04/05/2020
Thứ Hai tuần 4 Phục
Sinh
Bài Ðọc I: Cv 11, 1-18
"Thiên Chúa cũng ban cho
dân ngoại ơn ăn năn sám hối để được sống".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, các tông đồ
và anh em ở Giuđêa nghe tin rằng cả dân ngoại cũng đã đón nhận lời Thiên Chúa.
Khi Phêrô lên Giêrusalem, các người đã chịu cắt bì trách móc người rằng:
"Tại sao ngài vào nhà những kẻ không chịu cắt bì và ăn uống với họ?"
Phêrô trình bày cho họ sự việc từ đầu đến cuối theo thứ tự sau đây: "Tôi
đang ở tại thành Gióp-pê, lúc cầu nguyện, trong một thị kiến, tôi thấy một vật
gì giống chiếc khăn lớn túm bốn góc, từ trời thả xuống sát bên tôi. Tôi chăm
chú nhìn và thấy những con vật bốn chân, những mãnh thú, rắn rết và chim trời.
Tôi nghe tiếng phán bảo tôi: "Phêrô, hãy chỗi dậy giết mà ăn". Tôi
thưa: "Lạy Chúa, không được, vì con không khi nào bỏ vào miệng con những đồ
dơ nhớp hay bẩn thỉu". Tiếng từ trời nói lần thứ hai: "Vật gì Thiên
Chúa cho là sạch, ngươi đừng nói là dơ nhớp". Ba lần xảy ra như thế, và mọi
sự lại được kéo lên trời.
"Và ngay lúc đó, ba người từ
Cêsarêa được sai đến nhà tôi ở. Thánh Thần truyền dạy tôi đừng ngần ngại đi với
họ. Sáu anh em cùng đi với tôi, và chúng tôi vào nhà một người. Anh thuật lại
cho chúng tôi biết: anh đã thấy thiên thần hiện ra thế nào; thiên thần đứng
trong nhà anh và nói với anh rằng: "Hãy sai người đến Gióp-pê tìm Simon có
tên là Phêrô; người sẽ dạy ngươi những lời có sức làm cho ngươi và cả nhà ngươi
được cứu độ". Lúc tôi bắt đầu nói, Thánh Thần ngự xuống trên họ như ngự
trên chúng ta lúc ban đầu. Bấy giờ tôi nhớ lại lời Chúa phán: "Gioan đã rửa
bằng nước, còn các con, các con sẽ được rửa bằng Thánh Thần". Vậy, nếu
Thiên Chúa ban cho họ cũng một ơn như đã ban cho chúng ta, là những kẻ tin vào
Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà có thể ngăn cản Thiên Chúa?"
Nghe những lời ấy, họ thinh lặng
và ca tụng Thiên Chúa rằng: "Vậy ra Thiên Chúa cũng ban cho dân ngoại ơn
ăn năn sám hối để được sống".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 41, 2. 3; 42, 3. 4
Ðáp: Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống (Tv 41, 3a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Như nai rừng khát mong
nguồn nước, hồn con khát Chúa, Chúa Trời ôi. - Ðáp.
2) Hồn con khát Chúa Trời, Chúa
Trời hằng sống; ngày nào con được tìm về ra mắt Chúa Trời! - Ðáp.
3) Xin chiếu giãi quang minh và
chân thực của Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con lên núi thánh và
cung lâu của Ngài. - Ðáp.
4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên
Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ mừng vui. Với cây cầm thụ,
con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa của con. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Chúng con
biết rằng Ðức Kitô đã thật sự sống lại từ cõi chết: Lạy Vua chiến thắng, xin
thương xót chúng con. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 10, 11-18
"Mục tử tốt lành thí mạng sống
vì chiên".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán:
"Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên. Kẻ làm
thuê không phải là chủ chiên, và các chiên không phải là của người ấy, nên khi
thấy sói đến, nó bỏ chiên mà trốn. Sói sẽ bắt chiên và làm chúng tản mát. Kẻ
chăn thuê chạy trốn, vì là đứa chăn thuê, và chẳng tha thiết gì đến đàn chiên.
Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta. Cũng như
Cha biết Ta và Ta biết Cha, và Ta thí mạng sống vì đàn chiên. Ta còn những
chiên khác không thuộc đàn này; cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn;
chúng sẽ nghe tiếng Ta. Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên. Vì lẽ này
mà Cha yêu mến Ta, là Ta thí mạng sống để rồi lấy lại. Không ai cất mạng sống
khỏi Ta, nhưng tự Ta, Ta thí mạng sống. Ta có quyền thí mạng sống và cũng có
quyền lấy lại. Ðó là mệnh lệnh Ta đã nhận nơi Cha Ta".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Chúa chiên lành
Có một chàng sinh viên, sau khi
tốt nghiệp đại học, đã không chọn cho mình một ngành nghề chuyên môn, nhưng lại
đi chăn cừu thuê. Anh cho biết: Mỗi ngày anh phải làm việc tới mười tám tiếng đồng
hồ và làm tất cả bảy ngày trong tuần. Suốt thời gian ở trên núi, anh hoàn toàn
cô đơn, chỉ bầu bạn với chú chó, chú ngựa và hai ngàn con cừu.
Mỗi tuần một lần, người ta đem đến
cho anh thực phẩm, thư từ và đạn dược. Công việc của anh là làm sao giữ cho đàn
cừu được ở chung một chỗ, dẫn chúng đến nơi có cỏ và có nước, đồng thời bảo vệ
chúng khỏi thú dữ.
Anh kể: một buổi sáng nọ, có một
nhóm cừu tự rời khỏi bày, thế là tôi phải bỏ tất cả thời gian để lần theo dấu vết
của chúng. Ngay khi vừa mới tìm thấy, thì một cơn mưa bão ập xuống, khiến tôi
và những con cừu vừa ướt lại vừa bị lạnh cóng suốt đêm.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy
nghề chăn cừu thời nay thật là khó khăn và cực nhọc. Nhưng ngày xưa, khi chưa
có súng đạn thì công việc của họ không chỉ cực nhọc mà còn rất nguy hiểm nữa.
Trong sách Samuel, Đavid đã trả
lời cho nhà vua trước lúc giao tranh với Goliath như sau: Tâu bệ hạ, thần đã từng
chăm sóc đàn cừu của phụ thân, bất cứ khi nào có một con sư tử hay một con gấu
cướp đi một con cừu, thì lập tức, thần rượt theo và tấn công nó để cứu con cừu.
Nếu con sư tử hay con gấu ấy quay vào tấn công thần, thần sẽ xông tới, chộp cổ
họng và đánh nó cho đến chết. Thần đã giết nhiều sư tử và gấu. Thần cũng sẽ làm
như vậy với tên Philitinh ngoại đạo này.
Từ những mẩu chuyện trên chúng
ta đi vào đoạn Tin mừng hôm nay, trong đó Chúa đã nói: Ta là mục tử nhân lành,
sẵn sàng hiến mạng sống mình vì đàn chiên. Nói cách khác Chúa Giêsu chính là vị
mục tử mà tiên tri Egiechiel đã loan báo: Ngài chăm sóc những con bơ vơ yếu đuối,
chữa lành những con bệnh hoạn và đi tìm những con bị lạc. Chúa Giêsu còn làm
hơn thế nữa, Ngài tự hiến mạng sống cho đoàn chiên. Và từ cõi chết sống lại,
Ngài đã chia sẻ vinh quang Phục sinh cho đoàn chiên của Ngài. Từ đó chúng ta
hãy rút ra một vài điểm thực hành:
Điểm thứ nhất, đó là hãy tỏ lòng
biết ơn Ngài vì nhờ sự chết và Phục sinh, Ngài đã cứu chúng ta khỏi manh mối của
thú dữ là ma quỷ và tội lỗi.
Điểm thứ hai, đó là hãy bước đi
dưới sự dẫn dắt của Ngài, nhờ vậy mà chúng ta chẳng bao giờ bị lầm đường lạc lối.
Trái lại, cuộc đời chúng ta sẽ được bảo đảm an toàn, bởi vì như lời thánh vịnh
cũng đã xác quyết: Chúa là Mục tử, Ngài dẫn lối chỉ đường cho con đi. Đi trong
tay Chúa nào con thiếu chi con sợ chi. Cỏ non rợn đồng xanh con không bao giờ
thiếu suối nước trường sinh con nghỉ uống no đầy.
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần IV PS
Bài đọc: Acts 11:1-18; Jn 10:1-10.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người phải vâng theo Kế Hoạch
của Thiên Chúa.
Có hai giai đọan trong Kế Hoạch
Cứu Độ của Thiên Chúa: Trong giai đoạn thứ nhất, Ngài chọn dân Do-thái để chuẩn
bị cho Đấng Thiên Sai tới; sau đó, đến giai đọan thứ hai, Tin Mừng Cứu Độ được
loan báo cho tất cả mọi người. Nhiều người Do-thái chỉ dừng lại ở giai đọan thứ
nhất. Họ tin chỉ có họ mới là con Thiên Chúa và xứng đáng được hưởng ơn Cứu Độ;
Dân Ngoại không phải là con Thiên Chúa, họ xứng đáng để chịu hình phạt và bị hư
mất.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh
tình thương Thiên Chúa và Kế Hoạch Cứu Độ dành cho mọi người. Trong Bài Đọc I,
Sách CVTĐ mô tả sự xung đột giữa các môn đệ về việc giao tiếp và chấp nhận Dân
Ngoại vào đạo thánh Chúa. Phêrô phải dùng thị kiến chiếc lưới từ trời và kinh
nghiệm mục vụ để thuyết phục họ: Trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, Dân Ngoại
cũng được lãnh nhận Thánh Thần và ơn sám hối để được sự sống đời đời. Loài người
chúng ta không thể ngăn cản Kế Hoạch của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu
tuyên bố Ngài là Mục Tử Tốt Lành đến để qui tụ tất cả các chiên và cho chúng được
sống dồi dào.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ơn Cứu Độ được Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người.
1.1/ Xung đột xảy ra giữa người
Do-thái và ông Phêrô: Theo truyền thống Do-thái, họ sống
cách biệt với các dân tộc khác, và không bao giờ vào nhà của Dân Ngoại. Các người
Do-thái chỉ trích Phêrô đã giao tiếp với Dân Ngoại, vào nhà những kẻ không cắt
bì, và ăn uống với họ. Bấy giờ ông Phêrô trình bày cho họ biết thị kiến mà ông
đã chứng kiến, ông nói: Tôi đang cầu nguyện tại thành Joppa, trong lúc xuất thần,
tôi thấy thị kiến này: Có một vật gì sà xuống, trông như một tấm khăn lớn buộc
bốn góc, từ trời thả xuống đến tận chỗ tôi. Nhìn chăm chú và xem xét kỹ, tôi thấy
các giống vật bốn chân sống trên đất, các thú rừng, rắn rết và chim trời. Và
tôi nghe có tiếng phán bảo tôi: "Phêrô, đứng dậy, làm thịt mà ăn!” Tôi
đáp: "Lạy Chúa, không thể được, vì những gì ô uế và không thanh sạch không
bao giờ lọt vào miệng con!” Có tiếng từ trời phán lần thứ hai: "Những gì
Thiên Chúa đã tuyên bố là thanh sạch, thì ngươi chớ gọi là ô uế! Việc ấy xảy ra
đến ba lần, rồi tất cả lại được kéo lên trời.”
Thị kiến này đòi Phêrô phải xét
lại truyền thống Do-thái của mình: Vì tất cả những gì Thiên Chúa dựng nên đều tốt
lành và thanh sạch, ông không thể giữ thái độ khinh thường Dân Ngoại, coi họ là
dân không cắt bì, nô lệ, hay không thanh sạch.
1.2/ Thiên Chúa cũng ban cho các
Dân Ngoại ơn sám hối để được sự sống!
(1) Tin Mừng được rao truyền cho
Dân Ngoại: Phêrô tiếp tục kể: "Ngay lúc đó, có ba người đến nhà chúng tôi ở:
họ được sai từ Caesarea đến gặp tôi. Thần Khí bảo tôi đi với họ, đừng ngần ngại
gì. Có sáu anh em đây cùng đi với tôi. Chúng tôi đã vào nhà ông Cornelius. Ông
này thuật lại cho chúng tôi nghe việc ông đã thấy thiên sứ đứng trong nhà ông
và bảo: "Hãy sai người đi Joppa mời ông Simon, cũng gọi là Phêrô. Ông ấy sẽ
nói với ông những lời nhờ đó ông và cả nhà ông sẽ được cứu độ.” Cornelius là
viên Đại Đội Trưởng Roma, tuy là Dân Ngoại, nhưng ông đối xử rất tốt với người
Do-thái. Nhân cơ hội đó, Phêrô đã rao giảng Tin Mừng về Đức Kitô cho tất cả những
người trong gia đình Cornelius. Điều đáng chú ý là Thiên Chúa hoạt động trong
biến cố này: Ngài gởi thiên sứ tới báo tin cho Cornelius, đồng thời dùng Thần
Khí tác động trên Phêrô, để thúc đẩy ông cùng đi với 3 sứ giả của Cornelius.
(2) Không ai có thể ngăn cản Kế
Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa: Tôi vừa mới bắt đầu nói, thì Thánh Thần đã ngự xuống
trên họ, như đã ngự xuống trên chúng ta lúc ban đầu. Tôi sực nhớ lại lời Chúa
nói rằng: "Ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì sẽ được rửa
trong Thánh Thần. Vậy, nếu Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người
đã ban cho chúng ta, vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà dám
ngăn cản Thiên Chúa?" Phêrô nhắc lại biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống
trên các Tông-đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần; và nhờ biến cố này, Phêrô nhận ra
Thiên Chúa ban Thánh Thần cho tất cả mọi người, chứ không riêng gì những người
Do-thái. Sau đó, Phêrô làm Phép Rửa cho tất cả gia đình ông Cornelius.
Nghe Phêrô trình bày đầu đuôi,
người Do-thái mới hiểu ra. Họ tôn vinh Thiên Chúa và nói: "Vậy ra Thiên
Chúa cũng ban cho các Dân Ngoại ơn sám hối để được sự sống!"
2/ Phúc Âm: Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.
2.1/ Chúa Giêsu là Cửa chuồng
chiên: Trong các làng mạc của Do-thái, họ có chỗ chung để nhốt tất cả
các chiên trong làng ban đêm. Chỗ nhốt này chỉ có một cửa duy nhất có khóa, và
chìa khóa chỉ người giữ cửa mới có. Người giữ cửa biết tất cả các người chăn
chiên, và chỉ mở cửa cho những người này. Tuy nhiên, cũng có những người chăn
chiên không vào làng, nhưng giữ chiên ngoài cánh đồng như tại Bethlehem. Trong
trường hợp này, người chăn chiên sẽ tìm những hang đá mà chỉ có một ngõ ra vào.
Đêm đến, họ sẽ lùa chiên vào trong hang đá, và họ sẽ nằm ngủ ngay cửa ra vào. Trong
trình thuật hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến cả hai trường hợp:
(1) "Thật, tôi bảo thật các
ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người
ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ
cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn
chúng ra.”
(2) "Thật, tôi bảo thật các
ông: Tôi là Cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng
chiên đã không nghe họ. Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy
sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.”
2.2/ Liên hệ giữa mục tử và chiên: Có một sự liên hệ mật thiết giữa mục tử và đàn chiên. Người mục
tử biết tất cả các chiên của mình và thói quen của từng con một; nhiều mục tử
còn đặt tên riêng cho mỗi con như “vằn” nếu con nào có những vằn quanh như sóng
trên người, “trắng,” “đen,” “khoang”... Đồng thời, các con chiên cũng biết đánh
hơi, hay nhận ra chủ của chúng nhờ tiếng gọi đặc biệt, hay tiếng chuông, tiếng
kèn, tiếng sáo mà người mục tử đeo trên mình. Đó là lý do tại sao Chúa nói:
“Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận
biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng
không nhận biết tiếng người lạ."
Chúa cũng đề cập đến sự khác biệt
giữa Mục Tử và trộm cướp: “Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần
tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” Người chăn chiên thật phải
chịu trách nhiệm về đàn chiên của mình với chủ; nếu chiên bị ăn thịt, anh phải
có bằng chứng rõ ràng để trình cho chủ. Người chăn chiên đích thực phải chăm
sóc bằng cách tìm những đồng cỏ xanh và nước trong lành cho chiên ăn uống. Anh
phải bảo vệ chiên khỏi mọi nguy hiểm như: chó sói, sư tử, kẻ trộm, kẻ cướp...
Qua hình ảnh thân thương này, Chúa Giêsu muốn ví Ngài như Mục Tử Tốt Lành và
các tín hữu được ví như đàn chiên. Ngài đến để cho chúng ta được sống, và sống
dồi dào.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tất cả mọi người đều có thể nhận
được ơn Cứu Độ trong Kế Hoạch của Thiên Chúa, và Tin Mừng cần được loan báo cho
mọi dân tộc.
- Để được hưởng ơn Cứu Độ, chúng
ta cần biết lắng nghe và tin tưởng vào Đức Kitô, Người Mục Tử Tốt Lành mà Thiên
Chúa gởi tới con người.
- Người mục tử tốt lành là người
phải vào qua Cửa là Đức Kitô: họ phải nhân danh Đức Kitô giảng dạy, chữa lành;
và bắt chước Đức Kitô để săn sóc và bảo vệ đòan chiên của mình.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên,
OP
04/05/20 THỨ HAI TUẦN
4 PS
Ga 10,11-18
Ga 10,11-18
TRẬT TỰ TÌNH YÊU
“Tôi
biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết
Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Ga 10,14-15)
Suy niệm: Chúa
Giê-su phục sinh thiết lập một trật tự mới cho nhân loại. Trật tự cũ đặt trên nền
tảng của Lề Luật Cựu Ước không còn hiệu lực nữa; trái lại, giờ đây, trật tự của
Tân Ước được thiết lập: không còn nô lệ hay tự do, cắt bì hay không cắt bì,
nhưng “tất cả chỉ là một trong Đức Ki-tô”
(x. Gl 3,28;5,5-6). Trật tự mới chính là trật tự của tình yêu, một
tình yêu vô cùng lớn của Thiên Chúa, lớn đến nỗi đã thí mạng sống của chính Con Một Ngài để cứu chuộc hết thảy nhân
loại (x. Ga 3,16; Rm 8,32). Trật tự tình yêu đó đưa chúng ta vào mối tương quan
mới với Ngài, đặt nền tảng trên tình thương: tình thương của người cha nhân hậu
luôn chờ đợi, tha thứ, và bao dung; tình thương của người mục tử nhân lành,
không chỉ biết chiên mà còn hy sinh cả mạng sống vì chiên.
Mời Bạn: Tông đồ
Phê-rô đã thề thốt trung thành với Thầy nhưng sau đó đã chối Thầy ba lần trước
những chất vấn của người lạ. Trật tự tình yêu nơi ông bị đảo lộn: Ông tưởng rằng
mình đang yêu Chúa nhưng thực ra đang đặt ý riêng của mình bên trên tình yêu
Chúa. Là môn đệ Chúa, bạn đã sống theo trật tự tình yêu của Ngài chưa? Bạn có sẵn
sàng hy sinh lợi ích của bản thân để phục vụ tha nhân như Đức Ki-tô, Mục Tử
nhân lành “thí mạng sống mình vì đoàn
chiên” chưa?
Sống Lời Chúa: Sống
theo trật tự tình yêu của Chúa: - đối tượng
ưu tiên: vì tha nhân đặc biệt những người bé mọn; - mục tiêu tối hậu: hạnh phúc vĩnh cửu và sự sống đời đời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin hãy đến, và ở lại trong lòng con luôn
mãi. Amen.
(5 phút Lời Chúa)
SUY NIỆM : Mục tử
nhân lành
Suy niệm:
Mục tử và đàn chiên trên đồng cỏ
là một hình ảnh quen thuộc đối với người Palestin.
Giữa người và chiên có một mối tương quan mật thiết.
Ở đây Ðức Giêsu tự ví mình như người mục tử.
Mục tử nhân lành khác với người chăn thuê,
vì dám hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên,
chứ không bỏ chiên mà chạy khi gặp sói dữ.
Hội Thánh là đoàn chiên của Ðức Giêsu Kitô.
Giữa Ngài và từng con chiên, có mối dây gắn bó.
Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi,
như Cha biết tôi và tôi biết Cha.
Ðây là cái biết sâu thẳm, cái biết hai chiều.
Chiên không phải là một con vật ngờ nghệch, thụ động.
Chiên là hình ảnh của một ngôi vị tự do.
Vị Mục Tử gọi tên từng con bằng giọng quen thuộc.
Chiên nghe tiếng của Ngài và đi theo.
Như thế giữa Mục Tử và đoàn chiên
có sự hiểu biết nhau sâu xa, nhận ra nhau dễ dàng,
và một sự trân trọng quý mến nhau đặc biệt.
Sau Phục Sinh, Ðức Giêsu đã giao cho Phêrô sứ mạng
chăn dắt và chăm sóc đoàn chiên của Ngài.
Sứ mạng này bắt nguồn từ một tình yêu.
Yêu mến Ngài dẫn đến yêu mến đoàn chiên Ngài.
Ðức Giêsu là Mục Tử tối cao và gương mẫu.
Mọi mục tử khác chỉ là phụ tá
giúp chăn dắt đoàn chiên của Ngài.
Mọi mục tử phải noi gương Ngài,
dám chết để cho chiên được sống.
Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn cần những người tiếp nối công việc của Ngài,
để lo cho đoàn chiên trên thế giới.
Các bạn trẻ khi lớn lên thường lập gia đình.
Ðiều đó thật là tốt đẹp.
Nhưng Chúa Giêsu vẫn muốn một số bạn trẻ
ở bên Ngài cách đặc biệt để được Ngài sai đi.
Họ chấp nhận hy sinh quyền được lập một tổ ấm,
để có thể yêu mãnh liệt hơn và bao la hơn.
Tiếng gọi của Chúa vẫn vang lên
ở ngay nơi lời nài xin của con người.
Những người đói khát Lời Chúa, đói khát tình thương,
đói khát bánh ăn, đói khát ý nghĩa cuộc sống.
Khước từ tiếng kêu của con người là khước từ tiếng Chúa.
Chúa Giêsu mời các bạn trẻ nhìn thấy đám đông bơ vơ.
Những người bệnh hoạn tật nguyền, những trẻ em đường phố,
những người lầm lỡ, tự đặt mình ở bên lề xã hội...
Thấy họ bằng trái tim và để cho tim mình đáp trả.
Tạ ơn Chúa đã cho Hội Thánh biết bao đại chủng sinh,
các linh mục, và các tu sĩ nam nữ, các nhà thừa sai.
Nhưng đồng lúa chín vàng vẫn cần nhiều thợ gặt,
tận tụy hơn, thanh khiết hơn, vô vị lợi hơn.
Có thể chính bạn được Chúa bất ngờ mời gọi
để đứng trong đội ngũ những người phục vụ đó!
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin ban cho chúng con những linh mục
có trái tim thuộc trọn về Chúa,
nên cũng thuộc trọn về con người.
Xin cho chúng con những linh mục
có trái tim biết yêu bằng tình yêu hiến dâng,
một trái tim đủ lớn
để chứa được mọi người và từng người,
nhất là những ai nghèo khổ, bị bỏ rơi.
Xin cho chúng con những linh mục biết cầu nguyện,
có tình bạn thân thiết với Chúa
để các ngài giới thiệu Chúa cho chúng con.
Xin cho chúng con những linh mục thánh thiện,
có thể nuôi chúng con bằng tấm bánh thơm tho,
tấm bánh Lời Chúa và Mình Chúa.
Cuối cùng, xin cho chúng con những linh mục
có trái tim của Chúa,
say mê Thiên Chúa và say mê con người,
hy sinh đời mình để bảo vệ đoàn chiên
và dẫn đưa chúng con
đến với Chúa là Nguồn Sống thật. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
4 THÁNG NĂM
Một Nơi Chốn An Toàn Và Thảnh
Thơi
Đức Kitô tuyên bố Người không chỉ
là “mục tử” mà còn là “cửa” cho chiên ra vào nữa (cf. Ga 10, 7). Như vậy, Người
sử dụng hai ẩn dụ khác nhau có sức diễn tả đặc biệt. Hình ảnh “người mục tử”
tương phản với hình ảnh “kẻ làm thuê”. Hình ảnh “mục tử” khắc họa rõ rệt mối
quan tâm sâu sắc của Đức Kitô đối với đàn chiên của Người, quan tâm đến độ Người
đã thí mạng mình để cứu độ chúng ta: “Mục tử tốt lành hy sinh mạng sống mình
cho chiên” (Ga 10, 11). Thư Ê-phê-sô cũng trình bày tương tự: “Đức Kitô đã yêu
mến Giáo Hội. Người đã hiến mình cho Giáo Hội” (Ep 5, 25). Việc của chúng ta là
phải nhận hiểu ra rằng Người là Chúa duy nhất của mình và đi theo “tiếng của
Người” (Ga 10, 4), chứ không ngây ngô trao thân gửi phận cho kẻ làm thuê – vì kẻ
làm thuê rốt cục chỉ quan tâm đến tiền lương của mình, “không lo lắng đến đàn
chiên” (Ga 10, 13).
Suy tư này soi sáng cho chúng ta
hiểu ẩn dụ kia – ẩn dụ “cửa” hay “cổng cho chiên ra vào”. Đức Giêsu nói: “Ai
qua tôi mà vào thì sẽ được cứu; người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ” (Ga 10,
9). Người mục tử dẫn chúng ta đến chỗ an toàn và nghỉ ngơi. Chúng ta có thể vào
qua cửa ra vào và gặp được sự an toàn và thư thái ấy.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John
Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 04 – 5
Cv 11, 1-18; Ga 10, 11-18.
LỜI SUY NIỆM: “Tôi chính là Mục Tử
nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi thì biết tôi, như Chúa Cha
biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.”
Trong tuần lễ Chúa Chiên Lành, mỗi
người chúng ta đều được Giáo Hội nhắc lại cho chúng ta nhớ về Chúa Giêsu và
Giáo Hội Người thiết lập vì sự sống của toàn thể nhân loại. Chúa Giêsu đã công
khai tuyên bố: “Tôi là cửa để đàn chiên ra vào và được sống” Ngay lúc này đây
chúng ta cũng được nghe Chúa nói: “Tôi là Mục Tử nhân lành” và Người còn xác nhận:
“Tôi biết chiên của tôi, và chiên tôi biết tôi” Và Người còn nói rõ: “Tôi hy
sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” Để bảo vệ sự sống cho những ai thuộc về Người.
Và cần đến Người.
Lạy Chúa Giêsu. Được Chúa chăn dắt,
bảo vệ và nuôi sống, là niềm vinh dự, vui sướng của chúng con. Xin cho chúng
con luôn thuộc về Chúa, để chúng con được vui sống bình an, hạnh phúc.
Mạnh Phương
04 Tháng Năm
Xin Chúa Tha Thứ
Cho Tôi
Sau thời cách mạng
Pháp, trước cửa một nhà thờ tại Balê, người ta thường thấy một người hành khất
với một dáng vẻ lạ thường. Xuyên qua lớp áo rách rưới, ai cũng có thể nhìn thấy
trên vòng cổ của người ăn xin một cây thánh giá nhỏ bằng vàng.
Người khách quen
thuộc nhất của người xấu số này là một vị linh mục trẻ. Vị linh mục thường đến
dâng thánh lễ tại nhà thờ này. Mỗi lần ra khỏi nhà thờ, ông không quên hỏi han
và giúp đỡ người hành khất.
Ngày nọ, vị linh mục
trẻ không còn thấy người ăn xin lảng vảng trước cửa nhà thờ nữa. Lần mò hỏi
thăm, vị linh mục đã tìm đến thăm người hành khất đang trong cơn rét run vì bệnh
tật và đói ăn. Cảm động trước nghĩa cử của vị linh mục, ông ta đã kể lại cuộc đời
của mình như sau: "Khi cách mạng vừa bùng nổ, tôi làm quản gia cho một gia
đình giàu có. Hai vợ chồmg chủ tôi là những người đạo đức, giàu lòng thương người.
Thế nhưng tôi đã phản bội họ. Quân cách mạng tìm cách bắt họ. Hai vợ chồng và
hai đứa con của họ đã bị bắt giữ và kết án tử hình. Chỉ còn người con trai duy
nhất là thoát khỏi".
Nghe đến đây, vị
linh mục như muốn té xỉu, nhưng ông đã cố gắng giữ bình tĩnh để nghe tiếp câu
chuyện của người hành khất: "Tôi nhìn họ leo lên đoạn đầu đài và thản
nhiên theo dõi cảnh người ta chém đầu họ. Tôi quả thực là một quái vật khát
máu... Từ đó, tôi không thể nào có sự bình an trong tâm hồn. Tôi bắt đầu đi
lang thang khắp các ngả đường để quên tội ác của mình. Tôi vẫn còn giữ tấm ảnh
của gia đình họ trong túi áo này đây. Cây thánh giá tôi đang treo ở đầu giường
là của người chồng, còn chiếc thánh giá bằng vàng tôi đeo trên cổ đây là của
người vợ... Xin Chúa tha thứ cho tôi".
Vừa nghe xong những
dòng tâm sự và cũng là lời tự thú của người hành khất, vị linh mục trẻ đã quỳ gối
xuống bên cạnh chiếc giường của người hấp hối và thay cho một công thức giải tội,
ông đã nói như sau: "Tôi chính là người con trai còn sống sót trong gia
đình. Ðại diện cho gia đình và với tư cách là một linh mục, tôi tha thứ cho ông
nhân danh Cha và Con và Thánh Thần...".
Câu chuyện tha thứ
trên đây là một trong những mẩu chuyện đã và đang xảy ra ở mọi thời đại và mọi
nơi. Giữa sa mạc cằn cỗi của lòng người, Thiên Chúa vẫn còn cho mọc lên những
hoa trái của yêu thương, tha thứ. Tha thứ là vẻ đẹp thanh tú cao sang nhất của
lòng người...
Sự hiện diện của bà
Muzeyen Agca tại Roma dạo tháng 02/1987 nhắc lại cho chúng ta một biến cố vô
cùng đau thương, nhưng cũng gợi lại một nghĩa cử vô cùng cao quý của vị Cha
chung. Ngày 13/5/1981, giữa lúc hàng ngàn người đang chen chúc tại công trường
thánh Phêrô để chờ đón Ðức Gioan Phaolô II, thì một tiếng nổ chát chúa vang lên
từ đám đông đã làm cho mọi người như đứng tim. Ðức Thánh Cha đã gục ngã trên
chiếc xe Jeep mui trần, máu me vọt lên tung téo. Lần đầu tiên trong lịch sử
nhân loại, một vị Giáo Hoàng bị mưu sát.
Ali Agca, thủ phạm
chính của vụ mưu sát, đã bị bắt giữ ngay sau đó. Người thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ
này đã bị giam giữ tại nhà tù Rebibbia ở Roma. Biến cố đẫm máu trên đây đã ghi
đậm sự thù hận đang sôi sục trong lòng người... Nhưng thế giới không chỉ được
nung náu bằng lò lửa của hận thù. Thiên Chúa đã tạo dựng con người để yêu mến
và tha thứ...
Năm 1984, một biến cố
khác đã làm chấn động dư luận thế giới: Ðức Gioan Phaolô II đã đích thân đến
nhà giam Rebibbia để nói chuyện với Ali Agca và tha thứ cho anh. Không ai biết
hai bên đã trao đổi những gì, nhưng ai cũng cảm động trước cảnh tượng kẻ sát
nhân và người bị mưu sát đã bắt tay nhau và trao cho nhau ánh mắt của tha thứ,
của hòa giải...
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét