Trang

Thứ Hai, 31 tháng 12, 2018

Tính Đồng Nghị trong Đời Sống và Sứ Mệnh của Giáo Hội, chương 1, 1.3


Tính Đồng Nghị trong Đời Sống và Sứ Mệnh của Giáo Hội, chương 1, 1.3
Vũ Văn An
30/Dec/2018

1.3 Sự phát triển của thủ tục công nghị trong thiên niên kỷ thứ hai

31. Kể từ khi bắt đầu Thiên niên kỷ thứ hai, thủ tục công nghị dần dần đã mang nhiều hình thức khác nhau ở phương Đông và phương Tây, đặc biệt sau sự sụp đổ hiệp thông giữa Giáo hội Constantinople và Giáo hội Rôma (thế kỷ 11) và khi các lãnh thổ giáo hội thuộc các Tòa Thượng phụ Alexandria, Antiôkia và Giêrusalem bị đặt dưới sự kiểm soát chính trị của Hồi giáo.

Trong các Giáo hội phương Đông, thủ tục công nghị tiếp tục theo truyền thống của các Giáo Phụ, đặc biệt ở bình diện các công nghị thượng phụ và giáo đô, nhưng cũng có những công nghị đặc biệt, trong đó các Thượng phụ và tổng giám mục giáo đô tham gia. Tại Constantinople, sinh hoạt của một công nghị thường trực (Σύνοδος ένδημούσα) đã được thiết lập mạnh mẽ hơn; nó cũng đã được nổi tiếng từ thế kỷ thứ tư ở Alexandria và Antiôkia, với các công nghị thường xuyên để xem xét các vấn đề phụng vụ, giáo luật và thực tiễn dưới các hình thức khác nhau trong thời kỳ Byzantine và, sau năm 1454, trong thời kỳ Ottoman. Ngày nay, các công nghị thường trực vẫn tồn tại trong các Giáo Hội Chính Thống.


32. Trong Giáo Hội Công Giáo, cuộc cải cách của Đức Grêgôriô và cuộc đấu tranh cho quyền tự do của Giáo Hội đã góp phần vào việc khẳng định thẩm quyền của Đức Giáo Hoàng như một giáo chủ (primate). Một mặt, điều này giải thoát các Giám mục khỏi lệ thuộc Hoàng đế nhưng, mặt khác, nếu không được hiểu rõ, nó có nguy cơ làm suy yếu căn tính của các Giáo hội địa phương.

Kể từ thế kỷ thứ 5, Công Nghị Rôma đã vận hành như một Hội đồng của Giám Mục Rôma, được sự tham dự không những của các Giám mục của giáo tỉnh Rôma mà còn của các Giám mục có mặt tại Rôma khi nó diễn ra, cũng như các linh mục và phó tế, và điều này đã trở thành mô hình cho các công đồng thời Trung Cổ. Đức Giáo Hoàng hoặc Vị Đại Diện của ngài chủ tọa những công nghị này, nhưng chúng không phải là những hội đồng chỉ liên quan đến các Giám Mục và các giáo sĩ; chúng cũng là một biểu thức của thế giới Kitô giáo phương Tây, một thế giới không chỉ liên quan đến các nhà chức trách giáo hội (Giám mục, đan viện trưởng và Bề trên các Dòng Tu) trong các vai trò khác nhau của họ, mà còn liên quan đến cả các nhà cầm quyền dân sự (các đại diện của Hoàng đế hoặc của các vị vua và các viên chức cao cấp), cũng như các chuyên gia thần học và giáo luật (periti).

33. Ở bình diện các Giáo hội địa phương, phần nào tiếp tục thủ tục đồng nghị bao quát được thi hành trong Đế quốc Rôma ở phương Tây do Charlemagne du nhập, các công nghị đã mất đi đặc tính thuần giáo hội của nó và tiếp nhận hình thức công nghị hoàng gia hoặc quốc gia, trong đó, các giám mục tham dự dưới sự chủ tọa của nhà vua.

Trong suốt thời Trung cổ, đã có những điển hình hồi sinh thủ tục đồng nghị theo nghĩa rộng rãi nhất của thuật ngữ. Các đan sĩ của Cluny là một điển hình. Các kinh sĩ nhà thờ chính tòa đã giúp giữ cho các thủ tục đồng nghị sống còn, cũng như các cộng đồng mới của đời sống tu trì, đặc biệt là các Dòng Khất Sĩ [34].

34. Vào cuối thời Trung Cổ, một tình huống độc đáo đã xuất hiện trong Cuộc Đại Ly Giáo ở phương Tây (1378-1417), khi, một lúc, có đến hai, và sau đó, ba người giành danh hiệu Giáo Hoàng. Công đồng Konstanz (1414-1418) giải quyết vấn đề phức tạp này bằng cách áp dụng giáo luật khẩn cấp được dự liệu trong tư duy giáo luật thời trung cổ, và tiếp tục bầu vị Giáo Hoàng hợp pháp. Tuy nhiên, trong tình huống này, ý niệm duy công đồng (conciliarist) đã được khai triển, với mục tiêu áp đặt một công đồng thường trực lên và vượt trên thẩm quyền tối cao của vị Giáo hoàng.

Các biện minh thần học và ứng dụng thực tế của thuyết duy công đồng bị đánh giá là không phù hợp với Thánh truyền. Tuy nhiên, nó để lại một bài học cho lịch sử Giáo Hội: luôn có nguy cơ ly giáo nằm chờ mà ta không nên làm ngơ, và việc cải cách Giáo Hội liên tục, cả nơi đầu lẫn các chi thể (in capite et membris), không thể diễn ra nếu không sử dụng đúng đắn thủ tục đồng nghị vốn có theo Thánh Truyền và lưu ý tới thẩm quyền tối thượng của vị Giáo hoàng, lấy nó làm bảo đảm cho mình.


35. Một thế kỷ sau, khi đáp ứng cuộc khủng hoảng gây ra bởi Phong Trào Cải Cách Thệ Phản, Giáo Hội Công Giáo đã tổ chức Công đồng Trent. Đây là Công đồng đầu tiên trong thời cận đại với những đặc điểm nhất định: nó không còn là một Công đồng của Thế Giới Kitô Giáo như trong thời Trung cổ; các tham dự viên là các Giám mục cũng như các bề trên của các Dòng Tu và Cộng Đồng Đan Sĩ, trong khi các đại diện của các Ông Hoàng tham dự nhưng không có quyền bỏ phiếu.

Công đồng thiết lập qui định dạy rằng các công nghị giáo phận nên diễn ra hàng năm, các công nghị giáo tỉnh cứ ba năm một lần, như một cách để chuyển tải động lực cải cách của Công Đồng Trent đến toàn thể Giáo Hội. Điển hình và mô hình thuộc loại này phải được tìm thấy nơi điều Thánh Charles Borromeo đã làm khi làm Tổng giám mục Milan. Trong thừa tác vụ lâu dài của mình, ngài đã triệu tập năm công nghị giáo tỉnh và mười một công nghị giáo phận. Ở Mỹ, Thánh Turibius của Mogrovejo đã thực hiện một điều tương tự: ngài đã triệu tập ba công nghị giáo tỉnh và mười ba công nghị giáo phận. Cũng có ba công nghị giáo tỉnh ở Mễ Tây Cơ trong cùng thế kỷ.

Để phù hợp với văn hóa của thời đại, các công nghị giáo phận và giáo tỉnh được cử hành theo Công đồng Trent không nhằm có sự tham gia tích cực của toàn thể dân Chúa – tức congregatio fidelium (cộng đoàn các tín hữu) - nhưng để truyền lại và ban hành các qui định và định hướng của Công đồng. Phản ứng có tính cách hộ giáo đối với lời phê phán của Phong Trào Cải Cách Thệ Phản về thẩm quyền giáo hội và đối với các phản ứng tương tự của một số trường phái tư tưởng cận đại đã nhấn mạnh thêm tầm nhìn theo phẩm trật học (hierarchological) về Giáo hội, coi Giáo Hội như societas perfecta et inaequalium (một xã hội hoàn hảo và của những người bất bình đẳng), đến chỗ quan niệm các Giám mục, và trên các ngài, Đức Giáo Hoàng, như Ecclesia docens (Giáo Hội giảng dạy) còn phần còn lại của dân Chúa như Ecclesia discens (Giáo Hội học hỏi).

36. Các cộng đồng giáo hội phát sinh từ Phong Trào Cải Cách Thệ Phản cổ vũ một cách tiếp cận có tính đồng nghị nào đó, trong bối cảnh một giáo hội học và một tín lý và thực hành có tính bí tích và thừa tác vụ đi trệch ra ngoài Truyền thống Công Giáo.

Việc cai quản cộng đồng giáo hội có tính đồng nghị, trong đó, một số tín hữu nhất định tham gia bởi chức tư tế chung nhờ phép rửa, được coi như cơ cấu phù hợp nhất với đời sống của cộng đồng Kitô hữu theo tín phái Luthêrô. Mọi tín hữu được kêu gọi dự phần vào việc bầu cử các thừa tác viên và bảo đảm sự trung thành với giáo huấn của Tin Mừng và trật tự giáo hội. Đặc quyền này thường được thực thi bởi các nhà cầm quyền dân sự, điều, trong quá khứ, đã dẫn đến một chế độ có liên hệ mật thiết với Nhà Nước.

Các cộng đồng giáo hội của truyền thống cải cách có học thuyết của Jean Calvin về bốn thừa tác vụ (mục tử, thầy dạy, các linh mục và các phó tế), theo đó linh mục đại diện cho phẩm giá và quyền hạn được ban cho mọi tín hữu nhờ phép rửa. Các linh mục, cùng với các mục tử, do đó, chịu trách nhiệm cho cộng đồng địa phương, trong khi thủ tục đồng nghị dự ứng sự hiện diện của các thầy dạy và các thừa tác viên khác trong cộng đồng, mà phần lớn là tín hữu giáo dân.

Các công nghị luôn là một phần trong đời sống của hiệp thông Anh giáo ở mọi bình diện - địa phương, quốc gia và quốc tế. Biểu thức theo đó hiệp thông được cai quản theo phương thức đồng nghị, nhưng được lãnh đạo theo phương thức giám mục không đơn giản nhằm cho thấy sự phân chia giữa quyền lập pháp (thuộc về các công nghị, trong đó mọi thành phần dân Chúa đều tham gia) và quyền hành pháp (chuyên biệt của các Giám mục), mà là sự hiệp lực giữa đặc sủng và thẩm quyền bản vị của vị Giám mục, một mặt, và mặt khác, ơn Chúa Thánh Thần tuôn đổ trên khắp cộng đồng.

37. Công đồng Vatican I (1869-1870) chấp nhận tín lý về tính ưu việt và vô ngộ của Đức Giáo Hoàng. Tính ưu việt của vị Giám mục Rôma, người mà đối với ngài “nơi đấng diễm phúc Phêrô, nguyên tắc và nền tảng vĩnh viễn và hữu hình của sự hợp nhất đức tin và hiệp thông đã được thiết lập", đã được Công đồng trình bày như một thừa tác vụ được thiết lập để bảo đảm sự thống nhất và bất khả phân chia của hàng giám mục trong việc phục vụ đức tin của dân Chúa [35]. Công thức theo đó các định tín ex cathedra (từ ngai tòa) của Đức Giáo Hoàng không thể bị thay đổi "tự chính chúng chứ không nhờ sự đồng thuận của Giáo Hội" [36] "không làm cho consensus Ecclesiae (sự đồng thuận của Giáo Hội) ra dư thừa" nhưng khẳng định việc thực thi thẩm quyền thuộc về Đức Giáo Hoàng do chính thừa tác vụ chuyên biệt của ngài [37]. Điều này được phát sinh nhờ việc tham khảo toàn thể dân Chúa qua các vị giám mục, một điều mà Đức Piô IX đã mong muốn khi định nghĩa tín điều Vô nhiễm Thai [38], cũng là phương thức của Đức Piô XII trong việc định nghĩa tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời [39].

38. Sự cần thiết phải tái khởi động một cách thích đáng và nhất quán thực hành đồng nghị trong Giáo Hội Công Giáo đã trở nên rõ ràng ngay từ thế kỷ XIX, nhờ các nhà văn tiên tri như Johann Adam Möhler (1796-1838), Antonio Rosmini (1797-1855) và John Henry Newman (1801-1890), những người đã trở về các nguồn quy phạm của Thánh Kinh và Thánh Truyền, báo trước cuộc canh tân đầy tính quan phòng cùng xuất hiện với các phong trào kinh thánh, phụng vụ và giáo phụ. Họ nhấn mạnh rằng một trong các yếu tố hàng đầu và căn bản trong đời sống Giáo Hội là chiều kích hiệp thông, một chiều kích vốn ngụ ý thực hành đồng nghị theo trật tự ở mọi bình diện, bằng cách dành tầm quan trọng phải có cho sensus fidei fidelium (cảm thức đức tin của các tín hữu), vốn có liên hệ nội tại với thừa tác vụ chuyên biệt của các Giám mục và Đức Giáo Hoàng. Sự xuất hiện của bầu khí mới trong các liên hệ đại kết với các Giáo hội và cộng đồng giáo hội khác, và việc biện phân cẩn thận hơn các đòi hỏi cao độ của ý thức hiện đại liên quan đến sự tham gia của mọi công dân vào việc quản trị xã hội, kêu gọi phải có một trải nghiệm và trình bầy mới mẻ và sâu sắc hơn về Giáo Hội như một thực thể có tính đồng nghị từ trong bản chất.


9. Không nên quên rằng, từ nửa sau của thế kỷ XIX trở đi, một định chế mới đã thành hiện thực và có một ý nghĩa nhất định: các hội đồng giám mục rất có thể không có một khuôn mạo giáo luật chính xác, nhưng, như một cuộc tập hợp các Giám mục của một quốc gia đơn nhất, các ngài là dấu chỉ việc tái khám phá ra lối giải thích có tính hợp đoàn về việc thực hành thừa tác vụ giám mục trong một lãnh thổ chuyên biệt và tùy theo các hoàn cảnh địa chính trị đang thay đổi. Trong cùng một tinh thần đó, ngay trước thềm thế kỷ XX, Đức Lêô XIII đã triệu tập một Công đồng toàn thể Châu Mỹ Latinh, tập hợp các giám mục giáo đô của các giáo tỉnh ở lục địa (1899). Về mặt thần học và kinh nghiệm giáo hội học, đã có một ý thức ngày càng tăng là “Giáo Hội không đồng nhất với các mục tử của mình; toàn thể Giáo Hội, nhờ hành động của Chúa Thánh Thần, là chủ thể hoặc 'cơ quan' của Thánh Truyền; và người giáo dân có vai trò tích cực trong việc chuyển giao đức tin tông truyền "[40].

40. Công đồng chung Vatican II nối tiếp đường hướng của Vatican I và biến nó thành một phần của chương trình aggiornamento (cập nhật hóa), bằng cách lưu ý tới các thành quả của những năm ở giữa và lồng chúng vào một tổng hợp phong phú dưới ánh sáng Thánh Truyền.

Hiến chế tín lý Lumen Gentium đặt để một viễn kiến về bản chất và sứ vụ của Giáo Hội như hiệp thông, với các giả định thần học phải tái khởi động tính đồng nghị một cách thích đáng: quan niệm có tính huyền nhiệm và bí tích về Giáo Hội; bản chất của Giáo Hội như Dân Thiên Chúa đang lữ hành qua lịch sử hướng về quê hương thiên đàng, trong đó mọi chi thể Giáo Hội đều nhờ phép rửa mà được tôn vinh với cùng một phẩm giá như nhau, như con cái của Thiên Chúa, và được đề cử vào cùng một sứ mệnh; tín lý về tính bí tích của hàng giám mục và tính hợp đoàn trong hiệp thông phẩm trật với Giám mục Rôma.

Sắc lệnh Christus Dominus nhấn mạnh rằng Giáo hội địa phương là một chủ thể, và khuyến khích các Giám mục thực thi việc chăm sóc mục vụ của Giáo hội được giao phó cho các ngài trong hiệp thông với hàng linh mục của các ngài, bằng cách lợi dụng sự giúp đỡ của một viện trên (senate) hoặc một hội đồng linh mục chuyên biệt và đưa ra lời kêu gọi thiết lập ra một Hội đồng mục vụ trong mọi Giáo Phận, trong đó, nên có sự tham dự của các linh mục, tu sĩ và giáo dân. Sắc lệnh cũng bày tỏ lòng mong muốn rằng, ở bình diện hiệp thông giữa các Giáo hội trong một khu vực, định chế đáng kính là các công nghị và các công đồng nên được tái lên sinh lực, và mời gọi sự cổ vũ của các hội đồng giám mục. Trong Sắc Lệnh Orientalium Ecclesiarum (Các Giáo Hội Đông Phương), định chế tòa thượng phụ và hình thức công nghị của nó được đề xuất cho các Giáo Hội Công Giáo phương Đông.

41. Về việc tái lên sinh lực cho thực hành đồng nghị ở bình diện Giáo Hội hoàn vũ, Chân Phúc (nay là Thánh) Phaolô VI đã thiết lập Thượng Hội Đồng Giám Mục. Đây là một "Công đồng Giám mục thường trực cho Giáo hội hoàn cầu", lệ thuộc một cách trực tiếp và cận kề vào quyền bính của Giáo hoàng, "qua việc cung cấp thông tin và tư vấn", nhưng "cũng có thể hưởng được quyền đưa ra quyết định khi quyền này được Giám Mục Rôma trao ban"[41]. Định chế này nhằm tiếp tục mở rộng cho dân Chúa các phúc lợi của hiệp thông sống trong thời Công đồng.


Thánh Gioan Phaolô II, nhân dịp Năm Thánh 2000, đã đưa ra một đánh giá về con đường đã đi qua để nhập thể - luôn phù hợp với giáo huấn của Vatican II - chính yếu tính của mầu nhiệm Giáo Hội qua nhiều cơ cấu hiệp thông. Ngài nhấn mạnh rằng phần lớn đã được thực hiện "nhưng chắc chắn vẫn còn nhiều việc phải làm, để nhận ra mọi tiềm năng của các công cụ hiệp thông này... (và) để đáp ứng nhanh chóng và hữu hiệu các vấn đề mà Giáo Hội phải đương đầu trong những thời đang thay đổi nhanh chóng này" [42].

Trong hơn 50 năm đã trôi qua kể từ Công đồng mới đây cho đến nay, ý thức về Giáo hội như hiệp thông đã phát triển trong các thành phần rộng lớn của Dân Thiên Chúa và đã có những kinh nghiệm tích cực về tính đồng nghị ở cấp giáo phận, khu vực và hoàn vũ. Đặc biệt, đã có mười bốn phiên toàn thể thường lệ của thượng hội đồng Giám mục; kinh nghiệm và hoạt động của các Hội đồng giám mục đã phát triển; ở khắp mọi nơi, đã có những cuộc họp có tính đồng nghị. Các công nghị cũng đã thành hiện thực nhằm cổ vũ hiệp thông và hợp tác giữa các Giáo hội và Giám mục địa phương nhằm phát triển các phương thức mục vụ trên bình điện vùng và lục địa.

Kỳ sau: Chương 2: HƯỚNG TỚI MỘT NỀN THẦN HỌC VỀ TÍNH ĐỒNG NGHỊ

Tính Đồng Nghị trong Đời Sống và Sứ Mệnh của Giáo Hội, chương 1, 1.2 Vũ Văn An


Tính Đồng Nghị trong Đời Sống và Sứ Mệnh của Giáo Hội, chương 1, 1.2
Vũ Văn An
25/Dec/2018

1.2 Chứng tá của các Giáo Phụ và Thánh Truyền trong thiên niên kỷ đầu tiên

24. Kiên trì trên con đường thống nhất giữa các nơi chốn, văn hóa, tình huống và thế hệ là thách thức mà dân Chúa được kêu gọi đáp ứng Tin Mừng bằng đức tin, và gieo hạt giống Tin Mừng trong kinh nghiệm của các dân tộc khác nhau. Tính đồng nghị xuất hiện ngay từ đầu như sự đảm bảo và nhập thể của lòng trung thành của Giáo Hội đối với nguồn gốc tông đồ và ơn gọi Công Giáo của mình. Nó tự trình bầy mình dưới hình thức mà thực chất là một thực thể đơn nhất, nhưng là một thực thể dần dần khai mở - dưới ánh sáng của điều Thánh Kinh chỉ ra - trong sự phát triển sống động của Thánh Truyền. Do đó, thực thể đơn nhất này có nhiều hình thức tùy theo bối cảnh lịch sử khác nhau và trong đối thoại với nhiều nền văn hóa và tình huống xã hội khác nhau.

25. Vào đầu thế kỷ thứ hai, Thánh Inhaxiô thành Antiôkia mô tả cách hiểu có tính đồng nghị về các Giáo Hội địa phương khác nhau; các giáo hội này tự coi mình như cùng nhau thể hiện một Giáo Hội duy nhất. Trong lá thư gửi cho cộng đồng ở Êphêsô, ngài nói rằng mọi thành viên của nó đều là σύνοδοι "đồng hành trong cuộc lữ thứ", nhờ phẩm giá của phép rửa và tình bằng hữu của họ với Chúa Kitô [17]. Hơn nữa, ngài nhấn mạnh đến trật tự thần thiêng làm cho Giáo Hội trở thành một cơ thể đơn nhất [18], được mời gọi hát bài ca ngợi sự hợp nhất với Chúa Cha trong Chúa Giêsu Kitô. [19]: Linh mục đoàn là hội đồng của vị Giám mục [20] và các thành viên của cộng đồng, trong các vai trò khác nhau của họ, đều được mời gọi xây dựng nó. Cộng đồng Giáo hội được tạo lập và ở điểm rõ ràng nhất trong cộng đồng Thánh Thể, nó được chủ tọa bởi vị giám mục; cộng đồng này nuôi dưỡng xác tín và niềm hy vọng rằng vào cuối lịch sử, Thiên Chúa sẽ tập hợp trong Vương quốc của Người tất cả các cộng đồng hiện đang sống nó và cử hành nó trong đức tin [21].

Các đặc điểm phân biệt của Giáo Hội đích thực là: trung thành với giáo huấn của các Tông Đồ và việc cử hành Thánh Thể dưới sự hướng dẫn của vị Giám Mục, người kế nhiệm các Tông Đồ; thực thi thừa tác vụ có phẩm trật; tính ưu việt của sự hiệp thông trong việc phục vụ lẫn nhau để ngợi khen và vinh danh Cha, Con và Thánh Thần. Thánh Cyprianô thành Carthage, người thừa hưởng và giải thích truyền thống này vào giữa thế kỷ thứ ba, lên công thức cho nguyên tắc có tính giám mục và tính đồng nghị nhằm việc phải cai trị đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội tại địa phương và ở bình diện hoàn vũ: trong khi không có gì được thực hiện ở Giáo hội địa phương nếu không có vị Giám mục - nihil sine episcopo – thì điều cũng đúng như thế là không được làm gì nếu không có hội đồng của ngài (gồm các linh mục và phó tế) nihil sine consilio vestro - hoặc là không có sự đồng thuận của người dân - et sine consensu plebis [22] - luôn phải duy trì vững chắc quy tắc theo đó episcopatus unus est cuius a singulis in solidum pars tenetur (giám mục đoàn [episcopate] là duy nhất, trong đó mỗi thành viên có một phần không phân chia trong đó) [23].

26. Từ thế kỷ thứ tư trở đi, các giáo tỉnh được thành lập; những giáo tỉnh này đã chứng minh và cổ vũ sự hiệp thông giữa các Giáo hội địa phương và được đứng đầu bởi một giám mục giáo đô (Metropolitan). Về phương diện nghị bàn chung, có các công nghị giáo tỉnh, một phương thế chuyên biệt để thực thi tính đồng nghị của giáo hội.

Khoản Luật 6 của Công đồng Nixêa (325) đã nhìn nhận sự ưu việt (πρεσβεία) và tính tối thượng miền (regional primacy) của Tòa Rôma, Alexandria và Antiôkia [24]. Tòa Constantinople được thêm vào danh sách các tòa chính tại Công đồng Constantinople I (381): Khoản Luật 3 đã ban chức chủ tịch danh dự sau Giám mục Rôma [25], một tước hiệu được xác nhận tại Công đồng Chalcedon (451) [26] ], khi Tòa Giêrusalem được thêm vào danh sách. Ở phương Đông, chế độ pentarchy (ngũ chế) này được coi là hình thức và là bảo đảm cho việc thực thi hiệp thông và tính đồng nghị giữa năm tòa tông truyền này.

Trong khi thừa nhận vai trò của các Thượng phụ ở phương Đông, Giáo hội ở phương Tây không coi Giáo hội Rôma như là một trong các tòa thượng phụ khác, mà qui cho mình một tính ưu tối thượng chuyên biệt ở trung tâm Giáo hội hoàn cầu.

27. Khoản luật Tông đồ 34, có từ cuối thế kỷ thứ ba và nổi tiếng ở phương Đông, đã thiết định rằng bất cứ quyết định nào vượt quá năng quyền của vị Giám mục địa phương phải được một công nghị đảm nhiệm: "Các Giám mục của mỗi quốc gia (έθνος) phải nhìn nhận người thứ nhất (πρότος) trong số các ngài và coi vị này như người đứng đầu (κεφαλή) các ngài, bằng cách không làm điều gì quan trọng nếu không có sự đồng ý (γνώμη) của vị này... nhưng người thứ nhất trong số các ngài (πρότος) không nên làm điều gì nếu không có sự đồng thuận của tất cả "[27]. Hành động của một công nghị trong hòa hợp (όμονοία) được Giáo Hội đưa vào hiện hữu theo cách này là để vinh danh Đức Chúa Cha qua Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần. Vai trò của πρότος (vị thứ nhất) ở bình diện giáo tỉnh, giáo đô (và cuối cùng thượng phụ) là để triệu tập và chủ tọa Công Nghị ở bình diện thích hợp để giải quyết các vấn đề chung và ban hành các giải pháp cần thiết nhân danh thẩm quyền (έξουσία) của Chúa được các Giám mục tụ họp tại Công Nghị nói lên.

28. Mặc dù các Công Nghị được cử hành định kỳ từ thế kỷ thứ ba trở đi ở các bình diện giáo phận và giáo tỉnh xử lý các vấn đề kỷ luật, thờ phượng và tín lý phát sinh tại địa phương, vẫn có một niềm tin chắc chắn rằng các quyết định được đưa ra là một biểu thức hiệp thông với mọi Giáo Hội. Cảm thức giáo hội này cho thấy người ta ý thức rõ việc này: mỗi Giáo hội địa phương là một biểu thức của một Giáo Hội Công Giáo duy nhất; điều này rõ ràng do việc chia sẻ các lá thư của công nghị, bảng liệt kê các khoản luật của công nghị gửi đến các Giáo hội khác, các lời yêu cầu thừa nhận lẫn nhau giữa các tòa khác nhau, trao đổi các phái đoàn, một việc thường đòi hỏi các cuộc hành trình đầy mệt mỏi và nguy hiểm.

Ngay từ đầu, Giáo hội Rôma đã hưởng được một sự tôn trọng đặc biệt, nhờ sự kiện các Tông đồ Phêrô - Giám mục của Rôma được công nhận là người kế vị của ngài - và Phaolô đã tử vì đạo tại đó [28]. Đức tin tông truyền được giữ vững tại đó, thừa tác vụ thẩm quyền được thi hành bởi vị Giám mục của nó để phục vụ sự hiệp thông giữa các Giáo hội, lịch sử phong phú của nó trong việc tổ chức các công nghị: tất cả những điều này làm cho Giáo hội Rôma trở thành điểm tham chiếu cho tất cả các Giáo hội; họ tham khảo giáo hội này để giải quyết các tranh cãi [29], đến nỗi giáo hội này có chức năng như một Tòa kháng cáo [30]. Hơn nữa, ở phương Tây, Tòa Rôma đã trở thành nguyên mẫu tổ chức của các Giáo hội khác về mặt hành chính và giáo luật.

29. Năm 325, Công đồng chung đầu tiên, do Hoàng đế triệu tập, đã được cử hành tại Nixêa. Những người hiện diện bao gồm các giám mục từ các vùng khác nhau của Đông Phương và các Đại Diện của Giám mục Rôma. Lời tuyên xưng đức tin của Công đồng và các quyết định giáo luật của nó được công nhận là có giá trị quy phạm đối với toàn thể Giáo hội, bất chấp các phản ứng bất lợi, vốn xẩy ra trong những dịp khác trong suốt lịch sử. Với việc các Giám mục thực thi thừa tác vụ của họ theo tính đồng nghị, Công đồng Nixêa là biểu thức định chế đầu tiên, trên bình diện hoàn vũ, nói lên έξουσία của Chúa Phục sinh đang hướng dẫn và chỉ đạo con đường tiến lên phía trước cho Dân Thiên Chúa trong Chúa Thánh Thần. Có những kinh nghiệm tương tự trong các Công đồng kế tiếp trong Thiên niên kỷ thứ nhất; các công đồng này đã mang lại hình dạng đích thực cho bản sắc của Giáo Hội Công Giáo duy nhất. Trong các Công đồng này, có một sự minh xác dần dần thái độ cần thiết cho việc thực thi thẩm quyền của một Công đồng chung: συμφωνία (symphōnía) của những vị đứng đầu các Giáo hội khác nhau, συνεργεία (synergeía) của Giám mục Rôma, συμφρόνησις(symphrónēsis) của các Thượng phụ khác và sự thuận hợp trong giáo huấn của nó với giáo huấn của các Công đồng trước đó [31].

30. Về phương cách tiến hành (modus procedendi), các Công Nghị Địa Phương trong Thiên Niên Kỷ Thứ Nhất, một mặt, theo Truyền Thống Tông Đồ và, mặt khác, về phương diện thủ tục thực tế, chịu ảnh hưởng của nền văn hóa của nơi chúng được tổ chức [32].

Trong trường hợp Công Nghị tại một Giáo Hội địa phương, về nguyên tắc, toàn thể cộng đồng đã tham gia, mỗi nhóm tùy theo vai trò tương ứng của họ [33]. Trong các công nghị giáo tỉnh, những người tham gia là các Giám mục của nhiều Giáo hội khác nhau, mặc dù các linh mục và đan sĩ có thể được mời đóng góp. Chỉ có các Giám mục mới tham dự các công đồng chung được cử hành trong Thiên niên kỷ thứ nhất. Chính các công nghị giáo phận và giáo tỉnh đã chủ yếu lên khuôn cho thủ tục công nghị được chấp nhận trong Thiên niên kỷ thứ nhất.

Kỳ sau: 1.3 Sự phát triển của thủ tục công nghị trong thiên niên kỷ thứ hai


Tính Đồng Nghị trong Đời Sống và Sứ Mệnh của Giáo Hội, chương 1, 1.1


Tính Đồng Nghị trong Đời Sống và Sứ Mệnh của Giáo Hội, chương 1, 1.1
Vũ Văn An
23/Dec/2018

CHƯƠNG 1: TÍNH ĐỒNG NGHỊ TRONG THÁNH KINH, TRONG THÁNH TRUYỀN VÀ TRONG LỊCH SỬ

11. Các nguồn quy phạm cho đời sống đồng nghị của Giáo Hội trong Thánh Kinh và Thánh Truyền cho thấy tại trung tâm của kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa, lời kêu gọi toàn thể nhân loại hợp nhất với Thiên Chúa và thống nhất trong Người được hoàn tất trong Chúa Giêsu Kytô và diễn ra qua thừa tác vụ của Giáo Hội. Chúng cung cấp các hướng dẫn chúng ta cần để biện phân các nguyên tắc thần học cần phải sinh động hóa và điều chỉnh cuộc sống đồng nghị, các cấu trúc của nó, các diễn trình của nó và các biến cố liên quan đến nó.

Trên cơ sở này, có thể theo dõi các hình thức của tính đồng nghị đã được phát triển trong Giáo Hội trong Thiên Niên Kỷ thứ nhất và sau đó, trong Thiên Niên Kỷ thứ hai, trong Giáo Hội Công Giáo, bằng cách nhắc đến một số khía cạnh của thực hành đồng nghị của các Giáo Hội và Cộng Đồng Giáo Hội khác.

1.1 Giáo huấn của Thánh Kinh

12. Cựu Ước cho thấy: Thiên Chúa đã tạo ra con người, có nam có nữ, theo hình ảnh và họa ảnh Người như một hữu thể xã hội được kêu gọi làm việc với Người bằng cách tiến tới trong dấu hiệu hiệp thông, bằng cách chăm sóc vũ trụ và hướng nó về mục tiêu của nó (St 1: 26-28). Ngay từ đầu, tội lỗi làm hỏng kế hoạch của Thiên Chúa, xé tan mạng lưới các mối quan hệ có trật tự vốn nói lên sự thật, sự tốt lành và vẻ đẹp của sáng thế, và làm trái tim của người đàn ông và của người đàn bà không còn nhận ra ơn gọi của họ. Tuy nhiên, Thiên Chúa giàu lòng thương xót, đã củng cố và làm mới lại giao ước của Người nhằm đem tất cả những gì đã bị phân tán trở lại con đường thống nhất, chữa lành tự do của con người và hướng dẫn nó đến chỗ chào đón và sống ơn hợp nhất với Thiên Chúa và thống nhất với anh chị em của chúng ta trong sáng thế, vốn là ngôi nhà chung của chúng ta (ví dụ: St 9,8-17; 15; 17; Xh 19-24; 2 Sm 7:11).


13. Khi thực hiện kế hoạch của Người, Thiên Chúa triệu tập Ápraham và các hậu duệ của ông (xem St 12:1-3; 17:1-5; 22:16-18). Cuộc triệu tập này (קָחַל / עֵדה - thuật ngữ đầu tiên thường được dịch sang tiếng Hy lạp là έκκλησία), được phê chuẩn trong giao ước Sinai (xem Xh 24: 6-8; 34: 20tt), làm cho dân vừa được giải phóng khỏi chế độ nô lệ trở thành quan trọng và xứng đáng nói với Thiên Chúa; trong cuộc hành trình xuất hành, họ tụ họp quanh Thiên Chúa của họ để cử hành việc thờ phượng Người và sống theo luật pháp của Người, nhìn nhận rằng họ thuộc một mình Người (xem Đnl 5:1-22; Gs 8; Nkm 8:1-18).

קָחַל / עֵדה (qahal / ‘edah) là hình thức đầu tiên trong đó ơn gọi có tính đồng nghị của dân Chúa được tiết lộ. Trong sa mạc, Thiên Chúa ra lệnh điều tra dân số các chi tộc Israel, dành cho mỗi chi tộc vị trí của nó (xem Ds 1-2). Ở trung tâm của cuộc triệu tập, là Chúa, như người hướng dẫn và chăn chiên duy nhất của nó; Người trở nên hiện diện qua thừa tác vụ của Môsê (xem Ds 12: 15-16; Gs 8:30-35), người mà những người khác có liên hệ với một cách lệ thuộc và ‘có tính hợp đoàn’: các Thủ lãnh (xem Xh 18: 25-26), các trưởng lão (xem Ds 11: 16-17, 24-30), và các thầy Lêvi (xem Ds 1:50-51). Cuộc triệu tập Dân Thiên Chúa không chỉ bao gồm đàn ông (Xh 24: 7-8) mà còn cả phụ nữ và trẻ em và cả người ngoại quốc nữa (xem Gs 8: 33,35). Đó là đối tác được Chúa triệu tập mỗi khi Người đổi mới giao ước của Người (xem Đnl 27-28; Gs 24: 2 V 23; Nkm 8).

14. Sứ điệp của các Vị Tiên Tri dạy cho Dân Thiên Chúa sự cần thiết phải hành trình qua những gian khổ của lịch sử một cách trung thành với giao ước. Đó là lý do tại sao các vị Tiên Tri mời họ hồi hướng lòng họ về Thiên Chúa và công lý trong các mối liên hệ của họ với người lân cận của họ, thường là những người nghèo nhất, bị áp bức, ngoại kiều, như một nhân chứng hữu hình của lòng Chúa thương xót (xem Grm 37: 21; 38: 1).

Để điều đó xảy ra, Thiên Chúa hứa sẽ ban cho họ một trái tim và tinh thần mới (xem Edk 11:10), và mở ra trước Dân Người một con đường dẫn tới một cuộc Xuất Hành mới (xem Grm 37-38): lúc đó, Người sẽ thiết lập một giao ước mới, được khắc không phải trên các bản đá nhưng trên trái tim của họ (xem Grm 31: 31-34). Nó sẽ cho thấy những chân trời phổ quát, vì Người Tôi Trung của Chúa sẽ tập hợp các quốc gia lại với nhau (xem Is 53), và nó sẽ được niêm ấn bởi sự tuôn đổ Thần Khí của Chúa lên tất cả các thành viên của dân Người (Xem Ge 3:1-4).

15. Thiên Chúa chu toàn giao ước mới mà Người đã hứa nơi Chúa Giêsu Nadarét, Đấng Métsia và là Chúa, Đấng mà sứ điệp sơ truyền (kérygma), cuộc sống và con người mặc khải cho thấy Thiên Chúa là sự hiệp thông tình yêu, Đấng, vì ơn thánh và lòng thương xót của Người, muốn ôm lấy toàn thể nhân loại trong tính thống nhất của họ. Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, từ đời đời vốn được trù định để yêu thương trái tim Chúa Cha (xem Ga 1:1,18), trở thành người phàm lúc thời gian đã nên trọn (xem Ga 1:14; Gt 4: 4) để mang kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa đến chỗ hoàn thành (xem Ga 8: 29; 6: 39; 5: 22, 27). Người không bao giờ hành động một mình, và trong mọi sự, luôn làm theo ý muốn của Chúa Cha: Chúa Cha ngự trong Người và thực hiện công trình của Người qua Người Con Người đã sai xuống thế gian (xem Ga 14: 10).

Kế hoạch của Chúa Cha được thực hiện trong Mầu Nhiệm Vượt Qua, khi Chúa Giêsu hiến sự sống của Người để nhận lại nó trong sự phục sinh (xem Ga 10,17) và chia sẻ nó với các môn đệ của Người như những con trai con gái, như anh chị em trong sự tuôn đổ Chúa Thánh Thần "không hạn chế" (xem Ga 3,34). Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Giêsu là cuộc xuất hành mới, tập hợp trong sự thống nhất (συναγάγη είς έν) tất cả những người tin tưởng vào Người (xem Ga 11,52), người mà Người đã làm cho cùng đồng dạng đồng hình với chính Người bằng Phép Rửa và Thánh Thể. Công trình cứu rỗi là sự thống nhất mà Chúa Giêsu đã cầu xin Chúa Cha ngay trước Cuộc Thống Khổ của Người: “Xin cho chúng nên một, lạy Cha, như Cha, Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng được ở trong chúng ta ngõ hầu thế gian có thể tin rằng chính Cha đã sai Con"(xem Ga 17:21).

16. Chúa Giêsu là người lữ hành rao giảng tin mừng về Nước Thiên Chúa (xem Lc 4:14-15; 8:1; 9:57; 13:22; 19:11), dạy "con đường của Thiên Chúa ". (xem Lc 20:21) và chỉ đường đến đó (Lc 9:51-19,28). Thực thế, chính Người là “đường” (xem Ga 14:6) dẫn đến Chúa Cha; trong Chúa Thánh Thần (xem Ga 16:13) Người chia sẻ với mọi người sự thật và tình yêu hiệp thông với Thiên Chúa và các anh chị em của chúng ta. Sống hiệp thông theo tiêu chuẩn giới răn mới của Chúa Giêsu có nghĩa là cùng đi với nhau trong lịch sử như Dân Thiên Chúa của giao ước mới, theo cách phù hợp với ơn phúc đã nhận được (xem Ga 15:12-15). Trong trình thuật về các môn đệ Emmau, Thánh Luca cho chúng ta một hình tượng sống động về Giáo Hội như Dân Thiên Chúa, được Chúa sống lại hướng dẫn trên đường đi, Đấng thắp sáng nó bằng Lời của Người và cho nuôi nó ăn bằng Bánh Sự Sống (Xem Lc 24:13-35).

17. Tân Ước sử dụng một thuật ngữ chuyên biệt để diễn tả quyền năng mà Chúa Giêsu nhận được từ Chúa Cha để ban ơn cứu rỗi, ơn mà Người thực hiện trên mọi tạo vật trong quyền năng (δύναμις) của Chúa Thánh Thần: έξουσία (thẩm quyền). Nó hệ ở việc ban ơn thánh làm cho chúng ta trở nên "con cái Thiên Chúa" (xem Ga 1:12). Các Tông Đồ nhận được έξουσία này từ Chúa Phục Sinh, Đấng sai họ đi giảng dạy muôn dân bằng cách rửa tội cho họ nhân danh Cha, Con và Thánh Thần, và dạy họ tuân giữ tất cả những gì Người đã truyền lệnh (xem Mt 28: 19-20). Nhờ phép rửa, mọi thành viên của dân Chúa được dự phần vào thẩm quyền này, sau khi được “xức dầu của Chúa Thánh Thần” (xem 1 Ga 2: 20,27), sau khi đã được Thiên Chúa giảng dạy (xem Ga 6: 45) và sau khi đã được hướng dẫn "đến sự thật hoàn toàn" (xem Ga 16:13).

18. έξουσία của Chúa được phát biểu trong Giáo Hội thông qua sự đa dạng của các ơn thiêng liêng (τα πνευματικά) hoặc đặc sủng (τα χαρίσματα) mà Chúa Thánh Thần chia sẻ trong Dân Thiên Chúa để xây dựng Nhiệm Thể duy nhất của Chúa Kitô. Khi thực thi các đặc sủng này, chúng ta cần tôn trọng một τάξις (taxis=sắp xếp?) khách quan, để chúng có thể phát triển hài hòa và mang lại hoa trái mà chúng vốn được trù định sẽ mang để đem lại lợi ích cho mọi người (xem 1 Cr 12:28-30; Ep 4:11-13). Các Tông đồ có vị trí đầu tiên trong số này - với một vai trò đặc biệt và ưu việt được Chúa Giêsu giao cho Simon Phêrô (xem Mt 16:18tt., Ga 21:15tt.): thực thế, các ngài được giao phó thừa tác vụ hướng dẫn Giáo Hội trong việc trung thành với depositum fidei [kho tàng đức tin] (1 Tm 6:20; 2 Tm 1:12,14). Nhưng thuật ngữ χάρισμα [karisma] cũng gợi lên đặc tính nhưng không (gratuitous) và đa dạng trong sáng kiến tự do của Chúa Thánh Thần, Đấng ban cho mỗi người ơn riêng của họ nhằm lợi ích chung (xem 1 Cr 12:4-11, 29-30; Ep 4:7), với nghĩa luôn tùng phục và phục vụ lẫn nhau (xem 1 Cr 12:25): vì ơn cao nhất, ơn điều hòa mọi ơn, là tình yêu (xem 1 Cr 12: 31).

19. Sách Tông Đồ Công Vụ dẫn chứng bằng tài liệu một số khoảnh khắc quan trọng dọc đường đi của Giáo Hội Tông Truyền khi Dân Thiên Chúa được mời gọi biện phân thánh ý Chúa Phục Sinh, trong tư cách một cộng đồng. Nhân vật lãnh đạo dẫn đường và chỉ hướng đi là Chúa Thánh Thần, được tràn đổ trên Giáo Hội vào ngày lễ Ngũ Tuần (xem Cv 2: 2-3). Các môn đệ, khi thực hiện các vai trò khác nhau của họ, có trách nhiệm lắng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần và biện phân đường đi (xem Cv 5:19-21; 8:26,29,39; 12: 6-17; 13: 1-3; 16: 6-7,9-10; 20: 22). Các ví dụ có giá trị là: việc lựa chọn "bảy mươi người có danh tiếng tốt, tràn đầy Thánh Thần và khôn ngoan", những người được các Tông Đồ giao phó nhiệm vụ "phân phối thực phẩm" (Xem Cv 6:1-6); và việc biện phân vấn đề chủ chốt là truyền giáo cho Dân Ngoại (xem Cv 10).

20. Vấn đề trên được xử lý với điều truyền thống gọi là 'Công đồng tông đồ Giêrusalem' (xem Cv 15, và cả Gl 2: 1-10). Ở đó, ta thấy một biến cố có tính đồng nghị đã xuất hiện, trong đó, Giáo hội tông truyền, trong một thời điểm quyết định của lịch sử phát triển của mình, đã sống thực ơn gọi của mình hướng tới việc truyền giáo, được soi sáng bởi sự hiện diện của Chúa Phục Sinh. Trong nhiều thế kỷ, biến cố này đã được giải thích như là mô hình cho các Công Nghị từng được Giáo Hội cử hành.

Trình thuật đưa ra một mô tả chính xác về việc khai mở biến cố. Nhìn thấy vấn đề quan trọng và gây tranh cãi đang đặt ra cho họ, cộng đồng tại Antiôkia quyết định tham khảo ý kiến “Các Tông Đồ và Trưởng Lão” (15:2) của Giáo Hội ở Giêrusalem, và gửi Phaolô và Banaba đến đó. Cộng đồng tại Giêrusalem, các Tông đồ và các Trưởng Lão đáp ứng kịp thời (15: 4) để khảo sát tình hình. Phaolô và Banaba giải thích những gì đã xảy ra. Một cuộc thảo luận sống động và cởi mở diễn ra sau đó (έκζητήσωσιν: 15:7a). Họ đặc biệt lắng nghe chứng tá có thẩm quyền và lời tuyên xưng đức tin của Thánh Phêrô (15:7b-12).

Thánh Giacôbê giải thích điều đã xảy ra dưới ánh sáng lời tiên tri (xem Am 9:11-12; Cv 15:14-18), lời khẳng định thánh ý cứu rỗi phổ quát của Thiên Chúa, và Người đã chọn "một dân tộc. .. từ các dân ngoại" (έξ έθνων λαόν: 15:14), và ngài đã đưa ra quyết định ban hành một số quy tắc về tác phong (15:19-21). Bài phát biểu của ngài cho thấy một viễn kiến về sứ mệnh của Giáo Hội đặt căn cứ vững chắc trong kế hoạch của Thiên Chúa, nhưng đồng thời sẵn sàng đón nhận việc Người tự làm cho Người hiện diện trong diễn tiến từ từ của lịch sử cứu rỗi. Cuối cùng, các ngài đã chọn một số đại diện để tiếp nhận bức thư giải thích quyết định được đưa ra và quy định thủ tục phải tuân theo (15:23-39); bức thư được gửi đi và đọc cho cộng đồng ở Antiôkia, và được cộng đồng này tiếp nhận một cách hân hoan (15:30-31).

21. Mọi người đều góp phần tích cực, mặc dù với các vai trò và đóng góp khác nhau. Vấn đề được trình bày với toàn thể Giáo Hội tại Giêrusalem (παν τὸ πληθος: 15:12), có mặt suốt cuộc họp và tham gia vào quyết định cuối cùng (έδοξε τοις άποστολόις καί τοις πρεσβυτέροις σύν όλη τη έκκησία: 15: 22). Nhưng trước tiên, những người được tham khảo là các Tông đồ (Thánh Phêrô và Thánh Giacôbê mỗi vị đều phát biểu) và các Trưởng Lão, những người thực thi thừa tác vụ chuyên biệt của họ theo thẩm quyền.

Quyết định được Thánh Giacôbê đưa ra trong tư cách người hướng dẫn Giáo Hội ở Giêrusalem, nhờ hành động của Chúa Thánh Thần, Đấng hướng dẫn Giáo Hội trên đường đi của Giáo Hội bằng cách đảm bảo lòng trung thành của Giáo Hội đối với Tin Mừng của Chúa Giêsu: "Nó đã được quyết định bởi Chúa Thánh Thần và bởi chính chúng tôi"(15: 28). Nó được tiếp nhận và chấp nhận bởi toàn bộ cộng đồng ở Giêrusalem (15: 22) và sau đó bởi cộng đồng ở Antiôkia (15:30-31).


Nhờ mọi người biết lắng nghe Chúa Thánh Thần qua chứng tá đưa ra về hành động của Thiên Chúa và nhờ mỗi người biết đưa ra phán đoán riêng của mình, các ý kiến thoạt đầu khác khác nhau đã qui hướng dần tới sự đồng thuận và nhất trí (όμοθυμαδόν: 15: 25) vốn là hoa trái của việc biện phân cộng đồng để phục vụ sứ mệnh truyền giảng Tin Mừng của Giáo Hội.

22. Cách thức hành xử của Công đồng Giêrusalem là một minh chứng đời thực cho sự kiện này là cách dân Thiên Chúa tiến bước là một điều được suy nghĩ có trật tự và thấu đáo, trong đó, mỗi người có một chủ trương và vai trò chuyên biệt (xem 1 Cr 12:12-17; Rm 12: 4-5; Ep 4: 4).

Thánh Tông đồ Phaolô, dưới ánh sáng cộng đồng Thánh Thể, đã gợi lên hình ảnh Giáo Hội như Thân Thể Chúa Kitô, để giải thích cả sự thống nhất của tổ chức lẫn sự đa dạng của các thành viên. Cũng giống như trong cơ thể con người, tất cả các thành viên đều cần thiết theo cách riêng của họ, theo cùng một cách như trong Giáo Hội, mọi người đều có phẩm giá như nhau nhờ Phép Rửa (xem Gl 3:28; 1Cr 12:13), và mọi người đều đóng góp để thực hiện kế hoạch cứu rỗi "tùy theo mức độ Chúa Kitô ban cho" (Ep 4: 7).

Vì vậy, mọi người đều có trách nhiệm bằng nhau đối với đời sống và sứ mệnh của cộng đồng và mọi người đều được kêu gọi làm việc phù hợp với luật liên đới hỗ tương liên quan tới các thừa tác vụ và đặc sủng chuyên biệt của họ, vì mọi người đều tìm thấy năng lực của mình trong một Chúa duy nhất (xem 1Cr 15: 45).

23. Đích điểm của cuộc hành trình của Dân Thiên Chúa là Giêrusalem mới, được bao bọc bởi sự huy hoàng rạng ngời của vinh quang Thiên Chúa, nơi phụng vụ nước trời được cử hành. Ở đấy, sách Khải huyền chiêm ngưỡng "Chiên Con đang đứng dường như đã bị hy tế", Chiên Con, bằng máu của nó, đã chuộc về cho Thiên Chúa “muôn người thuộc mọi sắc tộc và ngôn ngữ, thuộc mọi nước, mọi dân” và đã làm họ thành "một dòng vua và tư tế cho Thiên Chúa, để cai trị thế giới"; các thiên thần và "mười nghìn lần mười ngàn người trong số họ và hàng ngàn hàng ngàn người" tham dự phụng vụ trên trời với mọi tạo vật trên trời và dưới đất (xem Kh 5: 6.9.11.13). Sau đó, lời hứa có ý nghĩa sâu xa nhất về kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa sẽ được ứng nghiệm: “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ'' (Kh 21: 3).

Kỳ sau: 1.2 Chứng tá của các Giáo Phụ và Thánh Truyền trong thiên niên kỷ đầu tiên

JANUARY 01, 2019 : THE OCTAVE DAY OF CHRISTMAS - SOLEMNITY OF THE BLESSED VIRGIN MARY, THE MOTHER OF GOD


The Octave Day of Christmas
Solemnity of the Blessed Virgin Mary, the Mother of God
Lectionary: 18

Reading 1NM 6:22-27
The LORD said to Moses: 
"Speak to Aaron and his sons and tell them: 
This is how you shall bless the Israelites.
Say to them:
The LORD bless you and keep you!
The LORD let his face shine upon
you, and be gracious to you!
The LORD look upon you kindly and
give you peace!
So shall they invoke my name upon the Israelites, 
and I will bless them."
Responsorial PsalmPS 67:2-3, 5, 6, 8.
R. (2a) May God bless us in his mercy.
May God have pity on us and bless us;
may he let his face shine upon us.
So may your way be known upon earth;
among all nations, your salvation.
R. May God bless us in his mercy.
May the nations be glad and exult
because you rule the peoples in equity;
the nations on the earth you guide.
R. May God bless us in his mercy.
May the peoples praise you, O God;
may all the peoples praise you!
May God bless us,
and may all the ends of the earth fear him! 
R. May God bless us in his mercy.
Reading 2GAL 4:4-7
Brothers and sisters:
When the fullness of time had come, God sent his Son,
born of a woman, born under the law, 
to ransom those under the law, 
so that we might receive adoption as sons.
As proof that you are sons, 
God sent the Spirit of his Son into our hearts, 
crying out, "Abba, Father!"
So you are no longer a slave but a son, 
and if a son then also an heir, through God.
AlleluiaHEB 1:1-2
R. Alleluia, alleluia.
In the past God spoke to our ancestors through the prophets;
in these last days, he has spoken to us through the Son.
R. Alleluia, alleluia.
GospelLK 2:16-21
The shepherds went in haste to Bethlehem and found Mary and Joseph,
and the infant lying in the manger.
When they saw this,
they made known the message 
that had been told them about this child.
All who heard it were amazed
by what had been told them by the shepherds.
And Mary kept all these things,
reflecting on them in her heart.
Then the shepherds returned,
glorifying and praising God
for all they had heard and seen, 
just as it had been told to them.

When eight days were completed for his circumcision,
he was named Jesus, the name given him by the angel
before he was conceived in the womb.



Meditation: "He was called Jesus"
What's the significance of a name? For the Jewish people the giving of a name had great importance. When a name was given it represented what that person should be in the future. An unknown name meant that someone could not be completely known. To not acknowledge someone's name meant both denial of the person, destruction of their personality, and change in their destiny. A person's name expressed the reality of his or her being at its deepest level. A Jewish male child was named at the time of circumcision, eight days after birth. This rite was instituted by God as an outward sign to single out those who belonged to the chosen people (Genesis 17:10-12). It was a sign of the covenant that God made with Abraham and his posterity.
Jesus - the eternal Son of God who was born of a woman to become our Savior
In fulfilment of this precept, Mary's newborn child is given the name Jesus on the eighth day according to the Jewish custom. Joseph and Mary gave the name Jesus because that is the name given by God's messenger before Jesus was conceived in Mary's womb (Luke 1:31, Matthew 1:21). This name signifies Jesus' identity and his mission. The literal Hebrew means the Lord saves. Since God alone can forgive sins and free us from death, it is God who, in Jesus his eternal Son became a man to offer up his life as the atoning sacrifice to save his people from their sins (Matthew 1:21). The son that Mary bore is both God and man - the "Word who was God" (John 1:1) and who "became flesh and dwelt among us" (John 1:14). That is why Mary is not only called the mother of the Christ (the Greek word for Messiah in Hebrew) but also the mother of God or Theotokos in Greek which literally means "God bearer."
Jesus - the name above every other name
In the birth and naming of this child we see the wondrous design and plan of God in giving us a Savior who would bring us grace (the gift of God's favor), mercy, and freedom from the power of sin and the fear of death. The name Jesus signifies that the very name of God is present in the person of his Son who became man for our salvation. Peter the Apostle exclaimed that there is no other name under heaven given among mortals by which we must be saved (Acts 2:12). In the name of Jesus demons flee, cripples walk, the blind see, the deaf hear, and the dead are raised. His name is exalted far above every other name (Philippians 2:9-11).
The name Jesus is at the heart of all Christian prayer. It is through and in Jesus that we pray to the Father in the power of the Holy Spirit. Many Christians have died with one word on their lips, the name of Jesus. Do you exalt the name of Jesus and pray with confidence in his name?
"Lord Jesus Christ, I exalt your name above every other name. For in you I have pardon, mercy, grace and victory over sin and death. You humbled yourself for my sake and for the sake of all sinners by sharing in our humanity and by dying on the cross. Help me to always praise your holy name and to live for your greater glory."

Daily Quote from the early church fathersBy Christ's faith, hope, and love we are purified, by Bede the Venerable, 672-735 A.D.
    "He therefore received in the flesh the circumcision decreed by the law, although he appeared in the flesh absolutely without any blemish of pollution. He who came in the likeness of sinful flesh (Romans 8:3) - not in sinful flesh - did not turn away from the remedy by which sinful flesh was ordinarily made clean. Similarly, not because of necessity but for the sake of example, he also submitted to the water of baptism, by which he wanted the people of the new law of grace to be washed from the stain of sins...
     "The reason 'the child who was born to us, the son who was given to us ' (Isaiah 9:6), received the name Jesus (that is, 'Savior') does not need explanation in order to be understood by us, but we need eager and vigilant zeal so that we too may be saved by sharing in his name. Indeed, we read how the angel interprets the name of Jesus: 'He will save his people from their sins' (Matthew 1:21). And without a doubt we believe and hope that the one who saves us from sins is not failing to save us also from the corruptions which happen because of sins, and from death itself, as the psalmist testifies when he says, 'Who forgives all your iniquity, who heals all your diseases' (Psalm 103:3). Indeed, with the pardoning of all of our iniquities, all our diseases will be completely healed when, with the appearance of the glory of the resurrection, our last enemy, death, will be destroyed... We read that circumcision was done with knives made of rock (Joshua 5:2), and the rock was Christ (1 Corinthians 10:4). And by Christ's faith, hope and love the hearts of the good are purified not only in baptism but furthermore in every devout action. This daily circumcision of ours (that is, the continual cleansing of our heart) does not cease from always celebrating the sacrament of the eighth day. (excerpt from HOMILIES ON THE GOSPELS 1.11)



SOLEMNITY OF MARY, THE HOLY MOTHER OF GOD
The Octave Day of the Nativity of the Lord
Holy Day of Obligation
TUESDAY, JANUARY 1, LUKE 2:16-21
(Numbers 6:22-27; Psalm 67; Galatians 4:4-7)

KEY VERSE: "And Mary kept all these things, reflecting on them in her heart" (v. 19).
TO KNOW: Mary and Joseph obeyed the law of Rome by going to Bethlehem to register for the census. They obeyed the religious law of Israel by having their child circumcised on the eighth day after his birth (Lv. 12:3). In this ceremony, the child entered into the life of the Jewish community and received his name: Jesus (Hebrew: Yeshua, "Yahweh saves"). Jesus' mother Mary was the model disciple who received the Word of God with faith, and pondered its meaning in her heart (Lk 2:19). The Church regards Mary as the Mother of God and the Mother of the Church. She is the "new Eve," whose "offspring" Jesus Christ, the one "born of a woman" (Gal 4:4), was destined to defeat the Evil One.
TO LOVE: In what ways will I follow Mary's example of prayer and service in this New Year?
TO SERVE: Mary, Mother of God, teach me to ponder within my heart all that God has done for us through Jesus your son. 
NOTE: When Did Mary's Title "Mother Of God" Originate?
At the Council of Ephesus in 431 CE, the Church gave Mary the title “Theotokos” meaning "God-bearer." This Marian title is really a Christological statement, which affirms that the second person of the Trinity, Jesus, was born into history as fully human, and is truly 'God with us'. The tradition reaches to our own day. Vatican II’s Dogmatic Constitution on the Church includes Mary’s role in a chapter on the Church, referring to Mary as the “Mother of God” 12 times. Because she cooperated in our redemption by bringing forth God's Son to redeem the world, she was also proclaimed the "Mother of the Church" (Pope Paul VI, 1964). Since Mary conceived Jesus, true man and true God, she is truly the mother of the Incarnate Jesus, and therefore, the Mother of God, and the mother of all who believe in her Son.

TUESDAY, JANUARY 1

The celebration of the New Year is the oldest of all holidays. It was first observed in ancient Babylon about 4000 years ago. The Babylonian New Year began with the first New Moon (the first visible crescent) after the Vernal Equinox (first day of spring). The Romans continued to observe the New Year in late March, but their calendar was tampered with by various emperors so that the calendar soon was out of synchronization with the sun. In order to set the calendar right, Julius Caesar, in 46 BC, established what has come to be known as the Julian Calendar. It established January 1 as the New Year. In various New Year's Eve customs, Father Time's image is used as the personification of the previous year (or "the Old Year"), who "hands over" the duties of time to the Baby New Year. The poet Robert Burns translated the old Scottish dialect "Auld Lang Syne" to mean 'Old Long Ago' in his poem about love and friendship in times past.

WORLD DAY OF PEACE, JANUARY 1

The World Day of Peace of the Roman Catholic Church is a day dedicated to peace, held on 1 January, on the Solemnity of Mary, Mother of God. It was introduced in 1967 by Paul VI, inspired by the encyclical Pacem in Terris of John XXIII and with reference to his own encyclical Populorum Progressio. The day was first observed on 1 January 1968. The theme for Pope Francis' World Day of Peace message is: “Non-Violence: a Style of Politics for Peace.” In his Message for the World Day of Peace, Pope Francis urges us to practice active nonviolence and work to prevent conflict by addressing its causes, building relationships, and facilitating healing and restoration.



Tuesday 1 January 2019

Solemnity of Mary, Mother of God.
Numbers 6:22-27. Psalm 66(67):2-3, 5-6, 8. Galatians 4:4-7. Luke 2:16-21.

May God bless us in his mercy – Psalm 66(67):2-3, 5-6, 8.
‘Mary treasured all these words and pondered them in her heart.’
Throughout history, Mary has often been depicted as a remote figure. While acknowledging her key role in the incarnation, we must not lose sight of her humanity. As Mother of God, she reminds us that God desired to share Godself with humanity. It was her human ‘yes’ to God’s request that made this possible.
Like the rest of us, Mary did not have all the answers. Moments of fear and bewilderment were her lot, alongside moments of encouragement and hope. St Ignatius invites retreatants to speak with Mary as they would to a friend about their desires, hopes and fears. This is a living and loving woman who desires to place us with her son.


Mary, Mother of God
Saint of the Day for January 1
 
The Virgin and Child (The Madonna of the Book) | Sandro Botticelli.
The Story of Mary, Mother of God
Mary’s divine motherhood broadens the Christmas spotlight. Mary has an important role to play in the Incarnation of the Second Person of the Blessed Trinity. She consents to God’s invitation conveyed by the angel (Luke 1:26-38). Elizabeth proclaims: “Most blessed are you among women and blessed is the fruit of your womb. And how does this happen to me, that the mother of my Lord should come to me?” (Luke 1:42-43, emphasis added). Mary’s role as mother of God places her in a unique position in God’s redemptive plan.
Without naming Mary, Paul asserts that “God sent his Son, born of a woman, born under the law” (Galatians 4:4). Paul’s further statement that “God sent the spirit of his Son into our hearts, crying out ‘Abba, Father!’” helps us realize that Mary is mother to all the brothers and sisters of Jesus.
Some theologians also insist that Mary’s motherhood of Jesus is an important element in God’s creative plan. God’s “first” thought in creating was Jesus. Jesus, the incarnate Word, is the one who could give God perfect love and worship on behalf of all creation. As Jesus was “first” in God’s mind, Mary was “second” insofar as she was chosen from all eternity to be his mother.
The precise title “Mother of God” goes back at least to the third or fourth century. In the Greek form Theotokos—God-bearerit became the touchstone of the Church’s teaching about the Incarnation. The Council of Ephesus in 431 insisted that the holy Fathers were right in calling the holy virgin Theotokos. At the end of this particular session, crowds of people marched through the street shouting: “Praised be the Theotokos!” The tradition reaches to our own day. In its chapter on Mary’s role in the Church, Vatican II’s Dogmatic Constitution on the Church calls Mary “Mother of God” 12 times.

Reflection
Other themes come together at today’s celebration. It is the Octave of Christmas: Our remembrance of Mary’s divine motherhood injects a further note of Christmas joy. It is a day of prayer for world peace: Mary is the mother of the Prince of Peace. It is the first day of a new year: Mary continues to bring new life to her children—who are also God’s children.


LECTIO DIVINA: SOLEMNITY OF THE MOTHER OF GOD
Lectio Divina: 
 Tuesday, January 1, 2019
Visit of the Shepherds to Jesus and His Mother
The marginalized are God’s favorites
Luke 2:16-21

1. Opening prayer
Lord Jesus, send Your Spirit to help us read the Scriptures the same way that You read them to the disciples on the way to Emmaus. In the light of the Word, written in the Bible, You helped them to discover the presence of God in the disturbing events of Your sentence and death. Thus, the cross that seemed to be the end of all hope became for them the source of life and of resurrection.
Create in us silence so that we may listen to Your voice in Creation and in the scriptures, in events and in people, and above all in the poor and suffering. May Your word guide us so that we too, like the two disciples from Emmaus, may experience the force of Your resurrection and witness to others that You are alive in our midst as a source of fraternity, justice and peace. We ask this of You, Jesus, son of Mary, who revealed to us the Father and sent us Your Spirit. Amen.

2. Reading
a) A key to the reading: 
The reason for Joseph and Mary to go to Bethlehem was the census imposed by Rome’s emperor (Lk 2:1-7). Periodically, the Roman authorities decreed these censuses in the various regions of their immense empire. It was a matter of registering people and knowing how many had to pay taxes. The rich paid taxes on land and goods. The poor paid for the number of children they had.
In Luke’s Gospel we note a significant difference between the birth of Jesus and that of John the Baptist. John is born at home, in his land, in the midst of parents and neighbors and is welcomed by all (Lk 1:57-58). Jesus is born unknown, away from His surroundings of family and neighbors and far from His land. “There was no room in the inn.” He had to be left in a manger (Lk 2:7).
Let us try to put our text (Lk 2:16-21) into the wider context of the visit of the shepherds (Lk 2:8-21). As we read, let us try to pay attention to the surprises we find and the contrasts that appear in this text.

b) A division of the text to help us in our reading: 
Luke 2:8-9: The shepherds in the field, the first persons invited
Luke 2:10-12: The first announcement of the Good News is made to the shepherds
Luke 2:13-14: The praise of the angels
Luke 2:15-18: The shepherds go to Bethlehem and tell of their vision of the angels
Luke 2:19-20: Mary’s attitude and that of the shepherds concerning these events
Luke 2:21: The circumcision of the child Jesus

c) Text:
In the countryside close by there were shepherds out in the fields keeping guard over their sheep during the watches of the night. An angel of the Lord stood over them and the glory of the Lord shone round them. They were terrified, but the angel said, 'Do not be afraid. Look, I bring you news of great joy, a joy to be shared by the whole people. Today in the town of David a Saviour has been born to you; he is Christ the Lord. And here is a sign for you: you will find a baby wrapped in swaddling clothes and lying in a manger.' And all at once with the angel there was a great throng of the hosts of heaven, praising God with the words: Glory to God in the highest heaven, and on earth peace for those he favours. Now it happened that when the angels had gone from them into heaven, the shepherds said to one another, 'Let us go to Bethlehem and see this event which the Lord has made known to us.' So they hurried away and found Mary and Joseph, and the baby lying in the manger. When they saw the child they repeated what they had been told about him, and everyone who heard it was astonished at what the shepherds said to them. As for Mary, she treasured all these things and pondered them in her heart. And the shepherds went back glorifying and praising God for all they had heard and seen, just as they had been told. When the eighth day came and the child was to be circumcised, they gave him the name Jesus, the name the angel had given him before his conception.

3. A moment of prayerful silence 
so that the Word of God may penetrate and enlighten our life.

4. Some questions 
to help us in our personal reflection.
a) What did you like best in this text? Why?
b) What surprises and contrasts do you find in this text?
c) How does the text teach us that the little ones are great in heaven and the poorest on earth?
d) What is Mary’s attitude and that of the shepherds concerning the mystery of God just revealed to them?
e) What is the message Luke wants to communicate to us through these details?
5. For those who wish to go deeper into the theme
a) The context of then and of today: 
The text of the feast of the Mother of God (Lk 2:16-21) is part of the broader description of the birth of Jesus (Lk 2:1-7) and the visit of the shepherds (Lk 2:8-21). The angel had announced the birth of the savior and gave a sign of recognition: “You will find a baby wrapped in swaddling clothes and lying in a manger!” They were expecting the savior of a whole people and they were to recognize Him in a newborn child, poor, who lies close to two animals! What a great surprise!
God’s plan is fulfilled in an unexpected way, full of surprise. This happens today too. A poor child is the savior of the people! Can you believe this?
b) A commentary on the text: 
Luke 2:8-9: The first invited people.
The shepherds were marginalized people and not appreciated. They lived together with the animals, separate from the rest of humanity. Because of their constant contact with animals, they were considered impure. No one would have ever invited them to visit a newly born baby. This is why the Angel of the Lord appears to pass on the great news of the birth of Jesus to them. Seeing the vision of the angels, they are full of fear.
Luke 2:10-12: The first announcement of the Good News
Luke 2:13-14: The praise of the angels: Glory to God in the highest heaven, and on earth peace for those He favors.
A multitude of angels appears descending from heaven. It is heaven that bends itself towards the earth. The parts of this verse summarize God’s plan. The first part tells us what happens in the world up there: Glory to God in the highest heaven. The second part tells us what will happen in the world here below: On earth peace for those He favors! If people could experience what it means to be favored by God, everything would be different and peace would dwell on earth. And this would be to the greater glory of God who dwells in the highest!

Luke 2:15-18: The shepherds go to Bethlehem and tell of their vision of the angels.
The Word of God is no longer a sound produced by the mouth. It is an event! The shepherds literally say: “Let us go to Bethlehem and see this event which the Lord has made known to us”. In Hebrew, the expression DABAR means word or talk. The word of God is a creative force. It fulfills what it says. At creation God said: “Let there be light, and there was light!” (Gen 1:3). The word of the angel to the shepherds is the event of the birth of Jesus.

Luke 2:19-20: Mary’s attitude and that of the shepherds concerning these events
Luke immediately adds that, "Mary treasured all these things and pondered them in her heart". These are two ways of hearing and welcoming the Word of God: (i) The shepherds get up to see the events and verify the sign given by the angel, and then they go back to their flocks glorifying and praising God for all that they had seen and heard. (ii) Mary, on the other hand, carefully keeps all these events in her mind and meditates on them in her heart. To meditate on things in one’s heart means to reflect on them in the light of the Word of God, to better understand their full significance.

Luke 2:21: The circumcision and Name of Jesus.
According to the norms of the law, the child Jesus is circumcised on the eighth day after His birth (cf. Gen 17:12). Circumcision was a sign of belonging to the people. It gave the person an identity. On this occasion each child received his name (cf. Lk 1:59-63). He receives the name of Jesus that had been given Him by the angel before His conception. The angel had said to Joseph that the name of the child had to be Jesus, as “He is the one who is to save His people from their sins” (Mt 1:21). The name of Jesus is the transliteration of the name “Yehoshua”, or Joshua, and means Yahweh saves. Another name that will gradually be given to Jesus is Christ, which means Anointed or Messiah. Jesus is the awaited Messiah. A third name is that of Emmanuel, which means God with us (Mt 1:23).

c) Further information:
 


Mary in Luke’s Gospel

i) The role of the first two chapters of Luke’s Gospel:
These are two rather well known but less understood chapters. Luke writes them in imitation of the Old Testament. It is as though these two chapters were the last of the Old Testament so as to open the door for the coming of the New Testament. In these chapters, Luke creates an atmosphere of softness and praise. From beginning to end the mercy of God is sung: God, who comes to fulfill His promises. Luke shows us how Jesus fulfills the Old Testament and begins the New Testament. And He does so in favor of the poor, the anawim, who knew how to wait for His coming: Elisabeth, Zachary, Mary, Joseph, Simeon, Anna and the shepherds. That is why the first two chapters are history but not in the sense that we give to history today. They were more like a mirror for the Christians converted from paganism. They could discover who Jesus was and how He had come to fulfill the prophecies of the Old Testament, satisfying the deepest aspirations of the human heart. These chapters were also a mirror of the events that were taking place within the communities in Luke’s time. The communities originating from paganism will be born from the communities of converted Jews. But these were different. The New did not correspond to what the Old Testament imagined and expected. It was "the sign of contradiction" (Lk 2:34), and caused tensions and was the source of much suffering. In Mary’s reaction, Luke presents a model of how the communities could react to and persevere in the New.

ii) A key to the reading:
In these two chapters Luke presents Mary as a model for the life of the community. The key is given to us in the episode where the woman in the crowd praises the mother of Jesus. Jesus modifies the praise and says: “More blessed still are those who hear the word of God and keep it!” (Lk 11:27-28). Herein lies the greatness of Mary. It is in the world where Mary knows how to relate to the Word of God that the communities contemplate. The better way of relating to the Word of God: welcoming it, incarnating it, living it, deepening it, reflecting on it, giving it birth and making it grow, allowing oneself to be overpowered by it even when one does not understand it or when one suffers because of it. This is the vision underlying the texts of chapters 1 and 2 of Luke’s Gospel, which speak of Mary, the mother of Jesus.

iii) An application of the key to the texts:
1. Luke 1:26-38: The Annunciation: "Let it happen to me as you have said!"
Opening one’s self so that the Word of God may be welcomed and incarnated.
2. Luke 1:39-45: The Visitation: "Blessed is she who believed!"
Recognizing the Word of God in the events of life.
3. Luke 1:46-56: The Magnificat: “The Almighty has done great things for me!”
A resistance hymn of hope.
4. Luke 2:1-20: The Birth: "She treasured all these things and pondered them in her heart.”
The marginalized welcome the Word.
5. Luke 2:21-32: The Presentation: "My eyes have seen the salvation!"
God's promise is fulfilled.
6. Luke 2:33-38: Simeon and Anna: "A sword will pierce your soul"
Being a Christian means being a sign of contradiction.
7. Luke 2:39-52: At twelve years: " Did you not know that I must be in My Father's house?"
They did not understand the Word of God addressed to them!

iv) The contrasts that stand out in our text:
1. In the darkness of the night a light shines (2:8-9).
2. The world up there, heaven, seems to embrace our world here below (2:13).
3. The greatness of God manifests itself in the weakness of a child (2:7).
4. The glory of God is made present in a manger, close to animals (2:16).
5. Fear generated by the sudden apparition of an angel is changed into joy (2:9-10).
6. Those completely marginalized are the first to be invited (2:8).
7. The shepherds recognize God present in a child (2:20).
6. Praying with the Psalm 23 (22)

“Yahweh is my shepherd!”
Yahweh is my shepherd,
I lack nothing.
In grassy meadows He lets me lie.
By tranquil streams He leads me
to restore my spirit.
He guides me in paths of saving justice as befits His name.

Even were I to walk in a ravine as dark as death
I should fear no danger,
for You are at my side.
Your staff and Your crook are there to soothe me.

You prepare a table for me under the eyes of my enemies;
You anoint my head with oil;
my cup brims over.
Kindness and faithful love pursue me every day of my life.
I make my home in the house of Yahweh for all time to come.
7. Final Prayer

Lord Jesus, we thank for the word that has enabled us to understand better the will of the Father. May Your Spirit enlighten our actions and grant us the strength to practice that which Your Word has revealed to us. May we, like Mary, Your mother, not only listen to but also practice the Word. You who live and reign with the Father in the unity of the Holy Spirit forever and ever. Amen.
The first thing the angel says is: Do not be afraid! The second is: Joy to be shared by the whole people! The third is: Today! Then the angel gives three names to indicate who Jesus is: savior, Christ and Lord! Savior is the one who frees all people from all ties! The authorities in those days liked to use the title savior. They attributed the title of Soter (Greek) to themselves. Christ means anointed or messiah. In the Old Testament this was the title given to kings and prophets. It was also the title of the future messiah who would fulfill the promises made by God to His people. This means that the newly born child, who lies in a manger, has come to fulfill the hopes of the people. Lord was the name given to God himself! Here we have the three greatest titles imaginable. From this announcement of the birth of Jesus as savior, Christ and Lord, can you imagine anyone with a higher standing? If an angel says to you: “Be careful! I give you this sign of recognition: you will meet a child in a manger, in the midst of poor people!” Would you believe him? God’s ways are not our ways!