Trang

Thứ Bảy, 26 tháng 1, 2019

27-01-2019 : CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN năm C


27/01/2019
Chúa Nhật 3 Thường Niên năm C


BÀI ĐỌC I: Nkm 8, 2-4a. 5-6. 8-10 
“Họ đọc trong sách Luật và người ta hiểu được điều đã đọc”.
Trích sách Nơ-khe-mia.
Ngày ấy, thầy tư tế Esdras mang luật ra trước cộng đồng, gồm đàn ông, đàn bà và tất cả những ai có thể hiểu luật: hôm đó là ngày đầu tháng bảy. Từ sáng đến giữa trưa, thầy đứng ở công trường, trước cửa Nước, đọc sách trước mặt đàn ông, đàn bà và những người hiểu luật. Tất cả dân chúng đều lắng tai nghe đọc sách luật. Thầy thư ký Esdras đứng trên bệ bằng cây mà đọc sách; thầy mở sách ra trước công chúng, vì thầy đứng nơi cao hơn mọi người. Khi thầy mở sách, thì tất cả đều đứng lên. Esdras chúc tụng Chúa là Thiên Chúa Cao Cả. Toàn dân đưa tay lên đáp lại: Amen, amen. Họ cúi mình và phủ phục trước Thiên Chúa, mặt họ cúi sát đất. Một số người đọc từng đoạn trong sách luật Chúa, giải thích ý nghĩa, và người ta hiểu được điều đã đọc. Nơ-khê-mia là tổng trấn, Esdras là tư tế và là thư ký, các thầy Lêvi huấn luyện dân chúng, nói với họ rằng: “Ngày hôm nay được thánh hoá dâng cho Chúa là Thiên Chúa chúng ta; anh chị em đừng mang tang chế, đừng than khóc”. Vì lúc đó toàn dân khóc lóc khi nghe đọc các lời trong luật. Họ nói với dân chúng rằng: “Hãy đi ăn thịt béo và uống rượu ngon, hãy gửi phần cho kẻ không có dọn sẵn cho mình, vì ngày này là ngày thánh, dâng cho Chúa, đừng buồn sầu; vì niềm vui của Chúa là đồn luỹ của anh chị em!”. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 18, 8. 9. 10. 15
Đáp: Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống (Ga 6, 64b).
Xướng: 1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt. – Đáp.
2) Giới răn Chúa chánh trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt. – Đáp.
3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy. – Đáp.
4) Xin Chúa nhậm những lời miệng con công bố, và sự lòng con suy gẫm trước thiên nhan, lạy Chúa là Tảng Đá, là Đấng Cứu Chuộc con. – Đáp.

BÀI ĐỌC II: 1 Cr 12, 12-30 (bài dài)
“Anh em là thân xác Chúa Kitô, và là chi thể của Người”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, như thân xác là một mà có nhiều chi thể, và tất cả chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân xác, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng, trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta chịu phép rửa để làm thành một thân xác, cho dầu Do-thái hay Hy-lạp, tự do hay nô lệ, và tất cả chúng ta cùng uống trong một Thánh Thần. Vì thân xác không chỉ gồm một chi thể, mà là nhiều chi thể. Nếu chân nói rằng: “Vì tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc thân xác”, có phải vì thế mà nó không thuộc về thân xác đâu? Và nếu lỗ tai nói rằng: “Vì tôi không phải là con mắt, nên tôi không thuộc về thân xác”, có phải vì thế mà nó không thuộc về thân xác đâu? Nếu toàn thân xác là một, thì đâu là thính giác? Nếu toàn thân xác là tai, thì đâu là khứu giác? Vậy, Thiên Chúa đã đặt các chi thể, và mỗi chi thể ở trong thân xác như ý Người muốn. Nếu tất cả đều là một chi thể, thì còn đâu là thân xác? Thật vậy, có nhiều chi thể, nhưng có một thân xác. Con mắt không thể nói với bàn tay: “Ta không cần mi”. Đầu cũng không thể nói với chân: “Ta không cần các ngươi”. Nhưng hơn thế nữa, các chi thể thân xác xem như yếu hơn, lại cần thiết hơn. Và những chi thể ta coi là ít vinh dự nhất, lại là những chi thể chúng ta đặt cho nhiều vinh dự hơn; và những chi thể thiếu trang nhã lại được ta trang sức hơn, còn những chi thể trang nhã lại không cần như thế: nhưng Thiên Chúa đã sắp đặt thân xác, cho cái thiếu vinh dự được vinh dự hơn, để không có sự bất đồng trong thân xác, mà là để các chi thể đồng lo công ích cho nhau. Nếu một chi thể phải đau, tất cả các chi thể khác đều phải đau lây; hoặc một chi thể được vinh dự, thì tất cả các chi thể cùng chia vui.
Phần anh em, anh em là thân xác Chúa Kitô và là chi thể của Người, mỗi người có phận sự mình. Có những người Thiên Chúa đã thiết lập trong Hội thánh, trước hết là các tông đồ, rồi đến các tiên tri, thứ ba là các tiến sĩ. Kế đến là quyền làm phép lạ, các ơn chữa bệnh, các việc từ thiện, quản trị, nói nhiều thứ tiếng. Vậy tất cả mọi người là tông đồ ư? Tất cả là tiên tri ư? Tất cả là tiến sĩ ư? Tất cả được ơn làm phép lạ ư? Tất cả được ơn chữa bệnh ư? Tất cả nói nhiều thứ tiếng ư? Tất cả được ơn diễn giải ư? Đó là lời Chúa.

Hoặc đọc bài vắn này: 1 Cr 12, 12-14. 27
Anh em thân mến, như thân xác là một mà có nhiều chi thể, và tất cả chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân xác, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng, trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta chịu phép rửa để làm thành một thân xác, cho dầu Do-thái hay Hy-lạp, tự do hay nô lệ, và tất cả chúng ta cùng uống trong một Thánh Thần. Vì thân xác không chỉ gồm một chi thể, mà là nhiều chi thể. Phần anh em, anh em là thân xác Chúa Kitô và là chi thể Người, mỗi người có phận sự mình. Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Lc 4, 18-19
Alleluia, alleluia! – Chúa đã sai con đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm. – Alleluia.

PHÚC ÂM: Lc 1, 1-4; 4, 14-21
“Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh này”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Vì có nhiều người khởi công chép lại những biến cố đã xảy ra giữa chúng ta, theo như các kẻ từ đầu đã chứng kiến và phục vụ lời Chúa, đã truyền lại cho chúng ta, phần tôi, thưa ngài Thêophilê, sau khi tìm hỏi cẩn thận mọi sự từ đầu, tôi quyết định viết cho ngài bài tường thuật sau đây, để ngài hiểu chân lý các giáo huấn ngài đã lãnh nhận.
Bấy giờ Chúa Giêsu trở về Galilêa trong quyền lực Thánh Thần, và danh tiếng Người lan tràn khắp cả miền chung quanh. Người giảng dạy trong các hội đường và được mọi người ca tụng. Người đến Nadarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày nghỉ lễ, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng:
“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng”.
Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”. Đó là lời Chúa.



Suy Niệm: Ðức Giêsu rao giảng Tin Mừng trong nguyện đường ở Nadarét
Trọng tâm của bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe cũng là đề tài chính của toàn thể Lời Chúa hôm nay: chúng ta thấy Ðức Giêsu đứng công bố Tin Mừng trong nguyện đường ở Nadarét. Như vậy, câu chuyện Ezra đứng đọc luật pháp Môsê ở trước mặt con cái Israen như bài đọc I hôm nay kể lại, chỉ là hình ảnh báo trước việc Chúa Kitô sẽ rao giảng Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Và như thế sinh hoạt của Hội Thánh hiện nay như thư Côrintô kể, cũng chỉ là hiệu quả của việc công bố Tin Mừng này. Chúng ta hãy suy nghĩ về cả ba bài đọc để hiểu rõ Lời Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta những gì chung quanh việc công bố Tin Mừng.

1. Công Bố Tin Mừng Ðể Triệu Tập Dân Chúa
Bài sách Nêhêmya đưa chúng ta trở về thời sau lưu đày trong lịch sử Israen, vào khoảng thế kỷ thứ 6 trước Ðức Giêsu giáng sinh... Nhà cầm quyền Ba Tư bấy giờ cho phép các dân bị trị được phục hồi các truyền thống của dân tộc mình. Con cái Israen được khuyến khích bỏ đất Babylon để trở về quên quán. Họ dựng lại đền thờ và tái thiết Giêrusalem. Công việc gặp nhiều khó khăn.
Trước hết phần lớn những người Do Thái làm ăn được ở đất khách, không muốn trở về. Những người yêu nước và tha thiết với quê cha đất tổ, muốn trở về nhưng lại ít phương tiện. Rồi về đến nơi, họ lại gặp thái độ thù địch của dân đã đến sinh sống tại Giêrusalem trong thời gian lưu đày. Do đó việc trùng tu thánh điện tiến hành rất chậm. May có Ezra và Nêhêmya.
Hai người có uy tín với triều đình Ba Tư. Ezra là tư tế. Nhưng ở đất lưu đày không có nơi phụng thờ Giavê, ông đã chuyên khảo và suy niệm luật pháp Môsê. Ðang khi ấy Nêhêmya được giữ chức tiến rượu trong đền Vua, nhưng lòng vẫn hướng về Giêrusalem. Khi được tin công việc phục hưng xứ sở gặp nhiều khó khăn, ông đã xin phép hồi hương và được nhà vua phong làm Tổng đốc Giêrusalem. Nhờ sắc phong này ông đã giúp đồng bào xây dựng lại được tường thành để có thể sống yên ổn đối với dân đã đến lập cư tại Giêrusalem trong thời gian lưu đày. Nhưng thành quách chỉ là giới hạn bên ngoài. Muốn củng cố tinh thần của đồng bào ông và xây dựng lại cộng đồng con cái Israen, cần phải có luật pháp. Và đây là phần đóng góp của Ezra.
Bài đọc I hôm nay giới thiệu ông trong vai trò luật sĩ hơn là tư tế. Và rõ ràng con cái Israen đã cử hành phụng vụ Lời Chúa chứ không phải là phụng vụ tế lễ.
Ðó là đặc điểm của Do Thái giáo sau lưu đày. Toàn dân tập họp lại đủ mọi thành phần già trẻ, trai gái. Và trăm người như một. Tất cả đều chăm chú nhìn vào thầy Ezra đang "kiệu" sách Luật lên đứng trên một bục gỗ cao, kê quay xuống quần chúng... chung quanh thầy có các phụ tế, tăng thêm vẻ trang trọng cho việc công bố Lời Chúa sắp cử hành. Thầy Ezra bắt đầu bằng mấy lời chúc tụng danh Chúa. Cộng đoàn sốt sắng đáp lại bằng những chữ "Amen, Amen", kèm theo lễ nghi phủ phục thờ lạy. Rồi Thầy Ezra bắt đầu đọc Lời Chúa trong sách Luật. Thầy đọc dễ dàng, trang trọng. Nhưng sách viết bằng chữ Hipri. Rất nhiều người trong dân chúng không hiểu thứ tiếng ấy một cách dễ dàng nữa. Ít ra họ cũng thấy có nhiều điều khó hiểu khiến Nêhêmya và các phụ tế phải giúp thầy Ezra giải nghĩa cho dân. Càng nghe con cái Israen càng bùi ngùi xót xa. Họ thấy Chúa thương dân đến như vậy mà cha ông họ đã không nghe tiếng Người. họ thấm thía những hình phạt mà Người đã buộc lòng phải gửi đến. Nước mắt họ trào ra... Cả Nêhêmya và Ezra phải vội vàng tuyên bố: Hôm nay là ngày thánh, không được khóc như vậy... Ðúng hơn phải biến những giọt lệ xót xa vì tội lỗi nên niềm tin và ơn Chúa cứu độ. Nên hãy ăn uống và chia phần cho mọi kẻ đang túng thiếu.
Rõ ràng buổi phụng vụ Lời Chúa theo sách Nêhêmya chúng ta vừa đọc có những nét rất gần với nghi thức công bố Lời Chúa trong các buổi phụng vụ của chúng ta ngày nay. Ðó là khởi nguyên để chúng ta hoàn thành. Chúng ta nhất định phải làm tốt hơn con cái Israen ngày xưa. Họ đã tập họp đầy đủ, các thành phần già trẻ, trai gái. Gia đình chúng ta có thể làm được như vậy chứ! Họ đã nghiêm chỉnh, chăm chú nhìn vào người đọc và lắng nghe Lời Chúa. Họ lại chẳng chịu để lời nào nghe mà không hiểu, nhưng đã đòi được giải thích. Chúng ta có làm như vậy không? Nhất là họ để cho Lời Chúa, lương tâm khiến họ có thái độ thống hối ăn năn và quyết tâm sửa mình. Chúng ta cũng cần biến việc đọc và nghe Lời Chúa nên như cơ hội để thực hiện mầu nhiệm tử nạn phục sinh hầu tìm thấy ơn cứu độ của Chúa trong việc đọc và nghe Lời sách thánh.
Ước gì Lời Chúa từ nay trở thành sức mạnh tập họp và thánh hóa gia đình chúng ta và giáo xứ chúng ta. Có như vậy chúng ta mới hơn được con cái Israen ngày xưa.
Tuy nhiên chúng ta phải dành cho việc công bố Lời Chúa trong nhà thờ một địa vị quan trọng hơn. Và cho được như thế chúng ta hãy xem bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Ðức Giêsu rao giảng Tin Mừng trong nguyện đường ở Nadarét.

2. Dân Chúa Hiểu Tin Mừng Theo Ðức Giêsu
Chúng ta hãy tạm không nói đến những lời đầu tiên trong bài Tin Mừng hôm nay. Ðó cũng là những lời mở đầu của sách Tin Mừng theo thánh Luca. Rồi đây, chúng ta sẽ thấy rất ý nghĩa. Nhưng chúng ta hãy nhìn thẳng vào trọng tâm của bài Tin Mừng này.
Luca tóm tắt cho chúng ta thấy, Ðức Giêsu bấy giờ đầy Thánh Thần. Người ra khỏi sa mạc hẻo lánh sau 40 ngày đêm chay tịnh. Người trở về Galilê. Chắc chắn đi đến đâu Người cũng rao giảng Tin Mừng và chữa nhiều bệnh tật. Thế nên tiếng tăm Người đã đồn ra khắp nơi. Người ta đã nhiều lần hoan hô Người khi Người lên tiếng giảng dạy trong các hội đường. Vậy, Người đến Nadarét nơi Người sinh trưởng. Và theo tục lệ, người ta trao sách Thánh cho Người đọc... Người mở ra gặp trúng đoạn Isaia nói về người tôi tớ. Ðọc xong, Người gấp sách lại. Và trước mắt của trăm người như một đang hướng về Người. Người đã khởi sự giải thích Lời Chúa bằng những lời dễ dàng sau đây: "Lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe đọc, nay đang diễn ra".
Là vì người Tôi Tớ mà Thiên Chúa đã xức dầu Thánh Thần trong sách Isaia, không ai khác chính Người đang nói trước cử tọa trong nguyện đường ở Nadarét. Có lẽ khi viết những lời này, tác giả Isaia chỉ muốn chép quan niệm của các tiên tri về ơn gọi và sứ mạng của những người được Thiên Chúa cử làm ngôn sứ cho Người. Hết mọi người được trao phó sứ mạng rao truyền Lời Chúa đều được Người đổ Thần Linh của Người trong nghi lễ xức dầu mà sách các Vua I còn kể lại (19,16). Và sứ điệp mà họ phải tuyên bố chính là tin mừng cứu độ dành cho người khó nghèo, tù đày, để mọi nơi như được hân hoan cử hành những năm hồng ân đại xá mà nhân dân hằng mong ước. Những lời Isaia ấy hợp cho mọi ơn gọi ngôn sứ. Nhưng chắc chắn phải được dành riêng để nói về Người Tôi Tớ Ðức Giavê, một nhân vật mầu nhiệm trong sách Isaia mà chắc chắn chính là hình ảnh về Ðức Giêsu Kitô cứu thế.
Quả thật, ai đã được xức dầu Thánh Thần rõ ràng và dồi dào phong phú như chính Người sau khi chịu phép rửa ở sông Hòa Giang? Và vị tiên tri nào đã giảng dạy mà gây được niềm vui cứu độ như Người đã làm khi bỏ sa mạc trở về Galiêa? Nhiều bệnh nhân đã khỏi. Có những kẻ mù được trông thấy. Con người khó nghèo, tù đàuytrong cảnh lầm than không đang được giải thoát đó sao? Và khắp nơi đang nổi lên bầu khí hân hoan của những năm hồng ân đại xá. Ðức Giêsu thật có lý để tuyên bố: những lời tiên tri đang được thực hiện... và được thực hiện nhờ Người, do Người. Và người ta phải công nhận như vậy.
Có điều người ta chưa nhận ra đủ là Ðức Giêsu còn muốn đồng hóa mình với Người Tôi Tớ của Thiên Chúa mà Isaia muốn nói đến trong đoạn tiên tri này. Người không phải chỉ là tiên tri nhưng còn hơn tiên tri. Người đến không phải để chỉ công bố năm hồng ân, nhưng còn để thực hiện ơn cứu độ. Bà con thân thuộc của Người ở Nadarét chưa nhận ra điều ấy và sẽ không chấp nhận như chúng ta sẽ thấy trong ngày Chúa nhật sau. Họ không bằng lòng khi vừa nghe Người khẳng định Người là Ðấng Thiên Chúa sai đến vì trong thâm tâm, họ chỉ chờ được hưởng thụ những phép lạ mà Isaia đã loan báo và nghe rằng Người đã làm ở những nơi khác.
Luca viết đoạn Tin Mừng này không nhằm vào chúng ta đó sao? Lòng tin của chúng ta vào Chúa Giêsu Kitô dường như chưa thật vững chắc vì âm thầm có lẽ chúng ta cũng đang tiếc xót việc người không làm nhiều phép lạ ở giữa chúng ta. Người đã làm ở đất thánh ngày xưa, cho những người thời bấy giờ. Còn ngày nay đối với chúng ta, dường như Người không làm gì cả nhưng chỉ đòi chúng ta tuyên xưng Người là Ðấng Thiên Chúa xức dầu và sai đến...
Chính vì vậy Luca đã viết đoạn Tin Mừng này. Người viết cả quyển Tin Mừng thứ ba để, như trong lời mở đầu, chúng ta được am tường rằng giáo huấn chúng ta thụ lĩnh thực là đích xác. Và cho được như vậy Luca đã phải truy tầm gốc ngọn về mọi sự một cách tường tận rồi theo thứ tự đầu đuôi mà viết lại theo như các kẻ từ đầu đã được chứng kiến và phục vụ Lời Chúa đã truyền lại. Luca đã muốn cho tác phẩm của Người có giá trị đích xác để giúp chúng ta tin.
Nhưng thiết tưởng Người cũng đã làm gương để những ai muốn tin Chúa Giêsu Kitô cũng phải đào sâu giáo lý đã thụ lãnh. Không có sự truy tầm và suy niệm này, đức tin sẽ không chắc chắn và đích xác. Chúa Giêsu Kitô sẽ không rõ rệt ở trước mắt chúng ta. Người sẽ trở thành một nhân vật thuộc quá khứ hơn là hiện tại. Chúng ta sẽ thấy Người sống với dân Do Thái hơn là sống với chúng ta. Là vì chúng ta không thấy lời tiên tri đang thực hiện ở giữa chúng ta. Chúng ta đọc Kinh Thánh như những sự việc đã xảy ra mà đồng thời không thấy chúng diễn tả mầu nhiệm Ðức Kitô đang muốn ban ơn cứu độ cho mọi người. Nghĩa là không những chúng ta phải biết cử hành phụng vụ Lời Chúa như bài đọc I hôm nay đã cho chúng ta thấy. Nhưng chúng ta còn phải biết cử hành mầu nhiệm Ðức Kitô để Lời Chúa trở nên bánh nuôi tinh thần nữa. Và chúng ta chỉ làm được công việc này nhờ Hội Thánh và trong Hội Thánh vì chỉ ở đây mới có phụng vụ Lời Chúa. Nhưng phải làm thế nào để có thể ở trong Hội Thánh?

3. Chúa Giêsu Kết Hợp Chúng Ta Trong Hội Thánh
Bài thư Phaolô hôm nay viết về Hội Thánh một cách đơn sơ nhưng không kém phần sâu xa, và nhất là có giá trị rất thực tiễn. Tất cả chúng ta ở trong Chúa Giêsu như các chi thể khác nhau ở trong cùng một thân thể. Thế thì cũng như các chi thể của một thân thể không phủ nhận và từ chối nhau, thì chúng ta cũng phải chấp nhận và mật thiết kết hợp với nhau ở trong Chúa Giêsu. Các phận vụ ở trong Hội Thánh rất khác nhau, vì Người được ơn gọi làm tông đồ, kẻ được Chúa gọi làm tiên tri... nhưng đó là để ai theo phận nấy mà làm bộ phận cho thân thể. Không do một thân thể con người? Chẳng bao giờ mắt muốn mọi bộ phận khác trong con người phải như mình... vì như vậy chỉ có ngàn mắt mà không có thân thể.
Cũng thế muốn có thân thể mầu nhiệm của Ðức Kitô, mỗi người phải chấp nhận cho người khác đóng vai trò của họ và hơn nữa phải biết đau với bộ phận đau, vinh dự với bộ phận cinh dự. Nói cách khác, theo kiểu so sánh này, muốn thấy Chúa Giêsu Kitô còn tiếp tục hoạt động trong Hội Thánh để chúng ta được kết hợp với Người, ai ai cũng phải tôn trọng người khác và liên kết cộng tá với họ như các bộ phận trong một thân thể.
Hơn nữa, như lời Phaolô ám chỉ trong bài thư hôm nay mọi người phải chiếu cố hơn đến những bộ phận được coi như yếu hơn và không trang nhã mấy.
Ðó chẳng phải là thái độ và sứ mệnh của chính Ðức Kitô sao? Người được sai đến như người tôi tớ được xức dầu Thánh Thần để đem Tin Mừng đến cho người nghèo khó, kẻ tù đày... Bài Tin Mừng Luca đã cho chúng ta thấy rõ Người đến thực hiện mọi lời Tiên Tri. Người thật là vị được tuyển chọn để công bố lời cứu độ mà Ezra xưa chỉ là hình bóng xa xôi. Người còn tiếp tục sứ mạng ấy trong Hội Thánh là thân thể có đầy đủ mọi bộ phận khác nhau nhưng bổ túc cho nhau. Chính khi kết hiệp với nhau mà các phần tử trong Hội Thánh thấy mình đang được thần trí của Chúa Giêsu Kitô làm cho sống động và mới thấy Người dang sống động trong Hội Thánh.
Thế nên chúng ta họp nhau lại để nghe Lời Chúa như con cái Israen xưa, thì chưa đủ. Chúng ta cùng nhau tham dự vào Mình Máu Chúa Giêsu để kết hợp với Người, như Người đã ở giữa cử tọa hội đường Nadarét xưa cũng chưa đủ. Nhận lãnh thần trí của Người rồi, chúng ta còn phải tôn trọng và muốn hợp tác với anh em, trong các công việc chung nữa, thì mới hiện đại hóa mầu nhiệm Chúa Giêsu đang cứu độ và cứu thế.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)



Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật III Thường Niên, Năm C
Bài đọcNeh 8:2-4a, 5-6, 8-10; I Cor 12:12-30; Lk 1:1-4, 4:14-21.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sách Thánh giúp con người giải quyết mọi vấn nạn của cuộc đời.
Thiên Chúa không để con người lầm lẫn trong tối tăm của thế giới, Ngài ban cho con người một tấm gương soi là Kinh Thánh, Lời của Người. Con người có thể nhìn vào đó để nhận ra lỗi lầm quá khứ, để phiên dịch những gì đang xảy ra trong hiện tại, và để biết chuẩn bị cho tương lai đang tới. Điều cần là con người phải bỏ thời giờ để học hỏi và hiểu biết Kinh Thánh; nếu không, con người sẽ lầm lẫn trong bóng tối của cuộc đời, và không biết cách giải quyết những vấn nạn của cuộc sống.
Các Bài Đọc hôm nay nêu bật những ví dụ cụ thể của việc áp dụng Kinh Thánh trong cuộc đời. Trong Bài Đọc I, nhiều người Do-thái không hiểu lý do Thiên Chúa để Đền Thờ bị phá hủy, quốc gia bị xâm lăng, và dân chúng phải chịu lưu đày cực khổ khắp nơi. Trong ngày khánh thành Đền Thờ mới, tư tế Ezra cho đọc Sách Luật và các thầy Lêvi thay phiên nhau cắt nghĩa cho dân chúng. Họ hiểu ra lý do của những tai ương là tội của toàn dân đã khinh thường Lời Chúa và đã không thi hành Lề Luật. Họ khóc vì đã xúc phạm đến Thiên Chúa hằng yêu thương và săn sóc họ.
Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô đưa ra một ví dụ về thân thể mà con người có thể áp dụng trong cuộc sống để bảo trì sự hiệp nhất, thực thi đức bác ái, và cùng nhau xây dựng Nhiệm Thể của Đức Kitô đến mức thập toàn. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dùng lời ngôn sứ Isaiah để nói cho khán giả biết Ngài chính là sự ứng nghiệm của những lời ấy.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Toàn dân đều khóc khi nghe lời sách Luật.
1.1/ Sách Thánh giúp dân chúng hiểu biết những gì đang xảy ra trong cuộc đời: Hoàn cảnh lịch sử của trình thuật hôm nay là ngày khánh thành Đền Thờ thứ hai. Sở dĩ có ngày khánh thành Đền Thờ thứ hai là Thiên Chúa đã đổi lòng vua Ba-tư là Cyrus và Darius, để hai vua này ban chiếu chỉ phóng thích cho dân Israel được hồi hương và giúp đỡ tài chánh để xây dựng lại Đền Thờ. Tư tế Ezra “đem sách Luật ra trước mặt cộng đồng gồm đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đứng ở quảng trường phía trước cửa Nước, đọc sách Luật trước mặt đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đọc từ sáng sớm tới trưa, và toàn dân lắng tai nghe sách Luật.”
Sự kiện đọc Sách Luật và giải thích cho dân chúng nghe hôm nay là một hiện tượng mới. Trước năm 538 BC, người Do-thái chỉ biết nghe theo lời những người lãnh đạo và các ngôn sứ của Thiên Chúa gởi tới, cầu nguyện và dâng lễ vật đền tội trong Đền Thờ. Sau biến cố này, người Do-thái thiết lập các hội đường để thường xuyên cầu nguyện và học hỏi Kinh Thánh trong ngày Sabbath. Việc nghe Kinh Thánh giúp dân chúng nhận ra tội lỗi của họ đã xúc phạm đến tình thương của Thiên Chúa; đó là lý do dân chúng khóc vì nhận ra họ đã không trung thành với Thiên Chúa.
1.2/ Khinh thường Kinh Thánh là nguyên do của mọi đau khổ trong cuộc đời: Trong trình thuật hôm nay, dân chúng phải nghe giảng giải Kinh Thánh từ sáng sớm tới trưa, chứ không phải chỉ 15 phút trong thánh lễ mỗi tuần như nhiều người quan niệm. “Ông Ezra và các thầy Lêvi đọc rõ ràng và giải thích sách Luật của Thiên Chúa, nhờ thế mà toàn dân hiểu được những gì các ông đọc.”
Điều mọi người đều nhận ra là Kinh Thánh không dễ hiểu, và có rất nhiều những giải thích sai lạc. Để hiểu, con người cần có thời giờ chuẩn bị tâm hồn cho tâm hồn lắng đọng và xin Thánh Thần soi sáng trước khi nghe Lời Chúa. Ngoài ra, dân chúng cần có những người chuyên môn am tường Kinh Thánh như các thầy Levi, để cắt nghĩa cho dân chúng về ý nghĩa và cách áp dụng Kinh Thánh trong cuộc sống.
Kinh Thánh không phải là thứ sách đọc qua rồi bỏ; nhưng là tấm gương soi để con người thường xuyên dựa vào đó để xét mình xem coi mình đã thực hành Lời Chúa được đến đâu. Kinh Thánh giúp con người nhận ra những lỗi lầm họ đã xúc phạm đến Thiên Chúa và đến tha nhân.
Kinh Thánh là nguồn khôn ngoan giúp con người dựa vào đó để tìm ra những giải pháp cụ thể cho mọi vấn nạn của cuộc đời. Thực hành những điều Thiên Chúa dạy dỗ sẽ giúp con người tránh được tội lỗi và những đau khổ sẽ xảy đến trong tương lai. Ngoài ra, Kinh Thánh giúp con người nhận ra tình thương Thiên Chúa và trung thành với Ngài trong suốt cuộc đời.
2/ Bài đọc II: Thiên Chúa đã đặt mỗi bộ phận vào một chỗ trong thân thể như ý Người muốn.
Trình thuật hôm nay muốn nhấn mạnh đến mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa và với tha nhân nằm trong kế hoạch quan phòng của Thiên Chúa. Hiểu biết nền thần học thân thể của Phaolô sẽ giúp chúng ta loại bỏ những chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, kỳ thị, và hưởng thụ; đồng thời sẽ giúp chúng ta biết xây dựng gia đình, cộng đoàn, xã hội và Giáo Hội được bình an, tăng trưởng, và hạnh phúc.
2.1/ Phận vụ của các chi thể trong một thân thể: Thánh Phaolô liệt kê những kiến thức căn bản về thân thể:
– thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều chi thể, mà các chi thể của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể;
– các chi thể đều thuộc về thân thể cho dù chúng muốn hay không. Ví dụ, giả như chân có nói: “Tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể”, thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. Giả như tai có nói: “Tôi không phải là mắt, vậy tôi không thuộc về thân thể,” thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể;
– mỗi chi thể đều cần thiết cho thân thể hoạt động theo ý định của Thiên Chúa: “Giả như toàn thân chỉ là mắt, thì lấy gì mà nghe? Giả như toàn thân chỉ là tai, thì lấy gì mà ngửi? Giả như tất cả chỉ là một chi thể, thì làm sao mà thành thân thể được?”
– những chi thể xem ra yếu đuối nhất lại được coi là cần thiết nhất; và những chi thể coi là tầm thường nhất, lại được tôn trọng hơn cả;
– tất cả các chi thể đều góp phần trong việc xây dựng thân thể: nếu một chi thể đau, thì toàn thân đều đau.
2.2/ Mỗi người tín hữu là chi thể của một Nhiệm Thể là Hội Thánh và Đức Kitô là Đầu: Thánh Phaolô áp dụng sự phân tích về thân thể vào Nhiệm Thể của Đức Kitô. Ngài dùng câu so sánh: “Đức Kitô cũng vậy.”
– tất cả chúng ta, dầu Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất.
– mỗi người được Thánh Thần ban cho mỗi đặc sủng khác nhau: người được ơn làm phép lạ, người được đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói các thứ tiếng lạ.
– đặc sủng khác nhau đưa đến những ơn gọi khác nhau: Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy…
– đừng bắt người khác giống mình, vì điều đó đi ngược lại với ý định của Thiên Chúa và không mang lại kết quả tốt đẹp: “Chẳng lẽ ai cũng là tông đồ? Chẳng lẽ ai cũng là ngôn sứ, ai cũng là thầy dạy sao? Chẳng lẽ ai cũng được ơn làm phép lạ, ai cũng được ơn chữa bệnh sao? Chẳng lẽ ai cũng nói được các tiếng lạ, ai cũng giải thích được các tiếng lạ sao?”
3/ Phúc Âm: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.”
3.1/ Mục đích của thánh sử Lucas khi viết Tin Mừng: Tin Mừng được viết cho một khán giả đặc biệt và mục đích được Lucas tuyên bố rõ ràng: “Thưa ngài Theophile đáng kính … mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc.”
Theo truyền thống Do-thái, lời chứng của hai, ba, hay nhiều người, là lời chứng vững chắc. Lucas nhắc nhở lời chứng của thế hệ thứ hai, những người đã nghe thế hệ thứ nhất thuật lại: “Có nhiều người đã ra công soạn bản tường thuật những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta. Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa truyền lại cho chúng ta.” Và Lucas thêm vào lời chứng của mình: “Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài.” Điều cần lưu ý ở đây về cách cấu trúc văn chương của đoạn văn: cả đoạn đều là một câu; việc chia thành 4 câu là công việc của các học giả Kinh Thánh sau này.
3.2/ Chúa Giêsu đọc và giải thích Kinh Thánh.
(1) Chúa Giêsu nhận ra tầm quan trọng của việc đọc và dạy dỗ Kinh Thánh: Trình thuật kể: “được Thánh Thần thúc đẩy Ngài đi khắp miền Galilee để giảng dạy dân chúng trong các hội đường.” Như đã nói trên, kể từ thời Ezra trở đi, người Do-thái có thói quen thành lập các hội đường tại địa phương để cầu nguyện và học hỏi Kinh Thánh mỗi ngày Sabbath. Trong trình thuật hôm nay, “Đức Giêsu trở về Nazareth, nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabbath, và đứng lên đọc Sách Thánh.”
(2) Ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaiah. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” Đây là lời của ngôn sứ Isaiah, 61:1-2a, về sứ vụ của ông nhận được từ Thiên Chúa, để loan tin cho dân Do-thái nơi lưu đày biết họ sắp được phóng thích để hồi hương.
Chúa Giêsu bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” Đoạn văn của Isaiah không chỉ đúng cho Isaiah và người đương thời của ông, mà còn đúng cho Chúa Giêsu và khán giả thời của Ngài. Thánh Thần cũng xức dầu cho Đức Kitô trong biến cố Ngài chịu phép rửa tại sông Jordan. Ngài cũng được sai đi để rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, không chỉ cho dân Do-thái, mà còn cho tất cả mọi người. Ngài giải thoát con người không phải khỏi ách nô lệ của ngoại bang, nhưng là ách nô lệ của tội lỗi và các quyền lực của ma quỉ.
Lời Kinh Thánh vẫn tiếp tục ứng nghiệm mỗi ngày trong cuộc đời cho đến tận thế. Là môn đệ của Đức Kitô, chúng ta cũng nhận lãnh sứ vụ rao truyền Tin Mừng để giải thoát con người khỏi ảnh hưởng của những gian trá và tội lỗi. Khi chúng ta thực hành những gì Kinh Thánh dạy, chúng ta tìm thấy niềm vui và được hưởng những hiệu quả tốt đẹp. Ngược lại, khi chúng ta không làm những gì Kinh Thánh dạy, chúng ta không có sự bình an và phải lãnh nhận mọi đau khổ do tội lỗi mang lại.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Lời Chúa là ánh sáng soi đường, là tấm gương soi chiếu cuộc đời, là nguồn khôn ngoan giúp chúng ta nhận ra sự thật và giải quyết mọi vấn đề của cuộc sống.
– Chúng ta cần biết tận dụng thời giờ để học hỏi và cố gắng thực thi Lời Chúa để tránh được những đau khổ không cần thiết trong cuộc đời. Nếu không chịu học hỏi, chúng ta sẽ lầm lũi trong đêm tối và phải lãnh nhận mọi hậu quả không tốt đẹp.
– Lời Chúa giúp chúng ta không những nhận ra những gian trá của ba thù, mà còn giúp chúng ta biết cách thức xây dựng Nhiệm Thể của Đức Kitô, mang bình an và hạnh phúc đến cho cá nhân và cộng đoàn.
– Lời Chúa vẫn tiếp tục ứng nghiệm hằng ngày trong cuộc đời mỗi người, gia đình, và nhân loại.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


27/01/2019 – CHÚA NHẬT TUẦN 3 TN – C
Lc 1,1-4;4,14-21

MỘT CHUYẾN TRỞ VỀ
“Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người.” (Lc 4,20)
Suy niệm: Người dân làng Na-da-rét chăm chú quan sát “nhất cử nhất động” của Chúa Giê-su trong chuyến về thăm quê nhà, để xem những tiếng đồn về người con bác thợ mộc này có đúng hay không. Có thể một số ít trong họ tin rằng Người là vị ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến. Còn đám đông thì bán tín bán nghi, tại sao anh thanh niên Giê-su này, con ông Giu-se và bà Ma-ri-a, vốn làm nghề thợ mộc trong thôn xóm, hàng xóm láng giềng với họ, lại khiến họ phải ngỡ ngàng thán phục vì những gì miệng Người nói ra. Họ đâu ngờ nhờ Người, ngôi làng Na-da-rét bé nhỏ của họ được cả thế giới biết đến. Họ càng không ngờ Người không chỉ là một ngôn sứ, nhưng còn là Đấng Cứu tinh của cả nhân loại, là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người. Những gì Cựu Ước loan báo trước được ứng nghiệm nơi Người, qua lời nói, việc làm, cũng như qua mọi sự kiện xảy ra trong cuộc đời Người.
Mời Bạn: Cảm giác “quê hương là chùm khế ngọt” dường như không tồn tại trong tâm thức của Chúa Giê-su, Người bị người làng coi thường vì quá quen thuộc. Vì vậy, họ không thể nếm được hạnh phúc của “giờ Người viếng thăm.” Còn bạn thì sao? Có phải vì quá quen thuộc với Chúa qua các nghi thức, bạn chưa đánh giá đúng sự hiện diện của Người trong đời mình chăng?
Sống Lời Chúa: Đừng để phút giây cầu nguyện, thánh lễ trôi qua cách vô ích, khiến ta không thể gặp được Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin giúp con luôn coi trọng việc gần gũi Chúa trong cuộc sống hằng ngày, đặc biệt những giờ khắc cầu nguyện hay tham dự thánh lễ. Đó là những giây phút làm cho đời con thêm ý nghĩa. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)


Năm hồng ân của Chúa (27.1.2019 – Chúa Nhật 3 TN, năm C)
Suy niệm:


Khi đã khá có tiếng tăm ở vùng Galilê,
Ðức Giêsu trở về Nadarét, nơi Ngài sinh trưởng.
Làm sao Ngài quên được mảnh đất làng quê đã ấp ủ mình,
nơi có bà con họ hàng, láng giềng, bè bạn.
Hơn nữa Ngài cũng không cắt đứt với tôn giáo của cha ông.
Ngài vẫn là một người Do Thái ngoan đạo,
quen lui tới hội đường cùng với dân làng vào ngày sabát,
để thờ phượng Thiên Chúa mà Ngài âu yếm gọi là Cha.
Chúng ta cần chiêm ngắm Ðức Giêsu đứng đọc Sách Thánh.
rồi ngồi xuống giải thích Lời Chúa cho mọi người.
Cử chỉ của Ngài thật trang trọng, đĩnh đạc,
khi nhận sách, mở sách, cũng như khi cuộn sách để trả lại.
Có một bầu khí cầu nguyện sâu lắng ở hội đường.
Mọi người đều chăm chú nghe lời Ngài giảng.
Ðoạn sách Ngài đọc hôm ấy là của ngôn sứ Isaia.
Isaia đã nói lên ơn gọi và sứ mạng của mình.
Ông được xức dầu để trở thành ngôn sứ
cho những người Do Thái mới thoát khỏi cảnh lưu đày.
Ông được sai đi để loan báo thời cùng khốn đã chấm dứt
và công bố khai mở một thời kỳ đầy ân sủng và tự do.
Ðức Giêsu đã bị đánh động bởi đoạn sách này.
Ngài thấy nó phản ánh chính ơn gọi và sứ mạng của mình.
Ðây là một hướng đi mà Ngài phải theo đuổi,
một chương trình hành động mà Ngài muốn hoàn thành.

Ðức Giêsu là người đầy tràn Thánh Thần cách đặc biệt.
Thánh Thần chi phối toàn bộ lời nói, việc làm của Ngài.
Ngài được sai đi đem Tin Mừng cho người nghèo,
nghèo tiền bạc, nghèo sức khỏe, nghèo tiếng nói.
Ngài được sai đến với những kẻ bị giam cầm
bởi nỗi lo sợ, bởi thành kiến, bởi ích kỷ tham lam.
Ngài cho người mù được sáng mắt và thấy trong niềm tin.
Ngài trả lại tự do cho cả người bị áp bức
lẫn người gây áp bức bóc lột.
Ngài mời gọi cả hai sống thanh thoát như Ngài,
sống như con của Cha và anh em của nhau.
Ngài khai mạc một Năm Thánh, Năm Hồng Ân cứu độ.

“Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.”
Chúng ta phải có thể nói một câu tương tự như Ðức Giêsu.
Có nhiều đoạn Lời Chúa chẳng được ứng nghiệm bao giờ
vì thiếu sự cộng tác của bản thân tôi.
Con người hôm nay khao khát niềm vui, ánh sáng, tự do,
nhưng ít người chịu tin vào Ðức Kitô
chỉ vì đời tôi đầy sầu muộn, bóng tối và nô lệ.
Thậm chí có khi tôi lại là kẻ áp bức anh em,
kẻ bịt mắt và giam hãm tha nhân trong ngục tù.
Lời ngôn sứ Isaia đã được ứng nghiệm trong đời Ðức Giêsu.
Ước gì Lời Chúa cũng được ứng nghiệm trong đời tôi,
để ngày hôm nay của Chúa được kéo dài đến tận thế.
Ðại Năm Thánh 2000 đã kết thúc,
nhưng kết thúc là để tôi bắt đầu sống quảng đại
một thiên niên kỷ mới chan chứa hồng ân.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Thánh Thần,
Xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Ngài
giữa lòng thế giới,
trong lòng mọi người.

Thế giới hôm nay còn nhiều điểm tối,
nhưng vẫn có những đốm sáng rực rỡ:
khi con người ngồi lại gần nhau
để giải quyết tranh chấp, tìm kiếm hòa bình;
khi cả thế giới lo chung một mối lo:
bảo vệ trái đất, ngăn chận sida,
tận diệt ma tuý;
khi có những người nghèo
quan tâm đến những người nghèo hơn;
khi trẻ thơ và người già được chăm sóc;
khi hàng rào ngăn cách các nước được tháo gỡ;
khi không còn nạn kỳ thị chủng tộc, tôn giáo, màu da;
khi những tiến bộ của khoa học kỹ thuật
làm cho con người sống hạnh phúc;
khi mọi người nhận ra mình là anh em của nhau,
liên đới với nhau và chịu trách nhiệm về nhau,
sống trên cùng một hành tinh,
dưới mái nhà bầu trời.

Lạy Chúa Thánh Thần,
xin cho chúng con thấy Ngài
nơi nụ cười người ta trao cho nhau trên đường phố,
nơi những hy sinh vô vị lợi,
và cả nơi những thao thức của ai đó,
muốn xây dựng một thế giới huynh đệ hơn.
Lm. Antôn nguyễn Cao Siêu. S.J


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
27 THÁNG GIÊNG
Bảo Vệ Quyền Lợi Người Lao Động Trong Thời Đại Tự Động Hóa
Hiểu được giá trị trỗi vượt của con người trong môi trường lao động, chúng ta thấy rõ rằng con người không thể bị hy sinh để phục vụ cho hiệu năng của tự động hóa. Vâng, các môi trường lao động hiện đại phải hết sức lưu tâm để bảo vệ quyền làm việc của con người – bằng cách chỉ triển khai loại thay đổi này (tức tự động hóa) sau khi đã vạch kế hoạch kỹ lưỡng. Với thiện chí và với sự tiên lượng tốt, chúng ta có thể giúp cho nhiều người trong số những kẻ mất việc làm do sự thay đổi công nghệ được đào tạo lại và được tái thu dụng vào lực lượng lao động.
Trong tình hình như vậy, ý nghĩa đích thực của nhân vị và của phẩm giá con người phải là mối ưu tiên hàng đầu trong bất cứ trường hợp nào liên can đến sự thu dụng hay chuyển đổi chỗ làm của người lao động. Những người chủ việc phải cố gắng đứng ở vị trí bảo vệ quyền làm việc thích đáng cho mọi công nhân của mình. Tôi đặc biệt đề xuất điều này với các tổ chức công đoàn – là những tổ chức có bổn phận bênh vực quyền lợi của người công nhân. Các công đoàn không thể giới hạn tầm nhìn của mình nơi chỉ một loại công nhân nào đó, nhưng cần phải quan tâm đến phẩm giá của mọi người trong môi trường lao động.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 27/1
Chúa Nhật III Thường Niên
Nkm 8, 2-4. 5-6. 8-10; 1Cr  12, 12-30; Lc 1, 1-4.

LỜI SUY NIÊM: “Thưa ngài Thêôphilô đáng kính, có nhiều người đã ra công soạn bản tường thuật những việc đã được thực hiện giữa chúng ta. Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa truyền dạy cho chúng ta.”
          Ngày hôm nay mỗi người chúng ta đang sống trong một thời đại của tình yêu thương và lòng thương xót của Thiên Chúa, chính là nhờ vào Sách Tin Mừng. Sách Tin Mừng không phải là một cuốn truyện. Đây là một chứng từ qua đó giúp cho con người gặp được Chúa Giêsu mà Giáo Hội tiên khởi đã cảm nhận được sức mạnh phục sinh của Chúa truyền ban. Các các Tông Đồ là chứng nhân, cũng như sự tử đạo của các tiền nhân.
          Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người chúng con đều được trở nên chứng nhân của Chúa nơi chúng con đang sống và làm việc, giúp cho những ai đang khao khát tìm kiếm chân lý sống, họ gặp được Chúa.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 27-01: Thánh ANGÊLA MÊRICI
Đồng trinh (1474-1540)

Angêla Mêrici sinh ngày 21-3-1474 ở Dessenzanô bên hồ Garda. Khi lên mười, Ngài đã bị mồ côi cha mẹ. Những tín hữu đạo đức ước ao cho con cái mình tìm được hạnh phúc trong vinh quang Chúa và đưa cuộc đời các thánh ra làm gương mẫu. Cậu của Ngài lãnh trách nhiệm giáo dục Ngài, cũng theo một tinh thần trên. Khi các ông cậu qua đời, Ngài lại về sống với anh em. Angêla là một cô gái đạo đức và để bảo đảm sự thánh thiện của mình, Ngài đã gia nhập hội dòng ba thánh Phanxicô, hiến mình làm việc bác ái, nhất là việc giáo dục trẻ em.
Một ngày kia Angêla được thị kiến thấy một chiếc thang nối liền đất với trời. Một đoàn trinh nữ leo lên từng bậc thang ấy và một người trong số đó nó với Ngài: – Chị sẽ làm mẹ đám người ấy.
Theo lòng đạo đức thời đó, người thiếu nữ đã đi hành hương nhiều nơi. Rồi với một nhóm người hành hương, Ngài muốn đi hành hương Giêrusalem. Nhưng Ngài bị một cơn mù lòa nhiệm lạ tại Candie và chỉ hết bệnh khi Ngài trở lại đây. Ngài đã giải thích sự kiện nầy như biểu tượng sự từ bỏ, làm nền tảng cho mọi dự định của mình. Angêla đến yết kiến Đức Thánh cha và lo thực hiện công trình giữa những sự đau khổ của chiến tranh. Ngài tận tụy nhiều cho người nghèo và dân lao động. Những kỷ niệm cuộc thị kiến ám ảnh lòng Ngài mãi. Ngài đã tới Brescia là nơi có một ngôi nhà dành cho Ngài xử dụng.
Một số thiếu nữ đến qui tụ bên Ngài. Đây là hạt nhân của một hội dòng mà Ngài sẽ thành lập với một hình thức tu trì mới mẻ đối với thời đại, một cuộc sống nối kết sự chiêm niệm với việc dạy dỗ trẻ em. Angêla đặt hội dòng dưới sự bảo trợ của thánh nữ Ursula, vị nữ đồng trinh thành Côlôgna, đã được tôn vinh như là một nữ anh hùng chiến thắng man rợ về văn hóa.
Phương pháp của thánh Angêla thật khác với ý niệm tân tiến về một trường dòng Ngài thích sai các nữ tu đến dạy các thiếu nữ tại ngay gia đình họ. Ngài thường nói: – Xáo trộn trong xã hội là kết quả sự xáo trộn ngay tự trong gia đình.
Không được học hành nhiều. Thánh Angêla có những trực giác lạ lùng. Ngài nghĩ rằng: người ta chỉ có thể canh tân phong hóa tự gia đình, và gia đình được canh tân là do việc giáo dục phụ nữ.
Thánh Angêla Mêrici được biết tới như vị sáng lập dòng của các nữ tu Ursula. Thực sự Ngài là vị sáng lập, dầu không đúng với các ý hướng của Ngài. Bởi vì Ngài xem ra có hơi cấp tiến đối với thời đại của mình. Dự định của Ngài về các nữ tu là không có y phục riêng, không có lời khấn trọng, không có lũy rào để dễ đến với tuổi trẻ hứa hẹn của tương lai, và để có thể phục vụ tha nhân hữu hiệu hơn. Nhưng dự định này đi ngược với những ý niệm thịnh hành thời Ngài và dưới ảnh hửơng của thánh Carôlô Berrômêô và của qui luật của đức Thánh cha (Thánh Piô V) là buộc các nữ tu Ursula phải nhận những bảo đảm theo giáo luật đòi buộc mọi nữ tu.
Những năm cuối đời, thánh Angêla Mêrici thường hay xuất thần. Ngài qua đời ở Brescia ngày 27 tháng giêng năm 1540.
(daminhvn.net)


27 Tháng Giêng
Ống Ðiện Thoại Sống
Xã hội càng văn minh, kỹ thuật càng tân tiến, thì người già càng bị ngược đãi. Tại Roma chẳng hạn, với khoảng 3 triệu dân cư, người ta ước tính có đến trên sáu trăm ngàn người già. Chỉ có một số nhỏ được săn sóc đàng hoàng, đa phần phải trải qua một trong những thử thách lớn nhất của tuổi già là cô đơn và nhiều sự ngược đãi khác.
Từ bao lâu nay, các tu sĩ thuộc cộng đồng Thánh Egidio đã dấn thân một cách đặc biệt trong việc bảo vệ quyền lợi của người già. Nay, cộng đồng còn đưa ra một sáng kiến mới gọi là “Cú điện thoại chống lại bạo động và bênh vực quyền lợi của người già”. Với sáng kiến này, cộng đồng đã thiết lập một đường dây điện thoại đặc biệt nhằm giúp cho những người già đang sống một mình hoặc bà con thân thuộc của họ có thể liên lạc để xin trợ giúp tron bất cứ nhu cầu nào. Túc trực điện thoại trên đường dây này là 60 nhân viên, tất cả đều đã từng có kinh nghiệm trong nhiều ngành khác nhau như luật pháp, cán sự xã hội, y tá, nói chung trong mọi lĩnh vực có liên quan đến các vấn đề của người già. 
Qua sáng kiến trợ giúp trên đây, nhiều người già cả đã ý thức hơn về quyền lợi của họ cũng như tìm được nhiều an ủi đỡ nâng qua chính những người chỉ túc trực ở điện thoại để lắng nghe. 
Một tác giả đã viết về sự cô đơn như sau: “Cô đơn là cho đi mà không có người nhận, muốn nhận mà chẳng có ai cho. Cô đơn là chờ đợi, mà cái mình chờ chẳng bao giờ đến. Như hai bờ sông nhìn nhau mà vẫn nghìn trùng cách xa bởi dòng sông. Nên cô đơn là gần nhau mà vẫn cách biệt. Không phải cách biệt của không gian mà là cách biệt của cõi lòng. Bởi đó, vợ cô đơn bên chồng, con cái cô đơn bên cha mẹ. Càng gần nhau mà vẫn cách biệt thì nỗi cô đơn càng cay nghiệt mà vẫn phải gần nhau thì lại càng cô đơn hơn. Tôi cô đơn khi tôi bị vây bọc bởi những con sông thờ ơ, những mây mù ảm đạm. Tôi có thể cô đơn vì tôi không đến với những người khác…”. 
Những dòng trên đây như muốn nói lên một sự thật: ai trong chúng ta cũng đều có thể rơi vào cô đơn. Trong bất cứ tuổi tác nào, trong bất cứ địa vị nào trong xã hội, ai cũng có thể làm mồi cho cô đơn. Liều thuốc để ra khỏi sự cô đơn, chính là ra khỏi chính mình để làm cho người khác bớt cô đơn. Xã hội sẽ được ấm tình người hơn nếu mỗi người biết ra khỏi cái vỏ ích kỷ hẹp hòi của mình để đến với người khác, để trở thành một đường dây điện thoại sống cho người khác.
(Lẽ Sống)


Lectio Divina: Chúa Nhật III Thường Niên (C)
Chủ Nhật 27 Tháng Một, 2019
Chúa Giêsu trình bày chương trình sứ vụ của mình
Tại cộng đoàn Nagiarét
Lc 1:1-4; 4:14-21


1.  Lời nguyện mở đầu

Lạy Chúa là Thiên Chúa Toàn Năng ngự trên cao,
Chúa đã biến đời sống mỏng manh của chúng con thành đá tảng đền thờ Chúa ngự.
Xin hãy hướng dẫn tâm trí chúng con biết đập vỡ những phiến đá trong sa mạc,
để cho nước có thể chảy ra hầu làm dịu cơn khát của chúng con. 
Nguyện xin cho sự nghèo nàn về cảm xúc của chúng con che phủ chúng con như tấm áo choàng trong bóng tối của đêm đen.
Và xin Chúa hãy mở lòng trí chúng con để chúng con có thể nghe được tiếng vang vọng của sự im lặng cho đến lúc bình minh,
Xin hãy ấp ủ chúng con trong ánh sáng của buổi rạng đông,
Xin hãy mang đến cho chúng con,
Với than hồng từ lửa của những người chăn chiên của Đấng Tuyệt Đối
Là những người canh thức cho chúng con được gần với Thầy Chí Thánh, hương vị của kỷ niệm thánh.

2.  Bài Đọc

a)  Tin Mừng:
 1 Vì có nhiều người khởi công chép lại những biến cố đã xảy ra giữa chúng ta, theo như các kẻ từ đầu đã chứng kiến và phục vụ lời Chúa, đã truyền lại cho chúng ta, phần tôi, thưa ngài Thêophilê, sau khi tìm hỏi cẩn thận mọi sự từ đầu, tôi quyết định viết cho ngài bài tường thuật sau đây, để ngài hiểu chân lý các giáo huấn ngài đã lãnh nhận.
14 Bấy giờ Chúa Giêsu trở về Galilêa trong quyền lực Thánh Thần, và danh tiếng Người lan tràn khắp cả miền chung quanh. 15 Người giảng dạy trong các hội đường và được mọi người ca tụng.
16 Người đến Nagiarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày nghỉ lễ, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. 17 Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng: 18“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, 19 công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng”. 20 Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. 21 Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”.

b)  Lời chú giải:
Một lời giới thiệu tóm tắt ngắn gọn trình bày hoạt động của Chúa Giêsu, thân thế của Người, và khung cảnh của bài Tin Mừng (Lc 4:14-21) xảy ra trong hội đường ở Nagiarét vào một ngày Thứ Bảy.  Việc Chúa Giêsu trở lại nơi mà danh tiếng của Người đã lan rộng khắp nơi trong vùng Galilêa và Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn các bước đi của Người, có một lý do đặc biệt.  Nói một cách chính xác, Luca cố gắng đưa ra lời diễn giải cứu độ cho các sự kiện bằng cách làm sáng tỏ các khía cạnh nổi bật.  Sự kiện Chúa Giêsu giảng dạy trong hội đường biểu thị nguồn gốc người Do Thái của Chúa và lòng mong muốn dự phần vào việc phụng tự để nhấn mạnh vai trò quan trọng của lề luật mà Thiên Chúa đã giao phó cho dân của Người và để hiến thân mình như lời ứng nghiệm và niềm hy vọng của dân Israel.
Đối với câu hỏi ngụ ý trong câu chuyện:  Chúa Giêsu có phải là một ngôn sứ không?  Câu trả lời trở nên rõ ràng hơn dựa theo các tiêu chuẩn nhận định được dân Do Thái sử dụng để xác định xem một người có phải là ngôn sứ được sai đến bởi Đấng Gia-Vê hay không:  lời giảng dạy của người ấy có phù hợp với giáo lý của lề luật Môisen không, công việc của người ấy có tương ứng với các điều răn của Thiên Chúa không, lời tiên tri của người ấy có liên quan đến sự thật sắp xảy ra trong tương lai không.  Tại Nagiarét, Đức Giêsu tự nhận mình là một ngôn sứ – thực ra, Người so sánh mình với các ngôn sứ Êlia và Êlisa – dù rằng Người không tự nhận mình như thế để cho phù hợp với tập quán hầu tránh được bất kỳ nỗ lực tự xưng của mình.

c)  Giây phút thinh lặng cầu nguyện:
Hãy để cho Lời Chúa vang vọng ở trong lòng chúng ta.

3.  Suy Gẫm

a)  Một vài câu hỏi gợi ý: 
–  Nghiên cứu cách chính xác trong mọi hoàn cảnh:  chúng ta có luôn vội vã trong ngày không?  Chúng ta có thực sự muốn truy cứu một cách chính xác việc gì đã xảy ra cho chúng ta không?
–  Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó:  Tôi có luôn nghĩ đến người nghèo khó như những người khác trong khi tôi thuộc về những người giàu có và hiểu biết, và do đó tôi không cần đến bất cứ ai không?
–  Hôm nay lời Kinh Thánh này đã được ứng nghiệm:  lời Kinh Thánh nào mà chúng ta biết rõ đến nỗi như công nhận nó là hóa thân trong thời đại chúng ta?

b)  Chìa khóa dẫn đến bài Tin Mừng:

Cảnh huống lịch sử
 Đoạn văn về hội đường tại Nagiarét là một phần góc cạnh được thiết kế để sau này sẽ hình thành chìa khóa của bài đọc về những gì xảy ra tiếp theo trong sách Phúc Âm của Luca.  Việc đối chiếlời ngôn sứ Isaia là việc căn bản bởi vì trong đó được mặc khải sự liên tục lịch sử nhân loại của Thiên Chúa.  Cử chỉ của Chúa Giêsu, được đặt song song:  “Người đã đứng dậy và mở sách ra” (câu 17), “Người gấp sách lại và ngồi xuống” (câu 20), cho thấy câu chuyện về một nhân vật phụng vụ theo lệ thường nhưng lại mới mẻ.
Sự mới mẻ xảy ra trong bài giảng nói về món quà tặng báo trước.  Ngày nay, một từ ngữ quan trọng trong Tin Mừng Luca, thể hiện việc ứng nghiệm trong mục đích của Chúa Kitô.  Những phản ứng tức khắc đối với chữ ngày nay là sự ngạc nhiên và không tin tưởng, là kỳ diệu và tai tiếng thậm chí việc chối bỏ đã được tìm thấy trong câu hỏi theo sau lời công bố của Chúa Giêsu, một câu hỏi lơ lửng mà không có câu trả lời:  “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” (câu 22).  Sự tương phản với Lời Chúa được công bố về một người được trao ban bởi thần khí Chúa, được thánh hiến bởi việc xức dầu, được sai đi vào một sứ vụ đặc biệt mang tính cách thiên sai:  để đem tin mừng, để tha thứ, để công bố… tạo ra một cuộc xung đột về căn tính.

Cảnh huống văn học
 Đoạn văn này không có những điểm tương đồng chính xác trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm.  Chuyến viếng thăm của Đức Giêsu tại làng Nagiarét trong Tin Mừng Mátthêu 13:53-58 và trong Máccô 6:1-6a giới hạn trong câu hỏi liên quan đến nguồn gốc của Chúa Giêsu và sự từ chối của Người.  Không có một lời mô tả nào về nghi thức trong hội đường, cũng không có một ghi chép nào về những lời được công bố bởi Đức Giêsu và về sự giải thích việc hôm nay ứng nghiệm Lời Chúa.  Sự phù hợp duy nhất, ngoài sự đa dạng của bối cảnh, là việc từ chối Đức Giêsu bởi dân làng Nagiarét.
Qua bài giảng của Chúa Giêsu tại Nagiarét, Luca muốn giới thiệu và làm sáng tỏ toàn bộ mầu nhiệm công khai của Chúa Giêsu.  Sách tiên tri Isaia các câu 61:1-2 chứa một tổng hợp về các chủ đề lớn mô tả đặc điểm Tin Mừng của Luca và những việc thân quý nhất đối với ông:  Chúa Thánh Thần, việc xức dầu Đấng Thiên Sai, sự giải thoát cánh chung, niềm vui thiên sai, sự can thiệp của Thiên Chúa để giúp đỡ người nghèo khó và kẻ bị áp bức, việc công bố năm hồng ân.  Chương trình được mở đầu trong sách Tin Mừng của Máccô với lời công bố:  “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.  Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1:14-15) và sách Tin Mừng Mátthêu trong bài giảng trên núi (Mt 5:1-48), xuất hiện trong sách Tin Mừng của Luca tại trung tâm thờ phượng của người Do Thái:  việc được ứng nghiệm không phải là thời gian mà là lời Kinh Thánh.  Độc giả được mời gọi để nhìn thấy việc cần thiết phải “cùng đi” với Chúa Kitô và bắt chước Người trên con đường tuân theo ý muốn của Chúa Cha.  Thành Giêrusalem, chỗ kết thúc của một cuộc hành trình dài (Lc 9:51-18:14) đã đưa Chúa Giêsu đến thời điểm quyết định cuộc đời của Người, cùng là điểm cuối cùng của sứ vụ nơi trần gian của Người (Lc 24) và bắt đầu đời sống của Giáo Hội sơ sinh (Cv 1-2).

Thể loại văn học
Trong đoạn văn này, chúng ta có thể thấy một chút thống nhất về văn học.  Sự can thiệp biên soạn của Luca bắt đầu từ những dữ kiện truyền thống, theo sau mục đích riêng của nó.  Sự thiết kế nhất thể của cả hai phần cho thấy sự phân định nội tại rõ ràng và đối ngoại chính xác.  Đối với Luca, hai lĩnh vực của vấn đề thì không thể tách rời:  Đức Giêsu là ai? Và Việc làm của Người nhắm vào ai?  Mối tương quan giữa lời nói và hành động thì rất mật thiết, hành động mạnh mẽ của việc công bố xảy ra trong đời sống.  Đoạn văn này muốn giới thiệu mầu nhiệm công khai của Chúa Giêsu, hầu như giúp cho Người có thể hành động trong sự hạn chế vì Người thuộc về dân Do Thái.  Thần Khí Chúa được ban dồi dào trên Đức Giêsu:  lúc Người được sinh ra (1:36); lúc Người chịu phép rửa (3:22), trong lúc bị cám dỗ (4:1), vào lúc bắt đầu sứ vụ của Người (4:14), là Thần Khí được nói đến trong sách tiên tri Isaia (câu 18) là Đấng làm cho hoạt động của Thiên Chúa nên rõ ràng.  Một hoạt động không có những giới hạn chủng tộc và không tìm kiếm danh vọng, mà  thiên về những ai cần đến ơn cứu độ:  người nghèo khó, những kẻ bị giam cầm, kẻ mù lòa, người bị áp bức, và để bắt đầu thời gian ân sủng của Thiên Chúa.  Vị ngôn sứ được sai đến bởi Thiên Chúa thì được miễn trừ khỏi tất cả mọi giới hạn và cớ ràng buộc.  Chúng ta vượt qua từ một việc phụng tự trong hội đường không có khả năng đón nhận Lời Chúa xưa được ứng nghiệm trong ngày hôm nay, đến một sự phụng vụ dọc theo những con đường của thế giới.  Chúa Giêsu ra đi, Người đi theo con đường của mình mà từ Giêrusalem sẽ đưa Người đến tận cùng trái đất thông qua những kẻ theo Người.

Phân tích chi tiết về văn bản
Một phân tích tỉ mỉ về những câu trong đoạn Tin Mừng này sẽ tiết lộ những đặc thù quan trọng, mà trong khuôn khổ lịch sử, cung cấp cảnh tượng trong hội đường một sự tổng hợp Tin Mừng về nội dung và các sự kiện.
Câu 16:  Dường như hội đường là nơi mà Chúa Giêsu thường xuyên lui tới.  Chính nơi này từ thời niên thiếu, Người đã được nghe Lời Chúa và đã hiểu nó theo truyền thống sinh sống của người dân.  Thật là ý nghĩa Chúa Giêsu tìm đến các trung tâm phụng vụ.  Những người Do Thái trưởng thành có thể đọc được chữ, thông thường các nhà lãnh đạo của hội đường được ủy thác nhiệm vụ này, là những người thông thạo về Kinh Thánh.  Sự kiện mà Chúa Giêsu đứng lên đọc cho thấy rằng Người làm thế theo lệ thường cũng như Người có thói quen đến tham dự ở hội đường.  Những chữ:  “theo thói quen của Người” làm tăng thêm sự hữu hiệu cho câu gần như là người đọc và nói không phải là bất cứ một ai khác, mà là một người thuộc dòng dõi Israel thông thạo về việc đọc và giải thích kinh Ngũ Thư và các sáchTiên Tri.  Lúc ấy đức tin Kitô hữu được khai sinh từ những người đại diện trung thành của con cái Israel, những người mà thời gian chờ đợi của họ đã đến lúc ứng nghiệm.  Tất cả các nhân vật chính trong Tin Mừng Luca là những người dân Israel thật sự:  ông Giacaria, bà Isave và ông Gioan Tiền Hô, Đức Maria, thánh Giuse và Chúa Giêsu, các tông đồ và sau đó Công Vụ Tông Đồ, Phaolô.  Đây là “một thói quen” mang theo nó một cái gì đó mới mẻ.  Hội đường là nơi từ đó sự công bố bắt đầu và lan tỏa đến các thành phố miền Giuđa và Galilêa, và toàn cõi Israel thậm chí đến tận cùng bờ cõi trái đất.
Các câu 17-19:  Chúa Giêsu mở sách gặp ngay đoạn trong sách tiên tri Isaia 61:1-2 mà có lẽ đề cập đến việc thánh hiến một tiên tri (xem 1V 19:16).  Luca bỏ qua lời trích dẫn đoạn kết răn đe từ sách Isaia bởi vì nó không dính líu đến mục đích của mình: ông nhấn mạnh rằng giáo huấn của Đức Giêsu có nguồn cội từ Kinh Thánh (17-19; 25-27) và làm cho nó hiện diện trong chính Con Người của Chúa.  Những lời của ngôn sứ Isaia trên môi miệng Người đạt được đầy đủ ý nghĩa của chúng và tóm tắt sứ vụ của Người (xem 4:1), tràn đầy Chúa Thánh Thần, được xức dầu bởi Thiên Chúa, được sai đến để công bố Tin Mừng cho người nghèo khó, đem lại sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm và người bị áp bức, cho người mù được thấy và rao giảng thời gian ân sủng của Thiên Chúa.
Câu 20:  Lời mô tả chi tiết các cử chỉ báo hiệu cho những gì sẽ đến.  Chúa Giêsu nói chuyện trong khi đang ngồi, vị thế điển hình của người giảng dạy.  Ánh mắt của dân chúng hướng về Người chuẩn bị cho chúng ta tầm quan trọng về những điều Người sắp nói.  Bài giảng của Người ngắn gọn nhưng gây lo âu.  Những cử động cho thấy các đặc tính của Luca từ đoạn Tin Mừng này.  Chúa Giêsu đến, Người bước vào, Chúa đứng dậy, Người ngồi xuống, Người băng qua giữa họ, Người đi khỏi.  Dân chúng Nagiarét cũng đứng dậy nhưng mà để lôi Người ra khỏi hội đường.  Sự tương phản rõ ràng.  Chúa Giêsu đứng dậy để đọc sách, người ta đứng dậy để đuổi Người đi.  Sự chờ đợi được mô tả trong câu này:  “Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người” thoái hóa thành sự từ chối.  Vấn đề không ở lời rao giảng, đã rất nổi tiếng và là nguồn gốc của sự hy vọng cho những người dân Israel mộ đạo, mà là người công bố nó và làm cho nó trở nên của riêng mình.
Câu 21:  Chúa Giêsu không đưa ra bất kỳ một ý kiến nào về lời của ngôn sứ Isaia, mà Người làm cho chúng trở thành thực tại.  Lời của Người là một sự kiện từ ngữ – phán ra (rhêma) – (Cv 10:37), một lời mà bây giờ là sự cứu rỗi.  Lời tiên tri trở nên sống động và đang diễn ra.  Lời giải thích của Chúa Giêsu vượt hẳn mọi sự mong đợi.  Trong Lời Chúa, hôm nay là thì hiện tại, ngày hôm nay là đặc trưng của Thánh Sử và đó là ngày hôm nay của ơn cứu độ, ngày hôm nay của việc ứng nghiệm đến từ sự lắng nghe (xem Rm 10:17).  Điều cần thiết đối với Luca là sự lắng nghe.  Việc thực hiện những lời cam kết từ ngàn xưa được lặp đi lặp lại trong toàn bộ các tác phẩm của Luca (Lc 9:51; Cv 2:1; 19:21) là dành cho những người lắng nghe:  kẻ cùng khốn (anawim), người nghèo khó, kẻ bị áp bức, những người được Đấng Gia-Vê thương mến (Is 11:4; 29:19) và bây giờ những người được Chúa Giêsu yêu thương (Mt 11:28).

c)  Suy niệm:                                                                                                              
Lời chú giải Thánh Kinh của Chúa Giêsu về sách Tiên Tri Isaia chương 61 là một ví dụ của việc hiện thực hóa cho thấy sự hiện diện của Đấng Thiên Sai và sự trông cậy vào các đoạn Kinh Thánh để làm sáng tỏ tình trạng hiện tại.  Đức Kitô là Đấng thẩm quyền sáng tạo đòi hỏi người ta phải thích ứng đời sống của họ với sứ điệp, chấp nhận Đấng Được Xức Dầu của Thiên Chúa và từ bỏ giả định hạ thấp Người xuống ngang hàng với họ.  Quan điểm thực tiễn này là chìa khóa cho việc hiện thực hóa trong mọi thời đại:  ơn cứu độ của ngày hôm nay vang vọng đến bất cứ nơi nào có lời rao giảng, cùng là sự chào đón và dấn thân.
Trong hội đường ở Nagiarét, chúng ta thấy các câu trả lời căn bản của loài người, những kẻ sống trong kỳ vọng gặp gỡ với ơn cứu rỗi.  Chúa Giêsu được sai đến bởi Thiên Chúa và được duy trì bởi Chúa Thánh Thần.  Việc xức dầu nói rằng Người là Đấng Cứu Thế.  Trong Người, lời Kinh Thánh được ứng nghiệm.  Người là Thiên Chúa của ngày hôm nay, Đấng làm ứng nghiệm lịch sử trong quá khứ, bây giờ đến sự viên mãn trong Đức Giêsu và sẽ trở thành ngày hôm nay hằng ngày cho tương lai đó là thời kỳ của Giáo Hội, nó cũng gửi đi như Lời báo trước của Chúa, được duy trì bởi Chúa Thánh Thần.  Sứ điệp chính được tìm thấy trong đoạn văn này của Luca là lời Kinh Thánh.  Kinh Thánh chứa đựng toàn bộ sự bí ẩn của Thiên Chúa, Đấng hằng sống đời đời và trở thành người như chúng ta.

4.  Cầu Nguyện

Thánh Vịnh 2:6-9
“Chính Ta đã đặt vị quân vương Ta tuyển chọn,
lên trị vì Si-on, núi thánh của Ta.”
Tân vương lên tiếng: Tôi xin đọc sắc phong của CHÚA,
Người phán bảo tôi rằng: “Con là con của Cha,
ngày hôm nay Cha đã sinh ra con.
Con cứ xin, rồi Cha ban tặng
muôn dân nước làm sản nghiệp riêng,
toàn cõi đất làm phần lãnh địa.
Con sẽ dùng trượng sắt đập chúng tan tành,
nghiền nát chúng như đồ sành đồ gốm.”
5.  Chiêm Niệm
Hôm nay:  đây là chữ quan trọng trong đời sống hằng ngày của con.  Trong ngày hôm nay lời Kinh Thánh được ứng nghiệm.  Trong ngày hôm nay Đức Kitô đi vào trong hội đường của sự nhận thức của con để công bố Tin Mừng cho sự nghèo nàn của ý nghĩ con, cho những cảm giác của con là những kẻ bị giam cầm bởi lòng ham muốn được xây dựng trên những hoang tàn của những ngày đen tối trải dài từ giờ này sang giờ kia, cho tầm mắt của con đã bị che khuất bởi tất cả những sự thiển cận của con.  Năm của ân sủng, của hoán cải, của phúc lành.  Lạy Chúa, nguyện xin cho ngày hôm nay của con là của Chúa để không một lời nào của Chúa phải trở thành vô ích trong đời sống của con, mà để cho Lời của Chúa có thể được ứng nghiệm như hạt thóc trong luống cày băng giá của quá khứ, có thể nảy chồi đâm lộc vào lúc những dấu hiệu đầu tiên của mùa xuân xuất hiện.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét