Trang

Chủ Nhật, 17 tháng 5, 2020

18-05-2020 : THỨ HAI - TUẦN VI PHỤC SINH


18/05/2020
 Thứ Hai tuần 6 Phục Sinh


BÀI ĐỌC I: Cv 16, 11-15
“Chúa đã mở lòng cho bà chú ý nghe những lời Phaolô giảng dạy”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Chúng tôi xuống tàu tại Trôa và đi thẳng đến Samôthra, và hôm sau đến Nêapôli; rồi từ đó đi Philippê là thành thứ nhất vùng Macêđônia, và là xứ thuộc địa. Chúng tôi lưu lại thành này một ít ngày. Đến ngày Sabbat, chúng tôi đi ra ngoài cửa thành đến bờ sông, chỗ người ta thường hợp nhau đọc kinh. Chúng tôi ngồi xuống giảng cho những phụ nữ đang tề tựu ở đó. Bấy giờ có một bà tên là Lyđia, buôn vải gấm, quê ở Thyatira, có lòng thờ Chúa, cũng ngồi nghe; Chúa đã mở lòng cho bà chú ý nghe các điều Phaolô giảng dạy. Sau khi chịu phép rửa tội làm một với gia đình, bà nài xin rằng: “Nếu các ngài xét thấy tôi đã nên tín đồ của Chúa, thì xin đến ngụ tại nhà tôi”. Bà nài ép chúng tôi.  Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 149, 1-2. 3-4. 5 và 6a và 9b
Đáp: Chúa yêu thương dân Người (c. 4a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy mừng vui vì Đấng tạo tác bản thân, con cái Sion hãy hân hoan vì vua của họ. – Đáp.
2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người, hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang. – Đáp.
2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người, hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang. – Đáp.
3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh quang, hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô Thiên Chúa. Đó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa. – Đáp.

ALLELUIA: Ga 14, 13
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con và lòng các con sẽ vui mừng”. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Ga 15, 26 _ 16, 4
“Thần Chân lý sẽ làm chứng về Thầy”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Khi Đấng Phù Trợ đến, Đấng Thầy sẽ từ nơi Cha Thầy sai đến với các con, Người là Thần Chân lý bởi Cha mà ra, Người sẽ làm chứng về Thầy. Và các con cũng sẽ làm chứng, vì các con đã ở với Thầy từ ban đầu. Thầy đã nói với các con điều đó để các con khỏi vấp ngã. Người ta sẽ loại các con ra khỏi hội đường. Đã đến giờ kẻ giết các con tưởng làm thế là phụng sự Thiên Chúa. Họ sẽ làm những điều đó cho các con, vì họ không biết Cha, cũng không biết Thầy. Nhưng Thầy đã nói với các con như vậy, để khi đến giờ của họ, các con nhớ lại là Thầy đã bảo các con”. Đó là lời Chúa.


SUY NIỆM : Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần
Trong thế gian, sự hiện diện của Chúa Thánh Thần là một sự hiện diện vô hình và chứng tá của Chúa Thánh Thần cho Chúa Giêsu được thể hiện, được nhìn thấy nơi chứng tá của các môn đệ cho Chúa. Và như vừa nói trên, chứng tá này không phải là điều dễ dàng. Ðây là con đường nhỏ hẹp, gặp nhiều gian nan, thử thách. Theo Chúa đích thực làm cho ta ra khỏi thế gian và vì thế mà bị thế gian ghét bỏ, khai trừ. Nhưng trong những lúc gian nan thử thách như vậy, trong những giây phút cảm thấy trống rỗng và đau khổ trong cuộc đời của người đồ đệ, Chúa Thánh Thần, Ðấng an ủi, Ðấng bảo trợ, mà Chúa Giêsu sai xuống từ Thiên Chúa Cha, Ðấng ấy sẽ đồng hành với các môn đệ và trợ giúp họ, để các ngài được luôn trung thành làm chứng cho Chúa. Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong đời sống của các môn đệ là nền tảng vững chắc cho niềm hy vọng của đồ đệ giữa những thử thách trên trần gian. Và chúng ta nhìn thấy điều này khi đọc qua những trang sách Tông Ðồ Công Vụ, sau khi được Chúa Thánh Thần ngự xuống, các tông đồ như được biến đổi hoàn toàn, từ lo sợ chạy trốn, chuyển sang can đảm, sẵn sàng hy sinh và cương quyết phục vụ. Trong lúc gặp thử thách, trước mặt những người quyền thế ngăn cấm không được làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh, các tông đồ can đảm trả lời công khai: "Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người".
Người Kitô hôm nay, đồ đệ của Chúa Giêsu, cần xét lại thái độ sống chứng nhân của mình. Có hai thái cực cần tránh đi, không thể có thái độ vênh vang tự đắc, cũng không được qụy lụy chiều theo qui mô của kẻ chống đối Chúa, cần sống khiêm tốn nhưng đồng thời can đảm mạnh mẽ trong việc phục vụ, chấp nhận phiền phức mà trong lòng vẫn vui tươi. Ðây là kinh nghiệm sống chứng nhân của thánh Phaolô tông đồ khi ngài tâm sự trong thư thứ hai Corintô chương 4, câu 7 và các câu tiếp theo như sau: "Thiên Chúa làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi để tỏ bày cho thiên hạ được biết vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời trên dung mạo Kitô, nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong bình sành để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi. Chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp, gian nan nhưng không tuyệt vọng, bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi, bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt. Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Chúa Giêsu, để sự sống của Chúa Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình của chúng tôi".
Tóm lại, làm chứng cho Chúa Giêsu, chúng ta không nên chờ đợi sự dễ dàng nhưng phải sẵn sàng mang lấy cuộc thương khó của Chúa Giêsu nơi thân mình, sẵn sàng đón nhận sự chống đối thù hận của những kẻ không biết Thiên Chúa Cha và cũng không biết Chúa Giêsu Kitô. Trong sự yếu đuối mỏng dòn của chính bản thân, chúng ta luôn cảm nghiệm sức mạnh của Thiên Chúa được thể hiện qua chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần hiện diện trong chúng ta. Chính Ngài làm chứng cho Chúa Giêsu và chúng ta cần để mình chìm sâu trong sức mạnh của Ngài để cùng với Ngài làm chứng cho Chúa.
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì đã mời gọi chúng con làm chứng cho Chúa. Xin thương ban ơn nâng đỡ chúng con, nhất là trong những lúc gian nan thử thách, tin tưởng vào Lời chúa và với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chúng con muốn làm chứng cho Chúa và chứng tỏ cho anh chị em biết rằng chúng con biết Chúa và yêu mến Chúa thực tình. Chính vì biết Chúa và yêu mến Chúa thật tình nên chúng con dấn thân làm chứng cho Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần VI PS
Bài đọc: Acts 16:11-15; Jn 15:25-16:4.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Vinh quang và đau khổ cần thiết cho cuộc đời.
Cuộc đời của con người có khi bình an có khi sóng gió; khi thành công khi thất bại; khi vui cũng như lúc buồn, khi thịnh vượng cũng như lúc đói nghèo... Hai thái cực này cần thiết để giữ thăng bằng cho cuộc sống: khi vui không vui quá, tới độ quên Thiên Chúa và bổn phận phải chu toàn; khi buồn không buồn quá, tới độ mất niềm tin vào Thiên Chúa và tiêu hủy cuộc đời.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong hai mặt của cuộc đời. Trong Bài Đọc I, Phaolô hưởng được sự thành công khi rao giảng Tin Mừng tại Philippi: một phụ nữ tên Lydia và gia đình của Bà chịu Phép Rửa khi nghe Phaolô giảng. Bà mời Phaolô và các bạn đồng hành dùng nhà Bà làm nơi để sinh sống và rao giảng Tin Mừng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết họ sẽ bị bắt bớ, đánh đòn và trục xuất khỏi hội đường khi rao giảng Tin Mừng; nhưng Thánh Thần mà Chúa Giêsu sẽ gởi đến, sẽ giúp các ông nhận ra sự thật và làm chứng cho Chúa Giêsu.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phaolô chinh phục một phụ nữ Âu-châu đầu tiên về cho Thiên Chúa.
Trong hành trình rao giảng Tin Mừng, Phaolô và các bạn đồng hành cũng gặp nhiều thành công và nhiều thất bại: khi thì người nghe nhận ra sự thật và chịu Phép Rửa như người phụ nữ và gia đình của Bà hôm nay; khi thì bị người ta đổ vạ cáo gian để đánh đòn, giam cầm, và trục xuất khỏi thành phố như trình thuật ngày mai. Trong mọi hoàn cảnh, Phaolô vẫn kiên trì rao giảng Tin Mừng dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, và vui lòng chịu đựng mọi gian khổ vì Danh Chúa.
1.1/ Phaolô rao giảng Tin Mừng tại Philippi: Trong cuộc hành trình lần thứ hai, Phaolô được Thánh Thần hướng dẫn trong một thị kiến, để ra khỏi ranh giới của Asia Minor và tiến vào vùng đất của Âu-châu, bắt đầu với Macedonia, như ông tường thuật hôm nay: "Xuống tàu ở Troas, chúng tôi đi thẳng đến đảo Samothrace, rồi hôm sau đến Neapolis. Từ đó chúng tôi đi Philippi là thị trấn quan trọng nhất trong hạt ấy của tỉnh Macedonia, và là thuộc địa Rôma. Chúng tôi ở lại thành đó mấy ngày."
1.2/ Gia đình Bà Lydia chịu Phép Rửa: Theo truyền thống Do-thái, chỗ nào không có hội đường, họ thường tập họp ở bờ sông để cầu nguyện và đọc Sách Thánh. Có lẽ, vì không có hội đường ở Philippi, nên Phaolô kể: "Ngày Sabbath, chúng tôi ra khỏi cổng thành, men theo bờ sông, đến một chỗ chúng tôi đoán chừng có nơi cầu nguyện. Chúng tôi ngồi xuống nói chuyện với những phụ nữ đang họp nhau tại đó." Chúng ta có thể học kinh nghiệm của Phaolô. Giống như Chúa Giêsu, ông lợi dụng mọi cơ hội để rao giảng Tin Mừng: trong hội đường cũng như ở các nơi hội họp; cho đàn ông cũng như cho đàn bà; cho giới thượng lưu cũng như cho người nghèo khổ.
Trong giới phụ nữ có một bà tên là Lydia, quê ở Thyatira, là người chuyên buôn bán vải điều. Đây là một loại vải đắt tiền và kiếm được nhiều lợi nhuận. Bà là người tôn thờ Thiên Chúa; bà nghe, và Chúa mở lòng cho bà để bà chú ý đến những lời ông Phaolô nói. Sau khi nghe Phaolô rao giảng Tin Mừng, bà và cả nhà đã xin chịu Phép Rửa. Có lẽ là người có nhà cửa rộng rãi, nên Bà ngỏ lời với các sứ giả: "Các ông đã coi tôi là một tín hữu Chúa, thì xin các ông đến ở nhà tôi." Và bà ép chúng tôi phải nhận lời.
Thiên Chúa luôn thúc đẩy và khuyến khích những tâm hồn thiện chí và có phương tiện, để họ mở rộng tâm hồn đón tiếp các sứ giả trong cuộc lữ hành loan báo Tin Mừng. Chúng ta phải noi gương Bà Lydia để đón tiếp các nhà truyền giáo, nhất là ở những nơi xa xôi hẻo lánh, để giúp họ có sức khỏe và phương tiện mang Lời Chúa đến cho mọi người. Khi mở lòng đón tiếp họ, chúng ta đón tiếp chính Chúa; và chúng ta cũng sẽ được phần thưởng của các tiên tri như Chúa đã hứa.
2/ Phúc Âm: Họ sẽ khai trừ anh em khỏi hội đường.
2.1/ Những chứng nhân của Đức Kitô:
(1) Thánh Thần: "Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy." Con người không thể hiểu mặc khải của Chúa Giêsu, nếu không có Thánh Thần tác động từ bên trong. Ngài soi lòng mở trí để các tín hữu nhận ra sự thật và tin vào Đức Kitô.
(2) Các môn đệ: "Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu." Để có thể làm chứng, các môn đệ cần có ba điều kiện: Thứ nhất, kinh nghiệm cá nhân sống với Chúa Giêsu; thứ hai, các ông cần xác tín Ngài là Đấng Thiên Sai, những gì Ngài đã nói và đã làm; sau cùng, các ông phải làm chứng cho Ngài khi cơ hội tới. Nếu thiếu một trong 3 điều kiện này, các ông không thể làm chứng cho Ngài.
2.2/ Người rao giảng Tin Mừng sẽ bị truy tố.
(1) Chúa Giêsu không dấu diếm điều gì với những người muốn theo Chúa, Ngài báo trước những gì các môn đệ sẽ phải chịu vì Danh Ngài và vì rao giảng Tin Mừng. Có hai lý do khiến Chúa chuẩn bị cho các ông: Thứ nhất, "Thầy đã nói với anh em các điều ấy, để anh em khỏi bị vấp ngã."
Nhiều người Công-giáo nghĩ rằng, một khi họ theo đạo là cuộc đời sẽ bình an vì được Chúa và Mẹ chúc lành và bảo vệ; nhưng họ có biết đâu rằng: bắt đầu cuộc sống môn đệ là bắt đầu cuộc sống từ bỏ ý riêng mình và vác thập giá với Chúa. Hơn nữa, đức tin cần được thử thách trong gian khổ như lửa thử vàng, thì mới biết đức tin nào thật và vững chắc. Thứ hai, để các ông nhớ lại những gì Ngài nói khi các ông bị truy tố và tìm được bình an: "Nhưng Thầy đã nói với anh em những điều ấy, để khi đến giờ họ hành động, anh em nhớ lại là Thầy đã nói với anh em rồi." Con người có thể ngạc nhiên khi không ai báo trước cho mình biết đau khổ sẽ xảy ra; nhưng nếu Chúa Giêsu đã báo trước, và Ngài cũng đã đi qua con đường này, người môn đệ sẽ chuẩn bị và biết bình tĩnh đối phó khi điều ấy xảy đến.
(2) Lý do bị truy tố: Thứ nhất, những Thủ Lãnh Do-thái trong Thượng Hội Đồng kết án và đóng đinh Chúa Giêsu, vì họ tưởng rằng làm như thế là làm vinh quang Thiên Chúa. Một ví dụ khác là trường hợp của ông Saul bắt đạo trước khi trở lại. Ông là người nhiệt thành gìn giữ Lề Luật của tổ tiên, nên ông không muốn các Kitô hữu vi phạm truyền thống này. Thứ hai, "Họ sẽ làm như thế, bởi vì họ không biết Chúa Cha cũng chẳng biết Thầy." Điều này hiển nhiên, vì nếu các Thủ Lãnh biết chắc Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, họ đã không luận tội và kết án Ngài.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đau khổ và vinh quang là hai khía cạnh của cuộc sống. Giống như Đức Kitô, chúng ta cũng phải trải qua đau khổ trước khi đạt đến vinh quang.
- Chúng ta cần giữ thái độ bình tĩnh và bình an khi đạt được thành công cũng như khi phải đương đầu với đau khổ; vì tất cả đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa.
- Chúng ta đều có bổn phận trong việc rao truyền và làm chứng cho Tin Mừng. Nếu chúng ta không có hoàn cảnh làm những điều này, chúng ta phải giúp đỡ và tạo cơ hội cho các nhà truyền giáo để họ chu toàn bổn phận rao giảng Tin Mừng cho mọi người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


18/05/2020 – THỨ HAI TUẦN 6 PS
Th. Gio-an I, giáo hoàng, tử đạo
Ga 15,26-16,4a

ĐƯỢC KÊU GỌI ĐỂ LÀM CHỨNG
“Thần Khí sự thật… sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu.” (Ga 16,26)
Suy niệm: Hoạt động của Thánh Thần được ví như gió: “Gió muốn thổi đâu thì thổi… Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy” (Ga 3,8). Chính vì thế mà ngay viên sĩ quan trưởng đội hành quyết Chúa Giê-su cũng có thể làm chứng: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39). Thế nhưng sứ mạng làm chứng cho Đức Giê-su được trao một cách đặc biệt cho những người là môn đệ của Ngài. Lời Chúa hôm nay cho thấy hai điều kiện để lời chứng cho Đức Giê-su là lời chứng có giá trị. 1/ “Chúa Thánh Thần sẽ làm chứng về Thầy,” vì thế ai làm chứng cho Chúa Giê-su thì phải làm chứng cùng với Chúa Thánh Thần. 2/ Việc làm chứng không chỉ là một lời nói, một việc làm riêng lẻ, mà phải là cả một cuộc sống xuyên suốt và trung thành với lời chứng của mình, của người “vẫn ở với Chúa ngay từ đầu.”
Mời Bạn: Dù bạn chưa là ki-tô hữu bạn vẫn có thể làm chứng cho Đức Ki-tô. Nhưng khi bạn ở lại với Chúa Ki-tô, để Ngài biến đổi bạn trong Chúa Thánh Thần, lúc đó bạn đích thực là môn đệ trọn vẹn của Ngài, và lúc đó, việc cùng với Chúa Thánh Thần làm chứng cho Đức Ki-tô trở nên lẽ sống của bạn trong mọi giây phút của cuộc sống, ngay cả trong những hoàn cảnh bi đát nhất.
Sống Lời Chúa: Làm thật tốt việc phục vụ tha nhân hay việc bổn phận thường ngày của mình với ý hướng làm chứng cho Chúa Giê-su, Đấng phục sinh.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin giúp chúng con trở nên môn đệ đích thực của Chúa khi chúng con là chứng nhân cho Chúa, Đấng đã chịu chết và sống lại để cứu chuộc thế nhân.
(5 Phút Lời Chúa)

SUY NIỆM : Làm chứng về Thầy
Suy niệm:
Chúng ta thường cầu xin Chúa Thánh Thần
trước một cuộc tĩnh tâm, một hội nghị hay một cuộc gặp gỡ tìm ý Chúa.
Thánh Thần cho ta ánh sáng để quyết định.
Nhưng Thánh Thần cũng là Đấng ban sức mạnh đỡ nâng,
nhất là lúc Giáo Hội gặp gian nan thử thách.
Bài Tin Mừng hôm nay vẫn nằm trong bối cảnh của sự bách hại.
Các môn đệ sẽ bị ghét bỏ, bắt bớ (Ga 15, 18-20).
Hơn nữa, họ còn bị trục xuất khỏi hội đường và bị giết (Ga 16, 2).
Sau khi Đức Giêsu về trời, ai sẽ là người đứng ra bảo trợ họ?
Ai sẽ là người giúp họ can đảm để làm chứng cho Đấng phục sinh?
Đức Giêsu trả lời: chính Thánh Thần, Đấng mà Ngài sai đến từ nơi Cha.
Thánh Thần từ từ tỏ mình ra như một Đấng, một ngôi vị có thực,
đang hiện diện trong lòng từng Kitô hữu và trong cộng đoàn.
Thánh Thần là Đấng ở với anh em,
ở giữa anh em và ở trong anh em (Ga 14, 16-17).
Như thế Đức Giêsu thực sự chẳng lìa xa chúng ta.
Ngài vẫn hiện diện liên tục bên chúng ta, nhờ Thánh Thần Ngài sai đến.
Giáo Hội sơ khai đã có kinh nghiệm sâu xa về Đấng Bảo trợ này,
đặc biệt trong giai đoạn bị bách hại.
Stêphanô là người đầy Thánh Thần (Cv 6, 5).
Khi ông tranh luận với những người Do thái cứng lòng,
Thánh Thần đã ban cho ông lời lẽ khôn ngoan không ai địch nổi (Cv 6, 10).
Trong Thánh Thần, ông đã làm chứng cho Đức Giêsu phục sinh,
Đấng đang đứng bên hữu Thiên Chúa (Cv 7, 55-56).
Chính lời chứng này đã đưa ông đến cái chết tử đạo đầu tiên.
Cái chết của Stêphanô nhắc ta nhớ lời hứa của Đức Giêsu.
Giờ bị thẩm tra là giờ thánh, giờ làm việc của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Khi đứng trước các nhà lãnh đạo, Đức Giêsu khuyên ta đừng lo phải nói gì,
“vì trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy cho anh em biết điều phải nói” (Lc 12,12),
đến nỗi “không phải chính anh em nói,
mà là Thần khí của Cha anh em nói trong anh em” (Mt 10, 20).
Cái chết của bất kỳ vị tử đạo nào cũng là một sự kết hợp diệu kỳ
giữa lời chứng bằng máu của họ với lời chứng của Thánh Thần ở trong họ.
“Người sẽ làm chứng về Thầy, anh em cũng làm chứng
vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu” (Ga 15, 26-27).
Chẳng bao giờ các Kitô hữu hết gặp khó khăn khi còn sống ở đời này,
hết phải làm chứng cho Đức Giêsu trước một thế giới thù nghịch.
Chẳng phải bách hại chỉ có dưới thời các vua triều Nguyễn.
Cuộc sống tiện nghi, dễ chịu thời nay cũng là một thứ bách hại nhẹ nhàng,
khiến nhiều Kitô hữu bị vướng vào và dễ dàng bước qua thập giá.
Xin Thánh Thần thêm sức cho ta khi ta phải lội ngược dòng.

Cầu nguyện :
Lạy Chúa là Thần Khí Sự Sống và Tình Yêu,
xin ban cho con
một thời để yêu và một thời để sống;
để con sống vì tình yêu Thiên Chúa,
để con yêu vì cuộc sống muôn loài.
Xin dạy con biết yêu những điều tốt đẹp, cao quý
và biết ghét những điều đê tiện, xấu xa.
Xin dạy con luôn sống vì những điều mình yêu,
và dám chết vì những điều mình ghét.
Xin cho con biết đưa tình yêu vào cuộc sống
để mỗi giây phút sống
con đều cảm nhận được niềm hạnh phúc yêu thương.
Xin cho con biết đưa cuộc sống vào tình yêu
để từng giây phút yêu,
con đều làm cho cuộc sống thêm giá trị.
Cuối cùng,
xin cho con biết hòa nhập cả hai nên một:
để sống là yêu và yêu là sống,
vì hiểu được rằng Thiên Chúa Hằng Sống
cũng chính là Thiên Chúa Tình Yêu. Amen. (NNS)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
18 THÁNG NĂM
Chúng Ta Không Bị Bỏ Mồ Côi
“Thầy sẽ xin Cha, và Ngài sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác – để ở với anh em luôn mãi: đó là Thần Khí sự thật…” (Ga 14, 16 – 17). “Thầy sẽ không bỏ anh em mồ côi; Thầy sẽ đến với anh em” (Ga 14, 18).
Đức Giêsu nói những lời này để chuẩn bị cho các môn đệ đón nhận cuộc ra đi của Người khi sứ mạng mê-si-a của Người trên dương thế gần đến hồi kết thúc. “Thầy sẽ không bỏ anh em mồ côi; Thầy sẽ đến với anh em”, khi nói những lời ấy, Đức Giêsu muốn nói về những ngày sau phục sinh – tức 40 ngày mà Người sẽ tiếp tục trải qua với các môn đệ. Những lời đó, đồng thời, cũng nhằm hướng chỉ đến Chúa Thánh Thần.
Đức Kitô Phục Sinh không để các môn đệ Người “mồ côi”. Người không để Giáo Hội “mồ côi”. Thật vậy, Người trao cho chúng ta Thánh Thần.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 18/5
Thánh Gioan I Giáo Hoàng, tử đạo
Cv 16, 11-15; Ga 15, 26-16,4a.

Lời Suy Niệm: “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha , Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy.”
       Chúa Giêsu đang giới thiệu với chúng ta về Chúa Thánh Thần, Chúa Thánh Thần và Người đều hiệp nhất mật thiết với nhau trong nguồn gốc và trong sứ vụ. Thần Khí được sai đến để làm chứng cho Người và để giúp các Tông Đồ hiểu rõ hơn mạc khải về Người.
       Lạy Chúa Giêsu. Xin Chúa cho chúng con biết đón nhận Chúa Thánh Thần, nhờ ân sủng của Ngài, giúp chúng con luôn nhớ lại Lời dạy của Chúa; mà tin và tuân giữ.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 18-05: Thánh GIOAN I
Giáo Hoàng Tử Đạo (+526)

Thánh Gioan sinh tại Tuscia. Ngài được chọn làm giám mục Rôma ngày 13 tháng 8 năm 523. Người ta không biết gì về đời thơ ấu của thánh nhân, nhưng tư ngày lên kế vị thánh Pherô Ngài đã nhiệt thành sống khẩu hiệu “tất cả vì danh Chúa”. Ngài đã có công hoàn thành nhạc bình ca mà các vị tiền nhiệm của Ngài là Đức Celestinô I, Leo Cả và Galesiô khởi xướng.
Năm 624, vua Justinô I bên Tiểu Á muốn hiệp nhất Giáo hội cũng như nhằm mục đích chính trị đã đàn áp nhóm theo lạc giáo Ariô. Tại Roma vua Theodôricô là người theo lạc giáo Ariô đã tức giận bắt đức giáo hoàng Gioan dẫn đầu phái đoàn đi thương thuyết. Sau nhiều lần phản đối, Ngài đã chấp nhận lên đường. Đây là lần đầu tiên có một vị giáo hoàng rời khỏi nước Ý. Vua Justinô và toàn dân Constantinopole hân hoan vui mừng đón tiếp Đức Giáo hoàng. Ngài đã cử hành lễ phục sinh tại thánh đường thánh nữ Sôphia và phong vương cho vua Justinô.
Trở lại Rôma, Ngài bị vua Thêđôricô cho là đã hành động phản nghịch với mình. Tức giận, ông tính xử tử Ngài, nhưng lại sợ dân chúng nổi loạn, nên bắt giam Ngài tại Ravenna. Tại đây đức giáo hoàng đã từ trần ngày 18 tháng 5 năm 526.
Ngày 27 tháng 5 năm 530 xác Ngài được dời về Roma. Niên lịch phụng vụ cử kính nhớ Ngài vào ngày 18-5 hằng năm.
(daminhvn.net)


18 Tháng Năm
Cánh Diều
Người Rumani nói về nguồn gốc của trò chơi thả diều bằng mẩu chuyện như sau:
Tại một làng kia, có một người nghèo mà ai cũng gọi là Cob. Cob là một tên gọi không mấy thanh cao trong ngôn ngữ Rumani. Người ta gọi ông bằng tên ấy vì cái miệng sún răng cũng như đôi chân khập khiễng của ông. Con người có dáng vẻ xấu xí ấy lẽ dĩ nhiên chỉ có thể là một người nghèo mà thôi. Không vợ, không con, ông Cob lầm than như tất cả những người nghèo khác. Ði đến đâu, ông cũng trở thành trò đùa cho mọi người. Vậy mà con người ấy không hề than thân trách phận hoặc tỏ ra giận dữ, buồn phiền mỗi khi bị chọc ghẹo.
Cả đời, ông chỉ có mỗi một băn khoăn: là chưa hề làm một việc thiện cho người khác. Ông yêu người, ông muốn tặng thật nhiều quà cho mọi người. Nhưng ông cảm thấy mình quá nghèo để có thể thực hiện được giấc mơ ấy. Ông thường tự nhủ: “Bệnh tật, đau yếu, khốn khổ, chết chóc, đó là số phận chung của mọi người. Ai không nhỏ lệ thì cũng khóc thầm trong lòng. Nước mắt là cơm bữa của loài người. Do đó, cần phải làm cho con người phấn khởi, vui tươi”. Nghĩ thế, ông trình bày lên Chúa tước nguyện như sau: “Xin Chúa cho con có thể mang lại cho những người đau khổ một quà tặng”.
Một quà tặng cho nhân loại đau khổ, nhưng ông Cob vẫn không biết món quà đó phải như thế nào. Trong khi chờ đợi, mỗi lần bị cười chê, mỗi lần bị đem ra làm trò cười, ông vẫn tươi cười với ý nghĩ rằng: “Ít ra mình cũng làm cho người vui”.
Sau một thời gian suy nghĩ, cuối cùng ông Cob mới tìm ra được món quà tặng mà ông sẽ mang lại cho nhân loại đau khổ: đó là một cánh diều bay lơ lửng trên không.
Nghĩ đó là sự linh ứng của Chúa, ông Cob đi nhặt tất cả những gì cần thiết để làm một cánh diều. Ông miệt mài cắt xén, sơn vẽ để hoàn thành được một cánh diều óng ả, sáng chói như một đĩa bay.
Khi cánh diều gặp gió bay cao, cả dân làng kéo nhau ra cánh đồng để nhìn ngắm cánh diều của ông Cob. Mọi người đưa mắt nhìn lên không trung và quên hẳn những nhọc nhằn của cuộc sống. Ðó là quà tặng mà người khốn khổ nhất của ngôi làng đã mang lại cho người đồng loại của mình.
Một tác giả nào đó đã nói: “Trái tim không phải là một món hàng để mua bán, mà là một món quà để trao tặng”. Một trái tim không biết trao tặng là một trái tim chết.
Sự giàu có và nghèo nàn có thể phân biệt con người thành giai cấp thứ bậc. Có người tiền rừng bạc biển, có người nghèo rớt mòng tơi. Nhưng mỗi người chỉ có một quả tim, và quả tim đó lẽ ra phải giống nhau, bởi vì người ta không thể cân lường được quả tim. Do đó, quà tặng xuất phát từ quả tim đều vô giá. Giá trị của món quà không hệ tại ở số lượng của tiền của, mà ở quả tim được gói gém trong món quà.
Chúa Giêsu đã nhìn thấy qủa tim mà một người đàn bàgóa đã gói trọn trong một đồng xu nhỏ dâng cúng đền thờ. Nhân vật Cob trong câu chuyện của người Rumani trên đây đã đặt tất cả con tim của mình vào cánh diều để làm vui cho con người.
Một ánh mắt, một nụ cười, một lời nói an ủi, một bàn tay nâng đỡ, đó là bao nhiêu quả tim mà con người có thể trao tặng cho nhau. Và có thể là những món quà cao quý nhất mà những người xung quanh đang chờ đợi nơi chúng ta.
(Lẽ Sống)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét