặt lên hàng đầu. Ngài sùng kính Đức Mẹ và coi trọng việc cầu nguyện, là điều mà ngài coi trọng đáng kể, nhưng sự nhấn mạnh của ngài vào công lý xã hội và bình đẳng đã tất yếu đưa ngài vào liên minh với chính trị cánh tả của Ý. Đến nỗi, khi Đức Thánh Cha Phanxicô tuyên bố rằng ngài sẽ nâng Zuppi lên Hồng Y đoàn, các phương tiện truyền thông Ý đã nói đùa rằng “linh mục” của đảng xã hội chủ nghĩa hàng đầu của Ý sẽ trở thành Hồng Y. Đức Hồng Y Zuppi cũng có mối quan hệ với một phong trào đối lập với Matteo Salvini, nhà lãnh đạo dân túy của Đảng Lega của Ý; đã ca ngợi hai người Ý cực tả, ủng hộ phá thai cấp tiến tại đám tang của họ; và thậm chí đã đưa một linh mục cộng sản vào Tổng giáo phận Bologna, người đã tranh cử một ghế trong Nghị viện Âu Châu.

Ngài đặc biệt nhiệt thành chào đón những người đồng tính và “tình yêu” đồng tính, thường không có bất kỳ lệnh cấm nào để sửa đổi cuộc sống.

Nhưng bất chấp khuynh hướng “tiến bộ” rõ rệt của mình, ngài cũng cố gắng đối thoại với những người bên phải và giữ các kênh mở với những người ủng hộ truyền thống của Giáo hội. Ngài đã cử hành Thánh lễ Latinh Truyền thống ít nhất hai lần và vào năm 2022 đã cử hành Kinh Chiều long trọng tại Đền Pantheon.

Trái ngược với hình ảnh “linh mục đường phố” khiêm nhường của mình là việc ngài đứng đầu một trong những giáo phận giàu có nhất thế giới, nhờ khoản tài trợ cực kỳ hào phóng trị giá 1,8 tỷ đô la cho Tổng giáo phận Bologna chỉ vài năm trước khi ngài được bổ nhiệm.

Các quan sát viên cho rằng, nếu ngài được bầu, ngài sẽ có quan điểm và đường lối mục vụ rất giống với Đức Thánh Cha Phanxicô, trừ ra một điều là ngài không thích thú lắm với các cuộc phỏng vấn. Không phải lúc nào cũng dễ dàng để biết chính xác Đức Hồng Y Zuppi, một giáo sĩ thông minh với trí tuệ sắc sảo, đứng ở đâu về học thuyết và các vấn đề khác, vì ngài đã chứng tỏ mình có thể điều chỉnh thông điệp của mình cho phù hợp với khán giả hoặc giáo hoàng của mình. Các nhà phê bình mô tả ngài là một người theo chủ nghĩa hiện đại một cách thông minh, và cảnh báo rằng quan điểm của ngài luôn tỏ ra nghiêng rõ ràng về hướng dị giáo, trong các vấn đề như về sự bất khả phân ly của hôn nhân, đồng tính luyến ái, ý thức hệ giới tính và hỏa ngục. Trái lại, những người ủng hộ ngài cho rằng điều này giúp ngài có thể giải quyết được những vấn đề phức tạp của thế giới hiện đại.

Về việc phong chức phó tế nữ, Đức Hồng Y Zuppi phát biểu vào tháng 11 năm 2023 về nữ linh mục và phó tế rằng: “Hôm nay tôi sẽ nói là không, Đức Giáo Hoàng đã nói thế, ngài cũng nhắc lại điều đó tại Thượng hội đồng,”.

Đức Hồng Y Zuppi kiên quyết bảo vệ quan điểm của Đức Giáo Hoàng Phanxicô về Tuyên ngôn Fiducia Supplicans, nói rằng văn kiện này cho thấy “cái nhìn yêu thương của Giáo hội dành cho tất cả con cái Chúa mà không làm suy yếu giáo huấn của Huấn quyền.” Mười tám tháng trước Tuyên ngôn Fiducia Supplicans, Đức Hồng Y Zuppi đã gây ra tranh cãi khi cho phép một linh mục ban phước lành cho một cặp đôi đồng tính trong tổng giáo phận của mình.

Đức Hồng Y Zuppi cũng không loại trừ khả năng biến việc độc thân của linh mục thành tùy chọn, nói rằng đó là một chủ đề “đang được thảo luận”. Ngài thường xuyên nhắc nhớ rằng trong Giáo Hội Công Giáo đã có những linh mục đã kết hôn. “Nếu bạn đến Ukraine hoặc Rumani, các linh mục của các cộng đồng nghi lễ Byzantine, nhưng có liên hệ với Rôma, đã có ở đó”, ngài nói. “Vì vậy, đó là một kỷ luật có thể thay đổi”.

Mặc dù Đức Hồng Y Zuppi đồng cảm với Thánh lễ cũ và đã cử hành Thánh lễ này, ngài cũng bày tỏ sự ủng hộ của mình đối với Tự Sắc Traditionis Custodes.

Đức Hồng Y Zuppi và Hiệp định Bí mật Vatican-Trung Quốc. Những nỗ lực ngoại giao của Đức Hồng Y Zuppi với Bắc Kinh không chỉ nhằm mục đích thúc đẩy hòa bình mà còn tiếp tục thỏa thuận bí mật giữa Vatican với Trung Quốc.

Đức Hồng Y Zuppi coi tính công đồng là một tiến trình cơ bản để đổi mới Giáo hội, giúp Giáo hội cởi mở hơn, bao trùm hơn và có khả năng ứng phó với những thách thức đương đại trong khi vẫn luôn trung thành với thông điệp truyền giáo.

Đức Hồng Y Zuppi đã nhiều lần lên tiếng về vấn đề biến đổi khí hậu và ủng hộ quan điểm của Đức Thánh Cha Phanxicô về vấn đề này.

Đức Hồng Y Zuppi đã bày tỏ sự ủng hộ đối với Thông điệp Humanae Vitae của Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục nhưng không công khai xác nhận giáo huấn của thông điệp này chống lại việc sử dụng biện pháp tránh thai. Năm 2023, Đức Hồng Y Zuppi cho biết ngài ủng hộ việc đổi mới quan điểm liên quan đến giáo huấn của Giáo hội về các biện pháp tránh thai và khuyến khích các nhà thần học “tiến xa hơn” với “sự trung thành sáng tạo”.

Với tư cách là chủ tịch Hội đồng Giám mục Emilia-Romagna, Đức Hồng Y Zuppi đã đóng vai trò chủ chốt trong việc xây dựng các hướng dẫn mục vụ cho chương 8 của Amoris Laetitia. Được ban hành vào năm 2018, các hướng dẫn này dường như đi chệch khỏi giáo huấn truyền thống của Giáo hội về việc cho phép những người đã ly hôn và “tái hôn” được Rước lễ. Trái ngược với tông huấn năm 1981 của Đức Gioan Phaolô II về gia đình Kitô giáo trong thế giới hiện đại, Familiaris Consortio, số 84, tài liệu này lập luận rằng sự trong sạch không phải là lựa chọn khả thi duy nhất cho những người đã ly hôn “tái hôn”, “vì sự kết hợp mới và do đó cả lợi ích của trẻ em có thể bị đe dọa nếu không có hành vi vợ chồng”.

Cuối cùng, trong khi một số Giám Mục công khai đả kích Tiến Trình Công Nghị Đức, người ta không tìm thấy bất kỳ bằng chứng nào cho thấy Đức Hồng Y Zuppi đã đề cập đến vấn đề này.

 

http://vietcatholic.net/News/Html/294453.htm

GIỚI THIỆU 12 VỊ CÓ NHIỀU KHẢ NĂNG SẼ KẾ VỊ ĐGH PHAN-XI-CÔ: VỊ HỒNG Y ĐƯỢC TIN SẼ LÀ ĐGH BÊ-NÊ-ĐÍC-TÔ THỨ 17

 

12 Hồng Y có nhiều khả năng sẽ kế vị ĐGH Phanxicô: Vị Hồng Y được tin sẽ là ĐGH Bênêđíctô thứ 17


J.B. Đặng Minh An  26/Feb/2025

 


Giới thiệu 12 vị có nhiều khả năng trở thành Giáo Hoàng: Vị Đức Hồng Y nói lưu loát nhiều thứ tiếng nhất

Đức Hồng Y Péter Erdő. Tổng Giám mục Địa phận Esztergom-Budapest, Hung Gia Lợi, hay còn gọi là Hungary. Khẩu hiệu Giám Mục “Initio non erat nisi gratia”, nghĩa là “Lúc ban đầu không có gì ngoài ân sủng”

Đức Hồng Y Péter Erdő sinh ngày 25 tháng 6 năm 1952, tại Budapest, Hung Gia Lợi. Ngài được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tấn phong Đức Hồng Y vào ngày 21 tháng 11 năm 2003.

Là anh cả trong gia đình có sáu người con, Đức Hồng Y Péter Erdő được nuôi dưỡng bởi cha mẹ Công Giáo ngoan đạo trong một gia đình mà Đức tin đã “được đan xen vào trong kết cấu cuộc sống của chúng ta”. Ngài lớn lên dưới chế độ cộng sản, và khi ngài lên bốn, gia đình ngài buộc phải chạy trốn chỉ với bộ quần áo trên người sau khi quân xâm lược Liên Xô đốt cháy ngôi nhà của gia đình họ vào năm 1956. Sau đó, ngài đã trải qua nhiều mức độ phân biệt đối xử khác nhau vì Đức tin của mình. Ngài được học tại một trường dành cho nam sinh Piarist ở Budapest. “Thực tại của Chúa” bắt đầu thu hút cậu bé Péter Erdő trở thành một cậu bé giúp lễ, mang lại ý nghĩa và định hướng cho cuộc sống của ngài. Ngài vào chủng viện sau nhiều lần cầu nguyện, tin rằng việc giúp đỡ mọi người hướng tới ơn cứu rỗi là điều quan trọng đến mức đòi hỏi phải cống hiến toàn bộ cuộc đời mình cho việc đó.

Sau khi thụ phong linh mục vào năm 1975 — mà ngài gọi là một trong ba khoảnh khắc hạnh phúc nhất trong cuộc đời — ngài đã dành hai năm phục vụ giáo xứ trước khi được gửi đến Rôma, nơi ngài lấy bằng thần học và luật giáo hội tại Đại học Giáo hoàng Latêranô, năm 1980. Trong những năm sau đó, ngài giảng dạy tại nhiều khoa luật giáo hội và thần học ở Hung Gia Lợi và nước ngoài, bao gồm cả Buenos Aires, trong khi làm thư ký và thẩm phán giáo hội. Trong thời gian này, ngài đã xuất bản các hướng dẫn và bài viết về luật giáo hội. Ngài là nghiên cứu sinh tại Đại học California, Berkeley từ năm 1995 đến 1996. Trong một thời gian, ngài là hiệu trưởng của Học viện Hung Gia Lợi tại Rôma, trong khi giảng dạy tại các trường Đại học Grêgôriô và Latêranô. Đức Gioan Phaolô II đã tấn phong linh mục Erdő làm giám mục vào năm 2000 và phong ngài làm giám mục trưởng của toàn Hung Gia Lợi với tư cách là Tổng Giám Mục của Tổng giáo phận Esztergom-Budapest vào năm 2003. Đức Tổng Giám Mục Erdő được nâng lên hàng Đức Hồng Y cùng năm.

Nói được tiếng Đức, tiếng Ý, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Anh và tiếng mẹ đẻ là tiếng Hung Gia Lợi, Đức Hồng Y Erdő được bầu làm chủ tịch Hội đồng Giám mục Công Giáo Hung Gia Lợi năm 2005 và cùng năm đó, làm chủ tịch Hội đồng các Hội đồng Giám mục Âu Châu, gọi tắt là CCEE. Sự kính trọng mà ngài giành được từ các đồng nghiệp giám mục của mình đã được thể hiện qua việc ngài tái đắc cử chủ tịch CCEE năm 2011 cũng như việc ngài được bổ nhiệm để giúp giám sát “Bộ phận thứ hai” của Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, chịu trách nhiệm về quan hệ ngoại giao. Từ năm 2003, ngài đã tham gia vào tất cả các kỳ họp của Thượng hội đồng Giám mục, với vinh dự đặc biệt được Đức Giáo Hoàng Phanxicô trao tặng là làm tổng tường trình cho các kỳ họp năm 2014 và 2015. Ngài là tác giả của hơn 250 bài báo và 25 cuốn sách.

Được hình thành giữa những khó khăn của chủ nghĩa cộng sản vô thần, Đức Hồng Y Péter Erdő được coi rộng rãi là một trí thức vĩ đại và một người có hiểu biết sâu sắc về những tai họa gây ra bởi chính sách Ostpolitik. Là một tác giả sáng tác nhiều và đọc rất nhiều, Đức Hồng Y Erdő cũng là một giáo viên thành thạo và là một nhà nghiên cứu giáo luật và học giả Kinh thánh có trình độ cao, nhờ đó ngài đã nhận được một số giải thưởng bao gồm bằng tiến sĩ danh dự từ một số tổ chức bao gồm Institut Catholique de Paris, năm 1996, và gần đây nhất là Giải thưởng Vox Canonica năm 2023, một giải thưởng dành cho các nhà nghiên cứu giáo luật lỗi lạc.

Ngài yêu thích phụng vụ hậu Công đồng Vatican II, đặc biệt là sự nhấn mạnh vào các bài đọc Cựu Ước. Mặc dù ngài thích Hình thức thông thường của Thánh lễ, ngài sẵn sàng cho phép Hình thức đặc biệt và sẽ ủng hộ nếu được yêu cầu làm như vậy nhưng ngài không đưa ra bình luận công khai nào về Tự Sắc Traditionis Custodes và những hạn chế của nó đối với Thánh lễ La tinh truyền thống.

Ngài coi Bí tích Thánh Thể và chức linh mục có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và mạnh mẽ bênh vực luật độc thân linh mục. Là người bảo vệ cấu trúc phân cấp của Giáo hội, ngài là một linh mục có trái tim mục vụ, người coi tầm quan trọng của ơn cứu rỗi là động lực thúc đẩy việc thụ phong linh mục. Ngài đã đặt trọng tâm vào Tân Phúc âm hóa và mục vụ cho giới trẻ. Công tác truyền giáo là trọng tâm trong đường lối mục vụ của ngài, và ngài đã thể hiện mối quan tâm lớn đối với cuộc khủng hoảng ơn gọi của Giáo hội.

Số lượng ơn gọi trong giáo phận của ngài hầu như thay đổi trong suốt nhiệm kỳ của ngài: năm 2002, tổng số linh mục là 358, và tăng lên tới 443 vào năm 2013 trước khi giảm xuống còn 365 vào năm 2021. Số lượng tu sĩ nam tăng nhẹ, từ 173 vào năm 2002 lên 199 vào năm 2021, nhưng số lượng tu sĩ nữ giảm hơn một nửa, từ 699 vào năm 2022 xuống còn 303 vào năm 2021.

Thận trọng, không thích rủi ro, thậm chí là nhút nhát, Đức Hồng Y Erdő, ở tuổi 51, là một trong những Đức Hồng Y trẻ nhất của Giáo hội khi được Đức Gioan Phaolô II tấn phong vào Đức Hồng Y đoàn năm 2003.

Về các vấn đề chính trị như nhập cư, một vấn đề mà Hung Gia Lợi đã vật lộn trong nhiều năm, Đức Hồng Y đã truyền đạt một đường lối cân bằng, công nhận quyền di cư nhưng cũng nhận thức được những nguy hiểm của việc hòa nhập người tị nạn mà không gây nguy hiểm cho sự ổn định chính trị. Ngài tin rằng cần phải đạt được sự cân bằng thực sự giữa tình đoàn kết và lòng thương xót. Đức Hồng Y quan tâm đến các Kitô hữu bị đàn áp (“Chúng ta thấy các môn đệ của Chúa Kitô trong họ”) nhưng vẫn có quan điểm khá ôn hòa về đạo Hồi. Đức Hồng Y Erdő có thái độ rất tích cực đối với Giáo Hội Chính thống giáo và nhiệt tình ủng hộ đối thoại với các tôn giáo không phải là Kitô Giáo, nhấn mạnh giá trị của Tuyên Ngôn Dignitatis Humanae hay Phẩm Giá Con Người. Sự nhấn mạnh của ngài vào sự thống nhất và vai trò là cầu nối giữa Đông và Tây đã củng cố vị thế của ngài như một nhà lãnh đạo quan trọng của Giáo hội.

Đức Hồng Y Erdő đã dành nhiều năm trong chức linh mục của mình để làm giáo viên — một nghề mà ngài rất yêu thích. Ngài thường nhấn mạnh tầm quan trọng của việc có mối quan hệ cá nhân với Chúa Kitô, điều mà ngài coi là quan trọng đối với Giáo hội khi Giáo hội đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng vì chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa tương đối. Ngài kiên quyết bảo vệ sự tồn tại của luật tự nhiên và kinh nghiệm của ngài về chủ nghĩa cộng sản đã dạy cho ngài tầm quan trọng mà tôn giáo có thể đóng góp để lấp đầy khoảng trống do sự sụp đổ của một ý thức hệ chính trị để lại, và rằng chỉ có mối quan hệ cá nhân với Chúa Kitô mới mang lại tự do và hạnh phúc thực sự.

“Nếu đức tin là điều quan trọng nhất trong cuộc sống, thì việc phục vụ đức tin của người khác, truyền bá đức tin, giảng dạy đức tin và đặc biệt là phục vụ trong phụng vụ là những điều tuyệt vời nhất trong cuộc sống”, ngài nói vào tháng 8 năm 2024. Giúp đỡ “sự cứu rỗi của người khác”, ngài nói thêm, là nhiệm vụ quan trọng và hữu ích. “Đây là động lực chính mà tôi cảm thấy ngay từ khi còn là một cậu bé”, ngài nói. “Và vì vậy, tôi dần đi đến quyết định vào chủng viện”.

Đức Hồng Y Erdõ phủ nhận chủ nghĩa phổ quát, là ý tưởng cho rằng tất cả mọi người đều được cứu rỗi, nhưng vẫn tin rằng tất cả mọi người đều có thể được cứu rỗi. Cuối cùng, ngài tin rằng, chỉ thông qua Chúa Giêsu Kitô, nhân loại mới có thể tìm thấy con đường đến với Chúa. Ngài ủng hộ việc đồng hành mục vụ cho những người ly hôn “tái hôn” nhưng chỉ khi “không có nghi ngờ” về giáo huấn của Giáo hội về sự bất khả phân ly của hôn nhân. Ngài kiên quyết phản đối việc chấp nhận các kết hiệp đồng tính nhưng ủng hộ việc hỗ trợ mục vụ cho những người bị hấp dẫn bởi người đồng giới. Ngài ủng hộ Humanae Vitae, ủng hộ mạnh mẽ sự sống và có lòng sùng kính Đức Mẹ nhiệt thành.

Là người ngưỡng mộ Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, vị Đức Hồng Y này được cố Đức Hồng Y George Pell yêu mến, người coi vị Đức Hồng Y người Hung Gia Lợi này là Người kế vị thích hợp nhất của Thánh Phêrô, một người có thể khôi phục lại nền pháp quyền tại Vatican sau triều đại Giáo hoàng Phanxicô.

Mặc dù ngài không bình luận công khai về Tuyên ngôn Fiducia Supplicans, nhưng xét đến việc ngài khăng khăng rằng giáo huấn của Giáo hội phải được duy trì, Đức Hồng Y Erdő có nhiều khả năng sẽ bị những người ủng hộ LGBTQ+ trong Giáo Hội phản đối. Ngài đã kiên quyết khẳng định lại lập trường của Giáo hội rằng “hoàn toàn không có căn cứ nào để coi các liên minh đồng tính là giống hoặc thậm chí là tương tự với kế hoạch của Chúa dành cho hôn nhân và gia đình”.

Nhiều quan sát viên cho rằng nếu được bầu làm Giáo Hoàng, có lẽ việc đầu tiên mà ngài làm là hủy bỏ Tuyên ngôn Fiducia Supplicans và thay đổi sâu sắc hiệp định bí mật với nhà cầm quyền Trung Quốc.

Đức Hồng Y Erdő luôn là người bảo vệ kiên quyết cho mục đích kết hợp và sinh sản của hôn nhân, coi “sự cởi mở với sự sống là một yêu cầu nội tại của tình yêu vợ chồng”. Ngài đã kêu gọi “tái khám phá” “sự cởi mở với sự sống” của văn kiện này và kiên quyết chống lại việc xét lại Thông Điệp Humanae Vitae do Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục công bố ngày 25/7/1968.

Đức Hồng Y Erdő đã nhấn mạnh rằng những người Công Giáo tái hôn dân sự chỉ có thể rước lễ nếu họ sống tiết dục, nghĩa là họ kiêng quan hệ tình dục, phù hợp với giáo huấn của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Trong Thượng hội đồng về Gia đình mà ngài là tổng tường trình viên, Đức Hồng Y Erdő đã ban hành một báo cáo nhấn mạnh rằng bất kỳ đường lối mục vụ nào cũng không được thỏa hiệp với sự thật về tính bất khả phân ly của hôn nhân.

 

http://vietcatholic.net/News/Html/294435.htm

HỌC HỎI PHÚC ÂM: CHÚA NHẬT VIII THƯỜNG NIÊN năm C

 

Học hỏi Phúc âm: Chúa nhật 8 Thường niên năm C – 2025


 

 

Lc 6,39-45

39Đức Giêsu còn kể cho môn đệ dụ ngôn này: “Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố? 40Học trò không hơn thầy, có học hết chữ cũng chỉ bằng thầy mà thôi. 41Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? 42Sao anh lại có thể nói với người anh em: “Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra”, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!

43“Không có cây nào tốt mà lại sinh quả sâu, cũng chẳng có cây nào sâu mà lại sinh quả tốt. 44Thật vậy, xem quả thì biết cây. Ở bụi gai, làm sao bẻ được vả, trong bụi rậm, làm gì hái được nho! 45Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra. 

CÂU HỎI

1. Đọc Lc 6,39. Đức Giêsu đòi người lãnh đạo trong cộng đoàn phải là người thế nào? Điều gì có thể làm người lãnh đạo bị mù? Người lãnh đạo bị mù sẽ đưa đến hậu quả nào?

2. Đọc Lc 6,40. Theo bạn, thầy ở đây có thể hiểu về ai? Chúng ta làm gì để được giống như thầy?

3. Có mấy từ người anh em của anh trong Lc 6,41-42? Người anh em ở đây là ai?

4. Khi đọc Lc 6,41-42 bạn thấy Đức Giêsu đang dùng kiểu nói nào để diễn tả?

5. Đọc Lc 6,41. Tại sao tôi thấy được cái lỗi nhỏ nơi người khác mà không thấy cái lỗi lớn nơi mình?

6. Đọc Lc 6,42. Tại sao tôi thường có khuynh hướng sửa lỗi người khác? Thế nào là người đạo đức giả?

7. Đọc Lc 6,42. Đức Giêsu dạy tôi phải làm gì khi muốn sửa lỗi người khác? Để lấy xà ra khỏi mắt mình, ta cần có thái độ nào? Tôi có cần người khác giúp tôi lấy xà không?

8. Đọc Lc 6,43-44. Hai câu này cho biết điều gì? Cây và quả tượng trưng cho điều gì?

9. Đọc Lc 6,45. Người tốt thì sản sinh ra cái tốt từ kho tàng tốt của trái tim mình. Và người xấu thì sản sinh ra cái xấu từ kho tàng xấu của mình. Vậy theo bạn, để sản sinh ra cái tốt hay trái tốt, ta cần phải làm gì?

 

CÂU HỎI SUY NIỆM:

Đức Giêsu nói: Vì tim có đầy, miệng mới nói ra. Theo bạn, lời nói có phản ánh trái tim bên trong con người không? Nếu đổi lời nói, thì có đổi được trái tim không?

PHẦN TRẢ LỜI

1. Các môn đệ là những người lãnh đạo Giáo Hội. Đức Giêsu đòi họ phải là những người sáng mắt để có thể dẫn đường những ai chưa sáng mắt (Lc 6,39). Người lãnh đạo có thể mù vì nhiều lý do. Mù vì không biết mình, không thấy được khuyết điểm của mình, không có tinh thần tự kiểm thảo. Mù vì không sống kinh nghiệm thiết thân với Chúa Giêsu, không nắm vững giáo lý của Ngài, không biết cách làm cho người khác trở thành môn đệ của Chúa. Người lãnh đạo mù sẽ làm người khác lạc lối và mất ơn cứu độ.

2. Có thể hiểu từ “Thầy” ở Lc 6,40 là Thầy Giêsu. Trong cộng đoàn tín hữu, kitô hữu là người học trò được huấn luyện đầy đủ, chỉ mong được nên giống Thầy Giêsu, bằng cách noi gương Thầy (1 Cr 11,1), có những cảm nghĩ của Thầy (Pl 2,5), và để Thầy sống trong mình (Gl 2,20).

3. Trong Lc 6,41-42 có 3 cụm từ “người anh em của anh” [bản dịch đã bỏ “của anh”]. Người anh em ở đây để chỉ những người trong cộng đoàn tín hữu.

4. Đức Giêsu đã sử dụng lối nói ngoa ngữ hay thậm xưng (hyperbole) ở Lc 6,41-42. Ai cũng biết là cái xà rất to không thể nào ở trong mắt người ta được. Đức Giêsu muốn nhấn mạnh việc người ta có thể không nhận ra một khuyết điểm rất lớn nơi mình.

5. Thấy được lỗi rất nhỏ nơi người khác nhưng lại không để ý tới cái lỗi rất to nơi mình: đây là một khuynh hướng phổ biến nơi con người, thu nhỏ cái xấu của mình và phóng đại cái xấu của người khác. Nó bắt nguồn từ việc không ai muốn thấy cái tôi xấu xí của mình. Hơn nữa, vì ai cũng muốn mình hơn người khác, nên dễ soi mói, tập trung hơn vào cái xấu xí của người khác.

6. Sửa lỗi người khác bao giờ cũng dễ hơn sửa lỗi chính mình. Ai cũng muốn làm điều dễ: lấy cọng rơm khỏi mắt người khác thì dễ hơn lấy xà khỏi mắt mình. Người “đạo đức giả” là người tự lừa dối mình, cứ chăm chăm đi giúp người khác lấy cọng rơm ra khỏi mắt, nhưng lại để yên cái xà nơi mắt mình.

7. Đức Giêsu không cấm ta sửa lỗi người khác khi cần, vì lòng bác ái. Nhưng Ngài đòi ta sửa lỗi chính mình trước, bằng tự kiểm, tự phê. Nhờ đó ta đủ sáng mắt để thấy rõ và sửa lỗi người khác. Lấy xà ra khỏi mắt mình là điều khó. Ta cần khiêm tốn và xin người khác giúp đỡ để làm việc này.

8. Luca 6, 43-44 là một ẩn dụ dùng hình ảnh cây và quả (= trái). Giữa cây và quả có mối tương quan mật thiết. Cây thế nào thì ra quả thế ấy: cây tốt sinh quả tốt, cây xấu sinh quả xấu (c.43). Cây giống nào thì ra quả giống ấy: bụi rậm, bụi gai không sinh trái nho, trái vả (c.44). Từ đó có nguyên tắc: xem quả thì biết cây.

9. Từ ẩn dụ trên đây, Đức Giêsu nói đến cái tốt, cái xấu từ trái tim (= từ lòng con người). Tim tốt thì sinh ra cái tốt, tim xấu thì sinh ra cái xấu. Cứ nhìn cái xấu, cái tốt thì biết được trái tim con người. Vậy nếu muốn có cái tốt hay trái tốt thì cần đổi trái tim.

Lm. An-tôn Nguyễn Cao Siêu SJ.

CẦU CHO CÁC LINH MỤC

 

CẦU CHO CÁC LINH MỤC

 

Lạy Chúa, xin cho con biết tế nhị và quảng đại trong việc phê phán và kết án các cha sở chúng con, vì các ngài phải đảm đang cùng một lúc quá nhiều bổn phận...

 


 

Một Đấng Bản Quyền tìm thấy “lời cầu nguyện cho các linh mục, đã cũ nhưng hay…” và gửi đến cho Ban Biên tập trang web TGPSG để “tùy nghi phổ biến”.

Đây là lời cầu nguyện do Père Marcel-Marie Desmarais, O.P. soạn và đăng trên La Clinique du Coeur năm 1958.

Chúng tôi xin đăng lại lời cầu nguyện này và thêm những tựa đề phụ trên từng đoạn, để người cầu nguyện dễ nắm bắt được ý tưởng khi thân thưa cùng Chúa.

 

Nếu không có linh mục…

Lạy Chúa, trước tiên con xin cám ơn Chúa, vì có những người đàn ông can đảm dám nhận lãnh trách nhiệm làm cha sở và cha phó cho chúng con. Nếu như các ngài chọn cảnh sống làm cha gia đình hết thảy, thì chúng con đây thật vô phúc biết chừng nào! Lúc đó đâu còn có ai dẫn dắt chúng con? Và nếu như tất cả các xứ đạo trên hoàn cầu cũng đều nhất loạt không có linh mục, âu là chúng con sẽ bơ vơ. Và Giáo Hội Công Giáo này rồi sẽ ra sao?!

 

Phục vụ xuyên suốt cuộc đời giáo dân

Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa, vì đã ban cho các ngài sự can đảm trước những hy sinh dầy đặc tư bề và triền miên. Nhờ các ngài mà chúng con mới có thể dưỡng nuôi linh hồn mình bằng Bánh Hằng Sống, mới có thể xây dựng gia đình vững niềm tin, mới có thể tẩy sạch hồn mình. Và cũng nhờ bàn tay linh mục, các ngài chúc lành để chúng con được ra đi bình yên, ngày mà chúng con nhắm mắt vĩnh biệt cõi đời này.

 

Những khuyết điểm của linh mục

Lạy Chúa, con cũng xin cám ơn Chúa luôn cả về những khuyết điểm của các cha sở chúng con nữa, vì những con người mà quá trọn lành, thì thường ít biết thông cảm và chấp nhận những yếu đuối của kẻ khác lắm. Những ai có sức khỏe dồi dào thường hay khinh chê những người ốm yếu, bệnh tật. Lạy Chúa, thật Chúa thấy xa hơn chúng con nhiều. Chúa đã trao ban cho chúng con những linh mục, mà từ kinh nghiệm bản thân cũng đã tự thấy mình có những bất toàn, nên các ngài dễ cảm thông những yếu đuối của chúng con hơn. Và như thế các ngài sống khiêm nhường, dễ gây thiện cảm và sống quảng đại, dễ tha thứ và tôn trọng chúng con, mặc dù đa số chúng con đầy khuyết điểm và yếu đuối.

 

Thành công & thất bại

Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa cho công việc tông đồ của cha sở chúng con. Xin Chúa hãy giúp các ngài, dù có được thành công cũng không tự kiêu, tự đại, và chẳng may có thất bại ê chề, thì các ngài cũng không cảm thấy cô đơn ngã lòng. Vì Nước Chúa không tùy thuộc vào thành công hay thất bại nhất thời, mà chính là tùy thuộc vào nồng độ tình yêu của các ngài đối với Chúa.

 

Phục vụ như người đa năng

Lạy Chúa, thật các cha sở chúng con quả là những “vĩ nhân” độc đáo. Các ngài vừa phải là những nhà sư phạm uyên thâm cho trẻ em trong giáo xứ, vừa là những chuyên viên lành nghề, giải đáp thỏa đáng các vấn đề hôn nhân để chỉ dạy cho những cặp vợ chồng mới cưới trong chúng con, vừa là những nhà tâm lý đáng nể cho những thanh niên đầy cao vọng, bất mãn và hiếu động, vừa là những nhà khoa học lão thành và tế nhị nơi tòa cáo giải, cứu nguy cho những tâm hồn đau khổ, lo âu và tội lỗi được an vui và thánh thiện. Khi chủ tọa các buổi hội họp của các ông, các ngài phải bàn cho sâu sắc những vấn đề lớn của Giáo Hội, và phải ban lời chỉ giáo cho họ như tôn sư đầy kinh nghiệm và khoa học. Và khi phải họp với các bà, giải thích Phúc Âm, thì các ngài lại là những nhà Kinh Thánh có nhiều chất lượng. Khi đến thăm những gia đình nghèo khổ, tang tóc hay ốm đau, các ngài lại là những ân nhân phúc hậu, là nguồn an ủi, là ánh sáng và niềm tin cho chúng con. Đối với gia đình trí thức, các ngài cũng có tầm cỡ trí thức, để có thể bàn luận thời sự, về những phát minh, các tác phẩm mới nhất để ai ai cũng có thể khâm phục các ngài như những nhà thông thái hiện đại bậc nhất. Khi tiếp xúc với các nhà hoạt động xã hội, các ngài cũng phải biết tìm hiểu và giải đáp trước những vấn đề lớn của thời đại, về kinh tế, xã hội và lao động, theo đúng tinh thần Công Giáo, để tạo nên sức bật cho những đóng góp, làm đẹp đời đẹp đạo.

 

Niềm nở tiếp đón mọi người

Lạy Chúa, con cũng không quên nói là các ngài còn phải chào đáp lễ tất cả những ai chào hỏi trên hè phố, nhưng cũng không vì thế mà các ngài bị hiểu lầm là những người thích du ngoạn, hiếu kỳ hay dòm ngó. Khi các ngài phải đón tiếp chúng con, ước gì chúng con cảm thấy được các ngài tiếp đón chúng con, với nụ cười niềm nở của một người cha hiền, đừng có nét mặt lạnh lùng, hoặc những lời làm chúng con khiếp sợ, mặc dù chúng con cũng biết các ngài đang dở sống dở chết trong mệt nhọc của những việc làm vất vả.

 

Những bài giảng

Lạy Chúa, con cũng không quên là chúng con rất mong đợi nơi các ngài mỗi buổi lễ Chúa nhật, qua các bài giảng, những lời giáo huấn, không cần phải hùng hồn, nhưng rất xác tín, đầy chất lượng Chúa, với cung giọng trầm ấm dịu dàng, để khơi dậy niềm tin, sức sống và lòng yêu mến Chúa, hơn là những gì tầm thường, đến độ chẳng khác gì những điều mà chúng con không thích nghe nơi miệng của những người thiếu sự quan tâm, của những diễn đàn nơi trần tục.

 

Thông cảm

Lạy Chúa, xin cho con biết tế nhị và quảng đại trong việc phê phán và kết án các cha sở chúng con, vì các ngài phải đảm đang cùng một lúc quá nhiều bổn phận, và còn phải thích ứng cho từng lứa tuổi, cho từng giới người, mà đa số chúng con thường hay khó tính, hẹp hòi và đòi hỏi quá đáng. Xin Chúa hãy làm cho chúng con biết bằng lòng với những khả năng giới hạn của các ngài. Xin Chúa giúp chúng con có nhiều tình thương đối với các cha sở chúng con, cả trong cảm nghĩ, lúc vắng mặt các ngài, và cả trong lời nói nữa.

 

Nếu cha sở chúng con có thành công với đám trẻ, thì đừng để chúng con đánh giá ngài là hành đạo như con trẻ. Nếu thấy ngài tròn trịa lên cân, thì đừng để chúng con bạo miệng lên án ngài lìa xa việc hãm mình hy sinh đền tội. Khi cha sở chúng con có thành công trong giới các bà, thì đừng để chúng con ngồi lê với người xấu miệng đàm tiếu rằng người đứng đầu xứ đạo bị phái yếu chi phối.

 

Tha thứ

Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết tha thứ những bất kiên nhẫn và những lầm lẫn của cha sở chúng con, để chúng con ý thức rằng cả xứ đạo cùng chịu đựng có mỗi một cha sở chúng con thôi, đang lúc mà triền miên hai vai già yếu của ngài phải gánh vác cả một xứ đạo.

 

Nâng đỡ

Sau cùng xin Chúa cho chúng con có khả năng, đôi lúc biết ơn cha sở chúng con một cách cụ thể, để ngài cảm thấy ít ra là có một vài lúc được nâng đỡ, thương yêu và an ủi trong suốt chuỗi ngày dễ bị lãng quên, buồn tẻ, cô đơn ở nhà xứ chỉ có tiếng chó sủa, mông lung, vắng lặng.

 

Cầu nguyện

Để kết thúc, xin Chúa cho con được bền đỗ cầu nguyện, cảm thông và nâng đỡ các cha sở chúng con, và con nghĩ, đó cũng là điều mà chính Chúa đã khát khao ở vườn Cây Dầu trong đêm âm u bất tận ấy. Amen.

 

Père Marcel-Marie Desmarais, OP.
LA CLINIQUE DU COEUR, Tome IV, page 117
Editions du Lévrier, Montréal 1958

 

 

CHẾT CÓ ĐÁNG SỢ KHÔNG?

 

CHẾT CÓ ĐÁNG SỢ KHÔNG?

 

Niềm tin tôn giáo giúp ta bước tự tin trên hành trình nhân thế. Niềm tin đó định hướng sống cho ta ở đời này và xác định chỗ cho ta ở đời sau. Niềm tin cho ta bản lãnh để sống và đối diện với điều đáng sợ nhất của kiếp người: Cái Chết.

 


Làm người ai cũng sợ chết. Chỉ có kẻ mất kiểm soát lý trí (điên) mới không sợ chết. Điều con người mong ước nhất là được kết thúc hành trình cuộc đời trong thanh thản và bình an, bởi vì tiềm ẩn trong tâm hồn nỗi sợ hãi khi đối diện cái chết.

 

- Các chiến binh ra chiến trường có sợ chết không? Họ rất sợ, cứ đọc nhật ký hay nghe nhạc tiền chiến xưa để cảm nhận nỗi lòng họ. Nhưng họ dám chấp nhận chết vì lý tưởng cao đẹp cho dân tộc, non sông…

 

- Các thánh, nhất là thánh tử đạo có sợ chết không? Các ngài sợ chứ! Nhưng vì niềm tin kiên vững và tình yêu cao cả dành cho Chúa, các ngài sẵn sàng đổ máu đón nhận cái chết.

 

Tại sao con người lại sợ chết? Họ sợ giây phút đớn đau hoảng loạn trong cơn nguy tử và nhất là, họ sợ mình chết rồi không biết sẽ thế nào và đi về đâu.

 

Hành trình về đời sau có thể dùng so sánh này để cảm nghiệm. Đó là một cuộc lữ hành rất xa, ra khỏi quốc gia đang sống để qua một nước mà chúng ta chưa bao giờ biết đến. Hai trường hợp phổ biến hiện nay ta vẫn thấy:

- Đi lậu hay liều theo hợp đồng lao động mơ hồ: Không ai bảo lãnh, không biết nơi mình tới, chỗ mình ở, việc mình làm.. Chắc chắn trước khi ra đi rất lo sợ.

 

Những người không có niềm tin vào một tôn giáo nào, khi đối diện cái chết cũng vậy. Bởi không tin nên chẳng có ai ở đời sau “bảo lãnh” cho họ. Chẳng có thần thánh nào đón nhận họ. Chẳng có một nơi đến nào (thiên đàng, niết bàn…) để họ vững tâm đối diện cái chết.

 

- Đi theo diện chính quy: Có giấy tờ hợp pháp, có người bảo lãnh, biết nơi mình sẽ đến, rõ nơi để ở, thu xếp sẵn việc làm… Trước khi ra đi vẫn lo nhưng đầy tự tin.

 

Người có niềm tin vào Chúa khi chuẩn bị hành trang về đời sau cũng thế. Họ được chính Chúa khẳng định “Nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở”. Họ còn có các thánh “bảo lãnh” nhờ công đức các ngài. Do đã có “quốc tịch nước Chúa”, dù họ còn thiếu tiêu chuẩn để định cư thiên đàng, thì vẫn hy vọng vào lòng khoan dung vô bờ của Đấng trị vì Nước đó.

 

Niềm tin tôn giáo giúp ta bước tự tin trên hành trình nhân thế. Niềm tin đó định hướng sống cho ta ở đời này và xác định chỗ cho ta ở đời sau. Niềm tin cho ta bản lãnh để sống và đối diện với điều đáng sợ nhất của kiếp người: Cái Chết.

 

Linh mục Giuse Nguyễn Đức Thịnh

THIÊN CHÚA CÓ PHẢI LÀ ÔNG TRỜI?

 

THIÊN CHÚA CÓ PHẢI LÀ ÔNG TRỜI?

 

Một phần nào đó, có thể nói rằng hình ảnh “Ông Trời” trong dân gian đã phản ánh một khái niệm về Thiên Chúa, nhưng không đầy đủ. Thiên Chúa không chỉ là Đấng quyền năng, mà còn là Đấng yêu thương. Ngài không xa cách con người, mà luôn tìm kiếm chúng ta, chờ đợi chúng ta nhận ra Ngài.

 


Bạn thân mến,

Cảm ơn bạn đã hồi âm cho tôi với những điều tích cực từ lá thư trước. Như đã nói, tôi không muốn thuyết phục bạn tin vào Thiên Chúa. Trước hết, tôi chia sẻ với bạn về niềm tin và Thiên Chúa mà tôi đang tin. Biết là một chuyện, tin lại là một chuyện rất khác. Sau đó, càng biết về Thiên Chúa, bạn càng cảm thấy những điều thú vị có thể giúp cho hành trình đức tin của bạn.

 

Cảm ơn bạn đã đặt một câu hỏi rất thú vị: “Thiên Chúa có phải là Ông Trời?”. Đây là điều mà nhiều người Việt Nam vẫn thắc mắc; nhất là khi trong văn hóa dân gian, chúng ta thường nghe những câu như “Ông Trời có mắt”, “Lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà khó thoát” hay “Sống chết có số, giàu sang do trời.” Những câu nói ấy cho thấy người Việt từ xa xưa đã tin vào một Đấng nào đó cao vời, quyền năng và chi phối vạn vật. Nhưng liệu Thiên Chúa mà Kitô giáo tin có giống với hình ảnh Ông Trời trong dân gian không?

 

Lúc mình còn trên ghế nhà trường, rất nhiều lần thầy cô chia sẻ về tín ngưỡng nhân gian. Nói như thế để thấy người Việt có cảm thức tôn giáo rất mạnh mẽ. Chẳng hạn,trong truyền thống Việt Nam, “Ông Trời” được hiểu là một sức mạnh siêu nhiên quyết định số phận con người. Nhiều người tin rằng Trời thưởng kẻ lành, phạt kẻ ác, và không ai có thể trốn thoát khỏi lưới trời. Tuy nhiên, trong niềm tin dân gian, Ông Trời thường được xem là một thực thể xa cách, quyền uy nhưng không có mối liên hệ cá vị với con người. Ông Trời dường như đứng từ xa để quan sát và điều khiển vũ trụ, mà ít ai nghĩ rằng mình có thể gặp gỡ hay đối thoại với Ngài. Đúng như tên gọi, Ông chỉ đến phái nam, còn trời chỉ đến một nơi cao xa nào đó. Nếu hiểu theo cách này, hình như Ông Trời không phải là Thiên Chúa mà chúng tôi đang tin.

 

Bạn biết không, Thiên Chúa không chỉ là một Đấng cao vời, mà còn là một Đấng đầy yêu thương, gần gũi với con người. Ngài không chỉ tạo dựng nên vạn vật mà còn chăm sóc từng người một cách cá vị. Đây là điều rất khác, vì chúng tôi có thể gặp được Thiên Chúa trong cầu nguyện, chính Thiên Chúa cũng muốn gặp gỡ và cứu giúp con người. Vì thế mà trong Thánh Kinh, Thiên Chúa được gọi là “Cha” (Mt 6,9), Đấng yêu thương và lắng nghe lời cầu nguyện của con cái mình. Gọi là “Cha”, nhưng không vì thế mà chúng ta hiểu Thiên Chúa thuộc về giới tính nam. Vì Ngài không có thân xác, nên không thể là nam hay là nữ. Tuy nhiên, nếu đề cập đến Chúa Giêsu lại là chuyện khác.

 

Số là “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3,16).Như vậy, Thiên Chúa Cha có một người con duy nhất là Chúa Giêsu.Điều này càng cho thấy Thiên Chúa không chỉ là một khái niệm trừu tượng, mà là một Đấng sống động, có thể bước vào đời sống con người, qua Chúa Giêsu. Ngài không định đoạt số phận con người theo kiểu một vị quan tòa nghiêm khắc, mà ban cho mỗi người sự tự do để yêu thương và chọn lựa. Nếu Thiên Chúa chỉ đơn thuần là “Ông Trời”, có lẽ chúng ta sẽ sống trong sự sợ hãi vì không biết Ngài có yêu thương mình hay không. Nhưng Kitô giáo dạy rằng Thiên Chúa là Tình Yêu (1 Ga 4,8), và vì yêu, Ngài đã đến để cứu độ nhân loại qua cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô.

 

Có thể biết Thiên Chúa không?

Có lần bạn hỏi rằng: “Làm sao tôi có thể biết Thiên Chúa nếu tôi chưa bao giờ thấy Ngài?” Lúc đó tôi chỉ biết gãi đầu bó tay, vì mới học lớp 10. Sau mấy chục năm trời, tôi có thể viết trả lời cho bạn như sau, Ngài tỏ lộ chính mình qua nhiều cách:

1. Qua vẻ đẹp của thế giới tự nhiên: Nhìn một bầu trời đầy sao, một bông hoa nhỏ bé, hay tiếng sóng vỗ bờ… bạn có thấy đó là sản phẩm của ngẫu nhiên không? Hay có một Bàn Tay nào đó đã tạo dựng tất cả? Bạn có thể tìm đọc thêm cuốn sách tôi viết chi tiết chủ đề này: 10 cách chứng minh Thiên Chúa hiện hữu.

 

2. Qua con người và lòng tốt của họ: Khi bạn thấy ai đó hy sinh cho người khác, khi bạn cảm nhận được lòng thương xót, khi ai đó yêu bạn cách chân thành… đó cũng là dấu chỉ của Thiên Chúa, vì chính Ngài là nguồn mạch của tình yêu.

 

3. Qua Đức Giêsu Kitô: Có lẽ đây là nguồn mạch chính để chúng ta biết hơn về Thiên Chúa. Trong những lá thư tới, chúng ta sẽ tìm hiểu về nhân vật đặc biệt này. Ở đây, chúng tôi tin rằng nếu muốn biết Thiên Chúa là ai, hãy nhìn vào Đức Giêsu. Người đã sống giữa con người, đã yêu thương, tha thứ, chữa lành và hy sinh mạng sống vì nhân loại. Bởi thế mà thánh Phaolô, người sau này đã biết và tin vào Thiên Chúa, viết rằng: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài.”

 

Bạn có thể chưa sẵn sàng tin, và điều đó không sao cả. Điều quan trọng là bạn mở lòng ra để tìm kiếm. Có thể bắt đầu bằng một lời cầu nguyện rất đơn giản: “Lạy Chúa, nếu Ngài thực sự hiện hữu, xin cho con nhận biết Ngài.” Đó là lời cầu nguyện chân thành mà Thiên Chúa luôn lắng nghe. Hoặc đơn giản, bạn có thể tự suy luận xem Ông Trời mà bạn thường nghe đến, và Thiên Chúa mà bạn thường tìm hiểu có giống và khác nhau không? Trong trường hợp này, lương tâm hay lòng bạn sẽ là gợi hướng cho bạn rất nhiều.

 

Kết luận

Vậy Thiên Chúa có phải là Ông Trời không? Một phần nào đó, có thể nói rằng hình ảnh “Ông Trời” trong dân gian đã phản ánh một khái niệm về Thiên Chúa, nhưng không đầy đủ. Thiên Chúa không chỉ là Đấng quyền năng, mà còn là Đấng yêu thương. Ngài không xa cách con người, mà luôn tìm kiếm chúng ta, chờ đợi chúng ta nhận ra Ngài.

 

Mong chờ thư hồi âm của bạn!

Thân mến,

Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc SJ


 

Tái bút:

Cũng như thư trước, tôi vẫn hỏi Chat GPT về chủ đề này, nó cho mình mẩu đối thoại vui này, bạn đọc để ngẫm nghĩ nhé: “Thiên Chúa có phải là Ông Trời?”

???? Nam: Ê, hôm qua tớ nghe bà ngoại nói: “Trời có mắt, làm gì cũng phải cẩn thận!” Cậu nghĩ sao, có phải Thiên Chúa chính là Ông Trời không?

???? Minh: Câu hỏi hay đấy! Nhưng mà cậu nghĩ Ông Trời là ai đã?

???? Nam: Thì... một ông già râu dài, ngồi trên mây, cầm sổ ghi chép ai ngoan, ai hư?

???? Minh: Haha, nghe giống ông già Noel hơn là Thiên Chúa đó!

???? Nam: Ừ nhỉ! Nhưng người Việt mình hay nói “Trời đánh tránh miếng ăn”," rồi “Ông Trời có mắt” mà!

???? Minh: Đúng, nhưng Ông Trời trong dân gian thường là một khái niệm về một thế lực siêu nhiên, có quyền lực và công lý. Còn trong Kitô giáo, Thiên Chúa không chỉ là Đấng quyền năng mà còn là Cha đầy yêu thương!

???? Nam: Vậy là khác hẳn sao?

???? Minh: Khác chứ! Nếu Ông Trời chỉ là một sức mạnh vô hình cai trị thế giới, thì Thiên Chúa của Kitô giáo còn bước vào lịch sử, trở thành người phàm – chính là Chúa Giêsu!

???? Nam: Để tớ hiểu cho đúng nhé… Ông Trời giống như ông hiệu trưởng ngồi trong phòng, ký giấy tờ, giám sát học sinh. Còn Thiên Chúa thì là thầy giáo, đến tận lớp dạy học sinh cách sống tốt?

???? Minh: Chính xác luôn! Thầy giáo không chỉ dạy mà còn yêu thương học trò, giúp đỡ khi họ gặp khó khăn. Cậu thấy khác biệt rồi chứ?

???? Nam: Hiểu rồi! Nhưng nếu Thiên Chúa thương yêu như vậy, tại sao vẫn có người gặp chuyện xui xẻo?

???? Minh: Ôi dào, lại câu hỏi hóc búa rồi! Cậu có muốn một ly trà sữa để tớ giải thích tiếp không?

???? Nam: Thế thì hai ly đi, vì chắc câu trả lời cũng dài lắm!

MARCH 01, 2025: SATURDAY OF THE SEVENTH WEEK IN ORDINARY TIME

 

March 1, 2025


 

Saturday of the Seventh Week in Ordinary Time

Lectionary: 346

 

Reading 1

Sirach 17:1-15

God from the earth created man,
and in his own image he made him.
He makes man return to earth again,
and endows him with a strength of his own.
Limited days of life he gives him,
with power over all things else on earth.
He puts the fear of him in all flesh,
and gives him rule over beasts and birds.
He created for them counsel, and a tongue and eyes and ears,  
and an inventive heart,
and filled them with the discipline of understanding.
He created in them knowledge of the spirit;
With wisdom he fills their heart;
good and evil he shows them.
He put the fear of himself upon their hearts,
and showed them his mighty works,
That they might glory in the wonder of his deeds
and praise his holy name.
He has set before them knowledge,
a law of life as their inheritance;
An everlasting covenant he has made with them,
his justice and his judgments he has revealed to them.
His majestic glory their eyes beheld,
his glorious voice their ears heard.
He says to them, "Avoid all evil";
each of them he gives precepts about his fellow men.
Their ways are ever known to him,
they cannot be hidden from his eyes.
Over every nation he places a ruler,
but God's own portion is Israel.
All their actions are clear as the sun to him,
his eyes are ever upon their ways.

 

Responsorial Psalm

Psalm 103:13-14, 15-16, 17-18

R. (see 17)  The Lord's kindness is everlasting to those who fear him.
As a father has compassion on his children,
so the LORD has compassion on those who fear him,
For he knows how we are formed;
he remembers that we are dust.
R. The Lord's kindness is everlasting to those who fear him.
Man's days are like those of grass;
like a flower of the field he blooms;
The wind sweeps over him and he is gone,
and his place knows him no more.
R. The Lord's kindness is everlasting to those who fear him.
But the kindness of the LORD is from eternity
to eternity toward those who fear him,
And his justice toward children's children
among those who keep his covenant.
R. The Lord's kindness is everlasting to those who fear him.

 

Alleluia

Matthew 11:25

R. Alleluia, alleluia.
Blessed are you, Father, Lord of heaven and earth;
you have revealed to little ones the mysteries of the Kingdom.
R. Alleluia, alleluia.

 

Gospel

Mark 10:13-16

People were bringing children to Jesus that he might touch them,
but the disciples rebuked them.
When Jesus saw this he became indignant and said to them,
"Let the children come to me; do not prevent them,
for the Kingdom of God belongs to such as these.
Amen, I say to you,
whoever does not accept the Kingdom of God like a child
will not enter it."
Then he embraced the children and blessed them,
placing his hands on them.

 

https://bible.usccb.org/bible/readings/030125.cfm

 


Commentary on Sirach 17:1-15

Today Sirach speaks of the relationship between the Creator and the human beings he has made. It is part of a poem in praise of the Lord for the creation of humankind. The author is following the order of Genesis and has already spoken of the creation of stars, plants and animals.

He combines in one the two accounts of the creation of humankind (Gen 1:26-27; 2:7) and interprets the image of God in humans under the headings of authority, strength, and dominion, thus developing a hierarchy of power: God, humans, living beings.

Humans were created by God from the earth, and will at the end return to earth. The First Man had been created a living thing from the earth and at the end is buried and returns to where he came from.

Human life on earth is temporary, but privileged:

He gave them a fixed number of days
but granted them authority over everything on the earth.
He endowed them with strength like his own
and made them in his own image.

God shared his ability to know and love and to have his vision of creation.

Because of this, we were put in charge over all beasts and flying things and:

He [the Lord] put the fear of them in all living beings…

This is a generally true statement, but there are exceptions where the human is the one who fears.

God shaped humans giving them:

Discretion and tongue and eyes,
ears and a mind for thinking…
He filled them with knowledge and understanding
and showed them good and evil.
He put the fear of him into their hearts
to show them the majesty of his works.

The Israelites believed that the heart was the seat of reason rather than the seat of the emotions, as it is for us. The list of faculties for perception is similar to that common to the Stoic tradition. The ‘five faculties’ were sight, touch, smell, hearing and taste.

The human was also filled with knowledge and understanding and given a sense of good and evil. In this way, God’s light was planted in human thinking so that we could appreciate, as other creatures cannot, the magnificence of God’s creation.

God also taught us as well:

He bestowed knowledge upon them
and allotted to them the law of life.

This refers to the Law of Moses, which is included in the endowments that God “allotted” to mankind. The gifts of Creation and of Mount Sinai are here telescoped into one act of God.

And we were given another gift:

Their eyes saw his glorious majesty,
and their ears heard the glory of his voice.

This is a reference to the Israelites’ experience at Mount Sinai.

For us, of course, there is the further teaching that we have received through the Incarnate Son of God a new and “eternal covenant”:

I came that they may have life and have it abundantly.
(John 10:10)

Our response to all these gifts will be to:

…praise his holy name,
to proclaim the grandeur of his works.

A very important part of our prayer is to praise and thank the Lord for the beauty and gift of his creation.

At Mount Sinai also, God told his people to beware of all wrongdoing and:

…he gave commandment to each of them concerning the neighbor.

He did this through the Ten Commandments and the Mosaic Law. And they needed—as we do—to be aware that:

Their ways are always before him;
they will not be hidden from his eyes.

Let each one of us reflect that we too are part of this creation. We have been given these gifts to develop so that we can continue to grow ever more in the likeness of our God. That is the sole purpose of our existence and we forget it at our peril.

Comments Off

 


Commentary on Mark 10:13-16

The Gospel begins with the line:

People were bringing children to [Jesus] in order that he might touch them…

It is so sad that this act of ‘touching’ has lost any connotation of innocence in our present day.  A compassionate and healing touch is something for which children, the sick and, at times all of us have a great need.

His disciples felt that Jesus, who may have been in the process of teaching, was being bothered by these mothers and tried to drive them away.  More than once we have seen the officiousness of the disciples who were taking to themselves an authority that not been given them.  They still had to learn the lesson that authority serves rather than controls and manipulates. It is a lesson that those in authority in our Church today need also to remember.  And it reflects to some extent the low place that children had in adult society, to be neither seen nor heard.

Mark, who likes to record the feelings of Jesus, says that he was quite “indignant” at his disciples’ behaviour, saying:

Let the children come to me; do not stop them, for it is to such as these that the kingdom of God belongs.

“Children” here can be taken in a wider sense to include all those who approach Jesus with a completely open, unprejudiced mind—and also those who have a low status in our society.  Such people are often more ready to hear the message of the Kingdom and to take an active part in it.

So Jesus says:

Truly I tell you, whoever does not receive the kingdom of God as a little child will never enter it.

Only those with the openness and simplicity of a child will be able to enter the Kingdom.  These words were, no doubt, addressed to all-knowing scribes and Pharisees and their like, and also to the disciples.

Jesus then took the children, put his arms around them, laid his hands on them and blessed them.  Jesus knew the importance of physical touch in communicating with people, in expressing encouragement and affirmation and in bringing healing.

This passage can be linked, in a way, with the recent one on scandal (Mark 9:42-50).  The disciples, perhaps not deliberately, were blocking access to Jesus by those who were most open to his teaching.  As people who are responsible for children, either as parents or teachers or in other roles, we need to be aware of how—by word or action—we can block our children from being exposed to Jesus’ message of Truth and Love.   But we can also be a block to other people who can be influenced and turned away from the Way of Christ by our unchristian way of behaving.

Comments Off

 

https://livingspace.sacredspace.ie/o1077g/

 


Saturday, March 1, 2025

Ordinary Time

 

Opening Prayer

Father, keep before us the wisdom and love You have revealed in Your Son. Help us to be like Him in word and deed, for He lives and reigns with You and the Holy Spirit, one God, for ever and ever. Amen.

 

Gospel Reading - Mark 10: 13-16

People were bringing children to Jesus that he might touch them, but the disciples rebuked them. When Jesus saw this he became indignant and said to them, "Let the children come to me; do not prevent them, for the Kingdom of God belongs to such as these. Amen, I say to you, whoever does not accept the Kingdom of God like a child will not enter it." Then he embraced the children and blessed them, placing his hands on them.

 

Reflection

The Gospel of two days ago indicated the advice of Jesus concerning the relationship of the adults with little ones and with the excluded (Mk 9: 41-50). Yesterday’s Gospel indicated the advice on the relationship between man and woman, husband and wife (Mk 10: 1-12). Today’s Gospel indicates the advice on the relationship between parents and sons. Jesus asked for the greatest acceptance for the little ones and the excluded. In the relationship man-woman, He asked for the greatest equality. Now, with the sons and their mother, He asks for the greatest tenderness.

  Mark 10: 13-16 - Receive the Kingdom like a child. People brought little children to Him, for Him to touch them. The disciples wanted to prevent this. Why? The text does not say it. Perhaps because according to the ritual norms of the time, the small children with their mothers lived almost constantly the legal impurity. To touch them meant to become impure! If they touched Jesus, He would become impure! But Jesus does not feel uncomfortable with this ritual norm of legal purity. He corrects the disciples and welcomes the mothers with the children. He touches them, embraces them saying: “Let the little children come to me, do not stop them: for it is to such as these that the Kingdom of God belongs.” And He comments: “In truth I tell you, anyone who does not accept the Kingdom of God like a little child will never enter it.”  And then Jesus embraces the children and blesses them and laid His hands on them. What does this phrase mean? (a) The children receive everything from their

parents. They cannot merit what they receive but live from gratuitous love. (b) The parents receive the children as a gift from God and take care of them with the greatest possible love. The concern of the parents is not to dominate the children, but to love them, educate them in a way in which they can grow and be fulfilled! This  is the relationship we have with our Father in Heaven! We must be just like these children.

  A sign of the Kingdom - To welcome the little ones and the excluded. There are many signs of the acting presence of the Kingdom in the life and the activity of Jesus. One of these is the way of welcoming, of accepting the little ones and the children:

To welcome them and not scandalize them. One of the hardest words of Jesus was against those who cause scandal to the little ones, that is, who are the reason so that the little ones no longer believe in God. For them it is better to have a millstone hung round their neck and be thrown into the sea (Mk 9: 42; Lk 17: 2; Mt 18: 6).

• To identify oneself with the little ones. Jesus embraces the little ones and identifies Himself with them. Anyone who receives a child, “receives Me” (Mk 9: 37). “And as long as you did this to one of the least of these brothers of mine, you did it to Me.” (Mt 25: 40).

To become like children. Jesus asks the disciples to become like children and to accept the Kingdom as they do. Otherwise, it is not possible to enter into the Kingdom (Mk 10: 15; Mt 18: 3; Lk 9:4 6-48). He makes the children teachers of adults! And that is not normal. Generally, we do the contrary.

To defend the right that children have to shout and yell. When Jesus, entering into the Temple, turned over the tables of the money changers, the children were those who shouted the most: “Hosanna to the Son of David!” (Mt 21: 15). Criticized by the high priests and by the Scribes, Jesus

defends them and in defending them He recalls the Scriptures (Mt 21: 16).

To be pleasing for the Kingdom present in little children. Jesus’ joy is great, when He perceives that the children, the little ones, understand the things of the Kingdom which He announced to the people.“ “I bless you, Father!” (Mt 11: 25-26). Jesus recognizes that the little ones understand the

things of the Kingdom better than the doctors!

To welcome, accept and take care. Many are the little children and the young whom Jesus accepts, takes care of and raises from the death: the daughter of Jairus who was 12 years old (Mk 5: 41-42), the daughter of the Canaanite woman (Mk 7: 29-30), the son of the widow of Nain (Lk 7: 14-15),

the epileptic boy (Mk 9: 25-26), the son of the Centurion (Lk 7: 9-10), the son of the public officer (Jn 4: 50), the boy with the five loaves of bread and two fish (Jn 6: 9).

 

Personal Questions

  In our society and in our community, who are the little ones and the excluded? How do we welcome and accept them?

  What have I learned in my life from children concerning the Kingdom of God?

  There are so many ways modern adults are not like children. What can I do to become more child-like for the Father and in relation to my peers; imitative, obedient, humble, grateful, innocent? Do I even want to?

  I place myself as innocent, obedient, humble, and grateful into my world of friends, my business, recreation and my responsibilities. What happens? How am I perceived by the world around me? If I continue to be this way, how would this make a better world?

 

Concluding Prayer

Yahweh, I am calling, hurry to Me, listen to my voice when I call to You. May my prayer be like incense in Your presence, my uplifted hands like the evening sacrifice. (Ps 141: 1-2)

 

www.ocarm.org

01.03.2025: THỨ BẢY TUẦN VII THƯỜNG NIÊN

 

01/03/2025

 Thứ Bảy tuần 7 thường niên


 

Bài Ðọc I: (Năm I) Hc 17, 1-13 (HI 1-15)

“Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa”.

Trích sách Huấn Ca.

Thiên Chúa dùng đất mà dựng nên con người và tạo tác con người theo hình ảnh của Chúa. Người lại làm cho nó trở nên hình ảnh Chúa và ban cho nó được quyền hành như Người đã có. Người cũng ban cho nó số ngày và thời gian, ban cho quyền hành trên trần gian. Người bắt mọi loài phải kính sợ nó, và cho nó thống trị các thú dữ chim trời. Rồi từ đó, Người tạo dựng một nội trợ giống như nó, Người cũng ban cho cả hai có trí, lưỡi, mắt, mũi và tâm hồn để suy tưởng, cho họ đầy sự hiểu biết và trí năng. Người tạo cho họ trí thông minh và cho lòng họ biết cảm giác, chỉ cho họ biết phân biệt lành dữ. Người đặt mắt Người vào lòng họ, chỉ cho họ thấy sự huy hoàng các công trình của Người, để họ ca tụng thánh danh Người, và họ được vinh hiển trong những việc lạ lùng của Người, hầu họ cao rao sự vĩ đại của những kỳ công Người. Người ban thêm cho họ sự thông minh và cho họ thừa hưởng luật trường sinh. Người thiết lập với họ một giao ước vĩnh cửu, chỉ cho họ biết công minh thẩm phán. Và mắt họ đã nhìn thấy sự huy hoàng vinh hiển của Người, tai họ đã nghe tiếng Người. Rồi Chúa phán với họ: “Các ngươi hãy lánh xa mọi gian ác”. Và Người truyền cho mỗi người trong họ biết những giới răn liên quan đến tha nhân. Ðường lối của họ luôn luôn ở trước mặt Chúa và không hề ẩn náu khỏi mắt Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 102, 13-14. 15-16. 17-18a.

Ðáp: Lòng yêu thương của Chúa vẫn còn tồn tại, tự thuở này tới thuở kia cho những ai kính sợ Người.

Xướng: Cũng như người cha yêu thương con cái, Chúa yêu thương những ai kính sợ Người. Người hiểu biết chỗ gây hình của chúng ta, Người nhớ rằng tro bụi là chính chúng ta!

Xướng: Thân con người, cuộc đời như nắm cỏ, như bông hoa ngoài đồng nội, nó nở ra. Một cơn gió vừa lướt trên hoa, hoa không còn nữa, không ai còn nhận thấy chỗ ở của hoa!

Xướng: Nhưng lòng yêu thương của Chúa vẫn còn tồn tại, tự thuở này tới thuở kia cho những ai kính sợ Người, và đức công minh Chúa còn dành để cho con cháu họ, cho những ai giữ lời minh ước của Người.

 

Alleluia

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết. – Alleluia.

(Hoặc đọc: Alleluia, alleluia! – Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã mạc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những người bé mọn.- Alleluia)

 

PHÚC ÂM: Mc 10, 13-16

“Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu để Người đặt tay trên chúng, nhưng các môn đệ khiển trách họ. Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng: “Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng. Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó”. Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng.

Ðó là lời Chúa.

 


Chú giải về Huấn Ca 17,1-15

Hôm nay Sách Huấn Ca nói về mối quan hệ giữa Đấng Tạo Hóa và con người mà Người đã tạo ra. Đây là một phần của bài thơ ca ngợi Thiên Chúa vì đã tạo ra loài người. Tác giả tuân theo trình tự của Sáng thế ký và đã nói về việc tạo ra các vì sao, thực vật và động vật.

Tác giả kết hợp hai câu chuyện về việc tạo ra loài người (Sáng thế ký 1,26-27; 2,7) thành một và diễn giải hình ảnh của Chúa nơi con người dưới các tiêu đề về thẩm quyền, sức mạnh và sự thống trị, do đó phát triển một hệ thống phân cấp quyền lực: Thiên Chúa, con người, các sinh vật sống.

Con người được Thiên Chúa tạo ra từ trái đất, và cuối cùng sẽ trở về trái đất. Người đàn ông đầu tiên đã được tạo ra là một sinh vật sống từ trái đất và cuối cùng được chôn cất và trở về nơi anh ta đến từ đó.

Cuộc sống của con người trên trái đất là tạm thời, nhưng được đặc ân:

Người đã ban cho họ một số ngày cố định

nhưng ban cho họ quyền trên mọi thứ trên trái đất.

Người đã ban cho họ sức mạnh giống như của chính Người

và tạo ra họ theo hình ảnh của chính Người.

Thiên Chúa đã chia sẻ khả năng hiểu biết, yêu thương và có tầm nhìn của Người về sự sáng tạo.

Vì vậy, chúng ta được giao phó trách nhiệm quản lý mọi loài thú và các loài bay và:

Người [Thiên Chúa] khiến mọi loài sinh vật phải sợ chúng…

Đây là một tuyên bố đúng về mặt tổng thể, nhưng có những trường hợp ngoại lệ khi con người là người sợ hãi.

Chúa đã tạo ra con người bằng cách ban cho họ:

Sự sáng suốt, lưỡi và mắt,

tai và trí óc để suy nghĩ…

Người đã lấp đầy họ bằng kiến ​​thức và sự hiểu biết

và chỉ cho họ thấy điều thiện và điều ác.

Người đã đặt sự kính sợ Người vào lòng họ

để cho họ thấy sự uy nghiêm của các công trình Người.

Người Israel tin rằng trái tim là nơi chứa đựng lý trí chứ không phải là nơi chứa đựng cảm xúc, như chúng ta vẫn nghĩ. Danh sách các khả năng nhận thức tương tự như danh sách chung của truyền thống Khắc kỷ. 'Năm khả năng' là thị giác, xúc giác, khứu giác, thính giác và vị giác.

Con người cũng được lấp đầy bằng kiến ​​thức và sự hiểu biết và được ban cho cảm giác về điều thiện và điều ác. Theo cách này, ánh sáng của Thiên Chúa đã được gieo vào tư duy của con người để chúng ta có thể trân trọng, như những tạo vật khác không thể, sự vĩ đại của công trình sáng tạo của Thiên Chúa.

Thiên Chúa cũng dạy chúng ta:

Ngài ban cho họ kiến ​​thức

và ban cho họ luật sống.

Điều này ám chỉ đến Luật pháp của Mô-se, được bao gồm trong các ân tứ mà Thiên Chúa “ban cho” nhân loại. Các ân tứ của Sáng thế và của Núi Sinai ở đây được thu gọn lại thành một hành động của Thiên Chúa.

Và chúng ta đã được ban cho một ân tứ khác:

Mắt họ đã thấy sự uy nghi vinh quang của Ngài,

và tai họ đã nghe thấy vinh quang của giọng nói Ngài.

Đây là một sự ám chỉ đến trải nghiệm của người Israel tại Núi Sinai.

Đối với chúng ta, tất nhiên, có một sự dạy dỗ khác mà chúng ta đã nhận được thông qua Con của Thiên Chúa nhập thể, một “giao ước vĩnh cửu” mới:

Ta đã đến để họ có sự sống và có sự sống dồi dào.

(Gio-an 10,10)

Phản ứng của chúng ta đối với tất cả những ân tứ này sẽ là:

… ngợi khen danh thánh của Ngài,

để công bố sự vĩ đại của các công trình của Ngài.

Một phần rất quan trọng trong lời cầu nguyện của chúng ta là ngợi khen và cảm tạ Chúa vì vẻ đẹp và món quà của tạo vật của Người.

Tại Núi Sinai, Chúa cũng đã bảo dân Người cảnh giác với mọi điều sai trái và:

… Người đã ban lệnh cho mỗi người trong số họ về người lân cận.

Người đã làm điều này thông qua Mười Điều Răn và Luật Mô-sê. Và họ cần - giống như chúng ta - nhận thức rằng:

Các đường lối của họ luôn ở trước mặt Người;

chúng sẽ không bị che giấu khỏi mắt Người.

Mỗi người chúng ta hãy suy ngẫm rằng chúng ta cũng là một phần của tạo vật này. Chúng ta đã được ban cho những món quà này để phát triển để chúng ta có thể tiếp tục phát triển hơn nữa theo hình ảnh của Thiên Chúa. Đó là mục đích duy nhất của sự tồn tại của chúng ta và chúng ta quên nó là tự chuốc lấy nguy hiểm.

 


Chú giải về Mác-cô 10,13-16

Phúc âm bắt đầu bằng dòng:

Người ta đem trẻ em đến với [Chúa Giêsu] để Người chạm vào chúng…

Thật đáng buồn khi hành động ‘chạm vào’ này đã mất đi bất kỳ hàm ý nào về sự ngây thơ trong thời đại ngày nay của chúng ta. Một cái chạm đầy lòng trắc ẩn và chữa lành là điều mà trẻ em, người bệnh và đôi khi là tất cả chúng ta đều rất cần.

Các tông đồ của Người cảm thấy rằng Chúa Giêsu, người có thể đang trong quá trình giảng dạy, đang bị những bà mẹ này làm phiền và cố gắng đuổi họ đi. Hơn một lần chúng ta đã thấy sự hống hách của các tông đồ đang tự cho mình một thẩm quyền mà họ không được trao cho. Họ vẫn phải học bài học rằng thẩm quyền phục vụ chứ không phải kiểm soát và thao túng. Đây là bài học mà những người có thẩm quyền trong Giáo hội của chúng ta ngày nay cũng cần ghi nhớ. Và ở một mức độ nào đó, nó phản ánh vị trí thấp kém của trẻ em trong xã hội người lớn, không được nhìn thấy hay lắng nghe.

Mác-cô, người thích ghi lại cảm xúc của Chúa Giê-su, nói rằng Ngài khá "phẫn nộ" trước hành vi của các tông đồ, Ngài nói rằng:

Hãy để trẻ em đến với tôi; đừng ngăn cản chúng, vì vương quốc của Chúa thuộc về những người như thế.

"Trẻ em" ở đây có thể được hiểu theo nghĩa rộng hơn là bao gồm tất cả những người tiếp cận Chúa Giê-su với một tâm trí hoàn toàn cởi mở, không có định kiến—và cả những người có địa vị thấp trong xã hội của chúng ta. Những người như vậy thường sẵn sàng lắng nghe sứ điệp của Vương quốc và tham gia tích cực vào đó.

Vì vậy, Chúa Giê-su nói:

Quả thật, ta nói với các ngươi, bất cứ ai không tiếp nhận vương quốc của Chúa như một đứa trẻ thì sẽ không bao giờ được vào đó.

Chỉ những ai có sự cởi mở và đơn sơ của một đứa trẻ mới có thể vào được Vương quốc. Những lời này, chắc chắn, được nói với các thầy thông giáo và người Pharisiêu hiểu biết mọi điều và những người giống như họ, và cũng nói với các tông đồ.

Sau đó, Chúa Giê-su bế những đứa trẻ, ôm chúng, đặt tay trên chúng và ban phước cho chúng. Chúa Giê-su biết tầm quan trọng của sự tiếp xúc vật lý trong giao tiếp với mọi người, trong việc bày tỏ sự khích lệ và khẳng định và trong việc mang lại sự chữa lành.

Đoạn văn này có thể được liên kết, theo một cách nào đó, với đoạn văn gần đây về vụ bê bối (Mác-cô 9,42-50). Các tông đồ, có lẽ không cố ý, đã chặn đường tiếp cận Chúa Giê-su của những người cởi mở nhất với lời dạy của Người. Là những người chịu trách nhiệm cho trẻ em, với tư cách là cha mẹ hoặc giáo viên hoặc trong các vai trò khác, chúng ta cần nhận thức được cách chúng ta có thể ngăn cản con cái mình tiếp xúc với thông điệp Chân lý và Tình yêu của Chúa Giê-su bằng lời nói hoặc hành động. Nhưng chúng ta cũng có thể là rào cản đối với những người khác có thể bị ảnh hưởng và quay lưng lại với Con đường của Chúa Kitô bởi cách cư xử không theo đạo Ki-tô của chúng ta.

 

https://livingspace.sacredspace.ie/o1077g/

 


Suy Niệm: Thương yêu trẻ em

Ðức Giáo Hoàng Piô X khi nhậm chức Giám mục giáo phận Mantova, Ngài đã nghĩ đến người mẹ hiền và trở về thăm mẹ như để nói lên lòng biết ơn. Trong câu chuyện thân mật với mẹ, Ngài vừa nói vừa khoe chiếc nhẫn Giám mục của mình: "Mẹ xem chiếc nhẫn Giám mục của con có đẹp không?"

Người mẹ mỉm cười đưa chiếc nhẫn cũ kỹ trên bàn tay đầy vết nhăn cho con xem và nói: "Nếu không có chiếc nhẫn này, thì đâu có chiếc nhẫn Giám mục của con".

Thật thế, nếu cha mẹ không để tâm giáo dục con cái, làm sao chúng có thể nên người, nhất là nên người con của Chúa được.

Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy những cha mẹ tìm cách đem con cái đến với Chúa Giêsu để xin Ngài đặt tay và chúc lành cho chúng. Chúa Giêsu rất thương mến trẻ em, Ngài tỏ ra không hài lòng vì các Tông đồ ngăn cản không cho các cha mẹ đem các trẻ em đến với Ngài. Trái ngược với quan niệm coi khinh trẻ em của các tác giả đạo đức Do Thái, Chúa Giêsu đề cao trẻ em như kiểu mẫu đón nhận Nước Trời: "Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào". Nơi khác, Ngài bảo vệ trẻ em một cách quyết liệt: "Ai làm cớ cho một trong những trẻ nhỏ này sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà quăng xuống biển còn hơn".

Cha mẹ là những người cộng tác với Thiên Chúa trong việc sinh dưỡng và giáo dục con cái, để chúng được hạnh phúc đời này, nhất là được hạnh phúc đời sau. Tuy nhiên, có những cha mẹ chỉ lo làm giàu, chứ không quan tâm xây dựng đạo đức cho con cái, cũng có những cha mẹ khoán trắng việc giáo dục đức tin của con cái cho các vị lãnh đạo tinh thần và thiêng liêng, mà quên rằng đó là nhiệm vụ trước tiên của cha mẹ do Bí tích Hôn phối và tình thương yêu đòi buộc. Con cái sống trong gia đình nhiều hơn các nơi khác, và cha mẹ cũng hiểu biết tính tình con cái hơn bất cứ ai khác, đó là những thuận lợi để cha mẹ góp phần vào việc giáo dục con cái.

Nhưng để có thể giáo dục con cái một cách hiệu quả, cha mẹ phải lo trau dồi kiến thức, cách riêng về tôn giáo, và sống đạo gương mẫu, sao cho con cái thực sự là nguồn hạnh phúc của gia đình và là triều thiên của chính cha mẹ.

Xin Chúa chúc lành cho tất cả các cha mẹ. Xin Ngài soi sáng để các cha mẹ hiểu biết và yêu mến Chúa nhiều hơn, đồng thời nhiệt tâm giáo dục con cái và dẫn đưa chúng đến với Chúa.

(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)