15/11/2017
Thứ tư tuần 32 thường niên
Thánh Albertô Cả, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh.
Lễ nhớ.
* Thánh nhân sinh khoảng năm 1206 tại Lau-in-gân, nước Đức. Sau khi theo học ở Pa-đô-va và Pa-ri, người nhập dòng Anh Em Thuyết Giáo, đảm nhận công việc giảng dạy ở nhiều nơi. Đặc biệt, tại đại học Pa-ri (1245-1248). Tại đây, trong
số các học trò, có một người sau thành nổi danh, đó là thánh Tôma Aquinô.
Được chọn làm giám mục Ra-tít-bon, nhưng thánh An-be-tô chỉ làm công việc lãnh đạo vỏn vẹn có hai năm so với cả một đời làm giáo sư và nhà khảo cứu, chuyên lo khám phá những quy luật của khoa vật lý để tìm ra sự can thiệp của Đấng Sáng Tạo. Người qua đời ở Cô-lô-nhơ năm 1280.
Bài Ðọc I: (Năm I) Kn
6, 2-12
"Hỡi các vua
chúa, hãy lắng nghe và học biết sự khôn ngoan".
Trích sách Khôn Ngoan.
Hỡi các vua chúa, hãy
nghe và hãy hiểu. Hỡi các thủ lãnh trần gian, hãy học biết. Hỡi các vị lãnh đạo
quần chúng, các ngươi kiêu hãnh, vì dân các ngươi đông đảo, xin lắng nghe: Quyền
bính của các ngươi là do Chúa ban, và uy lực của các ngươi cũng do Ðấng Tối
Cao. Người sẽ chất vấn mọi hành động và kiểm soát những tư tưởng các ngươi. Vì
nếu các ngươi là những quản lý nước Chúa mà không xét xử công minh, không giữ
luật công bình, không sống theo thánh ý Thiên Chúa, thì Người sẽ xuất hiện trên
các ngươi cách kinh hoàng mau lẹ. Vì đối với những kẻ cầm quyền, Người sẽ xét xử
nghiêm nhặt. Ðối với những kẻ thấp hèn, thì Người sẽ thương xót, còn những người
quyền thế, Người sẽ lấy quyền thế mà trừng trị. Thiên Chúa không lùi bước trước
mặt ai, chẳng sợ chức bậc nào, vì kẻ hèn người sang đều do chính Người tác tạo,
và Người săn sóc tất cả đồng đều. Nhưng Người sẽ xét xử nghiêm nhặt hạng quyền
thế. Vậy hỡi các vua chúa, đây là lời ta nói với các ngươi, để các ngươi học biết
sự khôn ngoan và khỏi sa ngã. Vì chưng, những ai kính cẩn nắm giữ những điều
công chính, sẽ nên người công chính, và những ai học hỏi các điều này, sẽ biết
cách trả lời. Vậy các ngươi hãy say mến lời ta, thì các ngươi sẽ được giáo huấn.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 81, 3-4. 6-7
Ðáp: Ôi Thiên Chúa, xin Chúa đứng lên xét xử địa cầu (c.
8a).
Xướng: 1) Hãy bầu chữa
kẻ bị ức và người phận nhỏ; hãy bênh vực quyền lợi người khốn khó và kẻ cơ hàn.
Hãy cứu chữa người bị áp bức và kẻ bần cùng; hãy giải thoát họ khỏi bàn tay đứa
ác. - Ðáp.
2) Ta đã nói: các ngươi
là những bậc chúa tể, và hết thảy các ngươi là con Ðấng Tối Cao. Tuy nhiên,
cũng như người ta, các ngươi sẽ chết, cũng như một quân vương nào đó, các ngươi
sẽ té nhào. - Ðáp.
Alleluia: 1 Tx 2, 13
Alleluia, alleluia! -
Anh em hãy đón nhận lời Chúa, không phải như lời của loài người, mà là như lời
của Thiên Chúa và đích thực là thế. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 17, 11-19
"Không thấy ai
trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi Chúa Giêsu đi lên
Giêrusalem, Người đi qua biên giới Samaria và Galilêa. Khi Người vào một làng
kia thì gặp mười người phong cùi đang đứng ở đàng xa, họ cất tiếng thưa rằng:
"Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi". Thấy họ, Người bảo họ rằng:
"Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế". Trong lúc họ đi đường, họ
được lành sạch. Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở
lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ
ơn Người: Mà người ấy lại là người xứ Samaria. Nhưng Chúa Giêsu phán rằng:
"Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia
đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại
này". Rồi Người bảo kẻ ấy rằng: "Ngươi hãy đứng dậy mà về: vì lòng
tin của ngươi đã cứu chữa ngươi".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Dâng Lời Tạ
Ơn
Chờ đợi Chúa đến là một
trong những chủ đề trọng tâm của Kinh Thánh. Vì không nắm bắt và sống sứ điệp
này nên chúng ta thường thiếu kiên nhẫn và do đó hầu hết những khó khăn của cuộc
sống đều là kết quả của thái độ vội vã của chúng ta. Chúng ta thường không chờ
đợi cho cây trái được chín muồi nhưng lại vội vã hái lấy khi nó còn xanh.
Chúng ta không thể chờ
đợi sự đáp trả của Chúa cho lời cầu nguyện của chúng ta, bởi vì chúng ta quên rằng
Chúa muốn chúng ta phải mất nhiều ơn thánh để chuẩn bị đón nhận ơn Ngài. Chúng
ta được mời gọi để tiến bước với Chúa nhưng Chúa thường đi những bước rất chậm
rãi. Thật ra, không phải chúng ta chờ đợi Chúa mà chính Chúa đang chờ đợi chúng
ta. Lắm khi chúng ta không muốn đón nhận ơn Chúa đã dọn sẵn bởi vì chúng ta
không muốn đến với Ngài. Có những lúc chúng ta phải sẵn sàng tiến tới với những
bước đi đầy tin tưởng. Tất cả những lời hứa của Chúa đều có điều kiện. Chúa chờ
đợi sự đáp trả của chúng ta. Chúng ta chỉ cần nhìn lại cuộc đời của tổ phụ
Abraham để thấy rõ điều đó. Chúa đã hứa ban cho Abraham rất nhiều điều cả thể
nhưng chắc chắn không một lời hứa nào sẽ được thực hiện nếu tổ phụ vẫn ở lại xứ
Canđê. Abraham phải lên đường, ông phải bỏ lại đàng sau nhà cửa, bạn bè, xứ sở
và dấn bước vào cuộc hành trình mà ông không thể nào lường trước được những gì
có thể xảy ra. Hành trang duy nhất của tổ phụ Abraham là lời hứa của Chúa và
lòng tin tưởng của ông.
Trong Tin Mừng hôm
nay, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta mặc lấy thái độ tin tưởng phó thác ấy của
tổ phụ Abraham. Chúa Giêsu quả thật là người đã chữa trị cho mười người phong
cùi, nhưng khác với những phép lạ khác, ở đây thay vì sờ vào những người phong
cùi hoặc nói một lời, Chúa Giêsu sai họ đi trình diện với các tư tế theo như luật
Môisen qui định. Thánh Luca ghi lại rõ ràng rằng trong khi họ đi, họ được lành
sạch. Quả thật, nếu họ đứng yên tại chỗ để chờ đợi, họ sẽ chẳng bao giờ được
lành bệnh. Chúa chờ đợi để chữa trị họ và chính lúc họ tin tưởng để ra đi, ơn
Chúa mới đến. Chúa luôn chờ đợi lòng tin, sự kiên nhẫn và cả sự chờ đợi của
chúng ta. Có khi ơn Ngài chỉ đến sau nhiều năm tháng chờ đợi và nhất là sau nhiều
năm tháng chiến đấu hy sinh của chúng ta. Một sự thất bại, một nỗi mất mát lớn
lao, một căn bệnh bất trị, bao nhiêu đau khổ là bấy nhiêu tiến tới và chờ đợi để
ơn Chúa được chín muồi.
Thật ra, đối với những
ai có lòng tin thì tất cả mọi sự đều là ân sủng của Chúa. Có điều gì thuộc về
chúng ta mà không do Chúa ban tặng, có điều gì chúng ta làm được mà không là hồng
ân của Chúa, và ngay cả những thất bại, rủi ro và đau khổ trong cuộc sống cũng
đều là những cơ may của muôn ơn lành Chúa không ngừng tuôn đổ trên chúng ta.
Con người vốn chỉ vô ơn bạc nghĩa. Trong mười người phong cùi được chữa lành chỉ
có một người biết quay trở lại để cám ơn Chúa Giêsu. Biết ơn, xem ra không phải
là điều tự nhiên của con người. Tâm tình ấy cần được dạy dỗ trau dồi ngay từ
lúc con người vừa bập bẹ biết nói và nuôi dưỡng trong suốt cuộc sống. Tâm tình
cảm mến tri ân cũng cần phải được trao dồi trong cuộc sống của người tín hữu
Kitô. Trong một kinh Tiền Tụng, Giáo Hội dạy chúng ta cầu nguyện rằng:
"Dâng lời tạ ơn Chúa cũng là một hồng ân Chúa ban tặng cho chúng ta".
Cầu nguyện trong tin tưởng phó thác và không ngừng dâng lời tạ ơn, đó phải là
tâm tình cơ bản và thường hằng của người tín hữu Kitô chúng ta.
Nguyện xin Chúa gìn giữ
chúng ta luôn được sống trong tâm tình ấy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Tư Tuần 32 TN1,
Năm lẻ.
Bài đọc: Wis
6:1-11; Lk 17:11-19.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy học hỏi để biết nguồn gốc mọi sự
Có một sự khác biệt lớn
lao giữa người có học và người thất học: Người có học biết dùng kiến thức của
mình để biết đối xử đúng đắn trong các mối liên hệ với Thiên Chúa, với tha
nhân, và với các tạo vật trong vũ trụ. Người thất học, vì không biết mọi sự đến
từ đâu, nên chỉ biết phản ứng theo những gì mình suy nghĩ. Hậu quả họ phải lãnh
nhận là sự phán xét của Thiên Chúa, sự ghét bỏ của tha nhân, và mọi thất bại
trong cuộc đời.
Các Bài Đọc hôm nay dạy
con người phải biết học hỏi suy xét về nguyên do những gì mình có. Trong Bài Đọc
I, tác giả Sách Khôn Ngoan xác quyết về nguồn gốc của quyền hành: Mọi quyền
bính đều bắt nguồn từ Thiên Chúa. Ngài ban quyền bính cho con người để lãnh đạo
và cai trị. Ngài cũng sẽ xét xử công minh cho những người nắm quyền cai trị
trong các quốc gia; vì thế, họ phải cai trị dân chúng theo thánh ý của Thiên
Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chữa lành mười người phong hủi; nhưng chỉ có một
người ngoại đạo biết nguyên do của việc được chữa lành và trở lại cám ơn Thiên
Chúa. Chúa hỏi: " Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín
người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người
ngoại bang này?"
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Mọi quyền bính xuất phát từ Thiên Chúa.
1.1/ Quan niệm của Sách Khôn Ngoan về quyền bính: Một người sẽ nhận ra đây là những quan niệm rất mới lạ về
quyền bính, vì người thế gian cho sở dĩ họ có quyền là vì công sức hay tài cán
của họ; vì thế, họ cai trị dân chúng theo sự khôn ngoan của họ, mà không bao giờ
thắc mắc về kết quả của sự cai trị của họ. Ngược lại quan niệm này, tác giả
Sách Khôn Ngoan dạy:
(1) Quyền bính của con
người được ban xuống từ Thiên Chúa: "Vì chính Đức Chúa đã ban cho chư vị
quyền bính và chính Đấng Tối Cao đã ban quyền thống trị. Cũng chính Người sẽ kiểm
tra các việc chư vị làm và dò xét những điều chư vị toan tính." Quan niệm
này không chỉ áp dụng cho người nắm quyền bính trong Giáo Hội, mà còn bao trùm
cả những người cai trị các quốc gia, cho dù họ có biết hay không: "Vậy,
hãy lắng nghe, hãy cố hiểu, hỡi các bậc quân vương; hãy học cho biết, hỡi những
vị đang nắm quyền trên khắp cõi trần gian. Mở tai ra, hỡi những ai đứng đầu
trong thiên hạ, đang tự hào vì có đông đảo chư dân."
(2) Kẻ nắm chức vụ cao
mấy đi nữa cũng chỉ là bề tôi của Thiên Chúa: "Chư vị là bề tôi phụng sự
vương quyền Người."
(3) Thiên Chúa sẽ xét
xử những kẻ có quyền bính. Ngài sẽ luận phạt những kẻ không biết xét xử công
minh: "Quả vậy, người phận nhỏ được thương tình miễn thứ, kẻ quyền thế lại
bị xét xử thẳng tay. Chúa Tể muôn loài không bao giờ vị nể, kẻ quyền cao chức
trọng, Người cũng chẳng kiêng dè."
1.2/ Những điều quan trọng
mà kẻ có nắm quyền bính phải thực hiện:
(1) Họ phải biết xét xử
công minh, tuân giữ lề luật, và tuân hành theo ý Thiên Chúa. Nếu không, Thiên
Chúa sẽ có "một án quyết thật nghiêm minh vẫn dành sẵn cho những kẻ có chức
có quyền."
(2) Mọi người đều bình
đẳng trước Thiên Chúa; nhưng người có quyền hành sẽ bị xét xử nặng hơn những
người phận nhỏ: "Sang hay hèn đều do Người tạo tác, đều được Người chăm
sóc hệt như nhau, nhưng kẻ quyền cao sẽ bị tra vấn nghiêm nhặt."
(3) Càng quyền cao chức
trọng càng phải học biết khôn ngoan để biết xét xử cho đúng đắn: "Vậy, hỡi
các bậc vua chúa quan quyền, những lời tôi nói đây, xin gửi tới chư vị để chư vị
học biết lẽ khôn ngoan, mà khỏi phải sẩy chân trật bước."
(4) Người nắm quyền phải
biết Lề Luật để sống thánh thiện: "Ai sống thánh và tuân giữ luật thánh,
thì được kể là bậc thánh nhân. Ai học hỏi luật thánh, thì sẽ tìm được lời bào
chữa."
2/ Phúc Âm: Lòng biết ơn.
Bài Phúc Âm này thường
được đọc trong ngày Lễ Tạ Ơn mỗi năm. Mục đích là để nhắc nhở cho mọi người biết
nhận ra ơn và cám ơn Thiên Chúa.
2.1/ Phải biết ơn trước
khi cám ơn: Trên đường lên Jerusalem, Đức
Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samaria và Galilee. Lúc Người vào một làng
kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn
tiếng: "Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!"
- Tình trạng bi thảm của
những người phong cùi: Vì người Do-Thái rất chú trọng đến vấn đề thanh sạch bên
ngòai, những người phong cùi không được ở chung với dân; mà phải sống cách biệt
bên ngòai làng của dân ở (Lev 13:46, Num 5:2). Họ không được phép tiếp xúc trực
tiếp với dân và phải la lớn để mọi người được biết sự có mặt của họ mà tránh đi
(Lev 13:45).
- Để chứng tỏ mình đã
hết bệnh phong cùi, họ phải được xem xét cẩn thận bởi các tư tế. Khi nào các tư
tế tuyên bố họ đã sạch; bấy giờ họ có thể trở về sinh họat bình thường với dân
trong làng (Lev 14:2-3). Đó là lý do tại sao Đức Giêsu bảo họ: "Hãy đi
trình diện với các tư tế." Đang khi đi thì họ được sạch.
2.2/ Những người “ở
ngòai” dễ nhận ra ơn hơn những người “ở trong”:
- Tâm tình biết ơn của
người Samaria: Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn
tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta
lại là người Samaria. Đức Giêsu nói: "Không phải cả mười người đều được sạch
sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa,
mà chỉ có người ngoại bang này?"
- Người Do-Thái khinh
thường và sống xa cách với người Samaria. Điểm lạ ở đây là 9 người phong
Do-Thái khi bị chính dân mình khai trừ đã mở rộng vòng tay cho người phong
Samaria được sống chung với họ. Khi con người bị đau khổ và bỏ rơi, có lẽ con
người dễ đòan kết và sống chung với nhau hơn.
- Người Samaria, tuy bị
người Do-Thái khinh thường, nhưng nhiều lần được chính Chúa Giêsu khen tặng.
Trong câu truyện “Ai là người thân cận của tôi?” Chúa Giêsu đã đề cao người
Samaria Nhân Hậu hơn các thầy tư tế và Lêvi, vì ông là người biết tỏ lòng
thương xót với người bị đánh trọng thương dọc đường: ông đã vực người trọng
thương lên lừa và đưa về quán trọ săn sóc cẩn thận và hứa sẽ trả mọi phí tổn
tương lai cho chủ quán trọ (Lk 10:30-37). Trong cuộc đàm thọai giữa Đức Kitô và
người phụ nữ xứ Samaria, chị đã trở thành nhà truyền giáo đầu tiên của Chúa
Giêsu, nhiệt thành loan báo về Người cho các dân trong làng của chị (Jn
4:39-41).
- Biết ơn là xứng đáng
đón nhận thêm ơn: Rồi Người nói với anh ta: "Đứng dậy về đi! Lòng tin của
anh đã cứu chữa anh." Không phải chỉ được thanh sạch bên ngòai, anh còn được
thanh sạch cả bên trong. Chính vì lòng tin mà anh đã xứng đáng được hưởng ơn cứu
độ.
2.3/ Tại sao con người vô
ơn? Có nhiều lý do: (1) vì con người không
chịu suy nghĩ để nhận ra ơn, họ nghĩ mọi sự trên đời tự nhiên mà có mà không cần
suy nghĩ tại sao nó có; (2) họ giả sử tất cả mọi người phải hành động như vậy:
là Thiên Chúa phải ban ơn; là cha mẹ phải nuôi nấng con cái; là thầy phải dạy dỗ
học sinh; và (3) họ sợ nếu nhận ra ơn, họ phải trả ơn. Vì thế, họ vô ơn:
(1) với Thiên Chúa: Đấng
đã dựng nên và không ngừng ban mọi ơn lành cho họ. Ngày Lễ Tạ Ơn là dịp để con
người nhận ra và tạ ơn Thiên Chúa qua việc tham dự Thánh Lễ và làm ơn cho những
người kém may mắn; nhưng thử hỏi được bao nhiêu người làm những điều này? Thay
vào đó, họ lo tổ chức ăn uống vui chơi cho bản thân và cho gia đình họ.
(2) với cha mẹ: những
người đã cưu mang, nuôi nấng, và dạy dỗ họ trong suốt một phần tư của cuộc đời.
Lẽ ra, khi cha mẹ về già không còn tự săn sóc mình được nữa, họ phải phụng dưỡng
và săn sóc trở lại, thì họ lại cho vào các nhà hưu dưỡng rồi tự an ủi mình:
“chính phủ sẽ săn sóc các ngài tốt hơn ta.”
(3) với tha nhân: những
người đi trước nhiều khi đã dành cả cuộc đời để nghiên cứu, xây dựng, và phát
minh ra những tiện nghi mà chúng ta đang được hưởng. Bổn phận của những người
thụ hưởng là tiếp tục để làm cho thế giới mỗi ngày một tốt đẹp hơn chứ không phải
chỉ ù lỳ thụ hưởng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần khôn
ngoan để học hỏi và nhận định: mọi sự có trên đời này đều đến từ Thiên Chúa. Nếu
Chúa đã ban nhiều, Ngài sẽ đòi lại nhiều. Người nắm quyền thế sẽ chịu xét xử
nghiệm nhặt; vì thế, cần biết khôn ngoan để phục vụ và hướng dẫn những người
thuộc quyền mình theo đường lối của Thiên Chúa.
- Chúng ta phải biết
nhìn nhận và so sánh để nhận ra ơn. Đã nhận ơn phải biết nói lời cám ơn. Cám ơn
xuông chưa đủ, mà còn phải biết thi ơn cho người đã làm ơn hay cho người khác để
sự tốt lành tiếp tục lan tràn.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
15/11/17
THỨ TƯ TUẦN 32 TN
Th.
An-be-tô Cả, giám mục, tiến sĩ HT
Lc
17,11-19
HAI NHỊP CỦA LÒNG BIẾT ƠN
“Thế thì chín người kia đâu?” (Lc 17,17)
Suy niệm: Tháng 2 năm 2006, tờ
Thời Báo San Francisco đưa tin một nhóm cứu hộ đã cật lực nhiều giờ để cứu con
cá voi mắc lưới trên biển. Thoát chết, sau khi bơi lượn nhiều vòng bày tỏ niềm
vui, nó quay lại “nựng” từng người thợ lặn, đẩy nhẹ nhẹ quanh người họ. Chàng
trai trực tiếp cắt sợi dây ở miệng cá voi nói mắt nó cứ nhìn theo anh mãi. Mạng
sống của chín người phong cũng bị cột chặt vào tấm lưới phong cùi. Thế nhưng,
sau được gỡ khỏi, họ quên trở lại bày tỏ tâm tình cơ bản của kẻ thọ ơn. Não trạng
coi mình đương nhiên được hưởng, vì là Dân Chúa chọn, đã tạo ra mẫu số chung
“ăn cháo đá bát” này. Ngạn ngữ Pháp nói lòng biết ơn là “trí nhớ của con tim”.
Người Samari này trở lại cám ơn Đức Giê-su vì quả tim anh cảm nhận việc Ngài
làm cho anh không phải là chuyện đương nhiên mà là ân huệ lớn lao mà tình yêu
Chúa dành cho anh.
Mời Bạn: Con
cá voi dạy cho bạn hai nhịp phải làm khi nhận một ân huệ: (1) cảm nếm hạnh phúc
của ân huệ đem lại (bơi lượn nhiều vòng); (2) bày tỏ tâm tình tạ ơn cách cụ thể
(“nựng” từng người). Thiếu một trong hai nhịp này, bạn chưa có “trí nhớ của con
tim.”
Chia sẻ: Bạn
nghĩ sao về nhận định của thánh I-nha-xi-ô: “Lòng vô ơn là sự lạnh lùng với những
món quà và hồng ân nhận được. Nó là nguyên do và khởi đầu của tội lỗi và mọi điều
tồi tệ”?
Sống Lời Chúa: Xét xem tôi thường tỏ ra vô ơn với ai và thực hiện một
cử chỉ cụ thể với người đó để tỏ lòng biết ơn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, chúng
con thường kêu xin hơn là bày tỏ lòng tri ân mỗi khi cầu nguyện. Xin giúp chúng
con nhớ rằng mọi sự là hồng ân, để chúng con luôn sống trong tâm tình biết ơn
sâu xa với Chúa và người khác.
(5 phút Lời Chúa)
Sấp mình tạ ơn (15.11.2017 – Thứ tư Tuần 32 Thường niên)
Biết ơn là con đường đơn sơ dẫn đến kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa. Khi tôi biết đời tôi là một quà tặng nhận được, thì tôi sẽ sống nó như một quà tặng để trao đi.
Suy niệm:
Giáo dục cho trẻ em về
lòng biết ơn là điều quan trọng.
Cha mẹ thường dạy con cám
ơn người làm ơn cho mình.
Cám ơn là đi từ món quà
đến người trao tặng.
Mỗi người chúng ta đã
nhận biết bao quà tặng trong đời,
nên chẳng ai là người
trọn vẹn nếu không có lòng biết ơn.
Bản thân tôi là một quà
tặng do nhiều người cho :
cha mẹ, ông bà tổ tiên,
các anh hùng dân tộc…
Chỉ cần để lòng
biết ơn đi lên mãi, lên tới nguồn,
tôi sẽ gặp được Thiên
Chúa như Người Tặng Quà viết hoa.
Đức Giêsu đã làm bao điều
tốt đẹp cho người thời của Ngài.
Nhưng ít khi Tân Ước nói
đến chuyện họ cám ơn,
mà Đức Giêsu cũng chẳng
bao giờ đòi ai cám ơn mình sau phép lạ.
Bởi đó bài Tin Mừng hôm
nay thật độc đáo.
Mười người phong ở với
nhau trong một ngôi làng.
Họ biết tiếng của Đức
Giêsu và biết cả tên của Ngài.
Họ vui mừng thấy Ngài vào
làng, nhưng họ chỉ được phép đứng xa xa.
Tiếng kêu của họ vừa bi
ai, vừa đầy hy vọng được chữa lành:
“Lạy Thầy Giêsu, xin
thương xót chúng tôi!” (c. 13).
Đức Giêsu đã chẳng chữa
lành cho họ ngay lập tức,
như từng làm với một
người phong khác trước đây (Lc 5, 12-16).
Dù họ chưa được sạch,
Ngài đã bảo họ đi trình diện với các tư tế
để cho thấy là mình đã
khỏi rồi.
Họ đã tin tưởng, vâng
phục, ra đi, và được khỏi bệnh.
Chỉ có một người, khi
thấy mình được khỏi, liền quay lại.
Anh ấy lớn tiếng tôn vinh
Thiên Chúa, và sấp mình tạ ơn Đức Giêsu.
Đó là một người Samaria,
thời đó bị coi như người nước ngoài (c. 18).
Anh được ơn lành bệnh, và
hơn nữa anh có lòng biết ơn.
Tôn vinh Thiên Chúa thì
làm ở nơi nào cũng được.
Nhưng anh muốn trở lại để
gặp người Thiên Chúa dùng để thi ân cho mình.
Cám ơn, biết ơn, tạ ơn,
là mở ra một tương quan riêng tư mới mẻ.
Người phong xứ Samaria
không chỉ được chữa lành.
Anh còn có kinh nghiệm
gặp gỡ Thiên Chúa và người thi ân là Thầy Giêsu.
Ơn này còn lớn hơn ơn
được khỏi bệnh.
Đức Giêsu có vẻ trách móc
khi hỏi ba câu hỏi liên tiếp (cc. 17-18).
Ngài ngạc nhiên vì không
thấy chín người Do thái kia trở lại cám ơn.
Đôi khi người Kitô hữu
chúng ta cũng thiếu thái độ tạ ơn khi cầu nguyện.
Dường như chúng ta ít mãn
nguyện với những ơn đã được tặng ban.
Chúng ta chỉ buồn Chúa về
những ơn xin mãi mà không được.
Nhận ra ơn Chúa ban cho
đời mình và biết tri ân: đó là một ơn lớn.
Người có lòng biết ơn bao
giờ cũng vui.
Họ hạnh phúc với những gì
Chúa ban mỗi ngày, vào giây phút hiện tại.
Biết ơn là con đường đơn
sơ dẫn đến kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa.
Khi tôi biết đời tôi là
một quà tặng nhận được,
thì tôi sẽ sống nó như
một quà tặng để trao đi.
Cầu nguyện:
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn
hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ
là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được
bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho
con,
hay vì Cha muốn ban cho
con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì
Cha làm cho đời con.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
15 THÁNG MƯỜI MỘT
Đức Giêsu Trân Trọng
Những Thực Tại Đời
Thường
Tiệc cưới Cana trong
Tin Mừng Gioan là một câu chuyện hùng hồn nổi bật trên bối cảnh giáo lý mạc khải.
Ở đầu sứ vụ mêsia của Người, Đức Giêsu Na-da-rét xuất hiện ở Cana, xứ Galilê, để
dự một đám cưới. Người không đến đó một mình. Mẹ Người và các môn đệ Người cùng
có mặt với Người ở đó.
Điều ấy cho thấy tầm
quan trọng mà Đức Giêsu gán cho biến cố này. Tuy nhiên, thoạt nhìn, chúng ta
không khỏi ngạc nhiên. Cả bốn Sách Tin Mừng đều trình bày Đức Giêsu như một người
dốc hết tâm lực để phụng sự Cha trên trời (Lc 2,49). Chính Người nói rằng sứ mạng
của Người qui hướng vào việc thiết lập Nước Thiên Chúa, không phải một vương quốc
trên cõi đời này.
Vì thế, việc Người
tham dự một đám cưới có thể thoạt thấy như chẳng ăn nhập gì với tiếng gọi và với
lối sống của Người. Nhưng sự thật không phải thế. Thầy Chí Thánh muốn dạy chúng
ta biết cách định hướng các thực tại trần gian này qui hướng về Vương Quốc của
Thiên Chúa. Đám cưới ở Cana là một biến cố nêu bật giáo huấn này. Đức Giêsu
liên đới với các thực tại đời thường của cuộc sống con người để giúp chúng ta
hiểu rằng những giá trị đích thực của con người có thể và phải phục vụ cho một
định mệnh siêu vượt trên cuộc sống trần gian này.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 15-11
Thánh Albertô Cả,
Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh
Kn 6,2-12; Lc 17,
11-19.
LỜI SUY NIỆM: “Không phải cả mười người đều được sạch sao?”
Khi chúng ta thấy mười
người phung hủi được Chúa Giêsu chữa lành, chỉ có một người trở lại chúc tụng
Thiên Chúa, còn chín người kia thì không. Trong đời thường của chúng ta cũng
thường vấp phải điều này. Khi chúng ta lâm vào hoàn cảnh đau thương, túng quẩn,
chúng ta chạy đến nơi này nơi nọ để cầu xin Chúa cứu giúp, ban ơn để được an
lành, nhưng sau đó chúng ta lại đi vào quên lãng. Không những thế, hằng ngày
chúng ta nhận được biết bao hồng ân của Ngài, qua một bữa ăn, một ngày sống an
lành... chúng ta có bao giờ tạ ơn và tôn vinh Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, Biết
bao nhiêu lần trong ngày chúng con đã quên tạ ơn và tôn vinh Chúa. Xin ban cho
mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn biết tạ ơn Chúa trong mọi lúc và
trong mọi sự.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 15-11
THÁNH ALBERTÔ CẢ
Gíam mục, Tiến Sĩ Hội
Thánh (1206 - 1280)
Thánh Albertô là một
người thuộc thế hệ đầu của dòng Đaminh, Dòng được thành lập năm 1216. Ngài góp
phần lớn trong những tiến triển quan trọng về trí thức trong thế kỷ XIII và Đức
giáo hoàng Piô XII năm1941 đã đặt Ngài làm thánh bảo trợ cho những ai say mê
nghiên cứu các khoa học tự nhiên.
Ngài sinh ra tại
Swabia có lẽ vào năm 1206, là con trưởng thuộc một gia đình quí phái trong binh
nghiệp. Điều người ta biết rõ về người thiếu niên Đức này là lòng yêu thích
nghiên cứu học hành và thiên nhiên. Khi thì Ngài học với các thầy dòng
Benedictô, khi thì Ngài lạc lõng trong miền quê, say mê quan sát cây cỏ khám
phá các loại cây và để cho năng khiếu chín mùi trước cảnh sắc của tạo hóa.
Cuối cùng Albertô đã bỏ
rơi truyền thống hiệp sĩ của gia đình. Một người cậu đã dẫn Albertô tới Bologne
để hoàn tất việc học hành. Ngài nghe một bài giảng của chân phước Giocdano
(Jordain) miền Saxe thuộc dòng Đaminh và cảm thấy được Chúa gọi, Nhưng lại ngập
ngừng vì mới 16 tuổi. Ông cậu muốn Albertô quên đi ý tưởng này. Nhưng ở Padua,
Albertô gặp lại chân phước Giocđanô và sau một cuộc đàm thoại đã nói với Ngài:-
Thưa thày ai đã tỏ lộ lòng con cho Ngài ?
Từ đây không ai ngăn cản
nổi ơn kêu gọi của Albertô nữa. Ngài vào nhà tập dòng anh em giảng thuyết. Lời
cầu nguyện của Ngài diễn tả một ước muốn sống tự thoát: - "Lạy Chúa Giêsu
Kitô, con kêu lên Chúa, xin Chúa đừng để con bị quyến rũ bởi những lời hão huyền
về danh giá gia đình, về uy thế của dòng tu, về sự lôi cuốn của khoa học".
Dưới ánh sáng chân lý
Ngài đã tuân theo, Albertô nhiệt thành nghiên cứu khoa học và trở thành tu sĩ
thánh thiện, nhà tư tưởng lớn, giáo sư siêu việt, nhà sưu tầm bách khoa tài ba.
Ngài có sự hiểu biết uyên bác đặc biệt như một số những nhà trí thức lớn thời
Trung cổ.
Luôn luôn tìm gia tăng
những hiểu biết, Albertô rảo qua khắp nước Đức, thu thập những ý niệm về các loại
súc vật cây cỏ, trước tác những tác phẩm về khoa học tự nhiên. Ngài quan tâm tới
các thuyết của Aristote và tìm cách Kitô hóa các lý thuyết đó. Ngài lần lượt dạy
học tại Cvologne, Pribourg, Ratisbonne, Strasbourg, Ngài sẽ ảnh hửơng trọng yếu
tới người học trò thiên phú này là "bò câm", Ngài tiên báo rằng: tiếng
rống của con bò này sẽ vang dội khắp nơi.
Khoảng năm 1240, Ngài
tới Paris giữ ghế giáo sư tại đây. Các lớp học quá nhỏ không đủ để dung nạp hết
các thính giả của Ngài, Ngài phải dạy họ tại công trường nay vẫn còn giữ tên
Ngài: công trường Maubert hay Albertô cả. Lời Ngài có uy tín đến nỗi để chấm dứt
cuộc tranh luận chỉ cần nói: "Thày Albertô đã nói vậy".
Tài năng Ngài lan rộng
tại đại học Paris, đạihọc danh tiếng nhất thế giới. Ngài trú ngụ tại nhà dòng
thánh Giacobê, viết nhiều tác phẩm về nhiều đề tài khác nhau: thần học, toán học,
luân lý, chính trị, triết học, hình học, điạ chất học. Người ta kể rằng: ngày
kia một thày dòng Đaminh vô danh đến trước mặt thánh Albertô, tội nghiệp cho sự
lao lực của Ngài và khuyên Ngài nghỉ ngơi lo lắng tới sức khỏe. Đây lại chẳng
phải là một thần dữ mặc lốt thày dòng sao ? Để trả lời, thánh làm dấu thánh
giá. Thế là hết các cám dỗ, satan trốn mất.
Vua thánh Luy (Louis)
tỏ tình nghĩa với thày dòng thời danh này và trao cho Ngài nhiều kỷ vật quí báu
trước khi nghe về Đức, bởi vì thánh Albertô được đặt làm giám tỉnh. Vâng lệnh đức
giáo hoàng , Ngài giã từ căn phòng sách vở và học trò, suốt ba năm Ngài đi bộ,
không tiền của, ăn xin để thăm các nhà dòng và lập nhiều nhà mới. Roma kêu mời
Ngài để làm sáng tỏ cuộc tranh cãi giữa các giáo sĩ. Albertô được một thời an
bình trong dòng để dạy học và viết lại những quan sát và suy tư của mình. Nhưng
Đức giáo hoàng buộc Ngài nhậm chức Đức giám mục Ratisbonne, một trách vụ năng nề.
Trong trung tâm giàu
có phồn thịnh này, người ta kể lại rằng: Đức giám mục không có lấy "một đồng
tiền trong két, một giọt rượu trong hầm, một nhúm bột trong vựa". Dầy vậy,
thánh ALBERTO vẫn trả hết nợ và xây dựng một nhà thương. Khi đã hoàn thành công
cuộc hết sưc có thể, Ngài xin từ chức để trở lại đời sống một tu sĩ đơn giản.
Năm 1623 theo lệnh Đức giáo hoàng, Ngài đi kêu gọi nghĩa binh trong các làng
quê nước Đức.
Một năm sau Đức giáo
hoàng qua đời và Ngài ngừng công việc lại. Thánh Albertô thấy cần được hồi tâm.
Ngài lui về tu viện Surtzbourg và đắm mình vào cuộc nghiên cứu và chỉ đi sửa lại
những cuộc tranh luận cãi. Một lần nữa lại được rảo gọi qua các đô thị lớn nước
Đức, Ngài thánh hiến các thánh đường, truyền chứa cho các giáo sĩ. Năm 1270
Ngài đến dạy tại Cologne. Ơ Công đồng Lyon, Ngài bênh vực Rodolphe I miền
Habbsourg. Bảy năm sau, tức năm 1277, dầu đã già Ngài buộc phải đi Paris để
bênh vực cho giáo thuyết học trò mình là Tôma Aqunô.
Albertô hoàn toàn già
nua, Ngài chọn cho mình một phần mộ trong dòng và mỗi ngày đến đọc kinh nhật tụng
cầu cho kẻ chết, để cầu cho chính mình. Dần dần Ngài đâm ra lú lẫn. Một lần có
du khách hỏi thăm Ngài trả lời chắc nịch: - "Albertô không còn ở đây nữa,
ông ta ..."
Ngài qua đời êm ái tại
phòng riêng giữa các anh em đầy chung quanh, Ngài được phong làm tiến sĩ Hội
Thánh năm 1931.
(daminhvn.net)
15 Tháng Mười Một
Xuống Núi
Có hai vị thiền sư
vừa xuống núi. Họ đi vào trong một con đường lầy lội. Cơn mưa nặng hạt đã khiến
một thiếu nữ xinh đẹp không thể băng qua ngã tư lầy lội được... Lập tức, một
trong hai vị thiền sư đến bồng người thiếu nữ trên tay và đưa qua đường. Vị sư
khác lấy làm khó chịu nên không mở miệng nói với bạn mình một lời. Mãi một lúc
sau, không còn nhịn được nữa, ông ta mới lên tiếng: "Chúng ta là người tu
hành, không được phép gần đàn bà, nhất là những cô gái đẹp. Sao anh lại bồng
đàn bà trên tay?".
Vị sư đã bồng người
thiếu nữ trên tay mỉm cười đáp: "Tôi đã bỏ cô ta tại chỗ rồi. Còn anh sao
cứ mãi mang cô ta tới đây".
Chúa Giêsu đã nói:
"Chính từ lòng người mới xuất phát mọi tội ác... Sự hoán cải đích thực
chính là hoán cải nội tâm. Tất cả những thực hành đạo đức bên ngoài, nếu không
đi cùng một ý hướng ngay lành và một tâm hồn sám hối thực sự, chỉ là trò giả
hình...
Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét