20/05/2020
Thứ Tư tuần 6 Phục
Sinh
BÀI ĐỌC I: Cv 17, 15.
22 – 18,1
“Đấng quý vị thờ mà không nhận
biết, thì tôi xin loan báo Người cho quý vị”.
Trích sách Tông đồ
Công vụ.
Trong những ngày ấy, nhừng người tháp tùng Phaolô, dẫn đưa ngài cho đến
Athêna; và khi đã nhận lệnh ngài truyền cho Sila và Timôthêu đến gặp ngài lập tức,
họ liền ra đi.
Bấy giờ Phaolô đứng giữa đồi Arêôpagô mà nói: “Kính thưa quý vị người
Athêna, tôi nhận thấy quý vị rất sùng tín về mọi mặt. Vì khi đi ngang qua, nhìn
các tượng thần của quý vị, tôi cũng thấy một bàn thờ có ghi chữ: “Kính Thần vô
danh”. Vậy Đấng quý vị thờ mà không nhận biết, thì tôi xin loan báo Người cho
quý vị. Thiên Chúa, Đấng đã tác tạo vũ trụ và vạn vật trong vũ trụ, Người là
Chúa trời đất, nên không ngự nơi đền thờ do tay người phàm làm ra. Người cũng
không cần bàn tay người phàm phụng sự như thể thiếu thốn điều gì, vì chính Người
ban cho mọi người sự sống, hơi thở và hết mọi sự. Người đã làm cho toàn thể
loài người từ một nguyên tổ lan tràn khắp mặt đất. Người phân định thời hạn rõ
rệt và biên giới chỗ họ ở, để họ tìm thấy Thiên Chúa nếu họ cố gắng dò dẫm tìm
gặp Người, vì thật ra Người không ở xa mỗi người chúng ta. Vì chưng ta sống, ta
cử động và ta hiện hữu trong Người, như có mấy thi sĩ của quý vị đã nói: “Chúng
ta thuộc tông giống Người”. Vậy bởi chúng ta là dòng giống của Thiên Chúa,
chúng ta không được nghĩ rằng Thần Linh giống như vàng, hoặc bạc, hay đá do nghệ
thuật chạm trổ và suy tưởng của con người làm ra. Thiên Chúa không chấp những
thời gian mê muội đó, nay Người loan báo cho nhân loại nhận biết để mọi người
khắp nơi ăn năn hối cải, vì Người đã quy định ngày Người sẽ xét xử vũ trụ cách
công minh, do Đấng Người đã chỉ định và cho Đấng ấy từ cõi chết sống lại để mọi
người tin”.
Khi họ nghe nói kẻ chết sống lại, thì có kẻ nhạo cười, có người lại nói rằng:
“Để khi khác, chúng tôi sẽ nghe ông nói lại về điều đó”. Thế là Phaolô bỏ họ ra
đi. Nhưng cũng có vài người theo và tin ngài, trong số đó có Điônysiô nhân viên
thuộc Arêôpagô, một phụ nữ tên Đamari và mấy người khác nữa. Sau đó, Phaolô rời
Athêna đi Côrintô. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 148, 1-2.
11-12ab. 12c-14a. 14bcd
Đáp: Trời đất đầy
vinh quang của Chúa.
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa từ muôn cõi trời, hãy ca tụng Người trên nơi
cao thẳm. Các thiên thần Chúa, hãy ca tụng Người đi, ca tụng Người đi, hỡi các
đạo thiên binh. – Đáp.
2) Quân vương địa cầu và tất cả chư dân, quan chức và các vị chính quyền
trên cõi đất, các thanh niên và cả những cô gái tân, những ông cụ già với đoàn
con trẻ. – Đáp.
3) Họ hãy ca tụng danh Chúa, vì danh Người siêu phàm, độc nhất, oai
nghiêm. Người tràn lan trên trời dưới đất, và Người nâng cao quyền thế dân Người.
– Đáp.
4) Dân Người là đề tài ca tụng cho mọi tín hữu, cho hết thảy con cái
Israel, dân tộc sống gần gũi với Người. – Đáp.
ALLELUIA: Ga 16, 7 và
13
Alleluia, alleluia!
– Chúa phán: “Thầy sẽ sai Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự
thật”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 16, 12-15
“Thần Chân lý sẽ dạy các con biết
tất cả sự thật”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thầy còn nhiều điều phải
nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể lĩnh hội được. Khi Thần Chân
lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật, vì Người không tự mình mà
nói, nhưng Người nghe gì thì sẽ nói vậy, và Người sẽ bảo cho các con biết những
việc tương lai. Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy
mà loan truyền cho các con. Tất cả những gì Cha có, đều là của Thầy, vì thế Thầy
đã nói: “Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con”. Đó là lời
Chúa.
SUY NIỆM : Cảm nghiệm sự
hiện diện của Đấng Phục sinh
Trong một tập truyện ngắn, nhà văn Hy lạp Nikos Kazanzakis có kể lại cuộc
gặp gỡ giữa một linh mục Chính thống tên là Manassê và một ẩn sĩ. Hai vị đàm đạo
với nhau suốt ngày mà câu chuyện vẫn không chấm dứt. Vị ẩn sĩ có thói quen nhắm
nghiền đôi mắt trong khi nói chuyện. Thấy thế linh mục Manassê liền đề nghị ông
hãy mở mắt ra, có mở mắt, ông mới thấy những kỳ công của Chúa. Nghe thế, vị ẩn
sĩ trả lời: “Nhưng tôi nhắm mắt lại là để thấy Đấng đã thực hiện những kỳ công ấy”.
Chỉ với đôi mắt đức tin, con người mới cảm nhận và nhìn thấy Chúa Kitô phục
sinh. Đó là điều Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ trong Tin mừng hôm nay, được
trích từ những lời giã biệt của Chúa Giêsu với các môn đệ trong Bữa Tiệc ly trước
khi Ngài đi vào cuộc tử nạn. Chúa Giêsu xem cuộc tử nạn của Ngài như một cuộc
ra đi trở về cùng Chúa Cha, vì sứ mệnh của Ngài đã hoàn tất. Nhưng sự ra đi của
Ngài không phải là một vĩnh viễn từ giã cõi đời, mà là một hiện diện mới, và
Thánh Thần chính là Đấng sẽ làm chứng về sự hiện diện mới ấy của Chúa Giêsu.
Chỉ trong Thánh Thần, nghĩa là trong đức tin, con người mới cảm nhận được
sự hiện diện ấy của Chúa Giêsu, chỉ trong Thánh Thần, con người mới hiểu biết về
Chúa Giêsu. Đó là cảm nghiệm mà các môn đệ Chúa Giêsu có thể có được từ sau lễ
Ngũ tuần. Trước đó, Chúa Giêsu phục sinh đã nhiều lần hiện ra cho các ông,
nhưng sự hiểu biết của các ông về mầu nhiệm của Ngài vẫn còn bị giới hạn. Chỉ
sau khi Thánh Thần hiện xuống, các môn đệ mới cảm nghiệm được sự hiện diện của
Chúa Giêsu phục sinh và chân lý của Ngài mới sáng tỏ trong tâm hồn các ông.
Chúa Giêsu đã khẳng định vai trò giáo dục của Thánh Thần khi Ngài nói với các
môn đệ: “Khi Thần Chân lý đến, Ngài sẽ đưa các con vào tất cả sự thật”.
Chúa Giêsu là Lời trọn vẹn của Thiên Chúa nói với con người. Thiên Chúa
đã nói với nhân loại qua người Con Một của Ngài, nhưng lời ấy con người chỉ có
thể đón nhận và lãnh hội trong và nhờ Thánh Thần mà thôi. 2.000 năm qua, Thánh
Thần đã không ngừng hướng dẫn và soi sáng để Giáo Hội đào sâu giáo huấn của
Chúa Giêsu. Cũng chính Thánh Thần ấy qua phép rửa ban cho mỗi kitô hữu ơn hiểu
biết về chân lý cứu rỗi và cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giêsu Phục
sinh.
Thánh Phaolô, tuy chưa từng được sống với Chúa Giêsu, nhưng nhờ Thánh Thần
đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Đấng Phục sinh, đến nỗi đã thốt lên: “Tôi sống
nhưng không phải tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi”. Chính do Thánh Thần
tác động, con người mới cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giêsu Phục sinh,
cho nên thánh Phaolô khuyên chúng ta đừng dập tắt Thánh Thần. Đừng dập tắt
Thánh Thần có nghĩa là luôn biết lắng nghe tiếng nói của Ngài trong đáy thẳm
tâm hồn chúng ta. Là đền thờ của Thánh Thần, cho nên từ trong tâm hồn, chúng ta
luôn nghe đuợc tiếng nói của Ngài. Đừng dập tắt Thánh Thần có nghĩa là luôn mở
rộng tâm hồn để đón nhận sự hiện diện và tác động của Ngài trong mọi biến cố cuộc
sống. Điều đó cũng có nghĩa là luôn nhìn vào cuộc sống bằng cái nhìn của lạc
quan, tin yêu và hy vọng.
Nguyện xin Thánh Thần ban cho chúng ta một quả tim mới, một quả tim biết
yêu thương và hy vọng, để cuộc sống chúng ta trở thành dấu chứng cho sự hiện diện
của Đấng Phục sinh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần VI PS
Bài đọc: Acts 17:15, 22-34, 18:1;
Jn 16:12-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người có khả năng nhận biết
Thiên Chúa và các hoạt động của Ngài.
Thiên Chúa là sự thật, và Ngài
đã tỏ mình ra cho con người qua việc tạo dựng, quan phòng, và các mặc khải
trong Kinh Thánh. Các Bài Đọc hôm nay nhấn mạnh đến khả năng của con người có
thể hiểu những sự thật của Thiên Chúa. Bài Đọc I tường thuật Bài Giảng của
Phaolô cho dân thành Athens. Phaolô bắt đầu từ niềm tin và lòng kính sợ Thiên
Chúa của họ; để dẫn dắt họ đến nhu cầu cần phải tin vào Đức Kitô và ăn năn sám
hối, để được sống lại đời đời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải cho các môn đệ
về sự cần thiết của Thánh Thần, mà Ngài sẽ xin Chúa Cha gởi tới cho các ông.
Ngài sẽ soi sáng cho các ông hiểu tất cả những gì Chúa Giêsu nói, và giúp các
ông hiểu biết mọi sự thật.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Bài giảng của Phaolô cho người Hy-lạp tại Areopagus, Athens
1.1/ Phaolô bắt đầu từ văn hóa Hy-lạp:
Để việc rao giảng Tin Mừng có hiệu quả, nhà rao giảng cần hiểu
biết phong tục và văn hóa của những nơi mà Lời Chúa được gieo vào. Truyền thống
Hy-lạp thờ rất nhiều thần và văn hóa Hy-lạp đặc biệt chú trọng đến sự khôn
ngoan. Các thần của Hy-lạp đều được điêu khắc rất đẹp và đều có đền thờ riêng
tùy địa phương tôn sùng. Sự khôn ngoan của văn hóa Hy-lạp được bày tỏ qua các
triết gia và triết học của họ. Areopagus là nơi những người Hy-lạp khôn ngoan
thường tụ tập để tìm hiểu những triết thuyết của thế giới. Phaolô biết rõ những
điều này, và ông đã can đảm và chuẩn bị chu đáo để gieo Tin Mừng vào những người
đang tìm kiếm sự khôn ngoan. Đứng giữa Hội đồng Areopagus, ông Phaolô khen đức
tính tôn kính các thần của họ và dùng đức tính này để bắt đầu rao giảng Tin Mừng:
"Thưa quý vị người Athens, tôi thấy rằng, về mọi mặt, quý vị là người sùng
đạo hơn ai hết. Thật vậy, khi rảo qua thành phố và nhìn lên những nơi thờ phượng
của quý vị, tôi đã thấy có cả một bàn thờ, trên đó khắc chữ: "Kính thần vô
danh." Vậy, Đấng quý vị không biết mà vẫn tôn thờ, thì tôi xin rao giảng
cho quý vị."
1.2/ Nội dung chính của bài giảng của
Phaolô: Phaolô khôn ngoan bắt đầu với những điểm tương đồng mà khán giả
của ông dễ chấp nhận, trước khi tiết tới những điểm đặc thù của Kitô Giáo:
"Thiên Chúa, Đấng tạo thành vũ trụ và muôn loài trong đó, Đấng là Chúa Tể
trời đất, không ngự trong những đền do tay con người làm nên. Người cũng không
cần được bàn tay con người phục vụ, như thể Người thiếu thốn cái gì, vì Người
ban cho mọi loài sự sống, hơi thở và mọi sự."
(1) Con người có khả năng nhận
biết Thiên Chúa: Phaolô nhấn mạnh đến việc thiên nhiên mặc khải sự hiện hữu và
quan phòng của Thiên Chúa: Nếu con người chịu quan sát và học hỏi nơi thiên
nhiên, họ sẽ nhận ra sự hiện hữu của Ngài: "Từ một người duy nhất, Thiên
Chúa đã tạo thành toàn thể nhân loại, để họ ở trên khắp mặt đất; Người đã vạch
ra những thời kỳ nhất định và những ranh giới cho nơi ở của họ. Như vậy là để họ
tìm kiếm Thiên Chúa; may ra họ dò dẫm mà tìm thấy Người, tuy rằng thực sự Người
không ở xa mỗi người chúng ta."
- Nhu cầu phải hiểu biết đúng về
Thiên Chúa: "Thật vậy, chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động, và hiện
hữu, như một số thi sĩ của quý vị đã nói: "Chúng ta cũng thuộc dòng giống
của Người."
- Đả kích tội thờ bụt thần:
"Vậy, vì là dòng giống Thiên Chúa, chúng ta không được nghĩ rằng thần linh
giống như hình tượng do nghệ thuật và tài trí con người chạm trổ trên vàng, bạc
hay đá.
(2) Nhu cầu phải sám hối, sự xét
xử, và sự sống lại: Đây là đích điểm mà Phaolô muốn nhắm tới, vì ông biết truyền
thống Hy-lạp không tin nhu cầu phải sám hối và sự sống lại. Trước tiên Phaolô
muốn họ ý thức về thực tại của tội, con người phạm tội vì không nhận biết Thiên
Chúa dù Ngài đã tỏ mình cho con người trong thiên nhiên: "Vậy mà Thiên
Chúa nhắm mắt bỏ qua những thời đại người ta không nhận biết Người. Bây giờ Người
truyền cho người ta rằng mọi người ở mọi nơi phải sám hối."
+ Đa số người Hy-lạp thời đó
không tin nhu cầu cần sám hối, vì họ tin Thiên Chúa không thay đổi: nếu Ngài
thay đổi để tha thứ tội cho con người, Ngài không còn là Thiên Chúa nữa.
+ Họ cũng chẳng tin việc Thiên
Chúa xét xử, vì họ không tin có đời sau và vì Thiên Chúa không bao giờ thay đổi.
+ Sự sống lại: Truyền thống Hy-lạp,
đặc biệt những người Epicureans, không tin có sự sống lại. Đối với họ, chết là
hết; sự chết lấy đi tất cả những gì con người sở hữu. Nên khi vừa nghe nói đến
người chết sống lại, kẻ thì nhạo cười, kẻ thì nói: "Để khi khác chúng tôi
sẽ nghe ông nói về vấn đề ấy." Thế là ông Phaolô bỏ họ mà đi.
Kết quả của sự rao giảng của
Phaolô tại Athens: Sách CVTĐ tường thuật: "Nhưng có mấy người đã theo ông
và tin Chúa, trong số đó có ông Dionysius, thành viên Hội-đồng Areopagus và một
phụ nữ tên là Damaris cùng những người khác nữa."
2/ Phúc Âm: Con người có khả năng để hiểu biết những mặc khải của Thiên Chúa.
2.1/ Mặc khải của Thiên Chúa phải
tiệm tiến theo thời gian vì sự hiểu biết của con người giới hạn: Chúa Giêsu biết rõ điều này, nên Ngài tâm sự với các ông:
"Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức
chịu nổi." Không như Thiên Chúa, Đấng có khôn ngoan và quyền năng biết tất
cả mọi sự một lúc, con người cần có thời gian để học biết những điều căn bản,
trước khi có thể hiểu những chân lý cao siêu hơn. Ví dụ, một học sinh phải qua
các cấp bậc tiểu học, trung học, đại học, và cao học. Trong việc mặc khải các mầu
nhiệm của Thiên Chúa cho con người cũng thế: bắt đầu từ mầu nhiệm một Thiên
Chúa, Đấng tạo thành và điều khiển muôn lòai trong Cựu Ước; để chuẩn bị cho Đức
Kitô đến qua mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc trong Tân Ước; trước khi tiến đến
mầu nhiệm Chúa Thánh Thần và các công việc của Ngài, như Chúa Giêsu đề cập tới
hôm nay.
2.2/ Mặc khải toàn vẹn của Thánh Thần:
Chúa Giêsu hứa với các môn đệ: "Khi nào Thần Khí sự thật đến,
Người sẽ dẫn anh em tới tất cả sự thật (toàn vẹn). Người sẽ không tự mình nói
điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho
anh em biết những điều sẽ xảy đến."
(1) Mặc khải đến từ Thiên Chúa:
Trước tiên con người cần biết: Tất cả sự thật đến từ Thiên Chúa. Con người
không sở hữu sự thật, nhưng chỉ khám phá ra sự thật, nó là quà tặng của Thiên
Chúa cho con người. Con người cũng không phát minh ra sự thật, nhưng sự thật đã
có sẵn trong trời đất và chờ đợi để con người khám phá và hiểu biết nó. Nói
tóm, chỉ một mình Thiên Chúa sở hữu sự thật.
(2) Thánh Thần sẽ làm cho con
người hiểu những gì Chúa Giêsu mặc khải: Đây cũng là nền tảng của việc mặc khải
về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi: "Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những
gì của Thầy mà loan báo cho anh em. Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế,
Thầy đã nói: Người lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em." Cả Ba Ngôi
Thiên Chúa đều cộng tác trong việc làm cho con người hiểu thấu các mầu nhiệm của
Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta được Thiên Chúa ban
cho có khả năng để tìm ra và nhận biết sự thật; nhất là nhận ra Thiên Chúa, Đấng
là sự thật trên hết các sự thật.
- Sự thật của Kitô Giáo không đến
với con người qua những suy niệm trừu tượng; nhưng qua một con người sống động
là Đức Kitô, và sự hướng dẫn từ trong tâm hồn của Chúa Thánh Thần. Vì thế, khi
con người càng sống gần gũi với Chúa Giêsu và để Thánh Thần soi sáng, con người
càng khám phá ra sự thật.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên,
OP
20/05/2020 – THỨ TƯ TUẦN 6 PS
Th. Bê-na-đi-nô Xi-ê-na, linh mục
Ga 16,12-15
THIÊN CHÚA VẪN PHÁN DẠY
“Khi nào Thần Khí Sự
Thật đến, Người sẽ dẫn anh em đến sự thật toàn vẹn… Mọi sự Chúa Cha có đều là của
Thầy. Vì thế, Thầy đã nói: Người lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em.”
(Ga 16,13.15)
Suy niệm: Cuốn sách cuối cùng của bộ Thánh Kinh là Sách Khải
Huyền được viết vào khoảng năm 100, nhưng không phải là kể từ ngày ấy Thiên
Chúa đã lặng im không còn nói, không còn dạy bảo con người điều chi nữa. “Trong
thời sau hết, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Người Con…” (Dt 1,2). Những
điều Thiên Chúa muốn nói qua Người Con đã được ghi lại trong bộ Thánh Kinh, còn
Chúa Thánh Thần dần dần vén màn cho chúng ta thấu hiểu được sự thật toàn vẹn.
Chính vì thế, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy các tông đồ phải đợi đến khi
Chúa Thánh Thần hiện xuống mới hiểu được những lời Chúa Giê-su đã nói. Và cũng
không lấy làm lạ khi những lời đã được viết ra cả hằng ngàn năm nay, mỗi khi được
tuyên đọc, vẫn khơi dậy trong chúng ta những tâm tình những sự hiểu biết và những
sứ vụ luôn luôn mới.
Mời Bạn: Thiên Chúa vẫn luôn phán dạy bạn: Mỗi khi bạn đọc hoặc
nghe Lời Chúa, chính Chúa Giê-su trực tiếp nói với bạn vì Ngài là Đấng Phục
Sinh, “Đấng đã chết mà nay vẫn đang sống,” và Chúa Thánh Thần giúp bạn hiểu Lời
Chúa Ki-tô vì “Người lấy của Thầy mà loan báo cho anh em”.
Chia sẻ: Nhìn lại
chính việc chia sẻ Lời Chúa: Bạn đang chia sẻ điều Chúa Thánh Thần nói với bạn
hay bạn chỉ nói ý kiến riêng của mình?
Sống Lời Chúa: Mỗi khi đọc Lời Chúa, bạn chân thành cầu nguyện, xin
Chúa Thánh Thần hướng dẫn dạy dỗ bạn.
Cầu nguyện: Hát: “Xin cho con biết lắng
nghe…”
(5 Phút Lời Chúa)
SUY NIỆM : Toàn bộ sự
thật
Suy niệm
:
“Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em,
nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi.”
Ðức Giêsu khi sắp về với Cha,
đã chấp nhận giới hạn của các môn đệ.
Ngài chưa nói hết được những điều Ngài muốn nói,
nhưng Ngài không muốn ép họ phải cố hiểu.
Cần có thời gian, và nhất là cần Thánh Thần...
Ðức Giêsu chấp nhận ra đi khi việc huấn luyện còn dang dở.
Ngài chấp nhận mình không phải là vị thầy duy nhất:
Sau này, Thánh Thần sẽ dạy anh em mọi điều (Ga 14,26).
Ngài cũng chẳng phải là Ðấng Bảo Trợ duy nhất
vì còn một Ðấng Bảo Trợ khác đến sau Ngài (x. Ga 14,16).
Ngài đã vén mở cho các môn đệ thấy sự thật,
sự thật về Cha, về bản thân mình và về con người.
Nhưng Ngài biết rằng cần có Thánh Thần từ từ dẫn dắt
các môn đệ mới hiểu thấu và đi vào toàn bộ sự thật.
Vì lợi ích của họ, Ðức Giêsu sẵn sàng ra đi (x. Ga 16,7),
để nhường chỗ cho Ðấng Cha và Ngài sai đến.
Ðức Giêsu chẳng tìm mình, và Thánh Thần cũng vậy.
Thánh Thần chỉ có sứ mạng
là đưa con người đến với Cha và Con là Ðức Giêsu.
Ngài chẳng tìm vinh quang cho mình,
nhưng chỉ tìm tôn vinh và làm chứng cho Ðức Giêsu.
Cha cũng chẳng tim mình.
Cha chẳng giữ gì làm của riêng.
“Mọi sự Cha có đều là của Thầy” (c.15)
Cha là nguồn mạch luôn trào dâng qua Con.
Con là Con vì đón nhận tất cả từ Cha.
Tình yêu liên kết Cha và Con là Thánh Thần,
Khi chiêm ngắm thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi,
chúng ta thấy đó là một cộng đoàn lý tưởng.
Mỗi ngôi vị đều sống cho hai ngôi vị kia.
Yêu thương và hiệp thông với nhau đòi từ bỏ
Nhưng từ bỏ lại làm cho mỗi ngôi vị trọn vẹn là mình,
và sống trong hạnh phúc viên mãn.
Thiên Chúa của Kitô giáo là một cộng đoàn yêu thương,
nhưng thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi lại không khép kín.
Thế giới ấy vươn ra ngoài mình,
để cho hạnh phúc tuôn đổ trên toàn bộ công trình sáng tạo.
Cha yêu loài người đến độ sai Con Một làm người.
Con yêu loài người đến độ dám sống và chết cho họ.
Thánh Thần yêu loài người đến độ luôn ở bên để ủi an nâng đỡ.
Cả Ba Ngôi cùng nhau lo cho loài người.
Ước mơ lớn nhất của Ba Ngôi là đưa cả nhân loại
đi vào thế giới thần linh của mình,
để mỗi người được hưởng hạnh phúc làm con trong Chúa Con.
Thiên Chúa Ba Ngôi là tình yêu mở ra, chia sẻ, mời gọi.
Tình yêu đích thực bao giờ cũng khiêm hạ đợi chờ.
Chúng ta tự hỏi mình có sẵn sàng mở ra
để Chúa đi vào thế giới của mình
và để mình đi vào thế giới của Chúa không?
Cầu nguyện :
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
20 THÁNG NĂM
Một Lời Hứa Được
Hoàn Thành
“Đấng Bảo Trợ – là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy –
Ngài sẽ dạy cho anh em mọi điều và sẽ nhắc anh em nhớ lại tất cả những gì Thầy
đã nói với anh em” (Ga 14, 26). Đức Kitô thốt lên những lời này vào buổi chiều
hôm trước khi Người bước vào cuộc khổ nạn và lãnh nhận cái chết thập giá, buổi
chiều Người chia tay với các Tông Đồ. Chúng ta ôn lại những lời này trong Mùa
Phục Sinh. Chính trong Mùa Phục Sinh mà lời hứa về Chúa Thánh Thần sẽ được hoàn
thành trọn vẹn.
Ngay buổi chiều sau khi sống lại, Đức Kitô đã trao ban Thánh Thần cho các
Tông Đồ tụ họp trong căn gác thượng. Người nói với họ: “Anh em hãy nhận lấy
Thánh Thần” (Ga 20, 22). Người mang Thánh Thần – như một quà tặng – đến cho
Giáo Hội. Chính Chúa Thánh Thần sẽ được mặc khải xung quanh các biến cố của Lễ
Ngũ Tuần – cũng như trong tư cách là một quà tặng trao ban cho Giáo Hội. Trong
những ngày này và những tuần lễ này, tất cả chúng ta được mời gọi cảm nghiệm đặc
biệt về mối gắn kết giữa Lễ Phục Sinh và Lễ Hiện Xuống. Chúng ta hãy cầu xin
Thiên Chúa tiếp tục đổ tràn Thánh Thần của Ngài xuống trên Dân Ngài.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 20/5
Thánh Bernađinô Siêna,
linh mục
Cv 17, 15.22-18,1;
Ga 16, 12-15.
Lời Suy Niệm: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn.”
Chúa Giêsu đang căn dặn với mỗi
người trong chúng ta, Một khi Thần Khí ngự đến trên mỗi người trong chúng ta,
chúng ta sẽ được biến đổi nên tốt đẹp, thánh thiện một cách toàn vẹn hơn.
Lạy Chúa Giêsu. Xin Chúa ban Chúa
Thánh Thần trên mỗi người chúng con, để giúp chúng con sống trọn giới răn yêu
thương của Chúa; đê tất cả chúng con được vui sống bình an với nhau trong tình
yêu thương của Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
20-05: Thánh BERNADINÔ thành Siêna
Linh mục (1380 –
1444)
Thánh Bernadinô xuất thân từ gia đình quý phái Abbizeschi thành Siêna.
Ngài sinh ngày 8 tháng 9 năm 1380 tại Massa Ma-rittima, là nơi thân phụ Ngài
làm thống đốc. Nhưng khi mới ba tuổi, Ngài phải mồ côi mẹ, và 6 tuổi phải mồ
côi cha, Ngài được giao phó cho các bà Dì ăn sóc.
Các dì thay thế người mẹ quá cố của Bernadiô để nuôi dưỡng và săn sóc con
trẻ về mọi phương diện, nhất là trong đời sống trọn lành. Từ nhỏ, Bernadinô đã
có một lòng bác ái đặc biệt với người nghèo. Một lần kia, dì Biana đuổi một người
ăn xin vì hết thực phẩm. Bernadinô đau đớn nài nỉ: – Vì tình yêu Chúa, ta hãy
cho người này cái gì, bằng không cháu sẽ không ăn gì hôm nay, cháu thà nhịn đói
còn hơn phải thấy ông ta còn đói.
Và bà dì đã vui vẻ bố thí cho người ăn xin này.
Trẻ Bernadinô rất yêu mến nhà thờ và sùng kính Đức Trinh Nữ. Mỗi thứ bảy
Ngài ăn chay để kính mẹ. Hơn nữa, Ngài quyết giữ tâm hồn trong trắng như thiên
thần không hề tham dự vào các trò chơi thô kệch, đỏ mặt khi nghe lời nói nhơ bẩn.
Một lần có đứa vộ lại đề nghị chuyện tục tĩu, Ngài đã đấm thẳng vào mặt nó, khiến
lắm kẻ ngạc nhiên. Sau này Ngài cũng phản ứng tương tự đối với một phụ nữ lẳng
lơ.
Với một tâm hồn trong trắng như vậy, Bernadinô đã tỏ ra thông minh đặc biệt
khi theo học ở Siêna. Năm 12 tuổi, Ngài được gởi tới Vienna để theo học văn
chương và giáo luật. Năm 17 tuổi, Ngài gia nhập hội “Anh em Đức Mẹ” phục vụ bệnh
nhân Scala. Bốn năm sau, xảy ra một cơn dịch hạch. Tại nhà thờ Sancta mỗi ngày
có tới vài chục người chết. Ngài săn sóc họ và cũng bị nhiễm bệnh, Bernadinô
say sưa tận tụy phục vụ làm cho nhiệt tâm của Ngài lan sang tâm hồn các bạn.
Ngài lao mình vào giữa nguy hiểm để săn sóc bệnh nhân và chôn cất người chết.
Ngài thoát chết, nhưng đã ngã bệnh hầu kiệt sức và không bao giờ hồi phục hoàn
toàn.
Sáng ngày 08 tháng 9 năm 142, sau khi giúp đỡ một người Dì cả điếc lác
trong một cơn bệnh cuối cùng, Bernadinô đã phân phát hết tài sản cho người
nghèo rồi gia nhập dòng thánh Phanxicô. Năm 1404, Ngài thụ phong linh mục, tiếp
đến là khoảng 12 năm Ngài sống ẩn dật, nhưng sau đó là những ngày tháng đi rao
giảng, không biết mệt mỏi khắp nước Ý.
Nhận biết rõ tư tưởng thần học sâu sắc của con người khiêm tốn Bernadinô,
bề trên buộc Ngài phải từ bỏ nếp sống ẩn dật để đi rao giảng lời Chúa cho dân
chúng. Thánh nhân có một giọng nói yếu ớt khàn khàn khó nghe. Nhưng là vì bổn
phận nên Ngài chạy đến sự phù giúp của trinh nữ và tiếng Ngài trở nên mạnh mẽ
trong sáng. Bài giảng đầu tiên, Bernadinô ngưng lại giữa chừng rồi lại tiếp tục
không ai biết chuyện gì. Sau này thánh nhân cho biết lúc ấy Ngài bỗng thấy chị
em con Dì là Tobia “mặc áo trắng bất tử mà về trời”. Nghe Bernadinô giảng nhiều
tâm hồn quyết sống xứng đáng hơn.
Các linh mục hỏi Ngài cho biết bí quyết nào để rao giảng hùng hồn như vậy,
Ngài trả lời: – Hãy tìm vinh danh Chúa và lợi ích các linh hồn mà thôi, hãy thực
hiện điều mình giảng cho người khác, Chúa Thánh Thần sẽ là thày dạy sự khôn
ngoan mà không ai chống lại được. Những chủ đề chính Ngài rao giảng là nhu cầu
phải sám hốn và phải trừ bỏ mọi nết xấu, nhất là những cuộc cãi vã về chính trị,
cờ bạc “giả trá” trong việc ăn mặc và trong cách cư xử.
Ngài đề cập đến các chủ đề này một cách sống động với những giai thoại điển
hình, khiến đông đảo dân chúng lắng nghe hàng giờ không biết chán, và quyết tâm
hối cải. Người ta sẽ còn nhớ đến Ngài như người khởi xướng việc tôn kính thánh
linh Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse. Mỗi lần rao giảng, thánh nhân quen cầm
tấmbảng viết tên Chúa Cứu thế “JHS” và khuyên mọi người hãy bắt chước mà vẽ tấm
bảng như vậy rồi treo ở nhà tư hay ở những nơi công cộng. Bài giảng cuối cùng của
thánh nhân về “thần hứng” chứng tỏ Ngài là nhà tâm lý thông hiểu đường lối thần
bí và là thầy dạy có đầu óc phóng khoáng về lý thuyyết cầu nguyện chiêm niệm.
Thánh Bernadinô xứng đáng kế nghiệp thánh Vincentê Ferie làmvị tông đồ nước Ý.
Ngày 20 tháng 5 năm 1444, thánh nhân Bernadinô từ trần ở Aquila Abruzzi
và được chôn cất tại đây. Các phép lạ xảy ra ngay tại mồ Ngài đã khiến đức Giáo
hoàng Nicôla V tôn phong Ngài lên bậc hiển thánh ngay sáu năm sau.
(daminhvn.net)
20 Tháng Năm
Kẻ Ăn Cắp Một Ổ Bánh Mì
Người ta thường kể về một trong những ông thị trưởng đầu tiên của thành
phố New York bên Hoa Kỳ giai thoại như sau: một ngày mùa đông lạnh buốt nọ, ông
thị trưởng phải chủ tọa các phiên tòa. Người ta điệu đến trước mặt ông một ông
lão quần áo tả tơi. Người đàn ông này bị tố cáo là đã ăn cắp một mẩu bánh mì. Lời
tự biện hộ duy nhất mà người đàn ông khốn khổ đưa ra là: “Gia đình tôi đang chết
đói”.
Nghe xong lời cáo buộc của cử tọa cũng như lời biẹn bạch của ông lão,
viên thị trưởng đưa ra phán quyết như sau: “Luật pháp không tha thứ cho bất cứ
một hành động xấu nào. Tôi thấy cần phải trừng phạt ông, và hình phạt cho tội
ăn cắp là ông phải đóng 10 đô la”. Vừa công bố bản án, ông thỉntưởng rút trong
túi của mình ra 10 đô la và trao cho ngwòi đàn ông khốn khổ. Quay xuống cử tọa
ông nói tiếp: “Ông lão đã bồi thường vì tội ăn cắp của ông. Còn phần quý vị,
tôi yêu cầu mỗi người phải đóng 50 xu tiền phạt vì sống dửng dưng đến độ để cho
trong thành phố của chúng ta còn có một người nghèo phải đi ăn cắp”. Nói xong,
ông ra lệnh cho viên biện lý đi thu tiền vảtao tất cả cho ông lão.
Khi chiếc mũ đã được truyền một vòng tòa án và trở về tay mình, ông lão đếm
được tất cả 47 đô la 50 xu.
Trong sứ điệp Mùa Chay năm 1991, Ðức thánh Cha Gioan Phaolô II mời gọi
chúng ta hãy đọc và suy ngẫm về bài dụ ngôn người giàu có và Lazarô.
Mới nghe qua, chúng ta có cảm tưởng người giàu có trong bài dụ ngôn đã
không làm điều gian ác nào để đến độ phải bị trầm luân. Chúa Giêsu đã không
nói: ông đã trộm cướp, hay biển lận hoặc gian xảo trong việc làm ăn. Ngài cũng
không kết án việc ông ngày ngày yến tiệc linh đình.
Vậy thì đâu là tội của người phú hộ? Thưa đó là tội dửng dưng trước nỗi
khổ của người khác. Chúa Giêsu nói đến sự hiện diện ngày qua ngày của một người
khốn khổ trước cửa nhà ông để cho chúng ta thấy sự đang tâm làm ngơ của người
giàu có… Máu chảy, ruột mềm. Trước cảnh khốn khổ của người đồng loại, mà người
giàu có ấy vẫn không biểu lộ một chút xúc động hoặc làm như không nhìn thấy,
thì quả thật không gì đáng trách bằng, bởi vì người giàu có đã làm cho trái tim
của mình khô cứng.
Dửng dưng trước nỗi khổ của người khác không là một thái độ vô thưởng vô
phạt, mà là một hành động tội ác. Ông thị trưởng thành phố New York trong câu chuyện
trên đây quả thực đã thấy được tội ác của chính ông và của thị dân của ông đối
với lão ông ăn cắp bánh mì.
(Lẽ Sống)
Lectio Divina: Gioan 16:12-15
Wednesday 20 May, 2020
Lectio Divina
Thứ Tư Tuần VI –
Mùa Phục Sinh
1. Lời nguyện mở
đầu
Lạy Chúa, là Cha của chúng con,
Chúa không hề ở xa chúng con,
Vì trong Chúa, chúng con sống, đi đứng và hiện hữu
Và Chúa sống trong chúng con,
Nhờ Chúa Thánh Thần.
Lạy Chúa, xin hãy thực sự ở với chúng con,
Xin sai Chúa Thánh Thần Chân lý đến với chúng con
Và nhờ Người làm sâu sắc thêm sự hiểu biết của chúng con
Về cuộc sống và sứ điệp của Con Chúa
Để chúng con có thể đón nhận sự thật toàn vẹn
Và sống theo sự thật ấy trước sau như một.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
2. Bài Đọc Tin Mừng
– Gioan 16:12-15
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thầy còn nhiều điều
phải nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể lĩnh hội được. Khi Thần
Chân lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật, vì Người không tự mình
mà nói, nhưng Người nghe gì thì sẽ nói vậy, và Người sẽ bảo cho các con biết những
việc tương lai. Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy
mà loan truyền cho các con. Tất cả những gì Cha có, đều là của Thầy, vì thế Thầy
đã nói: “Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các
con”.
3. Suy Niệm
– Trong Mùa Phục Sinh, các bài
Tin Mừng mỗi ngày hầu như luôn được trích ra từ các chương 12 đến chương 17 của
sách Tin Mừng Gioan. Điều đó tiết lộ một điều gì đó liên quan đến nguồn gốc
và điểm đến của những chương này. Chúng không chỉ cho thấy những gì đã xảy
ra trước Cuộc Thương Khó và cái chết của Chúa Giêsu, mà hơn hết cả, cuộc sống đức
tin của các cộng đoàn tiên khởi sau khi Chúa sống lại. Họ biểu lộ đức tin
Phục Sinh đầy sinh động trong họ.
– Ga 16:12: Thầy còn nhiều
điều phải nói với các con. Bài Tin Mừng hôm nay bắt đầu bằng câu
này: “Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con
không thể lĩnh hội được.” Chúa Giêsu nói hai điều: lời từ biệt, được
đặc trưng cho Bữa Tiệc Ly, và mối quan tâm của Chúa Giêsu, người anh cả, đối với
những người em của Ngài, Đấng mà trong một thời gian ngắn sẽ ra đi không có sự
hiện diện của Người. Thời gian còn lại rất ngắn ngủi. Công việc bắt
đầu vẫn chưa hoàn tất. Các môn đệ chỉ mới bắt đầu thời gian tập sự của họ.
Ba năm là một thời gian rất ngắn để thay đổi cuộc sống, để bắt đầu sống và suy
nghĩ trong hình ảnh mới về Thiên Chúa. Giai đoạn huấn luyện của họ vẫn
chưa kết thúc. Vẫn còn nhiều thiếu sót và Chúa Giêsu vẫn còn có nhiều điều
để dạy dỗ họ và truyền lại cho họ, nhưng Người biết các môn đệ của Người.
Các ông không thuộc trong số những người thông minh nhất. Các ông không
thể biết được tất cả các hậu quả và ý nghĩa của việc làm môn đệ lúc này.
Họ sẽ trở nên chán nản. Họ không thể chịu đựng nổi điều này.
– Ga
16:13-15: Chúa
Thánh Thần sẽ đến để trợ giúp các ông. “Khi Thần Chân lý đến, Người sẽ
dạy các con biết tất cả sự thật, vì Người không tự mình mà nói, nhưng Người
nghe gì thì sẽ nói vậy, và Người sẽ bảo cho các con biết những việc tương lai. Người
sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các
con.” Lời khẳng định của Chúa Giêsu cho thấy trải nghiệm của các cộng
đoàn tiên khởi. Trong phạm vi mà các ông tìm cách bắt chước Chúa Giêsu, cố
gắng diễn giải và áp dụng Lời Chúa cho các hoàn cảnh khác nhau trong đời sống của
họ. Căn bản của trải nghiệm này là sứ điệp của Chúa Giêsu: “Tất cả
những gì Cha có, đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói: “Người sẽ lãnh nhận từ
nơi Thầy mà loan truyền cho các con”.
– Hoạt động của
Chúa Thánh Thần trong Tin Mừng theo Gioan. Thánh Gioan sử dụng nhiều
hình ảnh và biểu tượng để biểu thị hoạt động của Chúa Thánh Thần. Như
trong sự sáng tạo (St 1:1), Thần Khí Chúa cũng ngự xuống trên Chúa Giêsu, “dưới
dạng chim bồ câu, từ Trời xuống” (Ga 1:32). Đó là khởi đầu của sự sáng tạo
mới! Chúa Giêsu nói những lời của Thiên Chúa và truyền đạt Thần Khí Chúa
cho chúng ta vô ngần vô hạn (Ga 3:34). Lời của Chúa là Thần Khí và là Sự
Sống (Ga 6:63). Khi Chúa Giêsu nói lời từ biệt, Người nói rằng Người sẽ
sai Chúa Thánh Thần, Đấng An Ủi, một Đấng Bảo Trợ khác, Đấng ấy sẽ ở lại với
chúng ta luôn mãi. Đó là Chúa Thánh Thần (Ga 14:16-17). Nhờ Cuộc Khổ
Nạn, cái chết, sự Sống Lại của Người, Chúa Giêsu đã dành được món quà Chúa
Thánh Thần cho chúng ta. Nhờ Bí Tích Thánh Tẩy, tất cả chúng ta đã nhận
được cùng một Thần Khí của Chúa Giêsu (Ga 1:33). Khi Chúa hiện ra với các
Tông Đồ, Người thở hơi vào các ông và nói rằng: “Hãy nhận lãnh Chúa Thánh
Thần!” (Ga 20:22). Thần Khí Chúa giống như nước tuôn ra từ trong người của
những người tin vào Chúa Giêsu (Ga 7:37-39; 4:14). Tác dụng đầu tiên của
hoạt động của Chúa Thánh Linh trong chúng ta là sự hòa giải: “Nếu các con
tha tội cho ai, thì người ấy được tha; nếu các con cầm giữ ai, thì tội người ấy
bị cầm giữ” (Ga 20:23). Thần Khí mà Chúa Giêsu truyền đạt cho chúng ta có
nhiều tác động: bảo trợ và truyền bá (Ga 14:16), truyền đạt sự thật (Ga
14:17; 16:13), khiến chúng ta nhớ lại những điều Chúa Giêsu đã dạy (Ga 14:26);
sẽ làm chứng cho Chúa Giêsu (Ga 15:26); biểu lộ vinh quang của Chúa Giêsu (Ga
16:14), sẽ thuyết phục thế gian về tội lỗi và công lý (Ga 16:8). Chúa
Thánh Linh được ban cho chúng ta để chúng ta có thể hiểu được đầy đủ ý nghĩa Lời
của Chúa Giêsu (Ga 14:26; 16:12-13). Được khích lệ bởi Thần Khí của Chúa
Giêsu, chúng ta có thể tôn thờ Thiên Chúa ở bất cứ nơi nào (Ga 4:23-24). Ở
đây có sự tự do của Chúa Thánh Linh mà thánh Phaolô đã viết: “Ở đâu có Thần
Khí của Chúa, thì nơi đó có tự do” (2Cr 3:17).
4. Một vài câu hỏi
cá nhân
– Tôi sống tuân theo giáo
huấn của Chúa Giêsu như thế nào: riêng một mình hay trong cộng đoàn?
– Việc tham gia vào trong cộng
đoàn của tôi có bao giờ cho tôi cảm nghiệm được ánh sáng và sức mạnh của Chúa
Thánh Thần không?
– Lời giảng dạy của Chúa Giêsu
đưa ra thì rất đơn giản, thế nhưng vẫn có thể khó khăn để thực hiện cho đến lúc
hoàn tất. Tôi đã có để cho Chúa Thánh Thần củng cố và giúp đỡ tôi không?
5. Lời nguyện kết
Nào ca tụng thánh danh Đức Chúa,
Vì thánh danh Người cao cả vô song,
Và oai phong vượt quá đất trời.
Thế lực dân Người, Người đã nâng cao.
Đó là bài ca tụng của những ai hiếu trung với Chúa,
Của con cháu nhà Israel, dân gần gũi với Người.
(Tv 148:13-14)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét