08/11/2018
Thứ Năm tuần 31 thường niên.
BÀI ĐỌC I: Pl 3, 3-8
“Những điều xưa kia được kể là
lợi ích cho tôi, thì nay tôi coi là bất lợi vì Đức Kitô”.
Trích thư Thánh
Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.
Anh em thân mến, chính
chúng ta là những người chịu cắt bì, chúng ta phụng thờ Thiên Chúa theo thần
trí, và khoe mình trong Đức Giêsu Kitô, chứ không tin tưởng vào xác thịt, mặc dầu
chính tôi cũng có thể ỷ lại vào xác thịt. Nếu có ai khác nghĩ mình có lý để ỷ lại
vào xác thịt, thì tôi còn có lý hơn: tôi đã chịu cắt bì từ ngày thứ tám, là người
chủng tộc Israel, thuộc chi họ Bengiamin, là người Do-thái sinh bởi người
Do-thái, là người biệt phái chiếu theo lề luật. Bởi lòng đạo đức nhiệt thành,
tôi đã bách hại Hội Thánh Thiên Chúa, chiếu theo đức công chính do lề luật công
bố, tôi được coi là người không có gì đáng trách.
Nhưng những điều xưa
kia được kể là ích lợi cho tôi, thì nay vì Đức Kitô tôi coi là bất lợi. Vả lại
tôi coi tất cả mọi sự như thua thiệt trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức
Giêsu Kitô, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự, và coi là phân bón cả,
để lợi được Đức Kitô. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 104, 2-3.
4-5. 6-7
A+B=Tâm hồn những
ai tìm Chúa, hãy mừng vui (c. 3b).
A=Hãy ca tụng Chúa,
hãy hoan hô danh Người, hãy kể ra sự nghiệp Chúa ở giữa chư dân. Hãy xướng ca,
đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. – Đáp.
B=Hãy coi trọng Chúa
và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những
điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và những điều Ngài phán quyết. – Đáp.
A=Hỡi miêu duệ Abraham
là tôi tớ của Người, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Người kén chọn, chính
Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao trùm khắp cả địa cầu.
– Đáp.
ALLELUIA: 2 Cr 5, 19
-Thiên Chúa ở trong
Đức Kitô đã giải hoà thế gian, để chúng ta nghe lời của Con Chúa. –
Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 15, 1-10
“Trên trời sẽ vui mừng vì một
người tội lỗi hối cải”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, những người
thu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy,
những người Biệt phái và Luật sĩ lẩm bẩm rằng: “Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi,
cùng ngồi ăn uống với chúng”. Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: “Ai trong
các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín
con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và
khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu
và những người lân cận mà nói rằng: ‘Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm
thấy con chiên lạc!’ Cũng vậy tôi bảo các ông: Trên trời sẽ vui mừng vì một người
tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải.
“Hay là người đàn bà
nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ
lưỡng cho đến khi tìm thấy sao? Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những
người láng giềng đến mà rằng: ‘Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được
đồng bạc tôi đã mất’. Cũng vậy, tôi bảo các ông: Các thiên thần của Thiên Chúa
sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Con Chiên Lạc
Có một câu chuyện về
cuộc đời của một thiếu nữ tên Liker với nội dung như sau:
Liker phục vụ trong
quân đội Anh, nhưng hoàn cảnh đưa đẩy cô trở thành gái mãi dâm. Lúc thành phố
Paris được giải phóng sau thế chiến thứ hai, không lâu sau đó, Liker phục vụ những
khách hạng sang tại một trong những nơi ăn chơi nổi tiếng nhất của Paris do
Patric làm chủ. Trong lúc tận tình giúp đỡ một thiếu nữ khác để khỏi rơi vào
hoàn cảnh éo le của mình, Liker đã bắn chết Patric. Cô bị tống giam, nhưng
trong cảnh ngục tù, Liker đã gặp các Nữ tu có tên gọi là các chị Bêtania, là
Dòng chuyên nâng đỡ những cô gái sa cơ lỡ bước, những người nghiện ngập, những
người sống đầu đường xó chợ. Vài nữ tu này trước kia cũng là nạn nhân của xã hội
như những người họ đang phục vụ. Mãn hạn tù, Liker xin gia nhập dòng và trở
thành một trong các chị Bêtania.
Nữ tu Liker trong câu
truyện trên đây là tiêu biểu cho con chiên lạc mà Tin Mừng hôm nay đề cập đến.
Nàng đã sa cơ lỡ bước, nhưng Thiên Chúa qua cử chỉ của các chị Bêtania đã đi
tìm gặp chị và mời gọi chị trở nên bạn chí thiết của Ngài trong đời sống hiến
dâng.
Hai dụ ngôn trong Tin
Mừng hôm nay rất đơn sơ, nhưng mang đầy ý nghĩa. Vai chính là người chăn chiên
và người phụ nữ. Những người chăn chiên thời Chúa Giêsu thường bị khinh miệt,
vì họ là những người nghèo nàn, ít học, bị nghi ngờ gian lận, và vì phải luôn sống
với đàn chiên ngoài đồng, nên họ không thể giữ luật ngày Hưu lễ cũng như không
thể tham dự các giờ kinh trong Hội đường. Còn các phụ nữ là những công nhân hạng
hai, theo tâm thức của Việt Nam ngày xưa: "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết
vô", nhưng họ được Chúa Giêsu dùng làm hình ảnh để so sánh với chính Thiên
Chúa.
Giá trị của những vật
bị mất: một con chiên không có giá trị là bao so với đàn chiên; một đồng bạc
cũng thế so với số còn lại; nhưng đối với người chăn chiên và người phụ nữ
trong dụ ngôn, con chiên và đồng bạc có giá trị đặc biệt. Mỗi người chúng ta
cũng thế, dù là những kẻ vô danh, một con số trong bảng thống kê nhưng lại có
giá trị đặc biệt trước mặt Thiên Chúa.
Công khó đi tìm: không
quản khó nhọc, không sợ nguy hiểm, người chăn chiên đã lặn lội đi tìm con chiên
lạc; người phụ nữ cũng thế, đã thắp đèn quét dọn cho đến khi tìm được đồng bạc
đã mất. Thiên Chúa cũng đối xử với các tội nhân như thế.
Niềm vui tìm được những
vật đã mất: trên trời sẽ vui mừng và các thiên thần Chúa sẽ nhảy mừng, tượng
trưng cho chính Thiên Chúa: Thiên Chúa vui mừng khi một tội nhân ăn năn hối cải.
Một Thiên Chúa sung sướng
khi chúng ta sống đúng theo thánh ý Ngài. Một Thiên Chúa giầu lòng thương xót,
vì tình thương vô biên của Ngài. Nữ tu Liker trong câu truyện trên đã cảm nghiệm
về tình yêu Thiên Chúa, còn chúng ta, cho đến bao giờ mới có một kinh nghiệm
như thế?
Chúng ta hãy cảm tạ
Chúa đã cho chúng ta được hiểu thêm lòng thương xót vô biên của Chúa. Xin cho
chúng ta mau mắn chỗi dậy mỗi lần sa ngã, với niềm xác tín vào lòng nhân hậu vô
bờ của Chúa luôn chờ đợi chúng ta trở về với Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 31 TN2
Bài đọc: Phil
3:3-8; Lk 15:1-10.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lòng thương
xót của Thiên Chúa
Nhiều người trong
chúng ta có khuynh hướng tự hào về lịch sử huy hòang của mình: giòng họ phú
quí, bằng cấp, chức quyền …, nhưng rất nhiều khi những điều họ tự hào này chẳng
giúp ích gì mà còn làm hại chúng ta nữa. Vì thế, chúng ta cần cẩn thận suy xét
để tìm ra những gì thực sự giúp ích cho cuộc đời mình. Trong Bài đọc I, Thánh
Phaolô nhận ra cái “lịch sử huy hòang” mà ngài đã từng tự hào, làm ngài súyt chết
trong biến cố ngã ngựa trên đường đi Damascus; nhưng lòng thương xót của Người
mà các Kitô hữu tin tưởng, mới thực sự là Người sinh ích cho cuộc đời của ngài.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mở mắt cho các Kinh-sư và Biệt-phái nhìn thấy lòng
thương xót của Thiên Chúa là lý do tại sao con người được cứu độ, chứ không phải
thái độ “tự cho mình là công chính” của họ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Cậy vào “xác thịt”hay cậy trông nơi Thiên Chúa?
1.1/ Phaolô xét mình: Phaolô nhìn lại cái “lịch sử huy hòang” mà ông đã từng tự
hào về nó: “Nếu ai có lý do để cậy vào xác thịt, thì tôi càng có lý do hơn: tôi
chịu cắt bì ngày thứ tám, thuộc dòng dõi Israel, giòng họ Bengiamin, là người
Do-Thái, con của người Do-Thái; giữ luật thì đúng như một người Pharisêu; nhiệt
thành đến mức ngược đãi Hội Thánh; còn sống công chính theo Lề Luật thì chẳng
ai trách được tôi.”
Nhưng những gì xảy ra
từ khi biến cố ngã ngựa trên đường đi Damascus đã làm ông xét lại niềm tự hào
này: Nếu việc ngược đãi những Kitô hữu đẹp lòng Thiên Chúa thì ông đã không bị
té ngựa. Thiên Chúa có thể giết chết ông nhưng Ngài vẫn để cho sống. Thiên Chúa
có thể để cho ông mù lòa nhưng Ngài đã chữa cho sáng mắt. Thiên Chúa có thể để
ông lầm lạc trong niềm tự hào về lịch sử huy hòang của ông, nhưng Ngài đã mặc khải
cho ông hiểu đâu là Sự Thật. Thiên Chúa có thể để ông sống như bao tín hữu,
nhưng Ngài trao ban cho ông sứ vụ Rao Giảng Tin Mừng.
1.2/ Phaolô được soi sáng
và nhận ra lòng thương xót Chúa: Sau khi
Thánh Phaolô so sánh cái “lịch sử huy hòang” của mình với tất cả những “ơn
thánh” nhận được từ biến cố Damascus đến giờ, Thánh Phaolô khiêm nhường thú nhận:
“Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt
thòi.”
– Cái lợi đầu tiên và
quan trọng nhất là biết sự thật, và Sự Thật trên hết mọi sư thật là chính Đức
Kitô. Thánh Phaolô xác nhận: “Mối lợi tuyệt vời nhất là được biết Đức Kitô
Giêsu, Chúa của tôi.” Kinh nghiệm quá khứ mở mắt cho người nhìn thấy tai hại to
lớn của việc không biết Sự Thật.
– Cái lợi thứ hai như
chúng ta đã thấy trong đạo lý của ngài trước đây: con người không thể nên công
chính bằng việc giữ cẩn thận Lề Luật, nhưng bằng niềm tin vào Đức Kitô. Vì
Thiên Chúa thương xót con người, nên đã cho Đức Kitô xuống trần để gánh tội
thay cho con người. Chính vì Đức Kitô, con người có thể nên công chính trước
Thiên Chúa.
1.3/ Phaolô rút ra kết luận
cho tương lai: Ngài đưa ra 2 ví dụ cụ thể
hôm nay:
(1) Cắt bì theo xác thịt
mà đối phương đòi các tín hữu phải làm không có gía trị vì “phép cắt bì chính
hiệu là phép cắt bì trong tâm hồn, theo tinh thần của Lề Luật chứ không phải
theo chữ viết của Lề Luật” (Rom 2:29). Ngài củng cố các tín hữu: “Chúng ta mới
thật là những người được cắt bì, những người thờ phượng Thiên Chúa nhờ Thánh Thần
của Người, những người hiên ngang hãnh diện vì Đức Kitô Giêsu, chứ không cậy
vào xác thịt.”
(2) Từ bỏ mọi sự để
chiếm hữu Đức Kitô: “Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để
được Đức Kitô.”
2/ Phúc Âm: Lòng thương xót của Thiên Chúa
2.1/ Xét đóan tha nhân
thay vì xét mình cẩn thận: Một trong những
xung đột chính giữa Chúa Giêsu với các Kinh-sư và Biệt-phái là lối sống giả
hình. Họ luôn tìm cách bắt bẻ Chúa về việc không giữ luật lệ bên ngòai: rửa tay
trước khi ăn, chữa bệnh trong ngày Sabbath; và hôm nay, ăn uống với tội nhân.
Trong trình thuật của Luca hôm nay, các người Biệt-phái và các Kinh-sư xét
đóan:
– tha nhân: các người
thu thuế và gái điếm là những người tội lỗi trước mắt họ; và họ tin những hạng
người này không bao giờ được chung hưởng vinh quang trong Nước Thiên Chúa.
– Chúa Giêsu: “Ông này
đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” Giao tiếp với những hạng người
như thế làm cho con người ra nhơ bẩn tội lỗi.
Trong những trình thuật
khác, Chúa Giêsu đã trách mắng họ là những mồ mả tô vôi: bên ngòai có vẻ đẹp đẽ,
nhưng bên trong đầy những giòi bọ rúc rỉa. Hãy xét mình và làm cho sạch bên
trong trước rồi mới có đủ sáng suốt để xét đóan tha nhân. Trong trình thuật hôm
nay, Chúa hướng lòng họ về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với các tội nhân.
2.2/ Chúa dạy con người 2
ví dụ về lòng thương xót của Thiên Chúa:
(1) Tìm được con chiên
lạc: Con chiên đi lạc là vì lỗi của nó, đã không chịu nghe theo chủ; nhưng ông
chủ chẳng những không xét lỗi nó, mà còn đi tìm cho kỳ được. Ông đi tìm vì nó
là của ông, cho dẫu vẫn còn 99 chiên khác. Khi tìm thấy, ông
không kết tội, không đánh đập, nhưng mừng rỡ vác chiên trên vai trở về và mở tiệc
ăn mừng!
(2) Đồng tiền bị mất:
Đồng tiền bị mất là vì chẳng may, cũng như bao con người sa ngã vì hòan cảnh chẳng
may đưa tới. Người phụ nữ thắp đèn, quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được vì nó là
của bà, cho dẫu bà vẫn còn 9 quan khác. Khi tìm thấy Bà mở tiệc ăn mừng! Có người
đặt câu hỏi Bà có thể phải dùng cả 9 đồng kia để mua thức ăn đãi khách để ăn mừng
đồng tiền kiếm thấy!
Cả 2 ví dụ đều kết
thúc bằng câu kết luận của Chúa Giêsu: “Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa
triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối,
hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải năng
xét mình cẩn thận để nhận ra chúng ta và mọi người đều là tội nhân trước Thiên
Chúa.
– Thiên Chúa yêu
thương tội nhân và sẵn sàng đi tìm họ như Đức Kitô đi tìm Phaolô trên đường đi
Damascus, như người mục tử đi tìm con chiên lạc, và như người đàn bà đi tìm đồng
bạc đánh mất.
– Vì Thiên Chúa đã yêu
thương tha thứ cho chúng ta, chúng ta không được quyền kết tội tha nhân như các
Kinh-sư và Biệt-phái, nhưng phải sẵn sàng tha thứ cho họ.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
08/11/2018 – THỨ NĂM TUẦN 31 TN
Lc 15,1-10
ĐIỂM YẾU CỦA TÌNH THƯƠNG
“Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi
ăn năn sám hối hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần sám hối ăn
năn.” (Lc 15,7)
Suy niệm: Cách nói
phóng đại trong dụ ngôn “con chiên lạc” và “đồng bạc bị mất” diễn tả niềm vui của
Thiên Chúa lớn lao dường nào khi có một người tội lỗi ăn năn hối cải. Quả thật
Thiên Chúa đã phải buồn lòng bao nhiêu khi con cái mình lạc đường, thì Ngài sẽ
vui mừng hơn gấp bội khi thấy dù chỉ là một người con trở về chính lộ. Lòng
thương xót của Thiên Chúa dạt dào đến mức khiến Ngài cũng trở nên “yếu đuối, mềm
lòng” luôn sẵn sàng tha thứ mỗi khi tội nhân tỏ lòng sám hối ăn năn. Thiên Chúa
muốn cho người tội lỗi hối cải đến mức như Ngài không cần e dè gì nữa, mà còn
chấp nhận để cho lòng tốt và tình yêu của mình bị lợi dụng.
Mời Bạn: Bạn có đang lợi dụng lòng
thương xót Chúa như thánh Phao-lô đã nêu rõ: “Chúng ta cứ ở mãi trong tội lỗi,
để ân sủng càng lan tràn ư” (Rm 6,1)? Phải chăng bạn lập luận rằng để làm cho
Thiên Chúa vui vì có người hối cải thì phải có người đi lạc đường, phạm tội trước
đã; ăn năn hối cải lúc nào mà chả kịp?! “Không phải thế!” Có ai mang đến niềm
vui cho người khác bằng cách bắt đầu gây buồn phiền trước không? Có ai biết chắc
mình sẽ kịp quay về vào phút chót không? Chúng ta quên rằng ăn năn hối cải
không chỉ là việc làm của một lần, nhưng là việc của cả đời; và có thể nói chiều
kích căn bản của đời sống kitô hữu là một cuộc “trở lại” thường xuyên với Thiên
Chúa.
Sống Lời Chúa: Bắt đầu giờ cầu nguyện bằng
việc thống hối và xin lỗi Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin giữ
gìn con luôn tỉnh thức để sống trong tình thương vô biên của Chúa.
(5 Phút Lời Chúa)
Xin chung vui với tôi (8.11.2018
– Thứ năm Tuần 31 Thường niên)
Suy niệm
Nhiều người nghĩ rằng Thiên Chúa là Đấng cao cả,
nhưng lại xa lạ và lạnh lùng với con người,
vì con người có là gì đâu trước mặt Thiên Chúa.
Thật ra con người là mối bận tâm lớn của Ba Ngôi,
đến độ ta dám nói rằng con người chiếm chỗ trong tâm trí Thiên Chúa.
Trước khi con người hướng về Thiên Chúa
thì Thiên Chúa đã đưa tay ra, hướng về con người.
“Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi.”
Đó là điều chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính.
Thiên Chúa Ba Ngôi sống cho nhau,
nhưng cũng sống vì con người và cho con người.
nhưng lại xa lạ và lạnh lùng với con người,
vì con người có là gì đâu trước mặt Thiên Chúa.
Thật ra con người là mối bận tâm lớn của Ba Ngôi,
đến độ ta dám nói rằng con người chiếm chỗ trong tâm trí Thiên Chúa.
Trước khi con người hướng về Thiên Chúa
thì Thiên Chúa đã đưa tay ra, hướng về con người.
“Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi.”
Đó là điều chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính.
Thiên Chúa Ba Ngôi sống cho nhau,
nhưng cũng sống vì con người và cho con người.
Hai dụ ngôn hôm nay cho thấy Thiên Chúa quý con người.
Mà con người ở đây lại không phải là những người thánh thiện.
Có những động từ được nhắc đến trong cả hai dụ ngôn :
có, mất, tìm, tìm được, chung vui, vui mừng.
Những động từ này nói lên tất cả tình cảm của Thiên Chúa.
Dụ ngôn về người đàn ông hay người phụ nữ
có một trăm con chiên hay mười đồng quan.
Vì lý do nào đó, một con chiên hay một đồng quan bị mất.
Sự mất mát này lớn lao đến nỗi người ta muốn tìm cho kỳ được.
Tìm cho kỳ được là tìm đến khi thấy mới thôi (cc. 4. 8).
Việc tìm kiếm này đòi phải hành động quyết liệt.
Người chăn chiên để chín mươi chín con ngoài đồng hoang,
người phụ nữ thắp đèn, quét nhà, moi móc mọi ngõ ngách.
Trong lo âu, người tìm kiếm chỉ nghĩ đến chuyện làm sao tìm lại được.
Chính vì thế niềm vui bùng lên khi tìm thấy điều đã mất.
Niềm vui không giữ lại cho riêng mình trong lòng.
Niềm vui đòi chia sẻ với bạn bè, với bà con lối xóm.
“Xin ông bà anh chị chung vui với tôi, vì tôi tìm thấy rồi” (cc. 5. 9).
Mà con người ở đây lại không phải là những người thánh thiện.
Có những động từ được nhắc đến trong cả hai dụ ngôn :
có, mất, tìm, tìm được, chung vui, vui mừng.
Những động từ này nói lên tất cả tình cảm của Thiên Chúa.
Dụ ngôn về người đàn ông hay người phụ nữ
có một trăm con chiên hay mười đồng quan.
Vì lý do nào đó, một con chiên hay một đồng quan bị mất.
Sự mất mát này lớn lao đến nỗi người ta muốn tìm cho kỳ được.
Tìm cho kỳ được là tìm đến khi thấy mới thôi (cc. 4. 8).
Việc tìm kiếm này đòi phải hành động quyết liệt.
Người chăn chiên để chín mươi chín con ngoài đồng hoang,
người phụ nữ thắp đèn, quét nhà, moi móc mọi ngõ ngách.
Trong lo âu, người tìm kiếm chỉ nghĩ đến chuyện làm sao tìm lại được.
Chính vì thế niềm vui bùng lên khi tìm thấy điều đã mất.
Niềm vui không giữ lại cho riêng mình trong lòng.
Niềm vui đòi chia sẻ với bạn bè, với bà con lối xóm.
“Xin ông bà anh chị chung vui với tôi, vì tôi tìm thấy rồi” (cc. 5. 9).
Thiên đàng không cắt đứt với trần thế.
Các thiên thần của Thiên Chúa vui vì một người tội lỗi hối cải (c. 10).
Thiên Chúa mừng vui vì Ngài đã từng lo âu, đau khổ, tìm kiếm.
Mỗi tội nhân hoán cải là một thành tựu của Thiên Chúa.
Ngài quý từng con người được dựng nên theo hình ảnh Ngài.
Thái độ của Đức Giêsu đối với tội nhân cho thấy trái tim Thiên Chúa.
Trái tim ấy nghiêng chiều về những con người đã lạc đường.
Đồng quan không thể tự ý trốn đi, nhưng con người có tự do quay lưng.
Thiên Chúa đi tìm con người quay lưng ấy.
Với sự khiêm hạ, Ngài chinh phục trái tim con người.
Các thiên thần của Thiên Chúa vui vì một người tội lỗi hối cải (c. 10).
Thiên Chúa mừng vui vì Ngài đã từng lo âu, đau khổ, tìm kiếm.
Mỗi tội nhân hoán cải là một thành tựu của Thiên Chúa.
Ngài quý từng con người được dựng nên theo hình ảnh Ngài.
Thái độ của Đức Giêsu đối với tội nhân cho thấy trái tim Thiên Chúa.
Trái tim ấy nghiêng chiều về những con người đã lạc đường.
Đồng quan không thể tự ý trốn đi, nhưng con người có tự do quay lưng.
Thiên Chúa đi tìm con người quay lưng ấy.
Với sự khiêm hạ, Ngài chinh phục trái tim con người.
Hãy để Ngài đi tìm bạn, và cho Ngài niềm vui khi tìm thấy người đã mất.
Nói cho cùng, Thiên Chúa đi tìm ta suốt đời,
trong một cuộc chơi năm mười kéo dài mà ta chủ yếu là người đi trốn.
Hãy cảm được sự tế nhị của Ngài khi cố tìm ta mà vẫn tôn trọng tự do.
Nếu ta chịu để Ngài tìm thấy, ta sẽ nếm được ngay niềm vui thiên đàng.
Nói cho cùng, Thiên Chúa đi tìm ta suốt đời,
trong một cuộc chơi năm mười kéo dài mà ta chủ yếu là người đi trốn.
Hãy cảm được sự tế nhị của Ngài khi cố tìm ta mà vẫn tôn trọng tự do.
Nếu ta chịu để Ngài tìm thấy, ta sẽ nếm được ngay niềm vui thiên đàng.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
xin đánh thức con.
Xin đưa con ra khỏi cơn mê
mà tự sức con không sao thoát ra được.
Xin đừng ngại đánh thức con
bằng những biến cố đôi khi mạnh mẽ,
nhưng xin cho con thấy bàn tay Chúa nhân từ
đang cắt tỉa con vì yêu con.
Ước gì con được tỉnh táo
để nhìn lại vẻ đẹp từng làm con say mê,
những chỗ dựa mà con tưởng là tuyệt đối.
xin đánh thức con.
Xin đưa con ra khỏi cơn mê
mà tự sức con không sao thoát ra được.
Xin đừng ngại đánh thức con
bằng những biến cố đôi khi mạnh mẽ,
nhưng xin cho con thấy bàn tay Chúa nhân từ
đang cắt tỉa con vì yêu con.
Ước gì con được tỉnh táo
để nhìn lại vẻ đẹp từng làm con say mê,
những chỗ dựa mà con tưởng là tuyệt đối.
Như ngọn đèn chầu trong nhà nguyện,
xin cho con thức luôn và sáng luôn,
trước nhan Chúa.
xin cho con thức luôn và sáng luôn,
trước nhan Chúa.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
8 THÁNG MƯỜI MỘT
Giáo Xứ, Một Môi
Trường Ưu Tiên
Thế giới ngày nay có
xu hướng lãng xa Thiên Chúa. Thế giới chỉ muốn các dữ kiện thực tế và không sẵn
lòng để lắng nghe. Nhưng Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta mở rộng tấm lòng mình ra:
“Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng
yêu thương nhau” (Ga 13,35). Giáo xứ là môi trường ưu tiên để trình bày chứng
tá ấy. Chúng ta cần thể hiện lại trong thời đại hôm nay điều kỳ diệu đã xảy ra
trong các cộng đoàn Kitôhữu đầu tiên: điều kỳ diệu của một sự sống mới, không
chỉ về mặt thiêng liêng nhưng cả về mặt xã hội và lịch sử nữa.
“Để tất cả nên một,
như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17,
21). Công Đồng Vatican II chú giải rằng qua những lời ấy, Chúa Giêsu đề nghị
chúng ta “bắt chước sự kết hợp của Ba Ngôi thần linh để kết hợp các con cái
Thiên Chúa trong tình yêu và chân lý” (MV 24). Thiên Chúa Ba Ngôi chính là kiểu
mẫu của mọi mối tương quan con người và của đời sống chung giữa con người với
nhau!
Từ mẫu thức tối thượng
ấy, chúng ta có thể rút ra vô số hàm ý cho giáo xứ. Thực vậy, ơn gọi cao cả của
một cộng đoàn giáo xứ là phấn đấu để một cách nào đó trở thành một minh họa về
Thiên Chúa Ba Ngôi, “hòa hợp mọi sự khác biệt của con người” (AA 10): người già
và người trẻ, nam và nữ, trí thức và lao động, giàu và nghèo …
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 08-11
Pl 3, 3-8a; Lc
15, 1-10.
LỜI SUY NIỆM: “Người nào
trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi
chín con ngoài đồng hoang để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi,
người ấy mừng rỡ vác lên vai.”
Trước sự tiếp đón những người thu thuế và người tội lỗi của Chúa Giêsu, đã làm
cho những người Pharisêu và các kinh sư vấp phạm về tình yêu thương, bảo vệ,
săn sóc, tha thứ và chữa lành của Thiên Chúa đối với những con người mà Thiên
Chúa đã tạo dựng theo hình ảnh của Ngài. Nên Chúa Giêsu đã đưa ra dụ ngôn về
con chiên lạc, để dẫn đưa tất cả họ và cả chúng ta ngày hôm nay đi vào chính lộ
của Người.
Lạy Chúa Giêsu. Loài người chúng con thường hết hy vọng với những người chìm đắm
trong tội lỗi, nhưng Chúa cho chúng con biết, Chúa đang ra sức tìm kiếm họ, và
Chúa sẽ vác họ trên vai. Xin cho chúng con vững tin trong cầu nguyện cho những
anh em đang lạc xa đàn, để tất cả sẽ được vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn
sám hối.
Mạnh Phương
08 Tháng Mười Một
Tôi Là Người Hạnh Phúc Nhất Trần Gian
Một ông vua
giàu có nọ không bao giờ cảm thấy thỏa mãn, bởi vì tất cả tài sản mà ông có đều
do sự miễn cưỡng đóng góp của thần dân. Ông tự so sánh mình với những người
hành khất: người hành khất nhận được tiền của do lòng thương của người khác,
còn ông, ông nhận được tiền do sự cưỡng bách.
Ngày nọ, ông vua
giàu có đã quyết định làm một việc táo bạo: đó là cải trang thành người hành khất
để cảm nghiệm được những đồng tiền bố thí… Thế là mỗi ngày Chúa Nhật, ông biến
mình thành một người ăn xin lê lết trước cửa giáo đường. Ông cho tất cả những
tiền ăn xin được vào một chiếc hộp nhỏ. Tuy không là bao so với cả kho tàng của
ông, nhưng có lẽ nó vẫn có giá trị hơn… Ông tự nghĩ: bây giờ ta nới thực sự là
người giàu có nhất trên đời, bởi vì tiền của ta nhận được là do lòng thương xót
của con người, chứ không do một sự cưỡng bách nào.
Khi đã gom góp được
một số tiền khá lớn sau những năm tháng ăn xin trước cửa các giáo đường, ông đã
xin từ chức khỏi ngai vàng và đi đến một phương xa, nơi không ai có thể nhận ra
ông. Ông mua một mảnh đất, và tự tay cất được một ngôi nhà tranh đơn sơ. Không
mấy chốc, do sự hòa nhã, vui tươi của ông, mọi người trong lối xóm đều mến
thương ông, nhất là các em bé. Ông kể chuyện cho chúng nghe, ông đem chúng đi
câu cá, ông dạy chúng ca hát.
Trong đám trẻ nhỏ,
có một cậu bé gia đình còn nghèo hơn cả ông nữa. Cậu bé chỉ có vỏn vẹn một con
chim họa mi. Nghe tin ông đau nặng, cậu bé đã vội vàng mang con chim đến tặng
ông, với hy vọng rằng con chim sẽ hót cho ông được khuây khỏa.
Ðón nhận món quà,
con người đã từng là vua của một nước mới thốt lên: “Từ trước đến nay, tất cả
những gì tôi có, tôi đều lãnh nhận do lòng thương xót của người khác. Người ta
cho tôi, nhưng không phải là cho tôi mà là cho một người hành khất. Giờ đây, với
món quà tặng là con chim này, người ta tặng cho tôi với tất cả tấm lòng yêu
thương… Chắc chắn, tôi là người hạnh phúc nhất trên trần gian”.
Một thời gian sau
đó, trong vùng, có một người táđiền nghèo bị người chủ đe dọa lấy nhà và trục
xuất ra khỏi mảnh vườn đang canh tác. Nghĩ đến cảnh hai vợ chồng và 7 đứa con dại
bị đuổi ra khỏi nhà, ông vua không thể nào ăn ngủ được… Cuối cùng, ông quyết định
tặng chính mảnh vườn và ngôi nhà của mình cho gia đình người tá điền nghèo… Và
một lần nữa, không một đồng xu dính túi, ông lên đường trẩy đi một nơi khác.
Bùi ngùi vì phải
chia tay với những người quen biết trong vùng, nhưng ông cảm thấy hạnh phúc vô
cùng, bởi vì lần đầu tiên ông cảm nghiệm được niềm vui của sự ban tặng. Ông hiểu
được rằng cho thì có phúc hơn là nhận lãnh… Lần này, ông thốt lên với tất cả
xác tín: “Tôi là người hạnh phúc nhất trên trần gian này”.
Câu chuyện của ông vua
đi tìm hạnh phúc trên đây có thể gợi lên cho chúng ta về hình ảnh của chuyến đi
cuộc đời của chúng ta… Người Kitô là một người lữ hành đi tìm hạnh phúc. Và hạnh
phúc đích thực của chúng ta là gì nếu không phải là trao tặng, trao tặng cho đến
lúc trống rỗng, nhưng bù lại, chúng ta được lấp đầy bằng chính Chúa.
(Lẽ Sống)






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét