Trang

Thứ Tư, 24 tháng 1, 2018

25-01-2018 : THÁNH PHAOLÔ TÔNG ĐỒ TRỞ LẠI - LỄ KÍNH

25/01/2018
THÁNH PHAOLÔ TÔNG ĐỒ TRỞ LẠI.
Lễ kính.
Kết thúc tuần lễ cầu cho các Kitô hữu hợp nhất.

* Trên đường đi Đamát, ông Saolô quê thành Tácxô đã khám phá ra hai điều: Trước hết, Đức Giêsu Nadarét là Đấng đã phục sinh, cũng là Đấng được Thiên Chúa ban phúc lành; thứ đến, Đấng phục sinh với các Kitô hữu là các anh em người, chỉ là một.
Khám phá này là nguồn ánh sáng soi chiếu cả cuộc đời thánh nhân.


Bài Ðọc I: Cv 22, 3-16
"Kêu danh thánh Chúa, tôi chỗi dậy".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Ngày ấy, Phaolô nói với dân chúng: "Tôi là người Do-thái, sinh tại Tarsê xứ Cilicia, đã được nuôi nấng trong thành này, đã được đào tạo theo chân lý lề luật cha ông dưới chân ông Gamaliêl. Tôi nhiệt thành với lề luật cũng như hết thảy quý vị hôm nay. Tôi đã bắt bớ giết chóc đạo này, xiềng xích và bỏ tù cả đàn ông lẫn đàn bà. Như thầy thượng tế và toàn thể hội đồng kỳ lão đã làm chứng điều đó. Các ngài đã trao cho tôi chứng minh thư để tôi đến kiếm anh em ở Ðamas, bắt trói họ và điệu về Giêrusalem để trừng phạt.
Xảy đến lúc đó khoảng trưa, tôi đang trên đường gần đến Ðamas, thình lình một luồng ánh sáng chan hoà từ trời chói rạng quanh tôi. Tôi ngã xuống đất và nghe tiếng phán bảo tôi: "Saolô, Saolô, sao ngươi bắt bớ Ta?" Tôi đáp: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Người trả lời: "Ta là Giêsu Nadarét mà ngươi đang bắt bớ". Và những người cùng ở đó với tôi lúc ấy, cũng thấy ánh sáng, nhưng không nghe tiếng Ðấng nói với tôi. Tôi hỏi: "Lạy Chúa, con phải làm gì?" Chúa liền nói với tôi: "Hãy chỗi dậy, vào thành Ðamas, ở đó sẽ nói cho ngươi tất cả những gì ngươi phải làm". Nhưng vì ánh sáng chói loà kia, tôi không còn thấy được, nên các bạn tôi cầm tay dẫn tôi vào thành Ðamas. Có một người kia tên là Anania, người đạo đức, sống theo Lề luật, và được mọi người Do-thái ở đó kính phục, đến tìm tôi và đứng gần tôi mà nói: "Hỡi anh Saolô, anh hãy nhìn!" Ngay lúc đó tôi nhìn thấy ông.
Và ông nói: "Thiên Chúa cha ông chúng ta đã tiền định cho anh biết thánh ý Người, thấy Ðấng Công Chính và nghe tiếng Người nói. Vậy anh phải làm chứng cho Người trước mặt mọi người về điều anh đã thấy và đã nghe. Và bây giờ, anh còn chần chừ gì nữa? Hãy chỗi dậy và cầu khẩn danh Người mà chịu thanh tẩy và gột rửa mình cho sạch tội lỗi".
Ðó là lời Chúa.

2. HoặcCv 9, 1-22
"Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?"
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Saolô còn mải say mê hăm doạ giết các môn đồ Chúa. Ông đến thượng tế, xin chứng minh thư gởi đến hội đường ở Ðamas, để nếu gặp ai theo đạo ấy, bất luận nam nữ, ông bắt trói đem về Giêrusalem.
Ðang khi đi đường, lúc đến gần Ðamas, bỗng nhiên một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông, ông ngã xuống đất và nghe tiếng phán rằng: "Saolô, Saolô, sao ngươi bắt bớ Ta?" Ông thưa: "Lạy Ngài, Ngài là ai?" Chúa đáp: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ; giơ chân đạp mũi nhọn thì khổ cho ngươi". Saolô run sợ và kinh hoàng hỏi rằng: "Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?" Chúa phán: "Hãy chỗi dậy, vào thành, và ở đó người ta sẽ nói cho ngươi phải làm gì". Những kẻ đồng hành với ông đứng lại, hoảng hốt; họ nghe rõ tiếng mà không thấy ai. Saolô chỗi dậy khỏi đất, mắt ông vẫn mở mà không trông thấy gì. Người ta cầm tay dẫn ông vào thành Ðamas; ông ở lại đấy ba ngày mà không thấy, không ăn, cũng không uống.
Bấy giờ ở Ðamas, có một môn đồ tên là Anania; trong một thị kiến, Chúa gọi ông rằng: "Anania". Ông thưa: "Lạy Chúa, này con đây". Chúa phán: "Hãy chỗi dậy và đến phố kia gọi là phố "Thẳng", và tìm tại nhà Giuđa một người tên Saolô, quê ở Tarsê; nó đang cầu nguyện". (Saolô cũng thấy một người tên Anania bước vào, và đặt tay trên ông để ông được sáng mắt). Anania thưa: "Lạy Chúa, con đã nghe nhiều người nói về người này rằng: ông đã gây nhiều tai ác cho các thánh của Chúa tại Giêrusalem; tại đây, ông đã được các thượng tế cho phép bắt trói tất cả những ai kêu cầu danh Chúa". Nhưng Chúa phán: "Cứ đi, vì người này là lợi khí Ta đã chọn, để mang danh Ta đến trước dân ngoại, vua quan và con cái Israel. Ta sẽ tỏ cho nó biết phải chịu nhiều đau khổ vì danh Ta".
Anania ra đi, bước vào nhà, và đặt tay trên Saolô mà nói: "Anh Saolô, Chúa Giêsu, Ðấng hiện ra với anh trên đường đi đến đây, sai tôi đến cùng anh, để anh được thấy và được tràn đầy Thánh Thần. Tức thì có thứ gì như những cái vảy rơi khỏi mắt ông, và ông được sáng mắt.
Ông chỗi dậy chịu phép rửa, và sau khi ăn uống, ông được lại sức, ông ở lại ít ngày cùng với các môn đồ thành Ðamas. Và lập tức ông rao giảng trong các hội đường rằng Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa. Mọi người nghe rao giảng đều kinh ngạc và nói rằng: "Há chẳng phải ông này đã bách hại những người đã cầu khẩn danh ấy tại Giêrusalem, và cũng đã tới đây mà truy nã họ để điệu họ về cho các thượng tế sao?"
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 116, 1. 2
Ðáp: Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian (Mc 16, 15).
Xướng: 1) Toàn thể chư dân, hãy ngợi khen Chúa! Hết thảy các nước, hãy chúc tụng Người! - Ðáp.
2) Vì tình thương Chúa dành cho chúng ta thực là mãnh liệt. và lòng trung thành của Chúa tồn tại muôn đời. - Ðáp.

Alleluia: Ga 15, 16
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta đã chọn các con giữa thế gian, hầu để các con đi và mang lại hoa trái, để hoa trái các con tồn tại". - Alleluia.

Phúc Âm: Mc 16, 15-18
"Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu (hiện ra với mười một môn đệ và) nói: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những dấu lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân được lành mạnh".
Ðó là lời Chúa.


Suy niệm :
Để có một người cộng tác vào một công việc đặc biệt trong chương trình cứu độ nhân loại, Thiên Chúa có nhiều cách chọn gọi và nhiều đối tượng được gọi khác nhau: Có những cách gọi bằng cách tác động từ nơi trái tim do lòng mộ mến hoặc, hoặc tác động lên ý thức tìm đến ơn gọi bằng sự nghiên cứu truy tầm về Thiên Chúa; cũng có cách gọi bằng cách làm cho nhiều lý do ngoại cảnh khác nhau tạo nên sự thích thú của đối tượng tìm đến ơn gọi (thậm chí có cả sự tiêu cực như thích được thế này thế kia…). Đối tượng được gọi cũng thật phong phú: có người được chuẩn bị từ trong lòng mẹ, có người được chuẩn bị từ nhỏ nơi gia đình, có người thậm chí đến từ một sự thất bại nơi tình cảm hay xã hội và có người được gọi bằng cả những cú ngã đau trên đường đời… Có người được gọi ngay trên ghế nhà trường, có người được gọi ngay trên bàn giấy hay nơi công sở làm việc, có người học thức hay sang giàu và cũng có người xuất thân từ nghèo khó quê mùa… Chúa có cách của Chúa, dù đến với ơn gọi thế nào hay đối tượng nào, thì khi đã gọi, Chúa có cách của Chúa và điều quan trọng là đối tượng được gọi dám cộng tác với ơn Chúa thì Chúa sẽ biến đổi họ nên khí cụ của Người.

Trường hợp của thánh Phao-lô hôm nay là một trong những cách chọn gọi của Chúa, nhưng thật đặc biệt và lạ lùng. Thánh nhân được gọi bằng một cú sốc, bằng một cú “quật ngã” làm cho sáng mắt ra và chấp nhận quy phục đức tin.

Phao-lô được gọi trong bối cảnh không ai có thể ngờ: Ngài xuất thân từ một gia đình thế giá với hộ khẩu “công dân mẫu quốc Rô-ma”, có bằng cấp ăn học đàng hoàng với tiến sĩ luật Gamalien nổi tiếng, thông thạo đạo lý Do-thái Giáo, nhiệt thành với đạo và đang “thi đua lập thành tích” đi làm “công an nằm vùng” truy bắt “những phần tử lạc đạo”…  Đang hăng say thành công với con đường chọn lựa của mình, đùng một cái bị quật ngã và quay ngoắt 180o  trở lại quy phục Đấng mà bấy lâu nay Phao-lô tìm cách triệt tiêu.

Sự trở lại của thánh Phao-lô có thể nói là “không thể tin được”. Thật vậy, đang ở chiến tuyến bên này, đùng một cái sang chiến tuyến bên kia và sống chết cho vị chỉ huy chiến tuyến mới này, nên cả trong đạo lẫn đời thời đó phải nghi ngờ. Chuyện lạ như thế thật khó tin, chỉ trừ khi đó là “một phép lạ”. Và phép lạ đó được chính Phao-lô kể lại là “biến cố té ngựa”.

- Cụ thể là về thủ đô gặp các Tông Đồ  để xin “giấy phép” đi giảng, thì các sếp ở Giê-ru-sa-lem nghi ngại (biết đâu CS cài vào thì nguy), cho đến khi Phao-lô kể ra phép lạ, và sau đó do tiếng Chúa Thánh Thần phán xác nhận chọn Phao-lô và Barnaba (Cv 13,2).
- Sách Công Vụ Tông Đồ cũng nói đến việc khi Phao-lô giảng thì các tín hữu nghi ngờ, người Do-thái cũng nghi ngờ, và thậm chí cả những quan chức nhà nước như đại đội trưởng Claudio, tổng trấn Phê-lích và Phê-tô và tiểu vương Ác-gíp-pa cũng nghi ngờ lý lịch của Phao-lô. Và tất cả đều được Phao-lô biện luận bằng câu chuyện “phép lạ ngã ngựa” trên đường Đa-mát.

Có thể nói, bối cảnh diễn ra câu chuyện và những nghi ngờ xảy ra sau đó, và chính việc kể lại câu chuyện “phép lạ” đã giúp xóa tan nghi ngờ (x. Cv 9; 22; 26), chúng ta thấy có vẻ mang dáng dấp huyền thoại “bảy thực ba hư” trong một sự kiện có thật.

Chẳng hạn, người Việt chúng ta có giai thoại về Lý Công Uẩn, Lê Lợi, Mai Thúc Loan…:
- Tương truyền rằng, từ sau khi pháp sư Cao Biền của bọn Phương Bắc yểm bùa chặt đứt long mạch, thì ở Nước Nam không thể phát vương được nữa, và dân tin rằng họ sẽ mãi mãi làm nô lệ cho phương Bắc. Vì thế, để kêu gọi quân sĩ và dân ủng hộ, Lê Công Uẩn đã bày ra câu chuyện ông thấy một con rồng bay từ dưới sông Hồng lên trời, ý nói rồng vẫn ở Việt Nam, dân đã tin theo và Lý Công uẩn đã thắng Tàu, tuyên bố chủ quyền và lấy niên hiệu là Lý Thái Tổ, rồi ông đặt tên nơi thấy rồng là Thăng Long và tồn tại cho đến ngày nay.
- Rồi chuyện rùa thần trao bảo kiếm cho Lê Lợi…
- Hay chuyện Mai Thúc Loan từ anh nông phu đen trùng trục trở thành vua Mai Hắc Đế cũng vậy với truyền thuyết về con trâu đằm dưới kênh lên húc chết con hổ…

Chúng ta không loại trừ một chút huyền thoại trong câu chuyện “té ngựa” giữa trưa hè nóng bức, trên sa mạc khô cháy, khát nước hoa mắt xỉu té nhào, được mấy “bà phước” đưa vào chăm sóc làm tỉnh lại và ba ngày sau ăn uống khỏe mạnh… Rồi để thuyết phục mọi người về ơn gọi, Phao-lô cần sự kiện này được lồng trong một dấu chỉ phép lạ.

Tuy nhiên, điều quan trọng không phải là nội dung câu chuyện, mà là ý nghĩa câu chuyện được ơn trở lại của Phao-lô. Câu chuyện ơn gọi của ngài để lại cho chúng ta những bài học:
- Phao-lô bị Chúa quật ngã khi đang bon bon trên đà danh vọng với những dự án toan tính của mình. Qua biến cố ngã ngựa, Phao-lô đã “mở mắt ra” khi cái vảy rơi khỏi mắt, và ngài đã thấy được cái sai quá khứ, mà bước theo ý Chúa muốn mình phải làm gì trong tương lai. Chúng ta cũng thế, khi đang tưởng chừng như thành công với những toan tính danh vọng, rất cần một cú sốc và cần đến những “Anania” giúp để mở mắt ra thấy mình đã sai và mau mắn trở lại.
- Và một khi đã được ơn trở lại, thánh Phao-lô đã để cho Chúa biến đổi nên Tông Đồ của Người và nhiệt thành làm chứng cho Chúa. Cũng thế, một khi chúng ta đã được Chúa gọi hay sau những vấp ngã, chúng ta biết đứng lên và ngoan ngoãn để cho Chúa hướng dẫn và cộng tác với Chúa để loan báo lòng thương xót của Người.

Lạy Chúa, xin cho mọi người chúng con khi đã được Chúa mời gọi vào Giáo hội Chúa, thì cũng biết như thánh Phao-lô là hăng say làm chứng cho Chúa, để danh Chúa ngày càng được nhiều người nhận biết và tin theo. Amen.

Hiền Lâm, OSC.


Lời Chúa Mỗi Ngày
Cuộc Trở Lại của Thánh Phaolô
Bài đọcActs 22:3-16; Mc 16:15-18.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự trở lại chứng minh sức mạnh của ơn thánh.
Có rất nhiều cuộc trở lại trong lịch sử được tường thuật như của Phêrô, Matthew, Mary Magdala, Augustine... , cũng như không được tường thuật như của đa số con người; nhưng chỉ có một cuộc trở lại Giáo Hội mừng kính là cuộc trở lại của thánh Phaolô. Cuộc trở lại của Phaolô được tường thuật ít nhất là 3 lần trong Sách CVTĐ (9:1-19; 22:3-16; 26:12-18), và rất nhiều lần được ám chỉ tới cách vắn gọn bởi chính Phaolô trong các Thư của ngài.
Bài đọc I có thể coi là lời tự thú đầy đủ nhất của Phaolô. Trong trình thuật này, một người có thể nhìn thấy động cơ chính của cuộc trở lại là do ơn thánh của Thiên Chúa. Ngài thay đổi hoàn toàn lề lối suy nghĩ và cách cư xử của ông bằng cách để ông ngã ngựa và bị mù, cho ông nghe thấy tiếng của Đức Kitô để chứng tỏ Ngài vẫn sống, và truyền cho ông đến gặp ông Hananiah để được chữa lành và nhận sứ vụ rao giảng Tin Mừng và làm chứng nhân cho Dân Ngoại. Trong Phúc Âm, tuy không được liệt vào Nhóm Mười Hai, nhưng Phaolô cũng được coi như một Tông-đồ, vì ông đã nhìn thấy Chúa Giêsu Phục Sinh và được chính Ngài trao cho sứ vụ làm Tông-đồ Dân Ngoại.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sự trở lại của Phaolô chứng minh sức mạnh của ơn thánh.
1.1/ Cuộc đời của Phaolô trước khi trở lại: Phaolô là người Do-thái lưu vong, sinh ra và lớn lên tại Tarsus, miền Cilicia, vùng Asia Minor (Turkey bây giờ). Ông được giáo dục bởi thầy Gamaliel để giữ Luật cha ông một cách nghiêm ngặt; và nhiệt thành phục vụ Thiên Chúa như bao người Do-thái khác. Ông Gamaliel là một Pharisee có thế giá trong dân, tiến sĩ về Luật, một thành viên của Thượng Hội Đồng, đã từng khuyên những người trong Thượng Hội Đồng phải cẩn thận khi xét xử Phêrô và các Tông-đồ (x/c Acts 5:34-40).
Phaolô đã bắt bớ Đạo của Đức Kitô, không ngần ngại giết ai theo Đạo, đã đóng xiềng và tống ngục cả đàn ông lẫn đàn bà, như cả vị thượng tế lẫn toàn thể Thượng Hội Đồng có thể làm chứng cho ông. Ông còn được các vị ấy cho thư giới thiệu với anh em ở Damascus, Syria, để ông đi bắt trói những người ở đó, giải về Jerusalem trừng trị.
Một biến cố quan trọng đã xảy ra cho ông trên đường đi Damascus để bắt bớ các Kitô hữu. Biến cố này đã thay đổi toàn bộ cuộc đời của ông. Theo như lời ông tường thuật: "Đang khi tôi đi đường và đến gần Damascus, thì vào khoảng trưa, bỗng nhiên có một luồng ánh sáng chói lọi từ trời chiếu xuống bao phủ lấy tôi. Tôi ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với tôi: "Saul, Saul, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” Tôi đáp: "Thưa Ngài, Ngài là ai? Người nói với tôi: "Ta là Giêsu Nazareth mà ngươi đang bắt bớ. Những người cùng đi với tôi trông thấy có ánh sáng, nhưng không nghe thấy tiếng Đấng đang nói với tôi. Tôi nói: "Lạy Chúa, con phải làm gì?” Chúa bảo tôi: "Hãy đứng dậy, đi vào Damascus, ở đó người ta sẽ nói cho anh biết tất cả những gì Thiên Chúa đã chỉ định cho anh phải làm.”
1.2/ Cuộc đời của Phaolô sau khi trở lại: Một chuỗi những biến cố xảy ra sau khi bị ngã xuống trên đường đi Damascus.
(1) Phaolô bị mù: Vì ánh sáng chói loà kia làm cho ông không còn trông thấy nữa, nên ông đã được các bạn đồng hành cầm tay dắt vào Damascus. Ở đó, Đức Kitô đã chuẩn bị cho ông Hananiah, một người sùng đạo, sống theo Lề Luật và được mọi người Do-thái ở Đa-mát chứng nhận là tốt.
(2) Phaolô được nhìn thấy: Khi gặp Saul, ông Hananiah đến, đứng bên ông và nói: "Anh Saul, anh thấy lại đi!” Ngay lúc đó, ông thấy lại được.
(3) Phaolô được trao sứ vụ: Ông Hananiah nói: "Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã chọn anh để anh được biết ý muốn của Người, được thấy Đấng Công Chính, và nghe tiếng từ miệng Đấng ấy phán ra. Quả vậy, anh sẽ làm chứng nhân cho Đấng ấy trước mặt mọi người về các điều anh đã thấy và đã nghe.”
(4) Phaolô được chịu bí-tích Rửa Tội: Hananiah truyền cho Saul: “Anh hãy đứng lên, chịu phép rửa và thanh tẩy mình cho sạch tội lỗi, miệng kêu cầu danh Người.”
1.3/ Ý nghĩa của cuộc trở lại của Phaolô: Có rất nhiều ý nghĩa mà Phaolô đã thu nhận được từ biến cố này, và là nền tảng cho những giáo huấn của ông sau này:
(1) Đức Kitô đã chết, nhưng Ngài đã sống lại, và vẫn đang sống để phù trợ và bảo vệ các tín hữu. Tất cả mọi người phải tin nơi Ngài và giữ những gì Ngài dạy để được cứu độ. Lề Luật không có sức mạnh để giải thoát con người khỏi tội và ban ơn cứu độ.
(2) Tất cả là ơn thánh, con người không làm gì xứng đáng để được hưởng ơn thánh. Thiên Chúa ban ơn thánh, thúc đẩy sự trở lại, và cứu độ con người khi họ còn là tội nhân đáng phải chết. Trường hợp của ông là một điển hình: lẽ ra ông xứng đáng phải chết hay bị mù suốt đời vì đang trên đường đi tiêu diệt Hội Thánh của Chúa; nhưng Ngài đã cứu sống và cho ông được thấy.
(3) Con người phải tìm ra và làm theo thánh ý Chúa để được sống, làm ngược lại chỉ như “giơ chân đạp mũi nhọn.” Sứ vụ rao giảng Tin Mừng là bổn phận phải làm vì được Đức Kitô sai đi. Người Kitô hữu phải là nhân chứng cho Đức Kitô qua việc rao giảng và sống Tin Mừng.
2/ Phúc Âm: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.”
2.1/ Trao sứ vụ rao giảng Tin Mừng: Chúa Giêsu nói với các Tông-đồ: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án." Khi Chúa Giêsu phục sinh và lên trời, Ngài đã hoàn tất sứ vụ mang lại ơn cứu độ cho con người. Giờ đây Ngài trao sứ vụ loan báo Tin Mừng cho các môn đệ, để các ông mang ơn cứu độ này cho mọi người sống trên trần thế. Để được hưởng ơn cứu độ, con người cần tin vào Đức Kitô và chịu Phép Rửa.
2.2/ Ban uy quyền cho các môn đệ để khán giả tin vào lời các ông rao giảng: Chúa hứa với các nhà rao giảng Tin Mừng: Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ:
(1) Khai trừ quỷ: Phaolô truyền cho quỉ xuất khỏi người đầy tớ tại Philippi (Acts 16:18).
(2) Nói được những tiếng mới lạ: Các Tông-đồ nói các thứ tiếng của thổ dân trong ngày Lễ Ngũ Tuần (Acts 2:1-11).
(3) Tránh được nguy hiểm: Phaolô đã vượt qua rất nhiều nguy hiểm trong 3 chuyến truyền giáo như: ra khỏi tù do thiên thần hướng dẫn, bị ném đá tưởng chết mà vẫn chỗi dậy để tiếp tục rao giảng, vượt qua bao nhiêu những ghen tị và xúi giục của những đối phương Do-thái.
(4) Chữa lành: Điều này đã được làm bởi Phêrô, Phaolô, và rất nhiều môn đệ.
Các Tông Đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tất cả là hồng ân của Thiên Chúa. Chúng ta phải nhận ra bàn tay của Ngài luôn thương yêu ấp ủ, ân cần chỉ dẫn, và ban mọi ơn cần thiết để chúng ta có thể sống như những môn đệ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


25/01/2018 - THỨ NĂM TUẦN 3 TN
Th. Phao-lô tông đồ trở lại
Mc 16,15-18
CUỘC GẶP GÕ ĐỔI ĐỜI

“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16,15)
Suy niệm: Biến cố trên đường Đa-mát được thuật lại đến ba lần trong sách Công vụ Tông đồ (9,1-22; 22,3-16; 26,9-18). Ta không lạ gì vì đó là khúc khải hoàn ca của Giáo Hội tiên khởi, là cuộc gặp gỡ tạo sự “xoay chiều” ngoạn mục giữa chàng trai trẻ Sao-lô và Đức Giê-su. Cuộc trở lại (hay đúng hơn, cuộc hoán cải) của thánh Phao-lô là hoa thơm trái ngọt của cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh, Người mà anh đang “bắt bớ.” Anh đã đụng chạm đến ân sủng của Ánh sáng thần linh (9,3; 22,6; 26,13) và “tin vào Tin Mừng.” Từ một người đi bắt bớ Đạo, anh bị chính Đấng là Con Đường ấy “bắt lấy,” dùng anh như khí cụ và là chứng nhân cho Mầu nhiệm Tử nạn-Phục sinh của Ngài (Cv 9,15; 22,15; 26,15-18), để anh ra đi và loan báo Tin Mừng “cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15).
Mời bạn: Dù bạn là ai, đang làm gì hay ở bậc sống nào, hãy buông mình để gặp gỡ Thầy Giêsu, để Ngài “bắt lấy.” Nghe có vẻ nghịch lý, nhưng sự thật là Bạn Đang Được Yêu. Vì, “đối với những ai yêu mến, Thiên Chúa biến đổi tất cả thành tốt; ngay cả những sai lầm và tội lỗi của họ, Thiên Chúa cũng biến đổi chúng thành tốt” (Thánh Augustinô).
Sống Lời Chúa: Xác tín như thánh Phao-lô: “Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi” (Pl 1,21).
Cầu nguyện: Lạy Chúa, có biết bao cuộc gặp gỡ trong ngày sống của con: trong đời thực cũng như qua mạng internet. Thế nhưng, xin cho con biết dành những giây phút thinh lặng gặp Chúa, tâm hồn được lắng đọng, an bình. Con biết con thật sự cần Chúa và ước mong được Chúa biến đổi. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)

Con phi làm gì? (25.1.2018 – Th năm, Thánh Phaolô Tông đ tr li)
Chúng ta cũng có nhng kinh nghim như Phaolô: ngã nga, mù lòa, nghe và gp Đc Kitô, ri hoán ci. 

Suy
nim:
Bài sách Công vụ Tông đồ hôm nay kể về một cuộc gặp gỡ lạ lùng
giữa Đức Giêsu Nadarét với anh Saun, kẻ đang bách hại các Kitô hữu.
Chính Ngài muốn gặp anh trên con đường anh đang đi.
Dưới mắt Saun, Kitô hữu là những kẻ bỏ đạo Do Thái chính thống,
để chạy theo một tà phái của ông Giêsu nào đó mà họ tin là đã phục sinh.
Trong tư cách là một người Pharisêu nhiệt thành và nghiêm túc (c. 3),
Sa-un thấy mình có bổn phận phải trừng trị những kẻ phản đạo,
bằng cách bắt bớ, xiềng xích, tống ngục, thậm chí thủ tiêu (cc. 4-5).
Chính lúc đang say sưa đến gần thành Đamát thì anh bị quật ngã.
Cuộc gặp gỡ bắt đầu, đời anh từ nay giở sang một trang mới.
Khi anh đang tự tin và hiên ngang tiến bước,
thì ánh sáng chói lòa từ trời làm anh ngã quỵ (c. 7).
Khi Saun nghĩ mình là người sáng mắt,
thì ngay giữa trưa, anh trở nên mù lòa (c. 11).
Khi anh định chỉ đạo cho những kẻ lầm đường lạc lối,
thì bây giờ anh lại cần một người cầm tay dắt đi (c. 11).
Cuộc đối thoại bắt đầu giữa anh với người mà anh chỉ nghe tiếng nói.
Ngài âu yếm gọi tên anh hai lần và tự giới thiệu:
“Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta?
Ta là Giêsu Nadarét mà ngươi đang bắt bớ” (c. 8).
Bắt bớ các Kitô hữu là bắt bớ chính Đức Giêsu.
Đức Giêsu và các Kitô hữu là một.
Bài học đầu tiên này Saun sẽ chẳng thể nào quên.
“Lạy Chúa, con phải làm gì?” (c. 10).
Lần đầu tiên Saun gọi người mà anh không hề tin là Chúa.
Khi tuyên xưng Đức Giêsu Nadarét là Chúa,
anh lập tức phó thác cho Ngài, để Ngài chỉ bảo điều mình phải làm.
Nhưng Chúa Giêsu phục sinh đã không nói gì.
Ngài trao anh cho ông Khanania, một người chưa phải là Kitô hữu.
Chính ông này cho mắt anh thấy lại và cho anh biết
anh được chọn để làm chứng nhân cho Ngài trước mặt mọi người.
Đamát là nơi Đức Giêsu tỏ mình cho Saun, cũng được gọi là Phaolô,
là nơi ông nghe tiếng gọi trở nên tông đồ cho dân Ngoại,
và cũng là nơi khởi đầu cho cuộc hoán cải tận căn của ông.
Chính mặc khải của Đấng phục sinh dẫn đến ơn gọi và hoán cải.
Từ nay cuộc đời của Phaolô đi sang một hướng mới.
Giêsu đã trở nên trung tâm của đời ông.
“Tôi coi tất cả như đồ bỏ, để chiếm được Đức Kitô” (Ph 3, 8).
Biến cố trên đường đi Đamát đã chia đời ông làm hai.
“Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua,
để lao mình về phía trước” (Ph 3, 13).
Chúng ta cũng có những kinh nghiệm như Phaolô:
ngã ngựa, mù lòa, nghe và gặp Đức Kitô, rồi hoán cải.
Như Phaolô, mong chúng ta để cho Đức Kitô Giêsu chiếm lấy mình,
và trở nên người tông đồ nhiệt thành cho thế giới.
Cầu nguyn:

Xin hãy dẫn dắt con
đi từ cõi chết đến sự sống,
từ lầm lạc đến chân lý.

Xin hãy dẫn dắt con
đi từ thất vọng đến hy vọng,
từ sợ hãi đến tín thác.

Xin hãy dẫn dắt con
đi từ ghen ghét đến yêu thương,
từ chiến tranh đến hòa bình.

Xin hãy đổ đầy bình an
trong trái tim chúng con,
trong thế giới chúng con,
trong vũ trụ chúng con.
(Thánh Têrêxa Calcutta)

Lm Antôn Nguyn Cao Siêu, SJ


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
25 THÁNG GIÊNG
Gia Đình Và Lao Động - Tìm Sự Cân Đối Thích Đáng
Tôi biết có nhiều doanh nghiệp được điều hành bởi các gia đình. Bổn phận nuôi dưỡng gia đình qua việc đáp ứng các nhu cầu nhân văn và xã hội của nó là một chủ đề thường xuyên được nhắc đến trong giáo huấn của Giáo Hội. Kể từ Đức Lê-ô XIII, ý niệm về lương bổng luôn luôn được gắn kết với tầm mức của gia đình người lao động – nhằm đáp ứng những đòi hỏi của công bằng. Cũng có thể nói tương tự như thế về bất cứ lãnh vực nào khác trong đời sống xã hội.
Trong Thông Điệp Laborem exercens, tôi đã nhấn mạnh đến điểm cốt lõi của mối tương quan giữa gia đình và lao động: “Gia đình vừa là một cộng đồng được tồn tại nhờ lao động vừa là trường dạy lao động tiên quyết cho mọi con người” ( Số 10). Cũng trong thông điệp ấy, tôi đã ghi nhận cảm thức ngày càng tăng về tính khẩn thiết của vai trò người mẹ. “Trong thời đại chúng ta, xã hội đang có một sự đánh giá lại đối với các công việc của người mẹ, về những vất vả của các bà mẹ, và về nhu cầu cần được yêu thương và được chăm sóc của trẻ em – để chúng có thể lớn lên trở thành những con người có ý thức trách nhiệm, những con người trưởng thành về đạo đức và quân bình về tâm lý” (Số 19).
Mối gắn kết chặt chẽ giữa gia đình và lao động càng làm nổi bật lên sự thật rằng con người làm việc để sống. Sự mệt mỏi thể xác và tâm thần – xét như hệ quả của lao động – là một phần của chính sự sống. Và sự sống của con người thì thánh thiêng. Đức tin bảo với chúng ta rằng sự sống này là một món quà rất đỗi lớn lao của Thiên Chúa.
Chúng ta phải tuyệt đối trân trọng sự sống ngay từ lúc bắt đầu là bào thai trong lòng người mẹ cho tới cái chết tự nhiên. Mầm sống đầu tiên cũng thánh thiêng như hơi thở cuối cùng. Cả hai đều cần phải được kính trọng và chăm sóc hết mức.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II



Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 25/01
Thán Phaolô Tông Đồ trở lại
2Sm 7, 18-19.24-29; Mc 4. 21-25

LỜI SUY NIỆM: “Người nói với các ông: Chẳng lẽ mang đèn tới để đặt dưới cái thúng hay dưới gầm giường? Nào chẳng phải là để đặt trên đế sao?”
Chúa Giêsu là ánh sáng. Người đang mời gọi mỗi người Kitô hữu khi đã đón nhận ánh sáng của Người từ nến Phục Sinh trong ngày chịu phép Rửa, thì phải cảm đảm dương cao ánh sáng Chúa Giêsu Kitô mà mình đã nhận lãnh, không thể vì bất cứ một lý do gì mà phải che giấu ánh sáng đó. Bởi vì Ánh sáng luôn đem lại điều tốt lành cho sự sống của con người và các tạo vật khác.
Lạy Chúa Giêsu. Chúa luôn luôn muốn chúng con là những ngọn đèn đã được thắp sáng, để đặt trên đế cao cho mọi người được nhìn thấy. Xin cho mỗi người chúng con luôn có sức mạnh và lòng cam đảm để bày tỏ đời sống đạo của mình, chứ không cất giấu vì quyền lợi và sợ người ta.
Mạnh Phương



Gương Thánh Nhân
Ngày 25-01: Thánh PHAOLÔ TÔNG ĐỒ TRỞ LẠI

Thánh Phaolô tông đồ, vị tông đồ cột trụ của Giáo hội sơ khai và vẫn còn là tông đồ nòng cốt của Giáo hội cho đến cùng. Tuy nhiên, Ngài là vị tông đồ không thuộc nhóm mười hai. Trái lại, Ngài còn có một quá khứ bách hại đạo Chúa nữa. Bởi đó càng nhớ ơn Ngài bao nhiêu, chúng ta càng thấy biến cố xoay đổi vị tông đồ cả quan trọng bấy nhiêu. Trước khi nghe chính Ngài kể lại cuộc trở lại của mình. Chúng ta tìm hiểu vắn tắt quá khứ chống đạo của Ngài.
Phaolô có tên Do thái là Saulê, sinh ra tại Tarsô (Cv 22,3) cha mẹ gốc Do thái thuộc chi họ Benjamin (Rm 11,1; Ph 3,5). Bởi đó Ngài nói được cả hai thứ tiếng Hy lạp và Aram (Cv 21,40.26,14) Ngài lên Giêrusalem theo đuổi việc học hành với thầy Gamaliel (Cv 22,3) và trở thành người biệt phái nghiêm nhặt (Cv 23,6. Lc 15,9. Gl 1,13. Ph 3,5). Do đó khi thấy một nhóm tôn giáo mới xuất hiện, Saulê đã nhiệt thành tìm cách ngăn chận. Nhiệt tâm ấy đã dẫn tới việc đổ máu Stêphanô, trong ấy Saulê không chỉ chứng kiến mà dường như giữ phần chủ chốt (Cv 1,58).
Nhiệt tâm còn thúc đẩy Ngài đi xa hơn nữa trên đường đi Damas tìm bắt người công giáo và trên con đường này Ngài đã được cải hóa. Câu chuyện được Luca kể lại trong sách Công vụ 9,1-23 hoặc chính vị tông đồ cũng đã kể lại, để biện minh trước mặt người Do thái (Cv 22,1-21) hay trước mặt Festô và Agrippa (Cv 26,1-23).
Chúng ta hãy nghe chính vị tông đồ nói về cuộc trở lại của mình: - "Tôi là người Do thái, sinh tại Tarsô, xứ Cilieia, đã được nuôi nấng trong thành này (tức Giêrusalem) đã thụ giáo dưới chân Gamaliel, rập theo khuôn phép nhiệm nhặt của lề luật cha ông, nhiệt tâm thờ phượng Thiên Chúa cũng như các ông hết ngày hôm nay. Tôi đã bắt bớ đạo này, đến chết chóc cũng không từ, xiềng xích đã được các thượng tế cho cầm trát để thông tri cho đồng bào mà lên đường đi Damas, để bắt trói những người Kitô hữu ở đó và giải về Giêrusalem để trừng trị.
Số là dọc đường khi tới gần Đamas, thì vào lối giữa trưa thình lình tự trời, một ánh sáng chói lòa lóe rạng bao phủ lấy tôi, tôi ngã xuống nền đất, và nghe có tiếng nói với tôi: - Saulê, Saulê tại sao ngươi bắt bớ ta ?
Tôi hỏi: "Thưa Ngài, Ngài là ai ?". Và Ngài nói cùng tôi: "Ta là Giêsu Nazareth, ngươi đang bắt bớ". Những người đi với tôi có thấy ánh sáng, nhưng họ không nghe tiếng người nói với tôi. Tôi nói: "Lạy Chúa tôi phải làm gì ?"
Và Chúa nói cùng tôi: - Chỗi dậy mà vào Damas. Ơ đó sẽ nói cho ngươi mọi điều đã định cho ngươi làm. Bởi tôi không còn thấy được, lòa vì ánh sáng của sự sáng kia, nên tôi đã được các người đi với tôi dắt tay vào Damas.
Có Ananis, một người đạo đức chiếu theo lề luật. Và được chứng nhận nơi mọi người Do thái sở tại, ông đến gặp tôi và đứng bên tôi, ông nói: - Anh Saulê, anh được thấy lại. Và ngay giờ ấy tôi đã được thấy lại.
Ông lại nói: - Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã tiền định cho anh được biết thánh ý Ngài, được thấy đấng công chính và nghe tiếng phát xuất tự miệng Ngài, vì anh sẽ là chứng tá cho Ngài trước mặt mọi người về điều anh đã thấy đã nghe. Và bây giờ sao còn lần lựa ? Hãy chỗi dậy chịu thanh tẩy và chịu rửa mình cho sạch các tội của anh, miệng kêu khấn danh Ngài.
Xẩy ra là khi tôi về Giêrusalem, và cầu nguyện trong đền thờ, tôi đã được ngất trí, và được thấy Ngài phán bảo tôi: - Hãy mau ra khỏi Giêrusalem, vì chúng sẽ không đón nhận chứng của người về ta.
Tôi mới nói: - Lạy Chúa, họ biết lắm: chính tôi đã bỏ tù và đánh đòn khắp các hội đường những kẻ tin vào Chúa, và khi người ta đổ máu Stephanô, chứng tá của Người, thì chính tôi đã có mặt và tán đồng, cùng canh giữ áo choàng cho những kẻ giết anh ấy.
Nhưng Ngài phán bảo: - Hãy đi, vì Ta sai ngươi đi xa, đến với dân ngoại (Cv 22-23)
Những tường thuật này cho thấy kinh nghiệm trên đường Damas không chỉ nơi cuộc trở lại của Phaolô mà còn ấn định những tư chất cá nhân trong đức tin và Tin Mừng của vị tông đồ. Tất cả đều tập chú vào Chúa Giêsu là đấng đã sống lại mà vẫn sống trong Giáo hội Người. Kinh nghiệm Damas còn bao hàm sứ mệnh trao cho Phaolô rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, một sứ mệnh thiết định tính cách phổ quát của Tin Mừng mà có lẽ Phaolô chưa nhận thấy ngay. Ngoài ra cuộc trở lại của Phaolô còn cho thấy ngay. Ngoài ra cuộc trở lại của Phaolô còn cho thấy quan niệm về sự kêu gọi và sự chọn lựa do Thiên Chúa thực hiện.
(daminhvn.net)



25 tháng Giêng
Thánh Phaolô Trở lại

Hôm nay, Giáo Hội tưởng niệm biến cố trở lại của Thánh Phaolô.
Theo Sách Công Vụ các sứ đồ, quyển sử ký ghi lại trong giai đoạn tiên khởi của Giáo Hội, Saolê, tên gọi Do Thái của Phaolô, là một thanh niên phong thái và đầy nhiệt huyết đối với Ðạo. Vừa thụ huấn xong với một thầy Rabbi nổi tiếng trong nước, Saolê xung phong đi săn lùng những người môn đệ của Ðức Kitô mà anh cho là một bè phái đi ngược lại với Ðạo giáo.
Một hôm, đang trên đường đi Damascô để lùng bắt các môn đệ của Chúa Giêsu, anh đã bị một luồng Sáng đánh quật té xuống khỏi ngựa và từ trong ánh sáng ấy, anh đã nhận ra tiếng nói của Chúa Giêsu: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt hại".
Từ đó, sự hăng say bách hại các Kitô hữu đã biến thành lòng nhiệt thành phụng sự Giáo Hội của Ðức Kitô. Thiên Chúa đã sử dụng Phaolô làm khí cụ Truyền Giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại, tức là các dân tộc ở ngoại Do Thái Giáo.
Cuộc trở lại của Thánh Phaolô đã đánh dấu một khúc quan trọng nhất trong lịch sử của Giáo Hội tiên khởi. Tin Mừng không chỉ giới hạn trong ranh giới của Do Thái cũng như lề luật Maisen, Tin Mừng còn là một nối dài của Do Thái Giáo, nhưng chính là một Tôn Giáo mới cho mọi dân tộc, mọi văn hóa.
Giáo Hội tưởng niệm biến cố trở lại của thánh Phaolô như cao điểm của tuần lễ cầu cho hiệp nhất. Nơi thánh Phaolô, con người đã dám vượt ra khỏi ranh giới của dân tộc, của Ðạo Giáo của mình, để tuyên bố: Hãy trở thành Hy Lạp với người Hy Lạp, La Mã với người La Mã, nô lệ với người nô lệ. Giáo Hội nhận ra kiểu mẫu đích thực của hiệp nhất. Sự hiệp nhất chỉ có thể thực hiện được, nếu mỗi người môn đệ của Chúa Giêsu có đủ can đảm ra khỏi chính mình. Phải chăng đó không là đòi hỏi đầu tiên của sự trở lại?
Theo từ điển tiếng Việt của Nhà Xuất bản Khoa Học Xã Hội, "trở lại" nghĩa là về nơi mình ra đi.
Nơi mình đã xuất phát, nơi mình đã ra đi đối với người Kitô chúng ta là gì nếu không phải là Thiên Chúa. Như vậy, trở lại chính là quay trở về với Thiên Chúa.
Sự quay trở lại ấy đòi hỏi một sự từ bỏ tận căn và một thái độ sẵn sàng tuyệt đối. Chúng ta phải đọc lại sự trở lại của Thánh Phaolô: Phaolô là một người thanh niên hăng say với lý tưởng. Lý tưởng của anh chính là phụng sự Chúa hết mình bằng cách tiêu diệt những kẻ mà anh cho là Tà Ðạo. Nhưng trong phút chốc, lần ngã ngựa đau điếng cả người hôm đó đã buộc anh phải xoay chiều hoàn toàn: Những gì anh cho là Tà Ðạo trước kia nay anh phải xem lại Chính Ðạo. Phaolô phải quay ngược đường trở lại. Từ bỏ tất cả những gì mình hằng ôm ấp từ trước đến nay, từ bỏ con đường mình đang đi, Phaolô đã trở thành một khí cụ mềm nhũn trong tay Chúa.
Ra khỏi chính mình, từ bỏ chính mình để trở thành khí cụ trong tay Chúa: đó là đặc điểm của sự trở lại trong Kitô giáo chúng ta.
Sự trở lại đó không chỉ là sự quay về với Chúa của những người không tín ngưỡng, của những người từ chối Giáo Hội khác, nhưng là đòi hỏi từng ngày của người Kitô. Mỗi lúc một đến gần với cùng đích của chúng ta là chính Chúa: đó là lý tưởng của người Kitô chúng ta.
Càng đến gần với Chúa càng sẵn sàng trở nên khí cụ của Chúa, chúng ta càng đến gần với tha nhân.
Xin Thánh Phaolô mà chúng ta tưởng niệm biến cố trở lại hôm nay, giúp chúng ta hiểu được sự trở lại đích thực mà người Kitô chúng ta phải theo đuổi mỗi ngày.
(Lẽ Sống)


Lectio Divina: Thánh Phaolô Tông Đồ Trở Lại
Thứ Năm 25 Tháng Một, 2018
Tuần III Mùa Thường Niên 


1.  Lời nguyện mở đầu
Lạy Cha, là Chúa Tể trời đất,

xin Cha nhậm lời cầu nguyện của chúng con,
và xin chỉ cho chúng con đường dẫn đến bình an dưới thế của Cha.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, Con Cha,
Đấng hằng sống và hằng trị cùng với Cha và Chúa Thánh Thần,
một Thiên Chúa, đến muôn thuở muôn đời.  Amen.
2.  Bài Đọc – Trích Tin Mừng theo Máccô 16:15-18
Khi ấy, Chúa Giêsu (hiện ra với Mười Một Tông Đồ và) nói:  “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật.  Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt.  Và đây là những dấu lạ đi theo những người đã tin:  nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân được lành mạnh.”

3.  Suy Niệm

*  Những dấu lạ đi kèm theo với việc công bố hay loan báo Tin Mừng.  Và cuối cùng Đức Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và trách cứ họ bởi vì các ông đã không tin vào những người đã trông thấy Chúa Phục Sinh.  Một lần nữa, tác giả Máccô đề cập đến việc cứng lòng của các môn đệ không tin vào lời chứng của những người, nam cũng như nữ, đã trải qua kinh nghiệm về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu.  Tại sao lại đề cập đến việc này như thế?  Có lẽ, để giảng dạy hai điều.  Thứ nhất, đó là niềm tin vào Chúa Giêsu đi qua đức tin trong những người làm chứng.  Thứ hai, không ai được chán nản, khi lòng hoài nghi xuất phát từ con tim.  Cuối cùng, mười một môn đệ đã có lòng ngờ vực!
*  Sau đó, Chúa Giêsu trao cho các ông sứ vụ đi loan báo Tin Mừng cho mọi tạo vật.  Điều kiện mà Người cho biết là điều sau đây:  tin và chịu phép rửa.  Đối với những ai có đủ can đảm để tin vào Tin Mừng và những ai chịu phép rửa, Người hứa với họ những dấu lạ sau đây:  họ sẽ trừ được quỷ, họ được ơn nói các thứ tiếng lạ, họ sẽ cầm rắn trong tay và nếu họ uống phải chất độc thì cũng không bị hề hấn gì, họ sẽ đặt tay trên những người bệnh thì người bệnh được khỏi.  Điều này còn xảy ra cho đến bây giờ:
  Trừ quỷ:  là chiến đấu chống lại quyền lực của sự dữ phá hủy sự sống.  Đời sống của nhiều người đã được cải thiện vì đã nhập vào cộng đoàn và vì đã bắt đầu sống theo Tin Mừng của sự hiện của Thiên Chúa trong cuộc sống của họ.
  Ơn nói các thứ tiếng lạ:  là để bắt đầu giao tiếp với những người khác trong một hình thức mới.  Đôi khi, chúng ta thấy một người mà chúng ta chưa từng gặp bao giờ, nhưng có vẻ như chúng ta đã quen biết người ấy đã từ lâu lắm.  Điều này xảy ra bởi vì chúng ta nói cùng một ngôn ngữ, ngôn ngữ của tình yêu.
  Họ sẽ không bị hại nếu họ uống phải chất độc:  có rất nhiều thứ có lẫn chất độc.  Nhiều tin đồn nhảm phá hủy mối quan hệ giữa người ta.  Người mà sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa vượt qua khỏi điều này và thành công trong việc không bị phiền nhiễu bởi chất độc tệ hại này.
  Chữa lành các bệnh nhân:  bất cứ ở đâu có một lương tâm trong sáng hơn và năng động hơn của sự hiện diện của Thiên Chúa, thì ở đó cũng có một sự chú tâm đặc biệt đến những kẻ bị áp bức và chịu thiệt thòi, đặc biệt là những người bệnh.  Điều gì giúp cho người ta bình phục nhanh hơn, đó là được chấp nhận và yêu thương.
  Qua cộng đoàn, Chúa Giêsu tiếp tục sứ vụ của mình:  chính Chúa Giêsu đã sống ở miền Paléstine, nơi mà Người đã đón nhận người nghèo của thời ấy, mặc khải theo phương cách này, tình yêu của Chúa Cha, cùng một Chúa Giêsu này tiếp tục sống ở giữa chúng ta, trong cộng đoàn chúng ta.  Và qua chúng ta, Người tiếp tục sứ vụ của mình, mặc khải Tin Mừng về Tình Yêu của Thiên Chúa dành cho người nghèo.  Cho đến ngày nay, Chúa Phục Sinh xảy ra, thúc giục chúng ta hát lên:  “Ai có thể chia rẽ chúng ta, ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô, ai có thể chia rẽ chúng ta?  (xem Rm 8:38-39).  Không có sức mạnh nào của thế gian này có thể chống cự lại sức mạnh xuất phát từ niềm tin vào Chúa Phục Sinh (Rm 8:35-39).  Một cộng đoàn muốn trở thành chứng nhân cho Chúa Phục Sinh phải là một dấu hiệu của sự sống, phải chiến đấu chống lại quyền lực của sự chết, theo một cách mà thế gian có thể là nơi thuận lợi cho sự sống, và phải tin rằng có đời sau.  Hơn hết cả là tại châu Mỹ Latin, nơi mà sự sống của người ta đang gặp nguy nan vì hệ thống sự chết đã được áp đặt; các cộng đoàn phải là bằng chứng sống động của niềm hy vọng để chiến thắng thế gian, mà không sợ vì được hạnh phúc!

4.  Một vài câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân

  • Trừ quỷ, ơn nói các thứ tiếng lạ, không bị hại nếu uống phải chất độc hoặc cầm rắn trong tay, chữa lành bệnh nhân:  Bạn có đã hoàn thành bất kỳ các dấu hiệu này chưa?
  • Chúa Giêsu có tiếp tục sứ vụ của Người qua chúng ta và qua cộng đoàn chúng ta không?  Người có thể nào hoàn thành sứ vụ này trong cộng đoàn của chúng ta không?  Bằng cách nào và như thế nào?

5.  Lời nguyện kết

Muôn nước hỡi, nào ca ngợi CHÚA,
ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người!
Vì tình Chúa thương ta thật là mãnh liệt,
lòng thành tín của Người bền vững muôn năm.
(Tv 117:1-2)




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét