05/05/2020
Thứ Ba tuần 4 Phục
Sinh
Bài Ðọc I: Cv 11, 19-26
"Họ cũng rao giảng Chúa
Giêsu cho người Hy-lạp".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, vì cơn bách
hại xảy ra nhân dịp Têphanô bị giết, có nhiều người phải sống tản mác, họ đi đến
Phênixê, Cyprô và Antiôkia, họ không rao giảng lời Chúa cho một ai ngoài những
người Do-thái. Nhưng một ít người trong họ quê ở Cyprô và Xyrênê; khi đến
Antiôkia, họ cũng rao giảng Chúa Giêsu cho người Hy-lạp nữa. Và tay Chúa ở với
họ; nên có đông người tin trở về với Chúa. Tin đó thấu tai Hội Thánh
Giêrusalem, nên người ta sai Barnaba đến Antiôkia. Khi đến nơi và thấy việc ơn
Chúa thực hiện, ông vui mừng và khuyên bảo mọi người hãy vững lòng tin nơi
Chúa; Barnaba vốn là người tốt lành, đầy Thánh Thần và lòng tin. Và có đoàn người
đông đảo tin theo Chúa. Vậy Barnaba đi Tarxê tìm Saolô. Gặp được rồi, liền đưa
Saolô về Antiôkia. Cả hai ở lại tại Hội Thánh đó trọn một năm, giảng dạy cho quần
chúng đông đảo; chính tại Antiôkia mà các môn đồ lần đầu tiên nhận tên là Kitô
hữu.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 86, 1-3. 4-5. 6-7
Ðáp: Hỡi muôn dân, hãy ngợi khen Chúa (Tv 116, 1a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Chúa yêu cơ sở Ngài
thiết lập trên núi thánh; Ngài yêu cửa nhà Sion hơn mọi cư xá nhà Giacóp. Hỡi
thành trì của Thiên Chúa, thiên hạ đang nói những điều hiển hách về ngươi. -
Ðáp.
2) Ta sẽ kể Rahab và Babel vào số
người thờ phượng Ta, kìa Philitinh, Tyrô và dân Êthiôpi: những người này đã
sinh ra tại đó. Và thiên hạ sẽ nói về Sion rằng: "Riêng từng người và hết
mọi người đã sinh tại đó, chính Ðấng Tối Cao đã củng cố thành này". - Ðáp.
3) Chúa sẽ ghi chép vào sổ sách
của chư dân rằng: "Những người này đã sinh ra tại đó". Và khi ca vũ,
người ta sẽ ca rằng: "Mọi nguồn vui thú của tôi đều ở nơi ngươi". -
Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Chúa Kitô,
Ðấng tác tạo mọi loài, đã sống lại và đã xót thương nhân loại. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 10, 22-30
"Tôi và Cha Tôi là một".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi ấy, người ta mừng lễ Cung Hiến
tại Giêrusalem. Bấy giờ là mùa đông. Chúa Giêsu đi bách bộ tại đền thờ, dưới cửa
Salômôn. Người Do-thái vây quanh Người và nói: "Ông còn để chúng tôi thắc
mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Ðức Kitô, thì xin ông nói rõ cho chúng tôi biết".
Chúa Giêsu đáp: "Tôi đã nói với các ông mà các ông không tin. Những việc
Tôi làm nhân danh Cha Tôi, làm chứng về Tôi. Nhưng các ông không tin, vì các
ông không thuộc về đàn chiên tôi. Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng
và chúng theo Tôi. Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất,
và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Tôi. Ðiều mà Cha Tôi ban cho Tôi,
thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Tôi. Tôi và
Cha Tôi là một".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Ta Và Cha Là Một
"Ta
ban cho chúng được sự sống đời đời, Ta ban cho những ai tin Ta có sự sống đời đời,
không ai cướp được chúng khỏi tay Ta. Ta và Cha là một" (Ga 10,28-30).
Ðây là
một thực tại cao cả nơi cuộc sống của những người tin vào Chúa, và Chúa Giêsu
muốn mạc khải cho những người Do Thái đến hỏi Chúa: "Ông để chúng tôi phân
vân đến bao giờ nữa, nếu ông là Ðức Kitô thì hãy nói trắng ra cho chúng tôi biết"
(Ga 10,24). Thánh Gioan đã đặt những lời mạc khải trên của Chúa Giêsu về thực tại
đời sống Ðức Tin của người Kitô hữu vào dịp lễ cung hiến Ðền Thờ Giêrusalem, và
như ta đã biết, cổng đền thờ là nơi các thầy thông luật Do Thái đến để giải
thích lề luật cho dân chúng, do đó Chúa Giêsu đến đây để giảng dạy cho dân
chúng. Nhưng hơn ai hết, Chúa Giêsu là một vị thầy hơn mọi vị thầy thông luật của
Israel thời đó, vì Con Thiên Chúa Lam Người đã hiện diện nơi đó không những để
giảng dạy lề luật, mà còn là Ðấng thay thế cho các bậc thầy vĩnh viễn. Như lời
Chúa đã phán: "Chúng con không có vị thầy nào khác vì Thầy là Ðường, là Sự
Thật và là Sự Sống" (Ga 14,6).
Hơn nữa,
dịp tụ họp dân chúng nơi cổng Salomon ở đền thờ là dịp lễ cung hiến đền thờ
Giêrusalem. Lễ cung hiến đền thờ có ý nghĩa gì đối với người Do Thái? Thưa, đây
là một trong những lễ trọng của người Do Thái vì để ghi dấu đền thờ Giêrusalem
trước đó đã bị ô uế, bị xúc phạm, nay thánh hiến lại để bắt đầu trở lại sinh hoạt
tôn giáo. Lễ cung hiến đền thờ nhắc cho người dân nhớ lại sự phục hưng tôn giáo
được những sứ giả của Chúa là anh em Macabê thực hiện vào năm 146 trước Chúa
Giáng Sinh. Vào năm 170 đền thờ đã bị vua Syria làm ô uế, làm nơi dâng lễ vật
cho thần ngoại bang Hy Lạp vì thế mà đã xúc phạm đến Thiên Chúa chân thật. Giờ
đây đền thờ cung hiến được lại là để nhắc nhớ lại khung cảnh tôn giáo và địa điểm
cung thánh giảng dạy là cổng Salomon.
Như vậy,
thánh Gioan muốn nhắc lại một cách kín đáo cho các độc giả của ngài về chương
trình hay những ý định sâu xa của Chúa Giêsu, đó là lúc Chúa Giêsu muốn mạc khải
sự thật về ơn cứu rỗi, hầu khai mạc một thời đại mới, thời đại phục hưng tôn giáo
dựa trên đức tin vào Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa.
Khi ấy
ở Giêrusalem dịp cung hiến đền thờ bấy giờ là vào mùa đông, và Chúa Giêsu đã đi
đi lại lại ở cổng đền thờ Salomon. Sau những câu nhập đề mô tả khung cảnh tôn
giáo như vậy, thánh Gioan kể tiếp thắc mắc của người Do Thái, bấy giờ người Do
Thái vây quanh Chúa Giêsu và hỏi: "Ông để chúng tôi phân vân đến bao giờ nữa,
nếu ông là Ðức Kitô thì hãy nói trắng ra cho chúng tôi biết".
Thánh
Gioan thường dùng từ ngữ những người Do Thái để chỉ những kẻ không tin Chúa,
không những không tin mà còn có ý đồ xấu bắt bẻ lời Chúa và âm mưu làm hại Người.
Xem ra họ muốn tìm hiểu về Chúa nhưng thực sự là họ có ý đồ xấu, muốn nghe
chính Chúa nói mình là Con Thiên Chúa, là Ðấng Kitô để tố cáo Ngài. Nói phạm
thượng và tội phạm thượng là tội đáng bị xử tử theo luật Do Thái, họ muốn có bằng
cớ thêm để tố cáo "Ông này là người mà dám xưng mình là Con Thiên
Chúa" (Ga 5,18). Ðó là lời tố cáo sau này được nói lên khi luận xử Chúa
Giêsu trước khi đóng đinh Ngài vào Thập Giá như chúng ta đã biết.
Chúa
Giêsu đã phơi trần âm mưu của họ: "Ta đã nói với anh em rồi mà anh em
không tin, vì các anh không phải là chiên Ta" (Ga 10,25-27). Lời nói và việc
làm của Chúa mà người Do Thái thấy tận mắt tai nghe từ khi Chúa Giêsu rao giảng
cho đến lúc này đã quá đủ mạc khải Ngài là ai rồi. Nếu những kẻ nghe và nhận thấy
Chúa Giêsu có một tâm hồn sẵn sàng, đó là tâm hồn yêu thương gắn bó với người
chủ chăn. Không có thái độ nội tâm sẵn sàng thì không có thái độ đón nhận Lời
Chúa mạc khải và cũng không tin nhận Ngài. Mà nếu không tin nhận Chúa làm sao
có được sự sống đời đời, làm sao gắn bó kết hợp mật thiết với Chúa được. Còn đối
với những kẻ tin nhận Chúa thì được một lời bảo đảm vô cùng quan trọng:
"Không ai có thể cướp khỏi Cha được" (Ga 10,29-30).
Sống
tin tưởng vào Chúa là một bảo đảm chắc chắn cho những ai yêu mến Ngài. Lạy
Chúa, xin cho con luôn kết hợp với Chúa trong mọi nơi, mọi lúc của cuộc đời.
Amen.
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Ba Tuần IV PS
Bài đọc: Acts 11:19-26; Jn 10:22-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ai thuộc về đoàn chiên của Thiên
Chúa nghe tiếng Chúa Giêsu.
Có những tiếng nói hay tiếng cười
đã quá quen thuộc khiến con người chẳng cần nhìn cũng nhận ra người đang nói
hay đang cười là ai. Chẳng hạn, khi Chúa Giêsu hiện ra với Mary Magdala, Chúa chỉ
cần gọi một tiếng ngắn ngủi: “Mary.” Bà nhận ra ngay và kêu lên: “Lạy Thầy!”
Trong mối liên hệ giữa Thiên Chúa với con người cũng thế. Vì Thiên Chúa dựng
nên con người giống hình ảnh và các đức tính của Ngài, con người theo tính tự
nhiên dễ hướng chiều về sự thật, về yêu thương và tha thứ, và nhất là về Thiên
Chúa, Đấng dựng nên con người.
Các Bài Đọc hôm nay muốn nói lên
mối liên hệ mật thiết giữa Thiên Chúa và con người. Trong Bài Đọc I, Sách CVTĐ
tường thuật sự thành công trong việc rao giảng Tin Mừng của các môn đệ Chúa: Vì
có bàn tay Chúa ở với họ, nên một số đông đã tin và trở lại cùng Chúa; không chỉ
những người Do-thái, mà còn rất nhiều Dân Ngoại. Chính tại Antioch mà lần đầu
tiên các môn đệ được gọi là Kitô hữu. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố với
các đối phương của Ngài: "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng
và chúng theo tôi."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Vì có bàn tay Chúa ở với họ, nên một số đông đã tin và trở lại
cùng Chúa.
1.1/ Tin Mừng bắt đầu được loan
truyền ra ngoài lãnh thổ của Do-thái: Sau cuộc bách hại xảy ra nhân vụ
ông Stephanô, các môn đệ phải tản mác đi đến tận miền Phoenicia, đảo Cyprius và
thành Antioch. Họ không rao giảng Lời Chúa cho ai ngoài người Do-thái. Nhưng
trong nhóm, có mấy người gốc Cyprius và Cyrene; những người này, khi đến
Antioch, đã giảng cho cả người Hy-lạp nữa, loan Tin Mừng Chúa Giêsu cho họ.
Điều làm chúng ta ngạc nhiên là
sự trở lại của rất nhiều người và trong nhiều trường hợp rất ly kỳ, như sự trở
lại của Phaolô, của viên Thái Giám người Ethiopia, và của viên Đại Đội Trưởng
người Roma. Trình thuật hôm nay cho chúng ta lý do chính xác của các cuộc trở lại:
"Vì có bàn tay Chúa ở với họ, nên một số đông đã tin và trở lại cùng
Chúa." Nói cách khác, những người này luôn khao khát sự thật, khao khát được
biết về Thiên Chúa, và khao khát được sống muôn đời; nên khi họ nghe những lời
các môn đệ của Chúa rao giảng Tin Mừng, họ nhận ra ngay những khao khát của họ
được đáp ứng, nên họ tuyên xưng đức tin và chịu Phép Rửa.
1.2/ Chính tại Antioch mà lần đầu
tiên các môn đệ được gọi là Kitô hữu: Khi Hội Thánh tại Jerusalem nghe
tin nhiều người trở lại tại Antioch, họ cử ông Barnabas đi Antioch để thành lập
cộng đoàn tại đó. "Khi tới nơi và thấy ơn Thiên Chúa như vậy, ông Barnabas
mừng rỡ và khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn bó cùng Chúa, vì ông là người tốt, đầy
ơn Thánh Thần và lòng tin. Và đã có thêm một đám rất đông theo Chúa." Tên
của ông Barnabas có nghĩa "con của khuyên nhủ," vì ông được Chúa ban
cho có biệt về "khuyên nhủ." Điều này cho ta thấy người mục tử phải
là người sống gần gũi với Thiên Chúa, trước khi có thể dẫn dắt con người đến với
Thiên Chúa. Nếu người mục tử không nghe được tiếng Thiên Chúa, làm sao ông có
thể giảng giải cho dân và khuyên nhủ họ đến với Ngài?
Sau đó, ông Barnabas trẩy đi Tarsus
tìm ông Phaolô. Khi tìm được rồi, ông đưa ông Phaolô đến Antioch. Hai ông cùng
làm việc trong Hội Thánh ấy suốt một năm và giảng dạy cho rất nhiều người. Sứ vụ
của hai ông tại Antioch khởi sự cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng đặc biệt cho Dân
Ngoại. Chính tại Antioch mà lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô hữu. Danh
xưng này có nghĩa là những người theo Đức Kitô. Để theo Ngài, họ cần biết nghe
và thực hành những gì Ngài giảng dạy, chứ không phải chỉ là Kitô hữu trên danh
nghĩa. Nói cách khác, họ là những môn đệ của Đức Kitô, và có bổn phận phải họa
lại cuộc đời của Ngài cho người khác thấy và tin vào Ngài.
2/ Phúc Âm: Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo
tôi.
2.1/ Người Do-thái thắc mắc về căn
tính của Chúa Giêsu: "Khi ấy, ở Jerusalem, người
ta đang mừng lễ Cung Hiến Đền Thờ. Bấy giờ là mùa Đông. Đức Giêsu đi đi lại lại
trong Đền Thờ, tại hành lang Solomon. Người Do-thái vây quanh Đức Giêsu và nói:
"Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng
Kitô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết." Ngày lễ Cung Hiến Đền Thờ
cũng là ngày lễ hội ánh sáng (Hanukka) của người Do-thái. Họ cử hành lễ để tôn
vinh ánh sáng vì ngày trở nên ngắn và đêm tối trở nên dài hơn (tháng 12). Ánh
sáng và bóng tối có một ý nghĩa đặc biệt trong Gioan.
Tại sao cũng những lời rao giảng
của Chúa Giêsu, mà có người tin vào Ngài, và có những người không tin vào Ngài?
Thái độ cần phải khiêm nhường khi đi tìm sự thực là điều quan trọng, vì nếu đã
hãnh diện biết rồi, còn cần gì phải đi tìm nữa! Khi người Do-thái hỏi Chúa
Giêsu câu hỏi như trên, họ không có ý nhiệt thành muốn đi tìm sự thực; nhưng
coi Chúa Giêsu như lý do làm họ phải nhức đầu, và họ không muốn thay đổi lề lối
suy nghĩ của họ. Với một thái độ như thế, làm sao họ có thể học hỏi những gì
Chúa Giêsu muốn mặc khải cho họ! Lý do khác làm họ cứng lòng vì họ muốn ở trong
bóng tối (Jn 3:19-20).
2.2/ Mối liên hệ giữa Chúa Giêsu với
Chúa Cha, và với con người:
(1) Liên hệ giữa Chúa Giêsu và
con người: Chúa Giêsu thẳng thắn cho họ biết lý do tại sao họ không nghe Ngài:
"Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân
danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi. Nhưng các ông không tin, vì các
ông không thuộc về đoàn chiên của tôi. Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết
chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng
phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi." Họ không tin
Chúa Giêsu không phải vì không có các lý do chắc chắn để tin; nhưng vì họ từ chối
không chịu lắng nghe và suy nghĩ những gì Chúa Giêsu đã nói và đã làm. Họ muốn
thấy dấu lạ, Chúa Giêsu đã làm nhiều dấu lạ. Họ muốn nghe lời chân lý, Chúa
Giêsu đã mặc khải bao nhiêu sự thật của Thiên Chúa. Nếu những người thiện chí
muốn đi tìm sự thật, họ đã nhận ra Ngài đến từ Thiên Chúa từ lâu rồi. Nhưng họ
đã nhìn và đã nghe đến độ Chúa phải dùng lời tiên tri Isaiah mà nói:
"Chúng ra đui mù và lòng chúng ra chai đá, kẻo mắt chúng thấy và lòng
chúng hiểu được mà hoán cải, rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành" (Jn 12:40).
(2) Liên hệ giữa Chúa Giêsu với
Chúa Cha: Chúa nói: "Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả,
và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một."
Trong Kế Hoạch Cứu Độ, con người
được Chúa Cha ban cho Chúa Giêsu bằng cách tạo cơ hội để họ nghe Chúa Giêsu rao
giảng; đồng thời ban Thánh Thần để họ nhận ra sự thật và thúc đẩy họ tin vào Đức
Kitô. Vì thế, cả hai: Chúa Cha và Chúa Con đều hoạt động cho cùng một mục đích
là để con người có thể tin vào Đức Kitô và được hưởng cuộc sống muôn đời. Khi
các tín hữu đã tin vào Đức Kitô, Ngài sẽ bảo vệ họ; nếu họ trung thành nghe tiếng
Ngài hướng dẫn, không một quyền lực nào có thể động đến các tín hữu, và cuộc sống
muôn đời là của họ (Jn 6:39-40).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta có bổn phận loan truyền
Lời Chúa cho mọi người và cho mọi dân tộc trên thế giới; vì tất cả được Thiên
Chúa dựng nên và có khả năng để đón nhận sự thật.
- Chúng ta là đoàn chiên của Đức
Kitô, chúng ta phải biết lắng nghe để nhận ra tiếng của Ngài, và theo sự hướng
dẫn của Ngài, thì mới mong tránh được mọi nguy hiểm trong cuộc đời.
Lm.
Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
05/05/20 THỨ BA TUẦN 4
PS
Ga 10,22-30
Ga 10,22-30
NÓI HOÀI KHÔNG NGHE
Đức
Giê-su đáp: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi
làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi.” (Ga 10,25)
Suy niệm: Dân
gian có câu: “Nói như nước đổ lá môn” để ám chỉ đến những người cố chấp, không
chịu đón nhận khiến cho lời họ nghe không thể lọt tai, và không đem lại tác dụng
gì. Thái độ như thế thật đúng với những người Do-thái không chịu tin Đức Giê-su
mặc dù Ngài đã nhiều lần giảng dạy và tỏ cho họ biết Ngài là Đấng Ki-tô; bên cạnh
đó, Ngài đã thực hiện bao việc tốt đẹp và những dấu lạ để minh chứng. Nhưng họ
vẫn cố tình bịt tai che mắt trước những chứng từ đó, bởi vì họ cứ khăng khăng
đòi hỏi một Đấng Mê-si-a theo ý muốn của họ, nghĩa là một “vị cứu tinh” thế tục,
một vị vua bách thắng đập tan ách thống trị Rô-ma, và làm cho đất nước hùng mạnh
như thời Đa-vít. Họ không chấp nhận vương quốc thiêng liêng mà Chúa Giê-su rao
giảng, nơi người ta sống yêu thương hoà bình, luôn tha thứ và hiến thân phục vụ,
kể cả cho những người thù ghét và bách hại mình.
Mời Bạn: Chúa
Giê-su nói: con chiên nhận biết và nghe theo tiếng chủ chiên của chúng. Bạn là
con chiên của Chúa, bạn có nhận biết tiếng Chúa nói và vâng nghe Lời Ngài chưa?
Qua Thánh Kinh, Chúa ngỏ lời với chúng ta. Và Ngài tiếp tục nói với chúng ta
qua mỗi biến cố, mỗi giây phút của cuộc đời. Điều quan trọng là bạn có bình tâm
và nhạy bén để nghe được tiếng Chúa nói trong lòng bạn hay không.
Sống Lời Chúa: Dành
ít là năm phút mỗi ngày để suy niệm Lời Chúa
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin cho con đừng cứng lòng nhưng
biết mau mắn nhận ra và thực hành điều Chúa muốn trong cuộc đời con. Amen.
(5 phút Lời Chúa)
SUY NIỆM : Không ai
cướp được chúng
Suy niệm :
Có những Kitô hữu theo đạo để mong tránh sóng gió của cuộc đời.
Nhưng đã có lần con thuyền chở Đức Giêsu và môn đệ gặp bão lớn,
nước tràn vào khiến thuyền gần chìm, làm môn đệ hốt hoảng.
Theo Chúa đâu phải để tránh bão, nhưng để vượt qua cơn bão.
Theo Chúa đâu phải để khỏi bị cám dỗ, nhưng để thắng cơn cám dỗ.
Cuộc sống của người Kitô hữu không tránh khỏi những khó khăn
mà những người không Kitô hữu phải đối mặt mỗi ngày.
Hơn nữa, người Kitô hữu còn gặp nhiều khó khăn hơn.
Có những cơn bão ập đến bất ngờ chỉ vì họ là Kitô hữu.
Làm chiên trong đàn chiên của Đức Giêsu
không có nghĩa là được hưởng một sự êm ả dễ chịu.
Được ở trong ràn chiên của Chúa,
không có nghĩa là được yên ổn, chẳng bị ai quấy phá.
Đức Giêsu đã nói đến chuyện kẻ trộm, kẻ cướp, leo tường mà vào (c.10).
Chúng đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy đàn chiên (c. 10).
Khi được dẫn đi ăn nơi đồng cỏ, chiên còn phải đối đầu với sói dữ.
“Sói cướp lấy chiên và làm cho chiên tán loạn” (c. 12).
Đức Giêsu khẳng định mình không phải là người làm thuê,
nên khi sói đến, Ngài không bỏ chiên mà chạy.
Chiên là điều quý giá đối với Ngài đến độ Ngài dám nói nhiều lần:
“Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (cc. 11.15.17.18.).
Và thực sự Ngài đã làm điều đó trên thập giá.
Rõ ràng bảo vệ đoàn chiên là chuyện mấy chẳng dễ dàng.
Nếu Đức Giêsu, người mục tử nhân hậu mà bất khuất,
đã phải hy sinh mạng sống cho đoàn chiên,
thì hẳn cuộc chiến giằng co phải rất là ác liệt.
Kẻ thù của chiên chẳng phải là kẻ kém cỏi tầm thường.
Trong cuộc chiến để bảo vệ chiên, còn có sự hiện diện của Cha.
Chiên là của Cha và Cha đã giao chiên cho Đức Giêsu (c. 29).
Cha và Con cùng hợp tác để bảo vệ đoàn chiên,
không để ai cướp chiên ra khỏi vòng tay che chở của mình (cc. 28-29).
Cha và Con một lòng một ý trong nhiệm vụ này (c. 30).
Việc bảo vệ chiên còn kéo dài mãi đến tận thế.
Chúng ta làm gì để cộng tác với Chúa trong việc bảo vệ mình khỏi sói dữ?
Hãy tin vào Giêsu và nhận ra giọng nói của Giêsu để khỏi bị lừa.
Hãy theo sát sự dẫn đường của Giêsu, vị Mục tử đã chiến thắng cái chết.
Và hãy tin vào Chúa Cha, Đấng mạnh mẽ hơn tất cả (c. 29).
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,
Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục.
Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian,
lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.
Thế gian này vàng thau lẫn lộn.
Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.
Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình,
giữ được vị mặn của muối,
và sức tác động của men,
để đem đến cho thế gian
một linh hồn, một sức sống.
Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo,
chỉ sợ mình bỏ sống đạo
vì bị quyến ru bởi bao thú vui trần thế.
Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng
chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo,
những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.
Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con,
thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui
của người được diễm phúc nên giống Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
5 THÁNG NĂM
Những Cành Nho Vươn Tới Mọi Thế
Hệ
Để hiểu thực tại Giáo Hội là Dân
Thiên Chúa, chúng ta cần đọc lại biểu tượng cây nho và các cành nho một cách kỹ
lưỡng – và cần nghiền ngẫm ý nghĩa của biểu tượng ấy trong đáy lòng mình. “Thầy
là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy,
thì người ấy sinh nhiều hoa trái – vì không có Thầy, anh em sẽ chẳng làm gì được.”
(Ga 15, 5).
Những cành nho nói trên không chỉ
tượng trưng cho các cá nhân, mà còn tượng trưng cho các dân tộc thuộc mọi thời
đại và mọi thế hệ. Những cành nho ấy siêu vượt trên thời gian và trên cả sự chết,
vì Dân Thiên Chúa đã được qui tụ trong Đức Kitô. Dân tộc vĩ đại này của Thiên
Chúa tạo thành một thân thể nhờ Đức Kitô. Nhờ Người, với Người và trong Người,
mọi dân tộc trở nên một – như những cành của một thân nho. Và cây nho này là một
cấu trúc hữu cơ sống động cung cấp cho tất cả chúng ta một sự sống duy nhất
trong Đức Kitô.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John
Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 05-5
Cv 11, 19-26; Ga 10, 22-30.
LỜI SUY NIỆM: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi
biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ
chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.”
Chúa
Giêsu xác định một cách công khai và rất rõ ràng: Ai thuộc về Chúa thì nghe tiếng
của Chúa. - Chúa biết rất rõ từng con người; khi họ đi theo Chúa. (Có sự soi dẫn
của Chúa Thánh Thần). Chính Chúa sẽ ban cho họ sự sống đời đời, họ sẽ không bao
giờ phải chết hay bị hư mất. Đặc biết với quyền phép của Chúa, thì không có quyền
lực nào có thể cướp họ ra khỏi tay của Chúa.
Lạy
Chúa Giêsu. Xin ban cho mọi thành viên trong gia đình chúng con, luôn biết lắng
nghe Lời Chúa, sống theo Lời Chúa và luôn ở trong bàn tay yêu thương của Chúa,
để không có gì, có thể tách chúng con ra khỏi tình yêu của Chúa.
Mạnh Phương
05 Tháng Năm
Nhà Thờ Cho Người Da Màu
Trong quyển tự thuật,
Mahatma Gandhi, cha đẻ của chủ trương tranh đấu bất bạo động và là người đã giải
phóng Ấn Ðộ khỏi ách thống trị của người Anh, đã kể lại rằng: Trong những ngày
còn làm sinh viên, ông đã đi lại khá nhiều tại Nam Phi. Ông đã say mê đọc kinh
thánh và vô cùng cảm kích về bài giảng trên núi của Chúa Giêsu. Chính Tám Mối
Phúc Thực đã gợi hứng cho chủ trương tranh đấu bất bạo động của ông.
Mahatta Gandhi xác tín
rằng Kitô giáo là giải pháp cho mối ung nhọt phân chia giai cấp đang đục khoét
xã hội Ấn từ bao thế kỷ qua. Ông đã nghĩ đến chuyện gia nhập vào Giáo Hội. Thế
nhưng, ngày nọ, khi đến nhà thờ để dự lễ và đón nhận một vài lời chỉ dẫn, ông
đã thất vọng: Ông vừa vào đến cửa nhà thờ thì những người da trắng chận ông lại
và nói với ông rằng nếu ông muốn tham dự thánh lễ thì hãy tìm đến một nhà thờ
dành riêng cho người da màu.
Mahatma Gandhi đã ra
khỏi nhà thờ và ông đã không bao giờ trở lại bất cứ nhà thờ nào nữa.
Câu chuyện trên đây của
Mahatma Gandhi đáng cho chúng ta suy nghĩ: vô tình hay hữu ý, ai trong chúng ta
cũng có thể là một chướng ngại vật ngăn cản nhiều người muốn tìm đến với Giáo Hội.
Một lời nói, một cử chỉ, một cách sống, nếu đi ngược lại với tinh thần của Tin
Mừng, đều có thể là một cách xua đuổi người khác ra khỏi nhà thờ.
Không ai là một hòn đảo.
Chân lý này đúng cho những tương quan giữa người với người mà còn có giá trị
hơn nữa trong tương quan của niềm tin. Không có một hành động nào của người
Kitô hữu mà không ảnh hưởng đến người khác. Trong mầu nhiệm của sự thông hiệp,
chúng ta biết rằng tất cả mọi chi thể của Ðức Kitô đều liên kết khăng khít với
nhau đến độ sức mạnh của người này là nơi nương tựa cho người khác, sự yếu đuối
và tội lỗi của người này có thể làm tổn thương đến người khác... Trong Thân Thể
Mầu Nhiệm của Ðức Kitô, tất cả mọi chi thể đều liên đới với nhau, tất cả mọi
người đều có trách nhiệm đối với nhau...
Không ai là một hòn đảo.
Chân lý này cũng đúng cho tương quan của người tín hữu đối với người ngoài Giáo
Hội. Mỗi người tín hữu đều phải là trung gian nhờ đó con người tìm đến với giáo
Hội. Nói cho cùng, người tín hữu không sống cho mình mà sống cho tha nhân. Thật
thế, có lẽ không ai trong chúng ta có thể vào Thiên Ðàng nếu chúng ta chưa giúp
cho một người nào đó cũng vào Thiên Ðàng với chúng ta. Ðó chính là luận lý của
Tin Mừng: Khi mất đi bản thân vì tha nhân, chúng ta mới tìm gặp lại chính mình.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét