Trang

Thứ Bảy, 26 tháng 12, 2020

27-12-2020 : CHÚA NHẬT - LỄ THÁNH GIA THẤT năm B

 

27/12/2020

Chúa Nhật Mùa Giáng Sinh Năm B

Lễ Thánh Gia Thất

 


BÀI ĐỌC I: St 15:1-6;21:1-3

Lời Chúa trong sách Sáng Thế.

Hồi đó, có lời ĐỨC CHÚA phán với ông Áp-ram trong một thị kiến rằng: "Hỡi Áp-ram, đừng sợ, Ta là khiên che thuẫn đỡ cho ngươi; phần thưởng của ngươi sẽ rất lớn." Ông Áp-ram thưa: "Lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, Chúa sẽ ban cho con cái gì? Con ra đi mà không con cái, và người thừa tự gia đình con là Ê-li-e-de, một người Đa-mát." Ông Áp-ram thưa: "Chúa coi, Chúa không ban cho con một dòng dõi, và một gia nhân của con sẽ thừa kế con." Và đây có lời ĐỨC CHÚA phán với ông rằng: "Kẻ đó sẽ không thừa kế ngươi, nhưng một kẻ do chính ngươi sinh ra mới thừa kế ngươi." Rồi Người đưa ông ra ngoài và phán: "Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không." Người lại phán: "Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!" Ông tin ĐỨC CHÚA, và vì thế, ĐỨC CHÚA kể ông là người công chính.

ĐỨC CHÚA viếng thăm bà Xa-ra như Người đã phán, và Người đã làm cho bà như Người đã hứa. Bà Xa-ra có thai và sinh cho ông Áp-ra-ham một con trai khi ông đã già, vào thời kỳ Thiên Chúa đã hứa. Ông Áp-ra-ham đã đặt tên cho đứa con mà bà Xa-ra sinh ra cho ông là I-xa-ác. Lời của Chúa.

 

ĐÁP CA: Tv 127, 1-2. 3. 4-5

Đáp: Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người (x. c. 1).

 

1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người! Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may. - Đáp.

2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn. Con cái bạn như những chồi non của khóm ô-liu ở chung quanh bàn ăn của bạn. Đó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Đức Thiên Chúa. - Đáp.

3) Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem hết mọi ngày trong đời sống của bạn, và để bạn nhìn thấy lũ cháu đoàn con! - Đáp.

 

BÀI ĐỌC II:  Dt 11:8,11-12,17-19

Lời Chúa trong thư gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, nhờ đức tin, ông Áp-ra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, cả bà Xa-ra vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín. Vì thế, do một người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được. Nhờ đức tin, khi bị thử thách, ông Áp-ra-ham đã hiến tế I-xa-ác; dù đã nhận được lời hứa, ông vẫn hiến tế người con một. Về người con này, Thiên Chúa đã phán bảo: Chính do I-xa-ác mà sẽ có một dòng dõi mang tên ngươi. Quả thật, ông Áp-ra-ham nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy. Rốt cuộc, ông đã nhận lại người con ấy như là một biểu tượng. Lời của Chúa.

 

ALLELUIA: Cl 3, 15a. 16a

Alleluia, alleluia! - Nguyện cho bình an của Chúa Kitô làm chủ trong lòng anh em. Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em. - Alleluia.

 

PHÚC ÂM: Lc 2, 22-40 (bài dài)

"Con trẻ lớn lên, đầy khôn ngoan".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa". Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu con.

Và đây ở Giêrusalem có một người tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không chết trước khi thấy Đấng Kitô của Chúa. Được Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi hành cho Người những tục lệ của Lề luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:

"Lạy Chúa, bây giờ, Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an theo như lời Chúa, vì chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa".

Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với Maria mẹ Người rằng: "Đây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!"

Lúc ấy, cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm. Rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi bốn tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.

Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người. Đó là lời Chúa.

_____________________________
 

Hoặc đọc bài vắn này: Lc 2, 22. 39-40

Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa. Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và Con Trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người. Đó là lời Chúa.

 


Suy Niệm: Vâng Phục Thiên Chúa

Lễ Thánh Gia thất tương đối mới. Nó được thiết lập vào cuối thế kỷ 19. Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII bấy giờ rất quan tâm đến các vấn đề xã hội. Người thấy nhân loại đang đi vào một nền văn minh mới. Lý trí và khoa học đòi quyền tự lập và tự chủ. Ảnh hưởng đạo đức bớt dần. Và trong phạm vi gia đình, người ta đã nói nhiều đến tự do, ly dị, cởi mở... Những phong trào "gia đình công giáo" có từ thế kỷ 16 ráo riết cổ động người ta noi gương Thánh Gia thất. Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII cũng nhưn các vị kế tiếp muốn chúc phúc cho những phong trào này. Và lễ Thánh Gia Thất được thiết lập trong bối cảnh ấy.

Dĩ nhiên đời sống gia đình hiện nay có nhiều vấn đề khác với hồi cuối thế kỷ 19. Và ngày lễ Thánh Gia Thất hôm nay là dịp để chúng ta suy nghĩ về đời sống cụ thể của các gia đình chúng ta. Những vấn đề kế hoạch hóa gia đình và giáo dục gia đình mới là những đề tài chắc chắn rất hợp thời, nếu chưa muốn nói là khẩn trương. Nhưng trong Thánh lễ chúng ta không thể suy nghĩ rộng rãi. Chúng ta chỉ có thể lắng nghe Lời Chúa theo Phụng vụ để được tâm hồn đạo đức, giúp chúng ta sau đó suy nghĩ cụ thể hơn.

 

1. Vâng Phục Thiên Chúa

Tư cách đạo đức, mà các gia đình phải có, được ba bài đọc Kinh Thánh hôm nay nhấn mạnh. Bài sách Huấn ca có vẻ không sâu sắc và giống như nhiều bài "gia huấn ca", khuyên con cái phải thờ kính cha mẹ. Tuy nhiên nền tảng của những lời khuyên ở đây lại rất sâu. Con cái phải kính yêu cha mẹ vì Chúa; phải coi các người như Chúa, đến nỗi bỏ bê cha là lộng ngôn phạm thượng và khinh dể mẹ là chọc giận Thượng đế. Thứ đạo đức này có lỗi thời không? Rõ ràng thư Phaolô cũng có một lập trường như vậy. Thánh Tông đồ viết: con cái hãy vâng phục cha mẹ trong mọi sự vì là điều đẹp lòng Chúa. Dĩ nhiên Người cũng đã nói luôn: cha mẹ đừng để con cái trở thành khiếp đảm! Nhưng theo người, thái độ của con cái vẫn là phải vâng phục. Và ở điểm này, người đã theo sát đường lối của Phúc Âm.

Quả vậy, một trong những câu điệp khúc của các bài tường thuật cuộc đời niên thiếu của Chúa Yêsu là Người đã trở về Nadarét nơi cha mẹ Người cư trú; và Người đã lớn lên đầy khôn ngoan và ân sủng; Người đã phục tùng cha mẹ Người. Khi viết đi viết lại điệp khúc đó, Luca làm vọng lại nhiều lời Cựu Ước, đặc biệt những câu về Samson và Samuel (Tp 13,24-25; 1S 2,19.21.26). Người cũng viết về Yoan Tẩy giả một cách tương tự (1,80). Tất cả khiến chúng ta nghĩ rằng: trong khi đề cao thần tính của trẻ Yêsu, tác giả các sách Phúc Âm vẫn nhấn mạnh việc Người vâng phục cha mẹ, để nêu gương sáng cho hàng con cái trong các gia đình.

Những người này cũng hãy yên tâm. Sách Huấn ca đòi con cái đối với cha mẹ phải như nô đối với chủ (3,7); nhưng bài Tin Mừng dường như đòi bậc cha mẹ nhiều hơn. Các người phải vâng lời luật Chúa như cha mẹ Yêsu... Ðến ngày phải làm lễ thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Người đã đem trẻ Yêsu lên dâng trong Ðền thờ. Chúng ta không hiểu việc thi hành luật pháp đã đòi các người phải hy sinh thế nào. Nhưng chúng ta có thể đoán được những đau đớn tinh thần Maria phải chịu theo lời Simêon hôm nay tiên báo.

Ông và bà tiên tri Anna thuộc loại người đạo đức trong dân Israel, sống chờ đợi ngày Chúa an ủi dân Người, tức là trông mong thời đại Thiên Sai Cứu Thế. Khi được Thánh Thần cho biết trẻ Yêsu đây chính là Ðấng muôn dân trông đợi, cả hai đều sung sướng cảm tạ Thiên Chúa đã cho mình được phúc nhìn thấy ánh sáng muôn dân. Nhưng nghĩ đến trách nhiệm của những người sống trong thời đại ấy, Simêon đã lặp đi lặp lại tư tưởng của Kinh thánh, đặc biệt nhiều đoạn Isaia, trong đó Ðấng Thiên Sai không những được ca tụng như ánh sáng của muôn dân (60,1-3; 52,7-10), nhưng đồng thời cũng là tảng đá vấp ngã cho nhà Israel (8,12-15). Tâm tư mọi người sẽ phải lộ ra (Lc 2,35). Ðấu tranh, dằn vặt sẽ xảy ra nơi lòng mọi người, bó buộc người ta phải lựa chọn hoặc chấp nhận hay phủ nhận đường lối của Người.

Maria cũng không thoát được luật chung đó. Những lời của Chúa luôn luôn làm Người phải đem lòng mà suy nghĩ. Chính lúc ấy một mũi gươm đâm thâu lòng Người. Mũi gươm này không phải chỉ là lưỡi đòng khi đâm vào cạnh sườn Chúa chịu treo trên Thập giá thì cũng như chọc vào trái tim Người. Mũi gươm mà Simêon gợi lên hôm nay là mũi gươm "Lời Chúa" sống động và linh hoạt, sắc bén hơn mọi thứ gươm hai lưỡi, và đâm phập vào tận ranh giới hồn phách, gân cốt và tủy não cùng biện phân ra được tình và ý tưởng của lòng dạ (Hr 4,12).

Vậy, nếu Lời Chúa đối với Ðức Maria còn sắc bén như vậy và còn đòi hỏi Người phải hy sinh đau đớn để luôn luôn đi sâu hơn vào mầu nhiệm đức tin, thì huống nữa là đối với chúng ta hết thảy! Con cái phải vâng lời cha mẹ. Nhưng cha mẹ cũng phải vâng lời Thiên Chúa. Thi hành chỉ thị này của cha mẹ đòi hy sinh. Nhưng những hy sinh của bậc cha mẹ để giữ Lời Chúa còn to lớn hơn nhiều. Và có hy sinh như thế mới là đạo đức.

Thật ra đạo đức gia đình không phải chỉ đơn sơ như vậy. Nó không phải chỉ đòi con cái vâng lời cha mẹ và cha mẹ tuân giữ Lời Chúa. Ngay bài sách Huấn ca đã giục con cái tìm cách làm đẹp lòng Chúa khi vâng lời cha mẹ; và bài Tin Mừng cho thấy Ðức Maria phải khổ vì thánh ý Chúa nơi chính trẻ Yêsu. Ðạo đức gia đình không nguyên chỉ lên thẳng từ con cái đến cha mẹ rồi tới Thiên Chúa. Nền đạo đức thật đã tỏ hiện khi chính Thiên Chúa xuống với con người như chúng ta đã suy niệm nhiều trong mùa Giáng sinh này (1Tm 3,16). Và như vậy lý do cuối cùng của nền đạo đức gia đình cũng phải sát nhập vào chiều hướng đi xuống. Nói cách khác đạo đức gia đình đòi con cái phải vâng lời cha mẹ và cha mẹ tuân giữ Lời Chúa; nhưng nó chỉ thực hiện được nếu mọi người trong gia đình biết nhận lấy lòng đạo đức mà Chúa đã ban xuống cho trần gian trong mầu nhiệm Giáng sinh, để tựa vào đó mà đi lên.

Ðó là điều mà bài thư Phaolô hôm nay muốn nói với chúng ta.

 

2. Hãy Mặc Lấy Ðức Mến

Thánh Tông đồ không hài lòng khi nhìn thấy nhiều người không hiểu rõ lòng đạo đức Kitô giáo. Họ tưởng đây cũng là một trong nhiều lý tưởng đạo đức. Các lời khuyên Phúc Âm về đời sống gia đình chẳng hạn bị coi như là một thứ gia huấn ca. Ðạo nào cũng dạy thờ cha kính mẹ và cha mẹ thì phải vâng mệnh trời mà sửa dạy con cái. Người ta không thấy rõ nét độc đáo và mới lạ của nền đạo đức Phúc Âm. Thế nên thánh Phaolô phải mạnh mẽ lên tiếng. Người gọi tín hữu bằng những từ ngữ chọn lọc nhất của Kinh Thánh. Họ là các thánh, là những người được tuyển chọn và là những người được Thiên Chúa yêu mến. Các danh xưng này nằm trong sách Thứ luật (7,6). Chúng là tên riêng của dân Chúa. Họ thánh không phải vì họ tốt lành, nhưng chỉ vì Ðấng thánh đã tuyển chọn và đang thánh hóa họ. Và Người làm như vậy chỉ vì yêu mến.

Họ là những người được yêu. Nhưng họ lại không sống trong tình yêu. Kinh nghiệm lưu đày đã mở mắt cho họ thấy cuộc đời bất trung bất nghĩa của họ như thế nào, đến nỗi từ ngữ dân thánh của Chúa từ nay sẽ dành để nói về dân ở thời đại thiên sai (Is 4,3). Và như vậy các tín hữu tiên khởi của Hội Thánh Chúa Kitô tự xưng là "thánh hữu" thì thật hợp lý. Nhưng khi xử dụng từ ngữ này, họ vẫn biết mình chưa thánh. Sự thánh thiện mới tỏ hiện nơi họ thôi vì Ðức Kitô đã đem sự sống sung mãn của Thiên Chúa vào thế gian. Và bổn phận của họ bây giờ là phải đón nhận lấy sự thánh thiện ấy.

Việc đón nhận này được thánh Phaolô mô tả như là một việc "mặc lấy". Người nói: anh em hãy mặc lấy lòng lân mẫn biết chạnh thương, đức nhân hậu khiêm nhu, hiền từ và đại lượng. Nghe đọc thì tưởng đó là một mới những nhân đức, ít nhiều liên hệ với nhau. Nhưng dò lại thì sẽ thấy chúng gợi lên những lời sách Xuất hành (34,6) nói đến Thiên Chúa là Ðấng "chạnh thương, huệ ái, bao dung, và đầy nhân nghĩa, tín thành". Và như vậy, thánh Phaolô muốn nói chúng ta phải mặc lấy chính những tâm tình của Chúa. Lòng đạo đức của chúng ta phải là lòng đạo đức của Người. Nếu không, nói chỉ là lòng đạo đức của loài người chứ không phải của Kitô giáo. Người tín hữu của Chúa Kitô trước khi sống, tức là hành động, đã phải cởi bỏ con người cũ và mặc lấy con người mới là chính sự thánh thiện của Thiên Chúa, để từ đó cư xử như Thiên Chúa.

Người đã bày tỏ lòng "đạo đức" của Người khi đặt ra và thi hành kế hoạch cứu thế, ban Con Một Người cho nhân loại để làm giá tha thứ và hòa giải loài người tội lỗi trở về với mình... Ðó chính là lòng "bác ái" của Thiên Chúa, mà thánh Phaolô bảo chúng ta phải mặc lấy. Nếu không, chúng ta không được tha thứ, không được thánh thiện, không được đạo đức. Nhưng nếu chúng ta mặc lấy lòng bác ái tha thứ, thì có lẽ nào chúng ta lại không biết tha thứ và chịu đựng lẫn nhau, để sống hòa hợp như trong một thân thể?

Thế là thánh Phaolô đã chỉ cho chúng ta thấy đâu là cơ sở và nền tảng của nền đạo đức Kitô giáo. Thiên Chúa đã đổ nó từ trời xuống trên chúng ta khi ban Con Một Người làm hy tế tha thứ, giao hòa và bình an. Chúng ta đón nhận lòng đạo đức ấy thì cũng phải sống tha thứ hòa hợp và hợp nhất như trong một cơ thể.

Những điều này thật hợp để nói về đời sống gia đình. Và bây giờ chúng ta thấy rõ đạo đức gia đình đối với chúng ta phải được xây dựng trên nền tảng đức mến trọn lành của Thiên Chúa. Những gia đình nào sống như vậy mới thật là những gia đình Kitô hữu và mới giống như Thánh Gia Thất Chúa Yêsu, Ðức Maria và Thánh Yuse. Nếp sống của họ bây giờ sẽ được như lời thư Phaolô viết tiếp: tất cả những gì họ nói và làm đều vì Danh Chúa Yêsu và vợ chồng, cha mẹ, con cái đều giúp đỡ nhau nên thánh thiện. Họ có nếp sống gia đình tuyệt hảo, vì lời Ðức Kitô, tức là ân sủng của Người đã ngự nơi họ dồi dào phong phú.

Thế thì hôm nay muốn thánh hóa gia đình theo gương Thánh Gia Thất, chúng ta hãy nghe lời thánh Phaolô sốt sắng cử hành Thánh lễ này. Ở đây Thiên Chúa bày tỏ lòng bác ái từ tâm đối với hết thảy chúng ta khi ban thịt máu Con của Người làm giá cứu chuộc và cứu độ chúng ta. Chúng ta hãy nhận lấy như tinh thần và sự sống mới mà chúng ta phải mặc lấy, để như Chúa đã yêu thương chúng ta thì vợ chồng, cha mẹ, con cái, được tình bác ái của Người thúc đẩy sẽ xây dựng, phát triển đời sống gia đình như Thánh Gia Thất.

 

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa

của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

 


Lectio Divina: Lễ Thánh Gia (B)

Chủ Nhật 27 Tháng Mười Hai, 2020

Lectio Divina | Lectio Divina Năm B

Đấng được mọi người trông ngóng

Tiến dâng Chúa Hài Đồng trong Đền Thờ

Lc 2:22-40 

1.  Lời nguyện mở đầu:

Lạy Thiên Chúa, Người là Đấng Tạo Hóa và là Cha của chúng con, Chúa đã muốn Con Một Chúa, Đấng đã hiện hữu trước khi thế gian được tạo dựng, phải trở thành một thành viên của gia đình nhân loại.

Xin Chúa hãy nhen nhúm lại trong chúng con lòng biết ơn về món quà của sự sống, để cho các bậc cha mẹ có thể tham dự vào sự sinh sản của tình yêu Chúa, để người già có thể truyền lại cho thế hệ con cháu sự khôn ngoan trưởng thành của họ, và con cháu có thể lớn lên trong sự khôn ngoan, lòng đạo đức và ân sủng, mọi người ca tụng tôn vinh danh thánh Chúa.  Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

2.  Bài đọc:  Luca 2:22-40

22 Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Môisen, bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa, 23 như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa”,24 và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là “một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non.”

25 Hồi ấy ở Giêrusalem, có một người tên là Simêôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Israel, và Thánh Thần hằng ngự trên ông.26 Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa. 27 Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, 28 thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: 

29 “Muôn lạy Chúa, giờ đây
theo lời Ngài đã hứa,
xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
30 Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ
31 Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:
32 Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
là vinh quang của Israel Dân Ngài.” 

33 Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Simêôn vừa nói về Người. 34Ông Simêôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Maria, mẹ của Hài Nhi: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; 35 và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.” 

36 Lại cũng có một nữ ngôn sứ tên là Anna, con ông Phanuel, thuộc chi tộc Asê. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, 37 rồi ở góa, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. 38 Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem. 

39 Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Nagiarét, miền Galilê. 40 Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.

3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện

 Để Lời Chúa có thể ngự vào lòng chúng ta và để cho lời ấy soi sáng đời sống chúng ta;

  Để trước khi chúng ta đưa bất kỳ ý kiến nào, xin cho ánh sáng Lời Chúa có thể tỏa sáng và bao phủ với mầu nhiệm về sự hiện diện sống động của Chúa.

4.  Một vài câu hỏi gợi ý

Để giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.

a)  Tại sao Đức Giêsu, Con Một của Đấng Tối Cao, và Đức Maria mẹ Người, đã được thụ thai không vướng tội lỗi, mà lại phải tuân theo các lề luật của Môisen?  Có phải bởi vì Đức Maria chưa nhận thức được sự vô nhiễm và thánh thiện của bà không?   

b)  Lời nói và thái độ của ông Simêon và bà tiên tri Anna có ý nghĩa đặc biệt nào không?  Cử chỉ và sự vui mừng của họ có làm gợi nhớ lại phong thái của các tiên tri cổ xưa không?

c)  Làm thế nào chúng ta có thể giải thích được câu “một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn”:  đó có phải là việc xé nát lương tâm trước những thách thức và sự phong phú của Chúa Giêsu không?  Hay đó chỉ là nỗi đau lòng của Đức Mẹ?

d)  Cảnh này có thể nào có một ý nghĩa gì đó cho các bậc phụ huynh ngày nay không:  về ý thức tôn giáo của con cái họ; về kế hoạch của Thiên Chúa dành cho mỗi con cái của Người; về những nỗi sợ hãi và đau khổ mà bậc cha mẹ mang trong tâm tư những khi họ nghĩ đến lúc con cái họ lớn khôn? 

5.  Chìa khóa dẫn đến bài đọc

Dành cho những ai muốn đào sâu hơn vào trong bài Tin Mừng.

a)  Như đã chép trong Luật Môisen/Lề Luật Chúa.  Đây là một loại điệp khúc được lặp đi lặp lại nhiều lần.  Thánh sử Luca hòa lẫn hai hệ thống lề luật mà không có bất kỳ một sự phân biệt nào.  Luật thanh tẩy người mẹ đã được dự kiến trong Sách Lêvi (12:2-8) và đã được định là bốn mươi ngày sau khi lâm bồn.  Cho đến lúc ấy, người phụ nữ không được phép đến gần những nơi thiêng liêng, và nghi thức được đi kèm với lễ vật là một con vật nhỏ.  Nhưng lễ thánh hiến con đầu lòng đã được quy định trong sách Xuất Hành chương 13:11-16, và được xem như là một loại “tiền chuộc” để tưởng nhớ cử chỉ cứu rỗi của Thiên Chúa khi Người giải thoát dân Israel khỏi ách nô lệ Ai Cập.  Vì việc này cũng dâng lên lễ vật là một sinh vật nhỏ.  Trong cả hai trường hợp này, các bậc cha mẹ dường như là trong tiến trình dâng/thánh hiến con trai của họ như đã làm với vật hiến tế và chi tộc Lêvi, trong khi nhờ vào con người của ông Simêon và bà Anna, có vẻ như chính Thiên Chúa là Đấng dâng/hiến tế Con Người để cứu độ nhân loại.   

b)  Ông Simêon và bà Anna:  Đây là những nhân vật đầy đủ giá trị tiêu biểu.  Vai trò của họ là sự công nhận, xuất phát từ việc soi sáng lẫn việc làm của Chúa Thánh Thần và một cuộc sống đã sống trong sự mong đợi và đức tin.  Cách đặc biệt, ông Simêon được mô tả như là một người hoàn toàn đắm chìm trong sự chờ đợi (prodekòmenos), và là kẻ bước tới để chào đón.  Ông cũng xuất hiện để tuân giữ lề luật, lề luật của Chúa Thánh Thần, Đấng hướng dẫn ông về phía hài nhi trong đền thờ.  Bài ca vịnh ông công bố biểu lộ khuynh hướng sống cho người khác (pro-existentia) của ông, ông đã sống để chờ đến thời khắc này và giờ đây ông rút lui để cho những người khác có thể nhìn thấy ánh sáng và ơn cứu độ đến cho dân tộc Israel cũng như dân ngoại.  Bà Anna hoàn thành bức tranh, bằng vào số tuổi của bà (con số tượng trưng:  84 = 7 x 12; mười hai chi tộc Israel; hoặc 84 – 7 = 77, con số toàn thiện kép), nhưng hơn hết cả là bằng lối sống của bà (ăn chay và cầu nguyện) và bằng lời công bố của bà cho tất cả những ai “nhìn về tương lai”.  Bà được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần về việc nói tiên tri, phụng thờ Chúa và sự trinh khiết trong lòng của bà.  Ngoài ra, bà thuộc về một chi tộc nhỏ bé nhất, chi tộc Asê, một dấu chỉ cho thấy rằng những người nhỏ bé và mong manh là những người có khuynh hướng nhận ra Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế, hơn.  Cả hai ông bà lão này – trông giống như là một cặp đôi thuở tạo dựng trời đất – là những biểu tượng đẹp nhất của Do Thái giáo, của thành Giêrusalem trung thành và hiền lành, đang chờ đợi và vui mừng và từ bây giờ sẽ để cho nguồn ánh sáng mới lan tỏa.

c)  Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu:thông thường những chữ này được hiểu như có nghĩa là Đức Maria sẽ chịu đau khổ, một cảnh được thấy rõ ràng là hình ảnh Đức Mẹ Sầu Bi.  Thay vào đó, chúng ta cần xem Đức Mẹ như là một biểu tượng của dân tộc Israel.  Ông Simêon linh cảm được cảnh tượng dân tộc của ông sẽ bị chia rẽ sâu xa bởi lời sắc bén và hằng sống của Đấng Cứu Thế (xem Lc 12:51-53).  Đức Maria đại diện cho đường đi:  bà phải tín thác, nhưng sẽ phải trải qua những thời gian đau thương và đen tối, sự im lặng đớn đau và cố gắng.  Câu chuyện của Đấng Mêssia đau khổ sẽ làm cho mọi người đau đớn, ngay cả đối với Đức Mẹ.  Người ta không thể đi theo ánh sáng mới của toàn thế giới mà không phải trả giá, mà không phải bị khích động để chọn các quyết định đầy rủi ro, mà không phải được tái sinh từ trời và trong sự mới mẻ.  Nhưng hình ảnh của “lưỡi gươm đâm thấu” này, về một hài nhi sẽ “làm vấp ngã” và giao động những trái tim khỏi sự thờ ơ của họ, thì không thể bị tách rời khỏi hành động đầy ý nghĩa của hai cụ già:  một người là ông Simêon, kẻ đã bế Chúa Hài Đồng trên tay mình để cho thấy rằng đức tin là một sự gặp gỡ và vòng tay ôm, chứ không phải là một lý thuyết suông; còn người kia, cụ bà Anna, đảm nhận vai trò công bố và nhen nhóm lại ánh sáng rực rỡ trong lòng tất cả những ai “đã nhìn về phía” Người.

d)  Đời sống hằng ngày, sự hiển linh của Thiên Chúa:  Cuối cùng, thật là thú vị khi nhận thấy rằng toàn bộ câu chuyện nhấn mạnh đến hoàn cảnh đơn sơ và chất phác nhất:  một cặp vợ chồng trẻ với một đứa con trong tay, một ông già vui mừng và ôm ấp đứa bé, một bà lão cầu nguyện và nói tiên tri, những kẻ lắng nghe dường như là những người đang gián tiếp tham gia.  Ở phần cuối của đoạn Tin Mừng, chúng ta cũng có một cái nhìn thoáng qua về làng Nagiarét, về sự phát triển của đứa trẻ trong một bối cảnh thông thường, ấn tượng về một đứa trẻ có năng khiếu khác thường cùng với sự khôn ngoan và tốt lành.  Chủ đề của sự khôn ngoan được đan dệt vào trong tấm vải của đời sống bình thường và lớn lên trong một bối cảnh của ngôi làng, để cho câu chuyện dường như treo lơ lửng, và nó sẽ được nhắc lại lần nữa đúng với chủ đề sự khôn ngoan của cậu bé ở giữa các luật sĩ trong đền thờ.  Thật vậy, đây là cảnh kế tiếp ngay sau đây (Lc 2:41-52).

6.  Thánh Vịnh 122  

Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi:
“Ta cùng trẩy lên đền thánh CHÚA! “
Và giờ đây, Giêrusalem hỡi,
cửa nội thành, ta đã dừng chân.

Giêrusalem khác nào đô thị
được xây nên một khối vẹn toàn.
Từng chi tộc, chi tộc của CHÚA,
trẩy hội lên đền ở nơi đây,
để danh CHÚA, họ cùng xưng tụng,
như lệnh đã truyền cho Israel.

Cũng nơi đó, đặt ngai xét xử,
ngai vàng của vương triều Đavít.
Hãy nguyện chúc Giêrusalem được thái bình,
rằng: “Chúc thân hữu của thành luôn thịnh đạt,
tường trong lũy ngoài hằng yên ổn,
lâu đài dinh thự mãi an ninh.”

Nghĩ tới anh em cùng là bạn hữu,
tôi nói rằng: “Chúc thành đô an lạc.”
Nghĩ tới đền thánh CHÚA, Thiên Chúa chúng ta thờ,
tôi ước mong thành được hạnh phúc, hỡi thành đô.
 
7.  Lời nguyện kết

Lạy Cha, chúng con ngợi khen và chúc tụng Cha bởi vì nhờ Con Cha, được sinh ra bởi một người phụ nữ do việc làm của Chúa Thánh Thần, được sinh ra theo lề luật, đã cứu chuộc chúng con khỏi lề luật và Cha đã làm đầy cuộc sống chúng con với ánh sáng và niềm hy vọng mới mẻ.  Nguyện xin cho gia đình chúng con hân hoan chào đón và trung thành với chương trình của Cha, nguyện xin cho những người trong gia đình chúng con giúp đỡ và duy trì trong con cái họ những giấc mơ và sự nhiệt tình mới, xin Cha ấp ủ chúng trong sự dịu dàng khi chúng yếu ớt mong manh, xin Cha dạy dỗ chúng trong tình yêu dành cho Cha và cho tất cả tha nhân.  Lạy Cha, tất cả mọi danh dự và vinh quang đều quy về Cha.

https://dongcatminh.org/event/lectio-divina-le-thanh-gia-b/

 

Thứ Năm, 24 tháng 12, 2020

25-12-2020 : LỄ CHÚA GIÁNG SINH

 

Ngày 25 tháng 12

Lễ Chúa Giáng Sinh



Lễ Ban Ngày

 

Bài Ðọc I: Is 52, 7-10

"Khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðẹp thay chân người rao tin trên núi, người rao tin thái bình, người rao tin mừng, người rao tin cứu độ, nói với Sion rằng: Thiên Chúa ngươi sẽ thống trị!

Tiếng của người canh gác của ngươi đã cất lên. Họ sẽ cùng nhau ca ngợi rằng: Chính mắt họ sẽ nhìn xem, khi Chúa đem Sion trở về. Hỡi Giêrusalem hoang tàn, hãy vui mừng, hãy cùng nhau ca ngợi! Vì Chúa đã an ủi dân Người, đã cứu chuộc Giêru-salem. Chúa đã chuẩn bị ra tay thánh thiện Người trước mặt chư dân; và khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ nhìn xem ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4. 5-6

Ðáp: Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta (c. 3c).

Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.

2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người; trước mặt chư dân, Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel. - Ðáp.

3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca! - Ðáp.

4) Hãy ca mừng Chúa với cây đàn cầm, với cây đàn cầm với điệu nhạc du dương, cùng với tiếng kèn râm ran, tiếng tù và rúc, hãy hoan hô trước thiên nhan Chúa là Vua. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Dt 1, 1-6

"Chúa đã phán dạy chúng ta qua người Con".

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Thuở xưa, nhiều lần và dưới nhiều hình thức, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên tri. Trong những ngày sau hết đây, Ngài đã phán dạy chúng ta qua Người Con mà Ngài đã đặt làm vị thừa kế vạn vật, và cũng do bởi Người Con mà Ngài đã tác thành vũ trụ. Nguyên vốn là phản ảnh sự vinh quang và là hình tượng bản thể Ngài, Người Con đó nâng giữ vạn vật bằng lời quyền năng của mình, quét sạch tội lỗi chúng ta, và ngự bên hữu Ðấng Oai Nghiêm trên cõi trời cao thẳm. Tên Người cao trọng hơn các thiên thần bao nhiêu, thì Người cũng vượt trên các thiên thần bấy nhiêu.

Phải, vì có bao giờ Thiên Chúa đã phán bảo với một vị nào trong các thiên thần rằng: "Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã hạ sinh Con"? Rồi Chúa lại phán: "Ta sẽ là Cha Người, và Người sẽ là Con Ta". Và khi ban Con Một mình cho thế gian, Chúa lại phán rằng: "Tất cả các thiên thần Chúa hãy thờ lạy Người!"

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Ngày thánh đã dọi ánh sáng trên chúng ta. Hỡi các dân, hãy tới thờ lạy Chúa, vì hôm nay ánh sáng chan hoà đã toả xuống trên địa cầu. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 1, 1-18 {hoặc 1-5. 9-14}

"Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta".

Bắt đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy.

Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng.

Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đã đến nhằm việc chứng minh, để ông chứng minh về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ ông mà tin. Chính ông không phải là sự sáng, nhưng đến để chứng minh về sự sáng.

Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.

Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.

Gioan làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: "Ðây là Ðấng tôi tiên báo. Người đến sau tôi, nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi".

Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác. Bởi vì Chúa ban Lề luật qua Môsê, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Ðức Giêsu Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Ðấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta.

Ðó là lời Chúa.

 

Hoặc đọc bài vắn này: Ga 1, 1-5. 9-14

"Ngôi Lời đã làm Người và ở cùng chúng ta"

Bắt đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy.

Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng.

Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.

Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.

Ðó là lời Chúa.

 


Suy niệm 

Trong ngày đại lễ mừng Chúa Giáng Sinh,
Giáo Hội cho chúng ta nghe Lời mở đầu Tin Mừng theo thánh Gioan.
Lời mở đầu này là một bài ca về sự cao trọng vô song của Ngôi Lời.
Ngôi Lời là Đấng vĩnh hằng, đã hiện hữu từ nguyên thủy.
Ngài là Thiên Chúa, là Con Một luôn hướng về Thiên Chúa Cha (c. 1).
Tương quan giữa Thiên Chúa và Ngôi Lời là tương quan giữa Cha với Con.
Thiên Chúa Cha đã muốn Ngôi Lời cộng tác trong việc tạo dựng vũ trụ.
Nhờ Ngôi Lời mà vạn vật được tạo thành (cc. 3, 10).
Chẳng có thụ tạo nào hiện hữu mà lại không được dựng nên bởi Ngôi Lời.
Dù khác nhau về màu da, ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo…
mỗi con người đều mang trong mình Sự Sống của Ngôi Lời.
Sự Sống ấy là Ánh Sáng vẫn chiếu soi cả nhân loại (c. 4),
và soi chiếu lương tâm từng con người, chẳng trừ ai (c. 9),
bất chấp sức mạnh gớm ghê của bóng tối (c. 5).

Rồi khi đến thời viên mãn, vì quá yêu thương con người trầm luân
Thiên Chúa đã sai Ngôi Lời, Con Một của Ngài vào trần gian để cứu độ.
Ngôi Lời vĩnh cửu đã trở nên người phàm, mang tên Giêsu,
mang thân xác giới hạn như chúng ta, sống trong dòng lịch sử,
và ở giữa chúng ta trên cùng một trái đất (v. 14).
Đấng Tạo thành vạn vật bây giờ trở nên một thụ tạo bé nhỏ,
được sinh ra, được bú mớm, từ từ lớn lên và trưởng thành.
Đấng Tạo thành vạn vật nay sẽ là Đấng Cứu độ loài người,
để ai tin vào Ngài thì Ngài cho họ quyền làm con cái Thiên Chúa (c. 12).

Khi vâng ý Cha chấp nhận nhập thể và nhập thế,
Ngôi Lời đã cúi xuống bắc cầu nối kết Thiên Chúa với con người,
để đưa con người vào sống tình thân với Thiên Chúa.
Chưa bao giờ và mãi mãi về sau,
chẳng bao giờ có một Vị Trung Gian cứu độ nào tuyệt vời đến thế.
Vì chỉ mình Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa thật, vừa là một con người thật.
Mừng lễ Giáng Sinh là mừng đại lễ Thiên Chúa đến cứu con người.
Thiên Chúa Cha không muốn cứu độ nhân loại bằng cách chỉ phán một lời.
Ngài muốn tặng cho ta món quà cao quý là chính Người Con duy nhất.
Chẳng ai thấy tận mắt hay biết rõ Thiên Chúa bao giờ.
Nhưng nơi Đức Giêsu, chúng ta được quen biết và gặp gỡ Thiên Chúa.
Vì duy chỉ mình Ngài là Con hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha (c. 18).

Lễ Giáng Sinh đem lại niềm vui cho toàn thể thế giới con người.
Vì Con Thiên Chúa đã mang phận người vất vả, long đong,
nên đời người, dù đổ vỡ khổ đau, cũng có ý nghĩa, và đáng sống.
Vì Con Thiên Chúa đã mang khuôn mặt, và thân xác con người,
nên bất cứ ai là người, đều mang hình ảnh của Con Thiên Chúa.
Vì Con Thiên Chúa đã cư ngụ trên trái đất nhỏ xíu này của chúng ta,
đã sống nhờ không khí, nước và thức ăn của trái đất này,
nên trái đất này thật là thế giới linh thánh, cần trân trọng.
Lễ Giáng Sinh bao giờ cũng mời ta nhìn lại đời mình,
nhìn lại khuôn mặt những người chung quanh, nhìn lại trái đất mình sống,
với lòng kính trọng, vui sướng, và biết ơn.
Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, là quà tặng của Thiên Chúa cho nhân loại.
Ước gì tôi biết đưa hai tay ra để đón lấy quà tặng cao quý ấy.

Lời nguyện

Lạy Chúa Giêsu,
Khi làm người, Chúa đã nhận trái đất này làm quê hương,
và đã ban cho chúng con như một quà tặng tuyệt vời.
Nếu rừng không còn xanh, suối không còn sạch,
và bầu trời vắng tiếng chim.
thì đó là lỗi của chúng con.

Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã đến làm người để tôn vinh phận người,
vậy mà thế giới vẫn có một tỷ người đói,
bao trẻ sơ sinh bị giết khi chưa mở mắt chào đời,
bao kẻ sống không ra người, nhân phẩm bị chà đạp.
Đó là lỗi của chúng con.

Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đến đem bình an cho người Chúa thương,
vậy mà trái đất của chúng con chưa một ngày an bình.
Chiến tranh, khủng bố, hận thù ở khắp nơi.
Người ta cứ giết nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi.
Đó là lỗi của chúng con.

Lạy Chúa Giêsu ở Belem,
Chúa đã cứu độ thế giới bằng tình yêu khiêm hạ,
nhưng bất công, ích kỷ và dối trá vẫn có mặt trên địa cầu.
Chúa đến đem ánh sáng, nhưng bóng tối vẫn tràn lan.
Chúa đến đem tự do, nhưng con người vẫn bị trói buộc.
Đó là lỗi của chúng con.

Vì lỗi của chúng con, chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại,
và giấc mơ của Chúa sau hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu.
Mỗi lần đến gần máng cỏ Belem,
xin cho chúng con nghe được lời thì thầm gọi mời của Chúa
để yêu trái đất lạnh giá này hơn,
và xây dựng nó thành mái ấm cho mọi người.

 Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.

 


Lectio Divina: Chúa Giáng Sinh (B)

Thứ Sáu, 25 Tháng 12, 2020

Chúa Giêsu Ra Đời

Lc 2:1-20

 

1.  Lời nguyện mở đầu

Lạy Chúa Thánh Thần của chân lý, được Chúa Giêsu sai đến để hướng dẫn chúng con tìm đến sự toàn chân, xin Chúa hãy soi sáng tâm trí chúng con để chúng con có thể hiểu được lời Kinh Thánh.  Ngài là Đấng đã rợp bóng trên Đức Maria và khiến bà thành mảnh đất màu mỡ nơi Lời của Chúa có thể nẩy mầm, xin hãy thanh tẩy tâm hồn chúng con khỏi mọi trở ngại hướng đến Lời Chúa.  Xin giúp chúng con tìm hiểu giống như Đức Maria xưa kia với trái tim trinh khiết và tốt lành để lắng nghe Lời Chúa nói với chúng con trong cuộc sống và trong Kinh Thánh, để chúng con có thể tuân giữ Lời Chúa và sinh sản được hoa trái tốt tươi qua sự kiên trì của chúng con.

 

 2.  Bài Đọc

 

a)  Bối cảnh:

Bài Tin Mừng của chúng ta ngày hôm nay là một phần của đoạn Phúc Âm theo thánh Luca nói về thời thơ ấu của Chúa và bao gồm hai chương đầu của sách Phúc Âm thứ ba.  Đó là Phúc Âm của tuổi thơ.  Vì thế, trọng tâm chính của tác giả không phải về một dữ liệu, hay cho chúng ta biết các chi tiết lịch sử về việc ra đời của Đức Giêsu, mà là loan báo Tin Mừng về sự giáng sinh của Đấng Cứu Thế được mong chờ.  Hài nhi Giêsu đã được xem như là Chúa như đã được công bố trong lời tông truyền.

Tương tự như hai chương đầu của sách Tông Đồ Công Vụ về sự chuyển tiếp từ thời đại của Chúa Giêsu sang thời đại Giáo Hội, do đó hai chương đầu của Phúc Âm Luca là về sự chuyển đổi từ Cựu Ước sang Tân Ước.  Thường xuyên có những lời trích dẫn và hàm ý đến Cựu Ước.  Các nhân vật, ví dụ như ông Giacaria và bà Êlisabéth, ông Simêon và bà Anna, thánh Giuse và đặc biệt là Đức Maria, đại diện cho tinh thần người nghèo của Chúa được mô tả trong giai đoạn cuối của Cựu Ước.  Tất cả mọi người, và đặc biệt là Đức Maria, vui mừng vì sự cứu rỗi mà họ mong mỏi đã đến.

Thánh Luca phân chia Tin Mừng thời thơ ấu của Đức Giêsu ra làm bảy cảnh:  lời công bố việc ra đời của Gioan Tẩy Giả (1:5-25), lời công bố việc giáng sinh của Đức Giêsu (1:26-38), chuyến thăm viếng bà Êlisabéth của Đức Maria (1:39-56), Gioan Tẩy Giả ra đời (1:57-80), Đức Giêsu được sinh ra (2:1-21), Chúa Giêsu được dâng trong Đền thờ (2:41-52).  Nhiều học giả tin rằng thánh Luca có ý muốn tạo nên sự tương ứng giữa Chúa Giêsu và Gioan Tẩy Giả để cho thấy tính ưu việt của Chúa Giêsu so với Gioan, vị ngôn sứ cuối cùng.  Với sự ra đời của Đức Giêsu đã bắt đầu cho kỷ nguyên mới hướng về điều mà Cựu Ước mong mỏi.   

b)  Phúc Âm:  

Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustinô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra.  Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria.  Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình.  Giuse cũng rời thị trấn Nagiarét trong xứ Galilêa trở về quê quán của Đavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Đavít, để kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai.  Sự việc xảy ra, trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng.  Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán.

Bấy giờ trong miền đó có những người mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình.  Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh sáng của Thiên Chúa bao tỏa chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ.  Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng:  “Cá ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân:  Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Đavít.  Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người:  Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ.”  Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an dưới thế cho người thiện tâm.” Khi các thiên thần biến đi, thì các mục tử nói với nhau rằng:  “Chúng ta đi đến Bêlem và coi xem sự việc đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết.”  Rồi họ hối hả tới nơi và gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ.  Khi thấy thế, họ đã hiểu ngay lời đã báo về hài nhi này.  Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ.  Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những sự việc đó, và suy niệm trong lòng.  Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.  

 

3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện

 

Để Lời Chúa được thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.

 

4.  Một vài câu hỏi gợi ý

 

Để giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.

 

a)  Tôi có dành chỗ nào trong cuộc sống của tôi cho Chúa Giêsu không?    

b)  Các dấu hiệu của sự hiện diện Thiên Chúa trao ban cho tôi là gì? 

c)  Tôi đáp ứng với các dấu hiệu này như thế nào? 

d)  Chúa Giêsu đã được sinh ra để mang niềm vui và an bình.  Những món quà này mô tả đặc điểm cuộc đời tôi đến đâu rồi?

e)  Tôi có phải là người mang niềm vui và an bình đến cho những người khác không?  

 

5.  Chìa khóa của bài đọc

 

Dành cho những ai muốn đào sâu vào trong bài Tin Mừng.

 

·         “Không còn chỗ cho họ”

Chúa Giêsu được sinh ra trong sự nghèo khổ cùng cực.  Đó không chỉ là chuyện thiếu thốn vật chất của gia đình Chúa.  Nó còn hơn thế nữa.  Chúa được sinh ra tại nơi xa khỏi ngôi làng cha mẹ Người sinh sống, xa khỏi tình yêu thương của bạn bè và thân thích, xa khỏi sự ấm cúng của gia tộc, dù rằng là người nghèo.  Chúa được sinh ra ở giữa những người xa lạ không màng chi đến Người và chỉ có một máng cỏ cho việc giáng sinh của Người.

Chúng ta thấy ở đây mầu nhiệm nhập thể tuyệt vời.  Thánh Phaolô sẽ nói:  “Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2Cr 8:9).  Lời mở đầu của Tin Mừng theo Gioan khẳng định rằng mặc dầu qua Người mà thế gian được tạo thành, Đức Giêsu, Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1:11).  Đó là tấn bi kịch đánh dấu toàn bộ cuộc đời của Đức Giêsu, tiến đến tột đỉnh của nó trong sự chối bỏ tuyệt đối tại cuộc tra án xét xử trước quan tổng trấn Philatô (xem Ga 18:28-19:16).  Trong phần phân tích cuối cùng, tấn bi kịch về Thiên Chúa, Đấng mặc khải chính mình và liên tục hiến tặng chính thân mình cho nhân loại và bị thường xuyên khước từ. 

 

·         Một dấu chỉ sắp được giải mã

Tuy nhiên, phải nói rằng không dễ dàng gì cho người thời bấy giờ nhận ra được Chúa Giêsu.  Điều ấy không bao giờ là việc dễ dàng cho bất cứ ai, ngay cả ngày nay, để nhận ra thực sự Người là ai.  Chỉ có sự mặc khải của Thiên Chúa mới có thể mặc khải mầu nhiệm của Người (xem ví dụ Ga 5:37; 6:45).  Trong câu chuyện giáng sinh của Người, mục đích lời loan báo của thiên thần chính là để mặc khải mầu nhiệm của Người.

Thật ra, đoạn Tin Mừng của chúng ta gồm có ba phần.  Trong các câu 1-7, chúng ta có sự kiện về sự ra đời của Đức Giêsu trong một bối cảnh rõ ràng.  Đó là sự ra đời của một hài nhi trai giống như những em bé trai khác.  Các câu 8-14 cho chúng ta biết về lời loan báo của thiên thần và thị kiến các thiên thần đồng thanh hát khen. Đó là sự mặc khải của Thiên Chúa (câu 15) giúp chúng ta khám phá ra trong “dấu hiệu” của “một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ” (câu 12) “Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế” (câu 11).  Trong phần cuối (các câu 15-20), chúng ta bắt gặp các phản ứng khác nhau về sự mặc khải của mầu nhiệm.  Khi dấu chỉ mà Thiên Chúa ban cho được nhận với lòng khiêm nhu, nó đánh dấu sự khởi đầu của cuộc hành trình đức tin hướng về Người, Đấng đã tự mặc khải chính mình.     

 

·         Làm cách nào để giải mã dấu chỉ và chào đón Đức Giêsu

Văn bản của chúng ta đưa ra ba phản ứng về mầu nhiệm Đức Giêsu.

Đầu tiên là các mục đồng.  Họ được biểu thị bởi một số động từ của mong đợi/tìm kiếm và khám phá:  “(họ) thức đêm … canh giữ” (câu 8); “chúng ta hãy đến và coi xem…” (câu 15); “họ hối hả tới nơi và gặp thấy…” (câu 16).  Các mục đồng đã sẵn sàng cho sự mặc khải của mầu nhiệm.  Họ đón nhận nó trong sự hồn nhiên và tin vào nó  (xem các câu 15 và 20) và họ đã trở nên các chứng nhân cho những gì đã được mặc khải cho họ (xem câu 17).  Sau đó, có “những người nghe” những gì các mục đồng nói với họ về Hài Nhi Giêsu (câu 16).  Họ ngạc nhiên, không thể nhìn thấy được ý nghĩa thực sự của sự kiện đã xảy ra trong bọn họ.  Sau cùng là phản ứng của Đức Maria.  Tác giả Phúc Âm đưa ra sự tương phản về phản ứng của bà với phản ứng của “những người nghe”.  Thật ra, Luca giới thiệu bà với những chữ “về phần Maria” (câu 19).  Giống như họ, Đức Maria đã không nghe thấy lời loan báo của thiên thần và đã không trông thấy các thiên thần hát mừng, mà chỉ được nghe từ lời chứng của các mục đồng.  Nhưng bà đã chấp nhận điều ấy.  Một cách chắc chắn, bà đã có lời truyền tin của thiên thần nói riêng cho mình bà tại lúc khởi đầu của cả toàn bộ câu chuyện này (1:26-38).  Thiên thần đã nói về người con mà bà sinh ra là Con Đấng Tối Cao sẽ trị vì cho đến muôn đời (xem câu 1:32 và 35). Nhưng những điều vừa mới xảy ra, sự ra đời trong những hoàn cảnh như thế, có thể gây ra nghi ngờ về những lời này.  Bây giờ các mục đồng xuất hiện và lại nói những điều tốt đẹp về con trai của bà.  Đức Maria ghi nhớ tất cả mọi việc trong lòng, những lời của thiên thần, những lời của các mục đồng, các sự kiện diễn ra và cố gom góp lại để hiểu về bé trai này, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho bà là ai, sứ vụ của người con này là gì và nhiệm vụ của bà trong tất cả những việc này là gì. Đức Maria là một người phụ nữ chiêm niệm, giữ cho mắt và tai của bà luôn rộng mở để khỏi bỏ lỡ bất cứ điều gì.  Khi ấy, bà giữ lại và suy niệm tất cả trong sự thinh lặng của tâm hồn chiêm niệm của mình.  Đức Maria là một Trinh Nữ chu đáo, có khả năng nhận lãnh lời Thiên Chúa nói với bà trong các sự kiện hằng ngày của đời sống.  Chỉ có những người muốn tìm kiếm như các mục đồng và có tâm hồn chiêm niệm của Đức Maria mới có thể giải mã được các dấu hiệu của sự hiện diện và hành động của Thiên Chúa trong đời sống của họ và để đón nhận Đức Giêsu vào trong lòng họ.   

 

6.  Thánh Vịnh 98                                                                                                     

Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới,

Vì Người đã thực hiện những việc lạ lùng.

Tay mặt Người đã đem lại toàn thắng,

Cùng với cánh tay thánh thiện của Người.

Chúa đã công bố ơn cứu độ,

Đã tỏ sự công chính Người trước mặt chư dân.

Người đã nhớ lại lòng nhân hậu,

Và lòng trung thành đối với nhà Israel.
Mọi dân trên khắp cùng bờ cõi trái đất,

Đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.

Toàn thể địa cầu hãy hân hoan mừng Chúa,

Hãy vui mừng hoan lạc và đàn ca.

Hãy ca mừng Chúa với đàn cầm thụ!

Với đàn cầm thụ, với nhạc rân ran!

Hãy thổi sáo và thúc tù và,

Hân hoan trước thành nhan Chúa là Vua!

Gầm vang lên, hỡi biển cả cùng muôn hải vật,

Địa cầu với toàn thể dân cư!

Sông lạch ơi, vỗ tay đi nào,

Đồi núi hỡi, reo mừng trước tôn nhan Chúa.

Vì Người ngự đến xét xử trần gian,

Người xét xử địa cầu theo đường công chính,

Xét xử muôn dân theo lẽ công bình.

7.  Lời Nguyện Kết

 

Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng!  Chúa là kho báu duy nhất của con, con xin dâng hoàn toàn hồn xác con đây cho trí tưởng tượng thiêng liêng của Chúa.  Con không có niềm vui nào khác hơn là thấy Chúa mỉm cười.  Xin hãy khắc dấu ấn trên con với ân sủng Chúa và với các đức tính trẻ thơ của Người, để mà vào ngày sinh nhật của con trên thiên đàng, các thiên thần và các thánh có thể nhận ra những dấu này trong người phối ngẫu bé nhỏ của Chúa.

 

(Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu và Thánh Nhan Chúa, lời nguyện thứ 14)

www.dongcatminh.org

 


Thứ Bảy, 19 tháng 12, 2020

20-12-2020 : CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG năm B

 

20/12/2020

Chúa Nhật 4 Mùa Vọng năm B

 


BÀI ĐỌC I: 2 Sm 7, 1-5. 8b-12. 14a. 16

“Nước Đavít sẽ tồn tại muôn đời trước mặt Chúa”.

Bài trích sách Samuel quyển thứ hai.

Khi ấy vua Đavít ngự trong đền và khi Chúa cho ông được bằng yên tư bề, khỏi mọi quân thù chung quanh, thì vua nói với tiên tri Nathan rằng: “Ông thấy không? Ta ở trong nhà làm bằng gỗ bá hương, còn hòm bia Chúa thì để ở trong lều bằng da ư?” Nathan trả lời với vua rằng: “Điều vua nghĩ trong lòng, vua hãy đi thực hiện, vì Chúa ở với vua”. Nhưng xảy ra là, đêm ấy, có lời Chúa phán cùng Nathan rằng: “Hãy nói với Đavít tôi tớ Ta rằng: ‘Chúa phán thế này: Có phải ngươi sẽ xây cất cho Ta một ngôi nhà để ở chăng?’

“Ta đã đem ngươi ra khỏi đồi cỏ, lúc ngươi còn theo sau đoàn chiên, để ngươi trở nên thủ lãnh Israel dân Ta, và Ta ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi. Ta đã tiêu diệt mọi quân thù trước mặt ngươi, và Ta sẽ làm cho danh ngươi nên cao trọng như danh các bậc vĩ nhân trên mặt đất. Ta sẽ đặt chỉ một nơi cho Israel dân ta, và Ta sẽ vun trồng nó tại đó. Nó sẽ ở đó và sẽ không còn bị khuấy rối nữa. Con cái sự dữ sẽ không còn đến đàn áp nó như xưa nữa, như ngày Ta thiết lập các vị Thẩm phán trên Israel dân Ta. Ta sẽ cho ngươi được bằng yên khỏi mọi quân thù, và Chúa phán trước cho ngươi biết là Chúa sẽ tạo lập cho ngươi một nhà. Nhà của ngươi và triều đại ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta; ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi”. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 88, 2-3. 4-5. 27 và 29

Đáp: Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (x. c. 2a).

Xướng:

1) Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời, qua mọi thế hệ, miệng con loan truyền lòng trung thành Chúa, vì Ngài đã phán: “Tình thương của Ta đứng vững muôn đời”; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. – Đáp.

2) Ta đã ký minh ước cùng người ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Đavít là tôi tớ của Ta rằng: “Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ”. – Đáp.

3) Chính người sẽ thưa cùng Ta: “Chúa là Cha con, và Thiên Chúa là Đá Tảng cứu độ của con”. Đời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. – Đáp.

BÀI ĐỌC II: Rm 16, 25-27

“Mầu nhiệm được giữ kín từ đời đời, nay được tỏ bày”.

Bài trích thơ Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, kính chúc Đấng có quyền năng làm cho anh em được vững vàng theo Phúc Âm tôi loan truyền, và lời giảng dạy của Chúa Giêsu Kitô, theo mạc khải mầu nhiệm được giữ kín từ đời đời, nhưng nay được tỏ bày, và nhờ các tiên tri ghi chép theo lệnh của Thiên Chúa hằng hữu, được thông tri cho các Dân Ngoại, để dẫn đưa họ về vâng phục đức tin.

Kính chúc Thiên Chúa, Đấng khôn ngoan độc nhất, nhờ Chúa Giêsu Kitô, kính chúc Người vinh quang muôn đời! Amen. Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Lc 1, 38

Alleluia, alleluia! – Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Lc 1, 26-38

“Này Trinh Nữ sẽ thụ thai và sẽ sinh một con trai”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít, trinh nữ ấy tên là Maria.

Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào trinh nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ”. Nghe lời đó, trinh nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.

Thiên thần liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận”.

Nhưng Maria thưa với thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”

Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Đấng trinh nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được”.

Maria liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”. Và thiên thần cáo biệt trinh nữ. Đó là lời Chúa.



Suy Niệm Chúa Nhật IV Mùa Vọng Năm B:

(2Samuel 7,1-5.8b-11.16; Roma 16,25-27; Luca 1,26-38)

Suy niệm: Mầu Nhiệm Nhập Thể

"Tình yêu" là hai tiếng nói luôn ở trên môi miệng và trong con tim của nhân loại, hai tiếng nói căn bản và thâm sâu nhất của cuộc sống.

Sinh ra, lớn lên và chết đi, lúc nào con người cũng mong đợi tình yêu.

Có tình yêu, con người hết là những viên đá nằm lạnh lùng bên cạnh nhau trên một con đường, những thân cây vô tri vô giác mọc lên trong một đám rừng hay những con vật đi ăn chung thỉnh thoảng cắn xé nhau để tranh miếng mồi ngon.

Tình yêu khiên con người không những sống gần nhau, mà còn đi vào cuộc đời của nhau, chấp nhận chia sẻ từ miếng cơm manh áo cho đến tâm tình ý tưởng của nhau, cùng vui, cùng khổ, cùng lao động, cùng phấn đấu và vươn lên thoát khỏi nô lệ và vong thân trong xã hội. Tình yêu là ánh sáng chiếu dọi, là sức nóng sưởi ấm giúp con người triển nở trong hạnh phúc.

Tình yêu là động lực thúc đẩy con người đến với nhau, gắn bó với nhau, để tất cả nên một: một lòng, một trí, một ý chí, một cuộc đời.

Thánh Kinh luôn khẳng định Thiên Chúa thương yêu con người cách đặc biệt. Tình yêu ấy khiến Thiên Chúa đến với con người, trước khi con người đến gặp Thiên Chúa.

Tình yêu được biểu lộ trong lịch sử, biến lịch sử thành môi trường cứu độ, nơi gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa.

Những chương đầu của sách Sáng thế cho thấy Yavê sống thân mật với con người, ngay từ khi con người được tạo dựng. Ngài đi dạo mát với con người trong vườn Eđen, Ngài chăm sóc sức khỏa và đời sống của con người. Ngài cho con người hưởng các hoa quả, cho con người một bạn đường. Ngài đối thoại thân mật với con người.

Sách Sáng thế còn cho thấy Ngài đến với con người qua dấu hiệu của thời tiết. Nhưng đặc biệt Ngài đã đến viếng Abraham và ban cho ông lời hứa. Ngài đã ký kết với Abraham một giao ước tình yêu và nhất quyết thi hành Giao ước đó. Ngài để ý đến nỗi khổ của ông: tuổi đã già mà không có con nối dõi tông đường. Ngài đã cho ông một miêu duệ lớn gấp trăm ngàn lần mong muốn.

Khi con cháu Abraham chịu khổ cực và bị áp bức trong nước Aicập ngoại bang, Ngài đã đến để giải phóng họ và Ngài muốn chọn Maisen - một người có lòng yêu nước nồng nàn - Ngài đã gọi Maisen lúc ông bị đuổi bắt và chạy trốn vào sa mạc, vì đã giết chết một người ngoại bang để bênh vực cho kẻ đồng hương.

Với Maisen, Thiên Chúa cũng đã ký kết một giao ước và từ đó thiết lập một dân riêng làm chứng cho Ngài giữa muôn nước.

Trong sa mạc, Thiên Chúa luôn hiện diện. Hòm bia thánh là dấu hiệu sự gần gũi: ở giữa và ở gần kề. Qua đám mây và cột lửa, chính Ngài hướng dẫn họ suốt cuộc hành trình.

Sự hiện diện của Chúa là sự hiện diện giải phóng. Ngài cứu dân khỏi lầm than đau khổ và giúp họ chiến đấu với kẻ thù để sống còn và tiến dần vào Ðất hứa.

Khi dân Chúa đã sống ổn định và thiết lập một vương quốc bình an thịnh vượng, Chúa vẫn hiện diện và bảo đảm cho sự trường tồn và hạnh phúc của họ. Ðavít muốn xây cho Chúa một đền thờ, nhưng Ngài muốn hiện diện ở giữa lòng dân. Qua lời sấm Nathan, Ngài chưa bao giờ có ý nghĩ đòi dân xây cho mình một đền thờ bằng gạch đá như các thần minh của dân ngoại. Chính dân là đền thờ Ngài ngự. Và Ðền thờ đó do Ngài xây dựng, chứ không phải do tay con người làm nên. Chính Chúa tạo ra một Ðền thờ đích thực; đó là dòng dõi, là con cháu Ðavít; và qua những con người sống thực thuộc dòng dõi ông, Ngài sẽ hiện diện trong lịch sử loài người.

Với Ðavít và miêu duệ ông, Thiên Chúa càng ngày càng gần gũi với nhân loại. Ngài tác động trên lịch sử loài người và đặc biệt trong lịch sử dân riêng Ngài. Ngài hướng dẫn và thanh luyện dân Ngài qua những biến cố đau thương như thất trận, lưu đày... Ngài răn bảo và thúc giục... đôi khi Ngài phẫn nộ - nhưng Ngài cũng an ủi vỗ về và hứa hẹn một thời kỳ vui mừng tràn lan ơn cứu độ. Dụng cụ Chúa thường dùng chính là "lời nói" và "cuộc sống" các tiên tri.

Ngài thương dân như cha yêu thương con cái, như mẹ bế bồng nâng niu, như mục tử chăm sóc đoàn chiên.

Nhưng Thiên Chúa như chưa bằng lòng với những gì Ngài đã làm cho dân. Ngài muốn đến cư ngụ với dân, không chỉ như một thần linh vô hình, nhưng chấp nhận hoàn toàn thân phận con người và chia sẻ trọn vẹn kiếp sống của nó. Thiên Chúa trở thành Người như mọi người. Ngài bị ràng buộc bởi thời gian và không gian. Ngài sẵn sàng đón nhận những khắc khoải lo âu của cuộc sống. Ngài cũng ăn, uống, lao động, phấn đấu cho đời sống vật chất như mọi người. Ngài cũng vui, cười và than khóc như những ai khác. Ngài chấp nhận mọi giới hạn và ngay cả cái chết là giới hạn sau cùng và quan trọng nhất của con người.

Yêsu, con của Maria và Yuse thuộc dòng dõi Ðavít là chính Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Nhưng Ngài cũng là con của trần thế, con của một dân tộc, con của người Trinh nữ nghèo nàn sống ở Nadarét.

Ðó là khía cạnh huyền diệu nhất của mầu nhiệm Nhập thể! Chúa muốn làm con của trần thế, để ta nhận ra gương mặt đích thực của Ngài, một tình thương thực tế không viễn vông, không lý thuyết Ngài không là "kẻ thuộc thế giới xa lạ". Theo Ngài không phải để đi về thế giới ảo tưởng nào khác, nhưng để sống tình yêu chân thật.

Maria thụ thai Ðức Yêsu là nhân loại thụ thai Ðức Yêsu! Maria hạ sinh Ðức Yêsu là nhân loại hạ sinh Ngài. Bài Phúc Âm Luca 1, 26-38 ví Maria như thiếu nữ Sion, nghĩa là Israel dân Chúa. Thiên Thần kêu mời Maria hãy vui lên vì sắp sinh quý tử. Ðó cũng là lời loan báo niềm vui cho nhân loại: chính từ nhân loại mà phát sinh một con người toàn thiện xứng đáng làm Trưởng tử giữa muôn loài.

Mầu nhiệm Nhập thể là tột đỉnh của sự gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa: Thiên Chúa đến viếng thăm dân Người khiến từ lòng dân nảy sinh Ðấng Cứu độ. Chồi cây Yêsê do Thiên Chúa vun trồng đã nở hoa.

Ðức Yêsu là bí tích, là dấu hiệu, là điểm gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa. Ðức Yêsu là nơi hội tụ của tình thương giữa Thiên Chúa và dân Người: Ngài vừa là lời mời gọi của Thiên Chúa, vừa là tiếng đáp trả của nhân loại.

Phúc Âm cho thấy Ðức Yêsu là một con người cụ thể, với những nét đặc thù và sống động. Nhưng Ðức Yêsu còn là Con của Chúa Cha. Từ lúc sinh ra cho đến khi chết, mọi hoạt động của Ngài đều do Thánh Thần của Chúa Cha thúc đẩy. Lc 1,35 nhấn mạnh đến sự can thiệp của Thánh Linh : "Thánh Thần sẽ đến trên Cô và quyền năng Ðấng Tối cao trên Cô rợp bóng".

Thánh Thần Thiên Chúa đã hoạt động trong lịch sử trước ngày Ðức Yêsu sinh ra. Nhưng Ngài đặc biệt hiện diện trong cuộc đời Yêsu. Và nhờ quyền năng Thiên Chúa, Yêsu tuy phải chết như mọi người, đã sống lại và chiến thắng sự chết, báo hiệu "phần số" tốt đẹp Thiên Chúa dành cho nhân loại.

Ðức Yêsu sống lại được Chúa Cha ban trọn vẹn Thánh Linh và chính nhờ Thánh Linh mà Ðức Yêsu hiện diện giữa dân Ngài "mọi ngày cho đến tận thế".

Nhờ Thánh Linh Ðức Yêsu vẫn ở giữa loài người, không phải chỉ cách đây hai ngàn năm, mà Ngài vẫn hiện diện, vẫn sống giữa nhân loại hôm nay. Giáo hội là nơi Ngài hiện diện bằng chính những hoạt động không ngừng của Thánh Linh Ngài ban. Ngài vẫn tiếp tục hiện diện qua các sự kiện lịch sử và các biến cố. Ta có thể gặp Ngài và phải tìm Ngài trong đó. Ngài ra đi trở về cùng Cha, không phải để rời bỏ trần thế, nhưng để dễ dàng đồng hóa mình với mọi người sinh ra trong lịch sử, đặc biệt với những người bé mọn, những người đói khát, những kẻ tù đày... Matthêô cũng như Luca cho thấy sự hiện diện của Ðức Kitô phục sinh và lên trời trở thành hữu hình trong người anh em: "Ta đói, các ngươi cho ăn, Ta khát, các ngươi cho uốn, Ta là khách trọ các ngươi tiếp rước, Ta mình trần các ngươi cho mặc, Ta đau yếu các ngươi viếng thăm, Ta ở tù các ngươi đến với Ta" (Mt 25,35-36).

Ðức Kitô vẫn luôn ở giữa chúng ta. Chúng ta sẽ nhận ra Ngài khi cử hành nghi lễ bẻ bánh, khi lắng nghe lời Ngài, khi thao thức tìm Ngài trong các dấu chỉ của thời đại. Chúng ta sẽ tìm được Ngài khi nhìn vào những người anh em sống gần kề ta. Ngài ở cạnh ta, cùng xây dựng xã hội và môi trường với ta. Với Ngài, ta sẽ góp công biến đổi trần thế thành Ðất mới, Trời mới, thực hiện lời thánh Phaolô: "Tất cả thuộc về anh em, anh em thuộc về Ðức Kitô, Ðức Kitô thuộc về Thiên Chúa".

 


Bài Giảng Chúa Nhật IV Mùa Vọng Năm B:

Càng gần lễ Giáng sinh, công việc chuẩn bị của chúng ta lại càng gấp rút. Tôi ca ngợi thiện chí và nỗ lực của mọi người. Xin Chúa chúc lành cho tất cả mọi cố gắng của chúng ta, để lễ Giáng sinh năm nay được chan hòa ơn thánh.

Nhưng chính trong bầu khí nhiệt liệt chuẩn bị Ðại lễ Giáng Sinh này, mà các bài sách Thánh hôm nay muốn nâng bổng tâm hồn chúng ta lên, để thay vì chỉ mải miết thu dọn những công việc bề ngoài, chúng ta biết tìm dịp chiêm ngưỡng những gì mà Chúa đang muốn thực hiện cho chúng ta.

Quả vậy, khi Ðavít suy tính sắp sửa xây cất cho Chúa một đền thờ xứng đáng, Người đã sai tiên tri Nathan đến thưa nhà vua rằng: Chính Người sẽ xây cho nhà vua một nhà, một họ, một dòng tộc để tồn tại muôn đời. Hôm nay Chúa cũng muốn bảo chúng ta, những người đang làm hang đá, dọn máng cỏ cho Chúa rằng: chúng ta hãy chú ý đến những gì mà Chúa đang muốn thực hiện cho ta. Ngài sai sứ thần Gabriel đến báo tin cho Maria biết: Ngôi Lời muốn trở thành nhục thể, Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Ðó là sứ điệp của Chúa nhật hôm nay. Sứ điệp ấy gửi đến để ta đón nhận, suy niệm rồi thực hành, để Chúa có thể đến cắm lều ở giữa chúng ta, trong thời đại này, trên quê hương Việt Nam đang hình thành một nếp sống mới.

Trước hết chúng ta hãy đón nhận Tin Mừng: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Dĩ nhiên Người không còn đầu thai nữa như xưa kia ở trong lòng Trinh nữ Maria. Nhưng Người vẫn còn muốn đầu thai cách mầu nhiệm trong bí tích bàn thờ này, để được đầu thai trong tâm hồn chúng ta qua việc rước lễ, để đầu thai nữa trong nếp sống hằng ngày của chúng ta, hầu ai thấy đời sống tốt đẹp của chúng ta, cũng nhận ra vinh quang của Chúa mà ca tụng Ngài. Mầu nhiệm đầu thai qua bí tích Thánh Thể ấy không cần phải quảng diễn thêm.

Nhưng còn một cách nữa Chúa vẫn dùng để đầu thai nơi ta giữa thời buổi này, chính là Lời Chúa khi đến với ta trong sức mạnh của Thánh Thần. Lời Chúa mà ta nghe và đọc trong Thánh Kinh có thể trổ sinh trong lòng ta một cuộc sống mới, thánh thiện và tốt đẹp. Ta sẽ trở thành con cái Chúa một cách trung thực hơn và dần dần dòng dõi những người con Chúa trở thành một thực tại có thể cảm nghiệm được. Ngay đến mọi biến cố xảy ra hàng ngày cũng có thể mang theo nhiều ân sủng, khiến ai đón nhận như thánh ý Chúa, sẽ làm cho Nước Người được lan rộng; và như vậy Thiên Chúa lại như nhập thể ở giữa chúng ta.

Do đó thật là chủ bại khi nghĩ rằng thế giới càng ngày xấu đi; đời sống chẳng còn nghĩa lý gì nữa; và nói đến tương lai mà làm gì! Nhưng người có đức tin không thể nghĩ như thế. Tinh thần mùa Vọng nhắc nhở: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Ngài muốn đời sống con người thật đáng sống. Và vì Thiên Chúa đã đầu thai trong lòng một Trinh nữ bình dân, nơi một điểm nhỏ bé trên bản đồ thế giới, đang buổi suy yếu của dân tộc Dothái, chúng ta càng có quyền hy vọng tràn trề khi hoàn cảnh chung quanh dường như không đáng lạc quan. Chính nơi Thập giá đã có ơn cứu độ chúng ta. Chính máu chảy ra ở trên đó đã rửa sạch ta để ta trở nên con cái Chúa. Như vậy, có gì phải bi quan? Tất cả, ngược lại, như đang có thể kéo ơn cứu độ xuống. Và ở bất cứ hoàn cảnh nào, ơn Chúa nhập thể vẫn có thể đến để phục hồi tất cả.

Chúng ta chỉ cần noi gương một Ðavít và một Maria. Ðavít đã biết quên mình để nghĩ đến Chúa. Maria cũng đã tự xưng là nữ tì để thi hành hết mọi ý định của Ðấng mình tôn thờ. Chúng ta nhiều khi không sống như vậy. Chúng ta nghĩ đến mình quá nhiều, nghĩ đến sự sống của bản thân, và không quan tâm đến Nước Chúa và đến tương lai của dân tộc dủ. Chúng ta tìm sự sống mình, như lời Phúc Âm nói. Nhưng cũng như Phúc Âm đã nói tiếp: chúng ta sẽ mất sự sống ấy. Còn ai tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính trước, sẽ được ban cho tất cả sau. Làm sao tương lai có thể đẹp được, khi ai ai cũng chỉ biết nghĩ đến cá nhân của mình? Ngược lại khi người ta nghĩ đến công ích, làm việc cho công bình bác ái ngự trị, thì những khó khăn hiện tại sẽ khắc phục được dễ dàng. Ðavít đã không nghĩ đến mình, Ðức Maria cũng thế. Nên Thiên Chúa đã tìm được người cộng tác để thực hiện công trình của Người, ở trần gian, là chính Người sẽ nhập thể để mang hạnh phúc đến cho loài người.

Thế thì hôm nay và những ngày sắp tới, đang khi hân hoan sửa soạn mừng lễ Giáng sinh, chúng ta cần nhất phải mở rộng tâm hồn để đón nhận hồng ân của Chúa đang đến với chúng ta. Ngài dùng Lời Thánh Kinh và Bánh Thánh Thể để đi vào trong tâm hồn ta, biến ta nên con người muốn sống như Chúa; và như vậy Ngài đang muốn nhập thể tiếp nối cuộc đời của Ngài ở nơi ta. Ngài dùng mọi biến cố xảy đến hằng ngày, kêu gọi ta đón nhận như Thánh ý Ngài gửi đến, để ta hợp tác thi hành trong tinh thần xã hội Kitô giáo, hầu ơn Ngài có thể tràn lan trong thế gian, khiến Chúa ở trong mọi sự và mầu nhiệm nhập thể được kiện toàn. Ðiều cần hơn hết là chúng ta luôn phải tin vững vàng rằng: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Người muốn sống giữa trần gian. Ngài kêu gọi ta nhìn vào cuộc sống và muốn nhập thể với Ngài. Chúng ta có sẵn sàng đem tinh thần Phúc Âm vào thế giới để đáp lại Lời mời gọi đó không?

Nguyện chúc tất cả anh em được như vua Ðavít và Ðức Maria: sẵn sàng trở thành cộng sự viên của mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể vì yêu thương trần gian.

 

Ðức Mẹ Mùa Vọng

Chúng ta còn lạ gì: mục đích của mùa Vọng không phải chỉ là để đi đến Mầu nhiệm Giáng sinh vì Chúa Cứu thế đã giáng sinh rồi không còn phải trông đợi theo kiểu dân Dothái ngày trước nữa. Nhưng mùa Vọng vẫn lấy lễ Giáng sinh làm một điểm tựa chắc chắn để lao mình về đàng xa, về ngày Chúa quang lâm tái giáng. Mùa Vọng nhìn vào mầu nhiệm Chúa Giáng sinh để chắc chắn về mầu nhiệm Chúa sẽ đến và mùa Vọng gợi lại thời gian trông đợi ngày trước để kiện toàn tinh thần trông đợi ngày nay. Nói vắn tắt, mùa Vọng muốn hiện đại hóa thời gian Cựu Ước để hoàn tất thời kỳ Tân Ước. Trong mùa này, chúng ta được mời gọi kết thúc lịch sử để đưa nó sang đời sau. Vinh dự cho chúng ta biết bao được cộng tác vào công cuộc vĩ đại và đẹp đẽ này.

Và cũng như Cựu Ước ngày trước đã được kết thúc một cách tuyệt diệu nơi con người Ðức Maria, trong mùa Vọng phụng vụ này Giáo hội cũng mời gọi ta chiêm ngưỡng Người như là khuôn mẫu phải đi tới. Người thật là bông hoa của Cựu Ước. Những cái tinh túy nhất của Cựu Ước đã đúc nặn nên Người. Ở nơi Người, ta có thể gặp lại tất cả lòng tin sâu xa của Abraham, lòng cậy của tất cả Ngôn sứ, lòng mến của tác giả các thánh vịnh. Thiên Chúa đã phải khôn ngoan nhẫn nhục dẫn đưa lịch sử dân Người và lịch sử thế giới để tạo nên được một con người như thể để Ngôi Hai Thiên Chúa có thể giáng trần.

Nếu quả thật trong bao ngàn năm lịch sử, "vạn phương khát vọng từ vân vũ hóa nhi" thì phải đợi đến khi Maria xuất hiện, người ta mới thấy "nhất phiến cổ hoài tịnh thổ sản phúc quả", nghĩa là mới tìm ra được một mảnh đất thanh sạch đón nhận đám mây từ nhân mưa Ðấng công chính xuống. Ðức Maria vì thế trở thành lý tưởng mà Giáo Hội và chúng ta phải đạt tới để chuẩn bị ngày Chúa trở lại.

Nhưng một lý tưởng bao giờ cũng phong phú có rất nhiều khía cạnh thâm thúy và sâu xa, không ai có thể nói lên được tất cả, huống nữa là nói lên trong một lúc. Tuy nhiên, mỗi lần nói, người ta vẫn ước vọng có thể khơi lên ở nơi người nghe một cảm tình mộ mến dẫn sang một thích thú muốn tìm hiểu thêm. Và đó là tham vọng của phụng vụ trong mùa này khi gợi lên cho chúng ta thấy một vài nét trong cuộc đời của Ðức Mẹ.

Chúng ta đừng thấy lễ Vô Nhiễm là lễ Ðức Mẹlà lễ Ðức Mẹ lớn nhất trong mùa này mà vội tưởng đó là hình ảnh Ðức Mẹ phải tập trung mọi cái nhìn suy niệm của ta. Không, mùa Vọng không đặt ra lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm. Lễ này cũng đã được đặt ra phải vì mùa Vọng. Giáo hội La Mã vẫn có óc lịch sử và pháp luật, thấy rằng đã tưởng niệm cuộc đời của Chúa trong các mầu nhiệm nào thì cũng phải nên tưởng niệm cuộc đời Ðức Mẹ trong các mầu nhiệm ấy; đã mừng việc Chúa đản sinh và đầu thai, thì cũng nên mừng sinh nhật và đầu thai của Mẹ. Và hai sự kiện mầu nhiệm phải cách nhau 9 tháng. Lễ sinh nhật Mẹ đã được đặt vào ngày 8 tháng 9 rồi, thì lễ Người đầu thai vô nhiễm phải đưa lên 9 tháng trước tức là phải mừng vào ngày 8 tháng 12.

Các nhà làm lịch lễ dường như không để ý đến mùa Vọng khi đặt ra lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm, nhưng đặt rồi họ mới thấy đây là một sự trùng hợp có ý nghĩa. Có lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm, mùa Vọng Kitô giáo trở thành hân hoan chắc chắn, khác với mùa Vọng của Dothái ngày xưa. Thuở trước, các linh hồn thánh thiện vẫn chờ mong ngày thực hiện lời của Thiên Chúa tình yêu trong vườn địa đàng: một người nữ sẽ sinh ra một dòng dõi đạp dập đầu con rắn. Người nữ ấy là ai? Bao giờ Người xuất hiện để cho chúng tôi được nhìn thấy ơn cứu độ? Các thế hệ Cựu Ước dường như lúc nào cũng hỏi nhau câu ấy. Có lần, đàn thiếu nữ Sion tưởng đã có thể nhảy múa hân hoan vì kìa bà Yuđích cắt đầu địch thủ đang trở về. Lần khác họ lại tưởng Esther trong vai trò cứu nguy dân tộc sẽ là người nữ cần trông đợi... Nhưng rồi họ vẫn phải chờ, chờ mãi... Mùa Vọng của họ dường như thiếu bảo chứng.

Nhưng nay, lễ Ðức Mẹ hiện lên bầu trời mùa Vọng Kitô giáo, sự trông chờ của chúng ta đã có bảo đảm rõ rệt. Vì thế chúng ta có thể hân hoan chắc chắn. Người nữ vô tì ố đã xuất hiện thì ơn cứu độ cũng đã đến. Chúng ta chưa được nhìn thấy Chúa Cứu Thế, nhưng việc Người đến không còn hồ nghi được nữa. Maria thật là vì Sao Mai mọc trước Mặt Trời. Mùa Vọng Kitô giáo chắc chắn và hân hoan làm sao!

Nhưng ta vẫn phải nói, lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm đã không được đặt ra vì mùa Vọng; mùa Vọng sung sướng đón nhận lễ này nhưng lễ này không phải là mục tiêu mà mùa Vọng muốn tập trung những cái nhìn suy niệm của toàn dân Chúa hướng vào. Phụng vụ Giáo hội muốn cho chúng ta có một cái nhìn rộng rãi hơn về địa vị của Ðức Maria trong bầu khí mùa Vọng. Ngay từ đầu, phụng vụ mùa Vọng của Giáo hội đã muốn cho hình ảnh của Người chan hòa khắp trong nếp sống chờ mong của toàn dân Thiên Chúa. Giáo hội chỉ chờ mong với Người và bằng cách nhìn vào Người. Nói cách khác, hình ảnh Ðức Maria không phải chỉ chiếm một ngày trong mùa Vọng, nhưng hằng ngày trong suốt mùa phụng vụ này, Giáo hội phải sống với Ðức Maria, phải nhìn ngắm Người và trông đợi với Người.

Kể ra làm gì những bản kinh phụng vụ mùa Vọng gián tiếp hoặc trực tiếp nói về Ðức Maria; các bản văn ấy bây giờ đổi theo hằng năm. Nhưng cứ bỏ các kinh ấy đi mà xem, mùa Vọng phụng vụ sẽ không còn nữa. Ðiều đó chứng tỏ hình ảnh Ðức Mẹ thật đã được gắn liền với mùa Vọng. Chúng ta sẽ có lợi hơn nếu để giờ tìm hiểu vì sao Ðức Trinh Nữ Mẹ chúng ta lại thiết yếu cho tinh thần mùa Vọng như thế, vì như vậy, chúng ta mới biết được thâm ý của phụng vụ, hầu mới biết sống được cái cốt yếu.

Tinh thần mùa Vọng như chúng ta biết nhắm thẳng về đàng trước, chờ đón mầu nhiệm Chúa trở lại. Tinh thần đó không thụ động, mặc cho ai muốn làm mưa làm gió ở trần gian này. Trái lại, đó là tinh thần của các ngôn sứ ngày xưa không thể ngồi yên khi thấy các bất công xã hội và thấy các liên minh chính trị bàn truyện thế giới như thể không còn có một sức mạnh vô hình nào bá chủ hoàn vũ. Giáo hội biết trong giai đoạn lịch sử này những người con Chúa phải tỉnh thức, phải giũ bỏ cuộc đời đen tối và bước đi trong ánh sáng để càng ngày càng đi tới thời đại huy hoàng của Ðức Kitô. Thế mà Giáo hội biết không mẫu người nào đã chuẩn bị ngày Chúa đến viếng thăm một cách đắc lực như Trinh nữ Maria. Kể cả các ngôn sứ. Họ còn là những người trỏ tay vào Maria để chờ đón ngày Người xuất hiện. Hơn nữa Giáo hội còn biết rõ Ðức Maria không phải chỉ là gương mẫu chờ đợi và chuẩn bị trong quá khứ, Người đang còn chờ đợi và chuẩn bị với chúng ta với tư cách là Ðấng Ðồng Công Cứu Chuộc. Chỉ có những thứ thần học nông cạn mới không biết đến điều đó; mới nghĩ rằng Ðức Kitô đã chấm dứt mọi hoạt động của Người khi trút hơi trên Núi Sọ và mới quyết rằng Ðức Mẹ đồng trinh của Người cũng chỉ đồng công cứu chuộc đến có khi ấy. Ngược lại, những thứ thần học chân chính đều thấy việc Ðức Kitô tắt thở trên Núi Sọ chỉ là giai đoạn Ngài phải vượt qua để có thể hoạt động hữu hiệu hơn ở ngoài những ràng buộc của không gian và thời gian; Ngài phải từ bỏ xác thịt yếu đuối để hoạt động mạnh mẽ bằng Thánh Thần Ngài sẽ tuôn đổ xuống trên Giáo hội; vì Thánh Thần tuôn đổ này chính là Thần Linh của Ngài. Những thứ thần học sâu xa đó cũng nhận thấy ngay, lúc đứng ở chân Núi Sọ, Ðức Maria không những chưa chấm dứt vai trò đồng công cứu chuộc của Người, nhưng ngược lại, chính khi đó, Người mới bắt đầu trở nên Mẹ của Yoan, tức là của Giáo hội. Chính vì vậy mà tác giả sách Công vụ các Tông đồ cho ta thấy Giáo hội ngay từ thuở sơ khai đã cầu nguyện và sinh hoạt với Ðức Maria, Mẹ Chúa Yêsu.

Chúng ta muốn nhìn thấy các hoạt động cụ thể của Ðức Mẹ ư? Sao chúng ta không muốn biết như thế về hoạt động của Ðức Kitô hiện nay ở trong Giáo hội. Cả hai Ngài vẫn nội tại với đời sống hiện nay của thế giới, nhưng không hiện diện như thân thể chúng ta đang sống. Theo tục ngữ Việt Nam có thể bảo: người ta hiện nay sống thì khôn, còn các Ngài hiện nay đã thác thì thiêng. Khôn thì ở một bình diện, còn thiêng lại ở bình diện cao hơn và cao hẳn. Không phải những trí óc khôn ngoan đang dẫn đưa lịch sử của thế giới này, nhưng chính là những bậc thiêng liêng huyền bí. Không phải chúng ta đang xếp đặt thời gian sẽ đến nhưng chính Ðức Kitô, chính vị đồng công cứu chuộc với Ngài đang âm thầm nhưng mạnh mẽ hành động qua chúng ta và muốn chúng ta cộng tác vào, vì cũng như ngày trước, đất có sẵn thì mây trời mới mưa Ðấng công chính xuống.

Muốn biết chúng ta phải cộng tác chuẩn bị bằng cách nào sao? Phụng vụ mùa Vọng bảo chúng ta nhìn vào Ðức Mẹ. Thánh Yoan trong sách Khải huyền cũng mơ thấy Giáo hội sau này trở thành người hôn thê kiều diễm, tức là người trinh nữ vẹn sạch mà dung nhan Ðức Mẹ thể hiện ở trước mặt chúng ta. Trên khuôn mặt khả ái đó, Thiên Chúa đã để lại những nét luôn luôn hấp dẫn tình yêu thương vô bờ bến của Ngài, mà Ngài muốn cho Giáo hội có trên nếp sống của mình. Một đôi mắt trong sạch không bao giờ dừng lại trên những gì dơ bẩn; một đôi môi dịu dàng chỉ có sẵn những lời êm ái; một dáng điệu tùng phục sâu xa tất cả những gì là của Chúa; một sự lanh lẹ không quản gian lao để đi cứu với Người... Mầu nhiệm dâng mình, mầu nhiệm đồng trinh, mầu nhiệm vâng theo ý Chúa, mầu nhiệm yên lặng trước nỗi nghi ngờ chính đáng của Yuse, mầu nhiệm đi thăm bà Elisabeth và nhất là mầu nhiệm kết hợp tận tụy và âm thầm làm tất cả những gì cần thiết để chờ đón Chúa: đó là những nét đã được ghi sâu trong cuộc đời, nên dung nhan của Ðức Mẹ và mùa Vọng phụng vụ ước mong chúng ta chiêm ngưỡng và bắt chước.

Chúng ta cũng chỉ là những con người đang có một nếp sống âm thầm với những phận sự nhỏ nhặt, nhưng tất cả những sự âm thầm nhỏ nhặt ấy lại là những yếu tố mà Thần Linh hiện nay đang muốn dùng để xây dựng Nước Trời, để chuẩn bị việc Chúa Kitô tái giáng. Thật là tuyệt diệu nếu chúng ta cũng biết sống và làm những công việc ấy như Trinh nữ Maria, với cái nhìn trong sạch, với các nụ cười hiền dịu, với các lời lẽ từ tốn, với lòng nhiệt thành không sợ gian nan... như dung nhan của Người đang cho chúng ta thấy. Cuộc đời của chúng ta sẽ nên như cuộc sống của Người và khuôn mặt của Giáo hội sẽ đang vẽ lại dung nhan Ðức Mẹ mùa Vọng.

 

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa

của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)