Trang

Thứ Sáu, 2 tháng 11, 2012

03-11-2012 : THỨ BẢY TUẦN XXX MÙA THƯỜNG NIÊN


Thứ Bảy sau Chúa Nhật 30 Quanh Năm


* * *

Bài Ðọc I: (Năm II) Pl 1, 18b-26
"Ðối với tôi, sống là Ðức Kitô, còn chết là một mối lợi".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philípphê.
Anh em thân mến, miễn là Ðức Kitô vẫn được rao giảng, đó là điều làm tôi vui mừng, và tôi sẽ còn vui mừng mãi. Vì chưng tôi biết rằng nhờ lời cầu nguyện của anh em, và nhờ ơn Thánh Thần của Ðức Giêsu Kitô giúp sức, điều đó sẽ đưa tôi đến ơn cứu độ, theo sự tôi chờ đợi và hy vọng, tôi sẽ không hổ thẹn chút nào, trái lại tôi vẫn hoàn toàn tin tưởng như mọi khi, và giờ đây, dù tôi sống hay tôi chết, Ðức Kitô sẽ được vẻ vang trong thân xác tôi.
Vì đối với tôi, sống là Ðức Kitô, còn chết là một mối lợi. Nhưng nếu sống trong xác thịt này đem lại cho tôi kết quả trong việc làm, thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Tôi đang lúng túng trong hai điều này: là ước ao chết để được ở với Ðức Kitô thì tốt hơn bội phần, nhưng cứ ở lại trong xác thịt thì cần thiết cho anh em.
Một khi tin tưởng điều đó, tôi biết rằng tôi sẽ còn ở lại và sẽ lưu lại với tất cả anh em, để anh em được tấn tới và được hân hoan trong niềm tin, ngõ hầu anh em vì tôi mà được tràn đầy hiên ngang trong Ðức Kitô, bởi tôi trở lại với anh em một lần nữa.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 41, 2. 3. 5bcd
Ðáp: Hồn tôi khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống (c. 3a).
Xướng: 1) Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn con khát Chúa, ôi Chúa trời con! - Ðáp.
2) Hồn tôi khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống, ngày nào tôi được tìm về ra mắt Chúa Trời? - Ðáp.
3) Tôi nhớ lúc xưa đi giữa muôn người, tôi đứng đầu đưa dân tiến vào nhà Ðức Chúa Trời, giữa muôn tiếng reo mừng, ca ngợi.- Ðáp.

* * *

Alleluia: Tv 147, 12a và 15a
Alleluia, alleluia! - Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa, Ðấng đã sai Lời Người xuống cõi trần ai. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 14, 1. 7-11
"Hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào nhà một thủ lãnh các người biệt phái để dùng bữa, và họ dò xét Người. Người nhận thấy cách những kẻ được mời chọn chỗ nhất, nên nói với họ dụ ngôn này rằng:
"Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: "Xin ông nhường chỗ cho người này", bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết. Nhưng khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến nói với ngươi rằng: "Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên", bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc.
"Vì hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Người Pharisêu thường hay kiêu hãnh. Họ luôn tìm vinh dự trước mặt người đời. Họ thích được chào hỏi, thích được ca tụng.
Nơi mỗi người chúng ta cũng thường thích được trọng vọng và tìm mọi cách để được chỗ nhất trong xã hội. Nhưng đã mấy ai trong chúng ta biết tha thiết với vinh quang vĩnh cửu? Ðể được vinh quang đó, ta phải làm gì?

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn ý thức rằng vinh quang vĩnh cửu mới là quan trọng. Cuộc sống này sẽ mau qua, cuộc sống mai sau tồn tại mãi. Ước gì từ cuộc sống này, chúng con biết gắn bó với Chúa, biết thân tình với anh chị em chúng con. Nhờ đó chắc chắn chúng con sẽ được hạnh phúc trong vinh quang muôn đời. Amen.
(Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)

 Bài Học Khiêm Nhường
(Lc 14,1.7-11)

Suy Niệm:
Bài Học Khiêm Nhường
Sống trong xã hội ngày càng tiến bộ, con người tự nhiên muốn vượt lên khỏi những cái tầm thường hiện tại. Họ muốn tìm cho mình một địa vị nào đó để đảm bảo cho cuộc sống; họ ham muốn giàu sang, uy quyền, muốn chiếm cho mình chỗ nhất nơi công hội, tiệc tùng. Nhưng Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay lại đề ra nét đặc thù của Kitô giáo đi ngược với thái độ hám danh và cũng là bài học cho mỗi người, đó là bài học khiêm nhường.
Thật thế, theo Tin Mừng thuật lại, hôm đó Chúa Giêsu đến dùng bữa tại nhà một đầu mục nhóm Biệt phái. Nhận thấy ở đó có những thực khách háo hức chọn chỗ nhất, Chúa Giêsu liền nói với họ một dụ ngôn, trong đó Ngài mời gọi người ta hãy sống khiêm nhường bằng cách chọn lấy địa vị sau chót: khi anh được mời đi ăn cưới, anh đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng cũng được mời... Trái lại, khi được mời, anh hãy ngồi vào chỗ cuối.
Xét bề ngoài, thì đây chỉ là một vấn đề lịch sự, bởi vì xếp chỗ ngồi là việc của chủ nhà, chứ không phải của người dự tiệc. Tuy nhiên, việc chọn chỗ cuối như thế phải được thực hiện một cách đơn sơ, tự nhiên, chứ nếu tìm chỗ cuối với hậu ý và hy vọng được mời lên chỗ cao hơn, thì đó là một sự khiêm nhường giả tạo, một sự kiêu ngạo tinh tế.
Lời khuyến cáo của Chúa Giêsu còn tiềm ẩn một ý nghĩa sâu sắc hơn. Ðối với Ngài, tiệc cưới tượng trưng cho Nước Thiên Chúa, trong đó kẻ nào nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống, còn kẻ hạ mình xuống sẽ được nhắc lên. Vượt ngoài tầm đòi hỏi của xã giao, lời nói của Chúa làm cho con người đi xuống chiều sâu của khiêm nhường và tiến lên chiều cao của Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa là một vinh dự, một ân ban, mà chỉ những ai tự hạ và ý thức mình là hư vô mới có thể lãnh nhận. Còn kẻ tưởng mình cao trọng, chắc chắn không thể chiếm hữu Nước Thiên Chúa, và Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng, nhưng ban ơn cho người khiêm nhường.
Với lời mời gọi và gương sống tự hạ, khiêm nhường của Chúa từ lúc sinh ra cho đến lúc chết trên Thập giá, chúng ta hãy quyết đi vào con đường khiêm nhường bằng cách sống đúng với giới hạn của một thụ tạo nhỏ bé trước mặt Thiên Chúa vô biên, để nhờ đó Ngài sẽ là tất cả cho chúng ta.
(Veritas Asia)


 Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Thánh Martin de Porres
Bài đọc: Isa 58:6-11; Mt 11:25-30
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: 
Các con bảo Thầy là ai?

- Có một bài hát giáo lý tôi đã từng được các trưởng TNTT dạy hát khi còn nhỏ, bài “con kiến đen, nằm trong hòn đá đen, mặt trời tối đen, Đức Chúa Trời cũng thấy;” nhưng lúc đó chẳng hiểu gì cả. Sau này, có người áp dụng bài hát vào cuộc đời Thánh Martinô, tôi thấy thật đúng.
- Cuộc đời Thánh Martinô có thể được ví như cuộc đời con kiến đen: vì ngài là người da đen; sinh trong một gia đình hỗn hợp: cha là người Tây Ban Nha da trắng, mẹ là người Panama da đen; tương lai cũng mờ mịt đen tối như đêm 30 tết vì cha bỏ 3 mẹ con ở lại để về nước. Sống trong một hòan cảnh hết sức đen tối như thế, thử hỏi còn có hy vọng gì cho một cậu bé mồ côi da đen? Mặc dù tất cả đều đen ngòm như vậy, nhưng Đức Chúa Trời vẫn thấy, và Ngài đã có một kế họach diệu kỳ cho tôi tớ da đen của Ngài.
- Ngài có một người mẹ biết kính sợ Thiên Chúa, Bà Anna. Mặc dù phải chịu cảnh mẹ góa con côi, Bà không bao giờ kêu trách Chúa hay đổ tội cho hòan cảnh. Trái lại, Bà phấn đấu làm việc để nuôi hai chị em Martinô và dạy dỗ cho con mình biết trông cậy vào Thiên Chúa. Hơn nữa Bà còn dạy cho hai chị em biết chia sẻ những gì mình có được với những ai nghèo khổ, mặc dù chính gia đình Bà cũng phải vật lộn với bữa lo bữa đói. Truyện kể có một lần Bà tức giận bạt tai Martinô vì tưởng con mình bớt tiền chợ của gia đình để tiêu riêng; nhưng sau khi tìm hiểu nguyên do, Bà đã hối hận vì biết con dùng tiền để chia sẻ với người nghèo.
- Khi tới tuổi trưởng thành, Martinô xin vào tu trong Dòng Đaminh như một thầy trợ sĩ. Gương khiêm nhường và bác ái của Martinô đã thành những gương sáng cho mọi người bàn tán. Martinô xin Bề trên cho đưa một bệnh nhân về phòng để chính mình săn sóc, ngài nhường giường riêng của mình cho bệnh nhân, còn mình thì nằm trên sàn. Khi Nhà Dòng lâm cảnh thiếu thốn không còn tiền sinh sống, Martinô đã vào năn nỉ xin Bề trên cho bán mình làm nô lệ để kiếm cho Nhà Dòng một số tiền. Bề trên đã phải rơi lệ và ôm lấy Martinô, nhưng làm sao có thể bán được người đã thương anh em mình đến thế! Tình thương của Martinô không chỉ giới hạn vào con người, mà còn lan tràn tới cả thú vật. Truyện kể ngài có thể nói chuyện với cả ... chuột. Số là vì Martinô nuôi ăn chúng nên chúng lan tràn khắp phòng; và hậu quả là chúng ăn luôn cả những chiếc áo dòng của các tu sĩ. Bề trên bị than phiền nên quyết định cho đặt bẫy và rải thuốc giết chuột. Martinô cho triệu tập gấp rút buổi họp của đại gia đình nhà chuột. Ngài ra điều kiện nếu muốn tiếp tục để ngài cho ăn thì tuyệt đối không được cắn áo của các tu sĩ; nếu không, đại tang sẽ đến với đại gia đình nhà chuột. Thế là đàn chuột bảo nhau, và từ đó trở đi, không thấy các tu sĩ than phiền về việc cắn áo của chuột nữa!
Hai Bài đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta thêm chất liệu để suy nghĩ thêm về cuộc đời Thánh Martinô; đồng thời rút ra những ví dụ sống cụ thể cho cuộc đời mỗi người. Trong Bài đọc I, tiên tri Isaiah nhấn mạnh về cách thức ăn chay: không phải là chỉ nhịn đói không ăn; nhưng còn là chia cơm sẻ bánh cho những người túng thiếu và giúp đỡ giải thóat họ khỏi mọi xiềng xích gông cùm. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu ngợi khen Thiên Chúa Cha, vì đã cho phép Ngài mặc khải sự khôn ngoan của Thiên Chúa cho những người bé mọn.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I:

1.1/ Cách ăn chay Thiên Chúa ưa thích:
 (1) Thương linh hồn 7 mối: “Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao:
mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm?” Các điều tiên tri nói ở đây đã được Gíao Hội tổ chức và cắt nghĩa rõ ràng hơn trong “Thương linh hồn 7 mối:” Lấy lời lành mà khuyên người. Mở dạy kẻ mê muội. Yên ủi kẻ âu lo. Răn bảo kẻ có tội. Tha kẻ khinh dể ta. Nhịn kẻ mất lòng ta. Cầu cho kẻ sống và kẻ chết.
Thương linh hồn 7 mối khó nhận ra và khó làm. Mọi tín hữu đều có bổn phận phải làm, nhưng các cha và các tu sĩ là những người chuyên lo những mối linh hồn này. Khi các ông bà giúp để đào tạo ơn gọi là đang dự phần vào việc thương các linh hồn, vì chính Chúa đã nói: “Ai giúp các tiên tri vì danh nghĩa là tiên tri thì cũng sẽ được phần thưởng của tiên tri” (). Các ông bà nhiều khi không có khả năng, thời giờ, cơ hội để dạy dỗ con cháu; nhưng nếu các ông bà đóng góp để đào tạo ơn gọi là các ông bà giúp đỡ chính con cháu mình; chuẩn bị cho chúng có được những người hướng dẫn đàng tinh thần trong tương lai.
Đói phần xác rất dễ nhận ra, nhưng đói khát tinh thần và tình yêu không dễ nhận ra. Hậu quả của việc đói tinh thần khốc liệt hơn hậu quả của đói phần xác; vì nó làm con người không biết sống ở đời này và lạc hướng đi trong tương lai. Chúa đã từng cảnh cáo: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn, hỏi được lợi ích gì?”
 (2) Thương xác 7 mối: “Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?” Cũng thế, GH đã tổ chức và cắt nghĩa rõ ràng hơn trong “Thương xác 7 mối:” Cho kẻ đói ăn. Cho kẻ khát uống. Cho kẻ rách rưới ăn mặc. Viếng kẻ bệnh cùng kẻ tù đày. Cho khách đỗ nhà. Chuộc kẻ làm tôi. Chôn xác kẻ chết. Cuộc đời Thánh Martinô là gương sáng cho những mối này: thánh nhân đã từng cho người nghèo ăn uống, mặc áo cho kẻ mình trần, săn sóc bệnh nhân, cho người lạ nằm trên giường mình, tình nguyện bán mình nuôi anh em, và chôn xác kẻ chết.
1.2/ Phần thưởng cho những người biết thương xót: Theo tiên tri Isaiah, người biết thương xót giúp đỡ kẻ cô thân cô thế, sẽ được Thiên Chúa bảo vệ, chúc lành, và cho chung hưởng vinh quang với Ngài. Điều đặc biệt nữa là khi cầu xin, sẽ được Thiên Chúa nhận lời: “Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành. Đức công chính ngươi sẽ mở đường phía trước, vinh quang Đức Chúa bao bọc phía sau ngươi. Bấy giờ, ngươi kêu lên, Đức Chúa sẽ nhận lời, ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại: "Có Ta đây!" Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở gông cùm, cử chỉ đe doạ và lời nói hại người, nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói, làm thoả lòng người bị hạ nhục, thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu toả trong bóng tối, và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ. Đức Chúa sẽ không ngừng dẫn dắt ngươi, giữa đồng khô cỏ cháy, Người sẽ cho ngươi được no lòng; xương cốt ngươi, Người sẽ làm cho cứng cáp. Ngươi sẽ như thửa vườn được tưới đẫm như mạch suối không cạn nước bao giờ.”

Thánh Martinô khi còn sống đã thi ân cho biết bao nhiêu người, khi chết rồi ngài còn bầu cử cho bao nhiêu người, nhất là cho dân Việt Nam chúng ta. Nhiều khi tôi tự hỏi tại sao một thánh mãi tận Nam Mỹ mà lại trở nên thật gần gũi với người Việt Nam như vậy. Tôi nghĩ lý do có lẽ là vì ngài thương xót những người nghèo khổ: có đau mắt thì mới biết thương người mù. Hòan cảnh đau khổ ngài phải chịu khi lớn lên khiến ngài dễ đồng cảm với những khổ đau mà con dân Việt Nam phải chịu. Không biết bao nhiêu người đã tuốn đến Hố Nai và Ba Chuông để xin ngài che chở trước khi vượt biên. Bản thân cá nhân tôi cũng đã lấy ảnh ngài và dán vào những quầy tính tiền của tiệm để xin ngài bảo các anh em của ngài đừng gây thiệt hại phần xác cho các anh chị em và các cháu của tôi; bù lại tôi cũng nói với mọi người trong gia đình phải năng giúp những khách hàng nghèo khổ.

2/ Phúc Âm
2.1/ Khôn ngoan của Thiên Chúa được mặc khải cho những kẻ bé mọn: Có một sự khác biệt sâu đậm giữa khôn ngoan của Thiên Chúa và khôn ngoan của con người:
- Khôn ngoan của con người chỉ dành cho những người học cao, hiểu rộng; những người có cơ hội đi tới trường lớp.
- Khôn ngoan của Thiên Chúa lại dành cho những người bé mọn và ẩn giấu khỏi người khôn ngoan thông thái như Đức Giêsu nói: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.”
2.2/ Chúa Giêsu là người mặc khải các khôn ngoan của Thiên Chúa: Khi nhập thể, nhiệm vụ đầu tiên của Ngài là mặc khải các mầu nhiệm của Thiên Chúa, nhất là Mầu Nhiệm Cứu Độ. Nếu Đức Kitô không mặc khải, không ai có thể biết những mầu nhiệm này. Ngài nói: "Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.” Thực sự, Ngài mặc khải cho tất cả, nhưng không phải ai cũng hiểu được. Để hiểu những mầu nhiệm này, con người cần có đức tin và lòng khiêm nhường.
2.3/ Những người nghèo khó và đau khổ là những người hiểu được khôn ngoan của Thiên Chúa. Chúa Giêsu kêu mời: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng."
Vì thế, không lạ gì một người hiền hậu và khiêm nhường như Martinô đã sớm nhận ra khôn ngoan của Thiên Chúa. Thánh Martinô quí trọng Thập Giá nên ngài sẵn sàng chịu đau khổ để thông phần vào Cuộc Thương Khó của Đức Kitô. Thánh nhân đã nhìn ra tình thương Thiên Chúa và nhìn thấy Thiên Chúa trong các anh chị em nghèo khổ; vì thế, ngài sẵn sàng hy sinh tất cả để giúp đỡ họ.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Nếu đời cho ta trái chanh chua, hãy biến nó thành ly chanh đường. Chúng ta hãy tập có thái độ tích cực trong cách nhìn và cư xử với đời.
- Đừng than thân trách phận vì sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu. Chẳng có ngôi sao nào xấu cả: Nếu biết đặt niềm tin nơi Chúa và để Ngài hướng dẫn cuộc đời, chúng ta cũng sẽ thành thánh như Thánh Martinô.
- Thánh Martin đã được Thiên Chúa ban ơn khôn ngoan để nhận ra điều quan trọng nhất trong cuộc đời là đức bác ái, thương xót tất cả mọi người như Chúa thương mình.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************

Thứ Bảy tuần 30 thường niên

 Sứ điệp: Khiêm tốn là nét duyên của người Kitô hữu trước mặt Chúa. Thiên Chúa thương yêu và nâng dậy những ai khiêm cung nhỏ bé.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, thân phận con người trước nhan Chúa chỉ là thụ tạo đối với Đấng Tạo Thành, là giới hạn đối với vô hạn, là kẻ yêu đuối lỗi lầm đối với Đấng Chí Thánh. Ai tưởng mình là thánh thiện, người đó thật ảo tưởng. Khi con đòi hỏi Chúa phải ban ơn như ý con, là lúc con quên thân phận thụ tạo của mình. Người kiêu căng tự phụ thật vô duyên trước mặt Chúa. Con không thể quên hình ảnh người biệt phái lên đền thờ vênh vang kể công đức của mình và coi thường anh em, và đã bị Chúa Giêsu chê trách.
Con muốn là người khiêm tốn để được Chúa thương mến. Người khiêm tốn là người biết nhận đúng về thân phận mình và cậy trông vào Chúa. Con nhìn về gương Mẹ Maria nhận mình là tôi tớ Chúa, phó thác cậy trông để Chúa dẫn dắt cuộc đời Mẹ. Chúa đã dẫn dắt Mẹ đi vào con đường làm Mẹ Thiên Chúa đầy đau khổ, nhưng cũng đầy bình an và hạnh phúc.
Lạy Chúa, xin giúp con biết sống khiêm tốn và phó thác, đừng than thân trách phận làm phiền lòng Chúa, Đấng đã vì thương mà tạo dựng nên con. Xin cho con biết sống khiếm tốn trước mọi người: biết tôn trọng, nhường nhịn, phục vụ nhau, biết nhận lỗi và can đảm xin lỗi khi con có lỗi với anh chị em. Con tin rằng khi con khiêm tốn phó thác cậy trông vào Chúa, như con thơ trong tay Cha nhân lành, Chúa sẽ dẫn dắt đời con tới bến bờ bình an và hạnh phúc. Amen.
Ghi nhớ :"Hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".
www.phatdiem.org
03/11/12 THỨ BẢY ĐẦU THÁNG TUẦN 30 TN
Th. Máctin Porét, tu sĩ
Lc 14,1.7-14 



KHIÊM NHƯỜNG PHỤC VỤ
“Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” (Lc 14,11)
Suy niệm: Chỗ ngồi danh dự trong một bữa tiệc không nhiều. Nhưng ai cũng thích và muốn ngồi vào chỗ ưu tiên ấy. Đây cũng là thái độ háo danh của những người Pharisêu mà Chúa Giêsu kịch liệt lên án. Người cho biết làm lớn không hệ tại ở chỗ ngồi, cũng chẳng phải ở quyền lực nhưng là thái độ phục vụ đối với tha nhân. Một cái nhìn hoàn toàn ngươc lại với quan điểm của họ.
Mời Bạn: Tham vọng quyền lực luôn ám ảnh con người mọi thời trên mọi bình diện: gia đình, tổ chức xã hội đến quốc gia quốc tế. Ngay cả trong Giáo Hội cũng không nằm ngoài vòng kiềm toả ấy. Thế nhưng, đó không phải là con đường Chúa đã đi, cũng không phải là cách Chúa Giêsu đã dạy: những ai muốn làm lớn trong Vương quốc của Người phải là người phục vụ. Cung cách đó chính là qui luật để vào được Nước Trời: Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.
Sống Lời Chúa: Trong gia đình, cộng đoàn của bạn, bạn có nhận thấy việc phục vụ âm thầm nào đang cần bạn giúp một tay không? Bạn có nhận con người nhỏ bé nào đang cần sự quan tâm giúp đỡ không? Bạn tập nhanh nhạy nhận ra những trường hợp đó và mau mắn phục vụ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm. Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến. Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm. Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em. Amen.
www.5phutloichua.net
Ngồi chỗ cuối
Kitô hữu vẫn phải đối diện với cám dỗ của tham vọng và quyền uy. Ngấm ngầm hay lộ liễu, những tranh giành ảnh hưởng vẫn xảy ra.
Suy nim:
Khi thấy các khách dự tiệc có khuynh hướng chọn ngồi chỗ nhất,
Đức Giêsu đưa ra một lời khuyên đối với họ (cc. 8-10).
Mới nghe những lời khuyên này,
ta có cảm tưởng đây chỉ là những lời dạy cách ứng xử khôn khéo.
Nên chọn ngồi chỗ cuối,
vì nếu chủ tiệc sắp xếp lại chỗ ngồi theo thứ bậc,
bạn có cơ hội được mời lên chỗ trên.
Thà ngồi dưới rồi được đưa lên, còn hơn ngồi trên mà bị kéo xuống.
Như thế ngồi chỗ cuối rốt cuộc chỉ là một giả vờ,
để che dấu tham vọng muốn được ngồi lên trên.
Ngồi chỗ cuối chỉ là để tránh một xấu hổ, sỉ nhục,
và nhắm đến một vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn (cc. 9-10).
Đức Giêsu có ý khuyên dạy người ta như thế không?
Chắc là không.
Qua dụ ngôn đơn sơ và có thể gây hiểu lầm trên đây (c. 7),
Đức Giêsu muốn nói với khách dự tiệc một điều quan trọng hơn nhiều.
Bài ca Magnificat đã nói đến một sự đảo ngược lớn lao sẽ xảy ra:
Chúa dẹp tan kẻ kiêu căng, hạ bệ người quyền thế, đuổi kẻ giàu sang,
nhưng nâng cao kẻ khiêm nhường, ban dư đầy cho người đói (1, 51-53).
Các Mối Phúc cho và Khốn cho cũng nói lên sự đảo ngược này.
Phúc cho người nghèo, người đói, người khóc than.
Khốn cho người giàu, người no, người được ca tụng (6, 20-26).
Dụ ngôn Ladarô và ông nhà giàu là một minh họa về điều đó (16, 19-31).
Trong câu cuối của bài Tin Mừng hôm nay,
Đức Giêsu cũng nói lên sự đảo ngược ấy khi Nước Thiên Chúa đến.
“Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống.
Còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (c. 11).
Bị hạ xuống trong bữa tiệc, thật là điều hổ nhục.
Nhưng bị Thiên Chúa hạ xuống trong ngày sau hết thì kinh khủng hơn nhiều.
Nỗi hổ nhục sẽ muôn đời còn mãi.
Để thực hành lời khuyên của Đức Giêsu cho đúng đắn,
thánh Basiliô cho ta một soi sáng như sau:
“Chúng ta phải để cho chủ tiệc lo chuyện xếp chỗ các khách mời.
Như thế chúng ta mới nâng đỡ lẫn nhau trong nhẫn nhục và bác ái,
đối xử với nhau trong sự kính trọng,
xa tránh mọi tìm kiếm hư danh và khoe khoang.
Chúng ta không giả vờ khiêm tốn.
Bởi lẽ thích tranh chấp và cãi vã là dấu hiệu kiêu ngạo
còn lớn hơn chuyện ngồi ghế đầu khi phải ngồi chỉ vì vâng phục.”
Kitô hữu vẫn phải đối diện với cám dỗ của tham vọng và quyền uy.
Ngấm ngầm hay lộ liễu, những tranh giành ảnh hưởng vẫn xảy ra.
Trong lòng, ai cũng nghĩ mình xứng đáng hơn người khác.
Thèm muốn vinh dự, chức tước, đã gây bao chia rẽ trong Giáo Hội.
Chỉ mong tôi thực sự hạ mình trước anh em tôi.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu, vì con bé nhỏ,
nên xin yêu ngài bằng khả năng bé nhỏ của con.
Cho con biết yêu
những công việc bé nhỏ mỗi ngày,
những công việc âm thầm,
những bổn phận mà con làm vì yêu mến.
Cho con biết yêu những hy sinh bé nhỏ mỗi ngày,
vui lòng đón nhận những thánh giá tuy nhỏ,
nhưng làm tim con đau đớn.
Cho con biết yêu tinh thần bé nhỏ của trẻ thơ,
đơn sơ thú nhận mình yếu đuối và bất lực,
sung sướng nương tựa vào duy một mình Chúa.
Hơn nữa, xin cho con can đảm,
dám chọn những gì giúp con trở nên bé nhỏ hơn,
nhờ đó con vui tươi phục vụ mọi người
và hạnh phúc khi thấy Chúa lớn lên trong con.
Mỗi lần bị cám dỗ tự cao,
xin cho con biết ngắm nhìn con đường Chúa đã đi,
con đường bé nhỏ và khiêm hạ.
Ước gì con được làm bạn của Chúa
trên đường từ Bêlem đến Núi Sọ,
và được ở bên Chúa trong Nước Trời. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


Con Ðường Khiêm Hạ
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta sống khiêm tốn. Lấy câu chuyện chỗ ngồi trong bàn tiệc như một bài dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn mạc khải cho chúng ta tín hữu Kitô điều thâm sâu trong đạo: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Với châm ngôn này, Chúa Giêsu muốn đặt con người ra trước mặt Thiên Chúa. Thật thế, tất cả phẩm giá con người có được đều bởi Thiên Chúa mà ra. Từ sự sống thể lý đến các phẩm tính tinh thần, từ giá trị cho đến những thành đạt trong cuộc sống và nhất là những nhân đức con người tôi luyện được. Tất cả đều nhờ bởi ơn Chúa. Nhân câu chuyện ngồi trong bàn tiệc mà thực khách hầu hết là những người biệt phái, vốn hám danh và tự mãn, Chúa Giêsu hẳn muốn nhắc đến thói giả nhân giả nghĩa và kiêu ngạo của họ. Với những thực hành tôn giáo như ăn chay, cầu nguyện, bố thí mà họ chuyên cần thực thi, những người biệt phái dễ lên mặt khinh thị những thành phần thấp hèn trong xã hội. Chúa Giêsu đưa họ trở về với chân lý của con người. Con người chỉ thực sự sống cho ra người khi biết nhận ra giá trị đích thực của mình trong tương quan với Thiên Chúa. Và nhận ra giá trị của mình cũng có thể là nhận ra sự hư không và thân phận hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa. Ðây chính là tâm tình cơ bản của Mẹ Maria. Chính khi nhận ra mình là người tôi tớ trước mặt Thiên Chúa mà Mẹ đã nên cao trọng. Mẹ đã khiêm hạ trước mặt Thiên Chúa cho nên đã được Thiên Chúa nâng lên. Nguyện xin Mẹ Maria cầu bầu cho chúng ta cũng dõi bước theo Mẹ trên con đường khiêm hạ ấy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Phúc Cho Ai Hạ Mình Xuống
“Khi anh được mời, thì hãy vào ngồi vào chỗ cuối, để cho người đã mời đến nói: “Xin mời ông bạn lên trên cho, Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn.Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” (Lc. 14, 10-11)
Đức Giêsu thường đồng bàn với biệt phái và luật sĩ. Họ đã rình xét lúc Người chữa người phù thũng và kết án Người trong lòng họ. Về phần Người đã để ý tới những khách đến chọn chỗ nhất.
Thực vậy, họ có thói quen tôn mình lên tự xếp mình vào bàn trọng vọng nhất. Những kẻ tưởng mình xứng đáng nhất đã giành nhau chỗ danh dự nhất vì trật tự chỗ ngồi không lệ thuộc vào tuổi tác nhưng sắp xếp theo địa vị cao thấp.
Đức Giêsu không dạy khôn ngoan của loài người
Theo sự khôn ngoan của loài người, người ta thường dạy nhau khi được mời đến dùng bữa, tốt hơn nên chọn chỗ thấp. Khi chủ thấy khách quan trọng thì đến mời người khách ấy lên chỗ cao hơn, lúc đó người ấy được vẻ vang trước mặt mọi người. Nếu khách làm trái lại thì thật xấu hổ, vì những kẻ được mời dự tiệc theo tục lệ Do thái, họ nằm trên đi-văng để ăn và rất khó đứng dậy đổi chỗ cho người vị vọng hơn. Cho nên ai hạ mình xuống không còn sợ bị hạ bệ trước mặt những người khác.
Đức Giêsu không trưng dẫn lời khuyên cổ nhân của sách khôn ngoan loài người. Sứ điệp của Người luôn luôn hướng dẫn ta đến nước Thiên Chúa và lời giáo huấn của Người luôn liên quan đến ơn cứu độ.
Người áp dụng vào nước trời
Người luôn luôn diễn tả chân lý đáng ghi nhớ này: Ai muốn vào nước trời phải trở nên bé nhỏ và khiêm tốn, không được đòi địa vị như luật lệ loài người sắp xếp. Không phải nhờ chính giá trị riêng của mình mà người ta sẽ được xét xử. Nhưng chính Chúa Cha, Đấng thấu suốt con tim và bụng dạ sẽ xét xử người ta.
Đức Giêsu lên án tính kiêu ngạo cố chấp của biệt phái. Họ sẽ bị hạ xuống vì họ đã cho mình là cao trọng, họ tìm danh lợi ở dưới đất, họ đã được phần thưởng rồi. Trái lại những kẻ nghèo khổ, thâu thuế, tội lỗi ý thức mình nhỏ bé hèn hạ trước mặt Thiên Chúa thì sẽ được nâng lên.
Phúc cho ai khiêm nhường, vì họ sẽ được thấy vinh quang nước Chúa.
RC.






Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 11
3 THÁNG MƯỜI MỘT
Hoa Trái Của Hiệp Nhất
Trong lời nguyện hiến tế của Người tại bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu nói: “Con xin thánh hiến chính mình con cho họ, để họ cũng được thánh hiến trong sự thật” (Ga 17,19). Mối hiệp nhất được xây dựng trên sự thật, trên sự thật của Lời mạc khải, trên sự thật của chính Lời của Cha là Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ chúng ta.
Sự thật của Lời này được trao ban cho Giáo Hội trong Đức Kitô và qua các Tông Đồ là những vị đã được sai đi để làm Phép Rửa và giảng dạy nhân danh Người: “Như Cha đã sai con đến trong thế gian, con cũng sai họ đi vào thế gian” (Ga 17,18). Sự hiệp nhất của chúng ta không chỉ nhằm cho chúng ta, nhưng đúng hơn cho toàn thế giới, để thế giới có thể tin rằng Chúa Cha đã sai Con của Ngài để cứu độ chúng ta (Ga 17,21.23).
Hiệp nhất là nguồn vui và nguồn an bình của chúng ta. Đàng khác, chia rẽ và bất hòa, nhất là thù hận, thì hoàn toàn đối nghịch lại hiệp nhất. Đó là sự dữ, và đầu mối của chúng là chính Satan.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 03-11
Thánh Martinô Porret, Tu sĩ; Pl 1, 18b-26; Lc 14,1,7-11
LỜI SUY NIỆM: “Vì phàm ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống thì được tôn lên.” (Lc 14,11).
          Chúa Giêsu đang dạy cho mỗi chúng ta luôn phải biết chỗ đứng của mình. Chính vị trí của mình đang là ở đâu và trong cương vị như thế nào, để khỏi phải đạp, dẫm chân lên nhau. Chứ không phải giả bộ hạ mình, để rồi làm cho người khác bị lầm lẫn. Trong mọi công việc của Giáo Hội hay của xã hội. chúng ta cần phải khiêm nhường, đó là điều cần thiết, nhưng khiêm nhường không phải là trốn tránh công việc và trách nhiệm, mà đáng lý ra những công việc đó chúng ta có thể làm tốt hơn người khác vì đúng với khả năng hiểu biết và chuyên môn cũng như sở thích của mình, nếu mình không đương đầu đảm nhiệm để cho những người yếu kém nhận lãnh thì sẽ đưa đến thất bại chung. Điều quan trọng trong cuộc sống của con người là biết mình và biết người và biết vị trí của mình mà chon chỗ cho mình, sẽ đem lại niềm vui chung cho tất cả mọi người.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 03-11

Thánh MARTINÔ PORRES
Tu Sĩ (1579 - 1639)
1579 là niên biểu ghi nhớ ngày sinh ra của Martinô ở Lima, Pêru con của một người mẹ da đen và của một người cha hiệp sĩ và 1639 là niên biểu ghi nhớ ngày qua đời của thánh nhân. Sáu mươi năm giữa hai niên biểu này là khoảng thời gian Martinô tiến tới miền ánh sáng, trong sự khiêm tốn và hiến mình trọn vẹn để phục vụ các bệnh nhân.
Cuộc tình của cha mẹ Ngài không suông sẻ lắm, vì màu da của mẹ Ngài đã đưa đến những hất hủi không những cho bà mẹ mà còn cho cả những đứa con xấu số của bà nữa. Nhưng hoàn cảnh đen tối ấy, Martinô lại coi như nén bạc trao tay để Ngài sinh lời, thành bông hoa khiêm tốn tuyệt vời.
Hồi còn là một thiếu niên, Martinô đã chứng tỏ lòng bác ái đầy khiêm tốn phục vụ của mình. Hôm ấy khi theo chị mang thức ăn cho gia đình, Ngài nghe thấy tiếng rên rỉ của một bà lão người da đỏ. Dừng lại Ngài kinh hãi khi thấy một người lính Tây Ban Nha đang hành hạ lão. Đầy thương cảm, cậu thiếu niên Martinô cúi xuống lão già người da đỏ. Nhưng ông thù ghét cự tuyệt: Thằng nô lệ... mày đen đủi. Bọn da đen tụi mày là kẻ thù của dân da đỏ.
Nhưng người thiếu niên da đen này đã không bỏ cậu đi. Cậu nói chuyện với lão già da đỏ cách dịu dàng đến nỗi lão đã thú nhận là ba ngày rồi không ăn thứ gì vào bụng lại chẳng có con cháu gì cả. Martinô đã khóc và đưa tất cả thực phẩm cả ngày đã mua được cho lão già.
Vào thời đó, chỉ cần học một chút nghề cạo gió, cắt lể như Martinô đã học thì đã được coi là đủ để chữa nhiều loại bệnh, như Martinô đã săn sóc các bệnh nhân. Và các con bệnh có thể là loài người hay loài vật, bởi vì mọi loài đau khổ đều có quyền được người bạn da đen này khiêm tốn tận tình săn sóc. Ngài đã chữa lành một con gà tây gẫy giò. Người ta còn nói rằng: Ngài đã làm cho nhiều con vật sống lại.
Vào tuổi 15, Ngài nhập dòng Daminh như một thày dòng ba. Thày thích làm những việc khiêm tốn đến độ đã được biệt danh là "thày chổi". Tại nhà dòng Đức bà Mân Côi, Ngài vẫn tiếp tục nghề thuốc của mình với một đức ái nhẫn nại vô bờ, như là một y tá của nhà dòng. Ngài kín múc sức mạnh trong kinh nguyện và khổ hạnh, vừa dấu mình làm việc và lần hạt Mân côi, thức đêm để cầu nguyện rồi ngủ trên cái cáng dùng khiêng xác chết.
Trong dòng Ngài cũng vẫn tiếp tục lấy tình yêu để đáp lại những bất công. Một bệnh nhân giận dữ với Martinô, nhưng Ngài đã êm ái nói với họ: - Anh giận dữ phải lẽ lắm, nhưng cơn giận có thể gia tăng cơn bệnh của anh. Hãy dùng món ăn anh thích này đi và tôi thoa bóp chân cho anh.
Ngài không hề bất nhân, nhưng lại càng lo lắng săn sóc nhiều hơn cho những người tỏ ra độc ác bất công như Ngài.
Martinô đã từ chối không lãnh chức linh mục để có thể tiếp tục làm đày tớ mọi người. Để thưởng lòng trong trắng, đức bác ái và sự khiêm tốn, Thiên Chúa đã ban cho Ngài ơn chữa bệnh, nói tiên tri và làm nhiều phép lạ. Ngài qua đời trong hương thơm thánh thiện năm 1639.
Cuộc điều tra phong thánh cho Ngài đã sớm khởi sự từ năm 1657, nhưng mãi 200 năm sau, năm 1837, Đức Giáo hoàng Grêgôriô XVI mới phong Ngài lên hàng chân phước và 100 năm sau nữa, ngày 6 tháng 5 năm 1962, Đức giáo hoàng Gioan XXIII phong Ngài lên bậc hiển thánh. Hương thơm thánh thiện của Ngài quả là không thể tan loãng theo thời gian.
(Daminhvn.net)
++++++++++++++++++
03 Tháng Mười Một
Con Chỉ Là Một Tên Mọi Ðen


Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh Martinô Porres.
Nhắc đến thánh nhân, người ta thường liên tưởng đến những ơn lạ lùng như xuất thần ngất trí trong khi cầu nguyện, như hiện diện ở hai nơi cùng một lúc, hoặc như có thể trò chuyện và điều khiển cả thú vật.
Vị thánh có lòng bác ái cao độ này lại xuất thân từ một hoàn cảnh vô cùng bi đát và đắng cay. Là con của một thiếu nữ da đen đã từng bị đem bán làm nô lệ vào một nhà quý tộc người Tây Ban Nha, Martinô đã được vị linh mục Rửa Tội ghi trong sổ bộ của giáo xứ là "con không cha". Quả thật, con không cha như nhà không nóc. Martinô đa lớn lên trong cảnh thiếu vắng tình cha mãi cho đến năm 8 tuổi. Nhưng sau khi được chính thức thừa nhận không bao lâu, thì người cha lại bỏ rơi gia đình. Một lần nữa, cậu bé Martinô lại rơi vào cảnh khốn khổ như đa số các em bé nghèo của thành phố Lima, Pêru vào giữa thế kỷ thứ 16.
Nhưng cảnh nghèo ấy đã không gieo vào lòng cậu bé mang hai dòng máu này chút đắng cay nào. Trái lại, cậu tiếp nhận mọi biến cố xảy đến trong cuộc sống như một thách đố, như một ân sủng. 
Năm 12 tuổi, Martinô đã được học nghề hớt tóc và đôi chút xảo thuật của ngành giải phẫu. Vừa hành nghề như một người thợ hớt tóc, vừa như một y tá, Martinô đã đem hết sự hăng say và tận tụy của mình để phục vụ những người nghèo đồng cảnh ngộ.
Nhưng nhận thấy chỉ có thể sống trọn Ðức Ái trong một tu viện, Martinô đã đến gõ cửa một nhà dòng Ðaminh để xin được làm trợ sĩ trong nhà� Bí quyết nên thánh của thầy Martinô là sám hối cầu nguyện và phục vụ, nhất là phục vụ trong những công việc vô danh nhất. Lần kia, nhà dòng mang nợ đến độ không thể bảo đảm được các nhu cầu của các tu sĩ, thầy Martinô đã đến thưa với Bề trên như sau: "Thưa cha, con chỉ là tên mọi đen. Xin hãy bán con đi". 
Sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình cho người khác, thầy Martinô cũng luôn nhận tất cả phần lỗi về mình. 
Ôn lại gương hy sinh, cầu nguyện và bác ái của thánh Martinô, không những chúng ta chỉ chạy đến xin ngài bầu cử trong những lúc gặp gian nan thử thách, nhưng quan trọng hơn cả vẫn là lòng tin thác vào Chúa quan phòng của thánh nhân mà chúng ta cần học hỏi, nhất là trong giai đoạn gặp khó khăn này. 
Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con người. Ðó phải là niềm xác tín của chúng ta. Một Thiên Chúa quan phòng là Ðấng có thể biến tất cả những đắng cay, buồn phiền, thất bại, khổ đau trong cuộc sống con người thành khởi đầu của một nguồn ơn cao quí hơn. Cũng như loài ong chỉ rút mật ngọt từ bao nhiêu vị đắng cay của cánh hoa, cũng thế, người có niềm tin luôn có thể rút tỉa được những sức đẩy mới từ những thất bại rủi ro trong cuộc sống. Thánh Martinô đã không hận đời đen bạc vì bị người cha bỏ rơi, mà trái lại xem đó như một dịp may để cảm thông, để học hỏi và để phục vụ người khác hữu hiệu hơn. "Hạt lúa rơi xuống đất có mục nát đi mới trổ sinh được nhiều bông hạt". Ðó là định luật của cuộc sống. Thập giá trong cuộc sống thường là khởi đầu và cơ may cho một vươn lên cao hơn. 
Chúng ta thường chạy đến khẩn cầu với thánh Martinô trong cơn hoạn nạn thử thách, chúng ta cũng hãy noi gương ngài để phó thác cho Tình Yêu quan phòng của Chúa, và nhất là xin Ngài cũng giúp chúng ta luôn biết lấy Tình Thương để thắng vượt những ngược đãi của người đời, cũng luôn biết sẵn sàng phục vụ và phục vụ bằng chính mạng sống của mình.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Ngày 03

Thánh Máctinô Pôrét, tu sĩ
Thứ bảy đầu tháng


Chính trong Giáo hội mà Đức Maria thi hành chức vụ hy vọng của Mẹ, với điều kiện là chúng ta tiếp đón Mẹ nơi chúng ta. Chúng ta gặp lại Mẹ trong nhà Tiệc Ly với cộng đoàn nhỏ bé đang cu nguyện. Mẹ cho chúng ta tấm gương về lòng tin cậy, mạnh hơn sợ hãi. Đức Maria của Truyền Tin chỉ gợi lên lòng tin vào Lời Chúa. Dân mới của Thiên Chúa đi trên biển mênh mông của lịch sử, với ngọn gió của Thần Khí thổi căng buồm chiếc tàu Tin Mừng. Một ln nữa, chính hy vọng chiếu sáng như sao trong đêm tối. Khi con thuyền của Giáo hội tròng trành, khi Đức Giêsu như ngủ trong bão táp, thì Đức Maria vẫn ở đó, bên cạnh chúng ta, và lặp lại: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo" (Ga 2,5)
 
Và tiếp tục cuộc phiêu lưu, của các vị tử đạo, của các ngôn sứ và của các thánh, giữa các ngài có nữ tỳ bé mọn Nadarét đã trở thành Mẹ của Giáo Hội, giữ vững niềm hy vọng, giữa các thử thách của cuộc đời. Là người hát Bài ca "Ngợi khen" (Magnificat). Mẹ nắm tay chúng ta, kéo chúng ta về phía trước, vừa chỉ cho chúng ta bầu trời, vừa khuyến khích chúng ta đi phục vụ dưới đất, trước hết những người nghèo, những người bé mọn và những người bị áp bức; họ là những người ging Mẹ nhất.

Kinh sĩ Claude-Ducarroz
Hạnh Các Thánh


Ngày 03 tháng 11
THÁNH MARTINÔ PORRES
Ngày 06 tháng 5 năm 1962, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã long trọng suy tôn lên đài vinh quang một vị thánh “da đen” trước mắt 30 Hồng y, rất đông Giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và gần 70 ngàn giáo dân. Trong ngày lịch sử này, mọi người đều cảm thấy một niềm vui vô tận, khi nhận thấy trong vườn thiêng của Giáo hội trổ sinh nhiều bông hoa đủ màu sắc: một trong những đóa hoa thơm tho đó chính là Thánh Martinô Porres, trợ sĩ dòng Đaminh, một vị thánh trước con mắt người trần không có địa vị ngôi thứ, hơn nữa, còn thuộc về hạng nô lệ “da đen” hèn hạ. Nhưng trước mắt Thiên Chúa, ngài là một vị thánh đáng cho toàn thể nhân loại kính yêu tôn phục, vì lúc bình sinh, ngài đã triệt để thi thố lòng quảng đại bác ái vô biên đối với tha nhân… Ngài đã bắt chước thánh Phaolô hòa mình với những nạn nhân xấu số để thu hút họ về với Chúa Giêsu.
Thân phụ thánh Martinô Porres là một nhà quí phái nước Tây Ban Nha, về sau làm quan trấn thủ xứ Panama; nhưng thân mẫu ngài là một người nô lệ da đen. Khi sinh ra tất nhiên ngài có nước da “bánh mật”, thế nên người cha không muốn nhận ngài là con. Trong sổ rửa tội, Martinô Porres được ghi là “con một người vô danh”.
Thực vậy, vì không được sinh ra do một cuộc hôn nhân chính thức, nên ngay từ nhỏ Martinô đã phải mang tiếng xấu ô nhục là con “ngoại tình”. Mang tiếng tai ác đó, ngài không thể nào tiến thân trong xã hội. Nhưng thay vì bị thất thế trong tự ti mặc cảm, ngài đã chọn ngay lấy đức khiêm nhường để tiến đức và luyện tập cho mình có một bản lĩnh rất đặc biệt là: đơn sơ, dịu hiền, quảng đại, vị tha v.v…
Để sinh nhai, ngài đã học nghề hớt tóc, là nghề thời đó không nguyên gồm việc cắt tóc, cạo râu, nhưng gồm cả việc mổ xẻ và chữa bệnh. Ngài làm rất giỏi, lại sẵn tình thương người và am hiểu nỗi đau khổ của giới nghèo, nên không mấy chốc ngài đã được dân chúng, bạn hữu tuôn đến rất đông và khiến nghề hớt tóc của ngài dần dà trở thành nghề từ thiện bác ái.
Năm 22 tuổi, ngài vào dòng Đaminh. Thoạt tiên với tư cách là người dòng ba giúp việc, sau vì nhân đức nổi bật, ngài đã được nhận làm thầy trợ sĩ và được khấn trọn đời. Từ đó ngài chuyên lo giúp những người nghèo khổ, ốm đau, nhất là những người da đen. Ngài còn giáo hóa họ và giúp họ hiểu rằng họ cũng là con cái Thiên Chúa và đáng hưởng quyền bình đẳng như mọi người khác.
Như để tưởng thưởng nhân đức của thánh Martinô, ngay từ bình sinh, Chúa đã ban cho thánh nhân được nhiều ơn lạ, như nói tiên tri, làm phép lạ và ngất trí. Một đêm cả thành phố Lima bị động đất, nhà cửa rung chuyển dữ dội. Một thầy sợ hãi chạy đến phòng thầy Martinô tìm chỗ trú ẩn. Thầy gõ cửa nhiều lần mà không thấy trả lời. Thầy lấy tay đẩy mạnh, cửa mở toang, một cảnh tượng kinh khủng hiện ra trước mắt, thầy Martinô nằm dưới đất, hai tay dang ra, tay cầm tràng hạt, mắt lờ đờ. Thầy nọ liền đến bên kêu hoài mà thánh nhân không thưa. Thầy níu áo kéo lôi, thánh nhân cũng không động cựa. Trong phòng thì sáng rực như ban ngày, nên thầy tưởng thánh Martinô đã chết liền bỏ trốn. Lại một đêm khác Juan Vasquez, người giúp việc thánh nhân, vừa bước vào phòng liền thấy ngài quỳ lơ lửng trên không, hai tay giang ra, mắt nhìn thẳng lên tượng Thánh giá, Vasquez khiếp sợ bỏ chạy đi tìm thầy giữ cửa nhà dòng và kể lại cho thầy nghe. Biết câu chuyện, thầy này chỉ mỉm cười nói:
- Em đừng lấy làm lạ, không phải lần thứ nhất người ta thấy như thế đâu? Em sẽ còn thấy thánh Martinô ngất trí như thế nhiều lần nữa.
Ngài còn được ơn điều khiển các loài vật. Ngày kia, một đàn chuột lớn nhỏ không biết từ đâu kéo đến tu viện Santo Rosario cắn quần áo, đồ đạc, làm thiệt hại rất nhiều. Các tu sĩ tìm hết cách đối phó và bỏ thuốc độc thủ tiêu chúng. Thấy vậy, động tình thương, muốn giải thoát cho chúng, ngài gọi một chú chuột nhắt đến mà bảo:
- Này chuột, đã đến lúc nguy khốn cho bay rồi, vì các thầy đang sắp sửa bẫy để tiêu diệt chúng bay, mày hãy chạy đi tìm các bạn đồng loại tập trung ở cuối vườn, ta sẽ nuôi sống chúng bay, nếu chúng bay không làm hại tu viện nữa. Nghe tin ấy, chuột nhắt chạy đi tìm các bạn đồng loại. Trong chốc lát, tất cả chuột lớn chuột nhỏ từng đàn theo sát chân tường bò về phía cuối vườn. Giữ lời hứa với chúng, hằng ngày ngài đem cơm cho chúng ăn và từ ấy tu viện không còn bị nạn chuột phá hoại nữa. Do tích đó mà xưa nay dân chúng thường cầu xin ngài che chở cho khỏi nạn chuột bọ tàn phá. Một họa sĩ Ý còn để lại một bức họa vẽ thánh nhân đang mở cửa phòng thánh để lùa tất các lũ chuột vào một cái thùng, đưa ra đồng và nuôi cho chúng ăn uống đàng hoàng.
Thánh Martinô chẳng những trổi vượt về bác ái, nhưng còn nổi bật về lòng tôn sùng Chúa chịu đóng đinh, phép Thánh Thể và Đức Mẹ Mân côi. Ngài còn đặc biệt cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục và tìm giúp đỡ các linh mục túng thiếu. Khi ở nhà dòng, ngài có làm bạn với một thầy rất khiêm nhường. Hiện thầy ấy cũng được phong chân phước, đó là thầy Gioan Massias. Tiếng nhân đức ngài vượt qua bốn bức tường viện tu, do đó lôi kéo đến tận giường bệnh của ngài nằm, từ bậc vua chúa cho đến thứ dân.
Vừa nhân đức, thánh Martinô lại rất thông minh. Dù không bao giờ được học bộ Tổng luận thần học của thánh Tôma, nhưng ngài luôn luôn dẫn giải nó cho các giáo sư, sinh viên và trích dẫn những phần đoạn phân minh. Dù không bao giờ học Thánh kinh, nhưng ngài đã am tường mọi chi tiết, lời lẽ của Kinh thánh.
Ngay trên giường bệnh, và chắc là một cách vô ý thức, ngài còn dạy một bài học cho một vị giáo sư thần học. Vị này, thấy ngài run rẩy, nghiến răng và chảy mồ hôi lạnh trên trán. Tưởng rằng ngài đang phải chiến đấu rất mạnh với ma quỷ đến cám dỗ ngài về đức tin, đức cậy, liền khuyên ngài rằng: “Thầy đừng tranh luận với ma quỷ, vì thầy biết nó quỷ quyệt lắm”. Thánh nhân trả lời: “Thật, các nhà thần học cần sợ việc tranh luận với ma quỷ, vì ma quỷ có thể dùng sự khôn ngoan của thiên thần để lừa lọc họ. Còn tôi, tôi tưởng nó cần gì phải dùng đến hết ngón xảo quyệt để làm bối rối và đánh quỵ một người nô lệ da đen khốn nạn này. Điều đó thật bất xứng cho tôi quá!”.
Thật là những lời lẽ đầy khiêm nhường, tuy nhiên không kém phần sâu sắc và giá trị!
Để rút lấy một bài học mà thánh Martinô đã để lại, chúng ta hãy đọc những lời lẽ sau đây mà Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã tuyên bố trong buổi tiếp các phái đoàn dự lễ phong thánh, tới yết kiến ngài ngày mồng 07 tháng 5 năm 1962:
- “Trong đời sống của Martinô có ba tình yêu: Tình yêu Chúa Giêsu chịu đóng đinh - Yêu Đức Mẹ mân côi - và yêu Thánh Đaminh. Ngài hằng bốc cháy ba mối đam mê: Ham mê yêu mến người nghèo khó, ốm đau - Ham mê đền tội hãm mình một cách rất nhiệm nhặt mà ngài cho là “Gia đình yêu”- Ham mê khiêm nhường, như để ban ơn sức cho những nhân đức trên. Các con hãy để Ta chú ý riêng đến điểm thứ ba này đôi chút, để được vui sướng chiêm ngưỡng nhân đức đó qua tâm hồn trong suốt của thày Martinô”. Đức khiêm nhường đưa người ta nhìn về những giới hạn đích thực của mình, dõi theo đường lối của lý trí. Trên căn bản ấy, linh hồn được hoàn thiện do ơn kính sợ Chúa. Nhờ ơn ấy, người công giáo khi ý thức rằng chỉ nơi Chúa mới là sự thiện và là sự cao cả của chính mình, sẽ tuyệt đối và tôn thờ Người, xa lánh tội lỗi là sự dữ độc ác nhất làm cho người ta xa cách Chúa vĩnh viễn. Đó là bí quyết của đức khôn ngoan thực hành, nó sẽ điều hành sự sống của những con người sáng suốt và kín đáo. Sách thánh nói: “Sự kính sợ Chúa là trường dạy sự khôn ngoan” (Proz 15,35).
Thánh Martinô được Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XVI phong Chân phước năm 1836 và Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII phong thánh năm 1962.
www.tinmung.net
3-11

Thánh Martin Người Nghèo

(1579-1639)

H
àng chữ thật lạnh lùng "không có cha" được ghi trong hồ sơ rửa tội, và danh từ "con lai" hay "vết tích cuộc chiến" là cái tên ác nghiệt mà những người "thuần chủng" gán cho những người mang hai dòng máu. Như bao người khác, Martin đã có thể trở nên một người cay đắng, nhưng ngược lại, ngay từ còn nhỏ Martin đã có lòng thương người đặc biệt, nhất là những người nghèo và bị xã hội khinh miệt.
Ngài là đứa con bất hợp pháp của một nhà quý tộc Tây Ban Nha ở Lima, Peru và một phụ nữ Panama. Thánh Martin giống mẹ nên có nước da ngăm đen, và điều này làm cha ngài khó chịu, do đó mãi tám năm sau ông mới chịu nhận Martin là con. Sau khi sinh đứa thứ hai, ông bỏ rơi gia đình. Martin lớn lên trong cảnh nghèo nàn, thuộc giai cấp bần cùng của xã hội Lima.
Lúc 12 tuổi, mẹ ngài cho theo học nghề cắt tóc và giải phẫu, nên ngoài việc cắt tóc, ngài còn biết cách lấy máu (sự chữa trị rất phổ thông thời ấy), biết chăm sóc vết thương và biết chích thuốc.
Sau vài năm hành nghề, Martin xin vào dòng Ða Minh làm "người giúp việc," vì ngài cảm thấy không xứng đáng để làm thầy dòng. Sau chín năm, gương mẫu đời sống cầu nguyện và hãm mình, bác ái và khiêm nhường của ngài khiến cộng đoàn phải yêu cầu ngài khấn trọn. Ngài cầu nguyện hằng đêm và sống khắc khổ; công việc hàng ngày của ngài là chăm sóc bệnh nhân và người nghèo. Ngài coi mọi người như nhau, bất kể mầu da, sắc tộc hay địa vị xã hội. Ngài là cột trụ trong việc thành lập cô nhi viện, chăm sóc người nô lệ từ Phi Châu và trông coi việc bố thí của nhà dòng. Ngài trở nên nổi tiếng trong nhà dòng cũng như ngoài thành phố, dù đó là vấn đề "chăn màn, quần áo, đèn nến, bánh kẹo, phép lạ hay lời cầu nguyện!" Khi nhà dòng bị nợ quá nhiều, ngài nói với cha bề trên, "Con chỉ là một đứa con lai nghèo hèn. Cha hãy bán con đi. Con là sở hữu của nhà dòng. Hãy bán con đi để trả nợ."
Ngoài những công việc hàng ngày như nấu ăn, giặt giũ và chăm sóc bệnh nhân, Thiên Chúa còn ban cho ngài những ơn sủng đặc biệt: được xuất thần bay bổng trên không, căn phòng rực sáng khi ngài cầu nguyện, ơn lưỡng tại (ở hai nơi cùng một lúc), ơn hiểu biết cách lạ lùng, ơn chữa bệnh và chế ngự các thú vật cách tài tình. Lòng bác ái của ngài còn nới rộng đến các thú vật ở ngoài đồng hay chó mèo trong phố và ngay cả chuột bọ trong bếp.
Nhiều tu sĩ thời ấy coi ngài như vị linh hướng, nhưng ngài vẫn tự coi mình là "người nô lệ nghèo hèn." Ngài còn là bạn của Thánh Rosa ở Lima. Ngài từ trần ngày 3-11-1639.
Lời Bàn
Kỳ thị chủng tộc là cái tội mà hầu như không ai muốn thú nhận. Cũng như sự ô nhiễm, đó là "cái tội của thế giới", là trách nhiệm của mọi người nhưng không ai muốn nhận lỗi. Không ai xứng đáng là quan thầy của sự tha thứ và sự công bằng Kitô Giáo cho bằng Thánh Martin của Người Nghèo.
Lời Trích
Trong buổi lễ phong thánh (6-5-1962), Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã có lời nhận xét về Thánh Martin như sau: "Ngài đã tha thứ lỗi lầm của người khác. Ngài đã quên đi những xúc phạm thật cay đắng, vì cho rằng ngài đáng phải phạt vì những tội lỗi của chính mình. Ngài cố gắng hết sức để đền bù các lỗi lầm ấy; ngài an ủi bệnh nhân một cách trìu mến; ngài cung cấp thực phẩm, quần áo và thuốc men cho người nghèo; ngài giúp đỡ các nông dân và người da đen, cũng như những người mang hai dòng máu mà thời ấy thường coi là nô lệ: do đó ngài xứng đáng với cái tên mà người ta thường gọi là 'Martin Nhân Hậu.'"
www.nguoitinhuu.com

Bài đọc 2 
Ngày 3 tháng 11: Thánh Mác-ti-nô Po-rét, tu sĩ.
Thánh nhân sinh năm 1579 tại Li-ma, nước Pe-ru. Người vẫn tự nhận mình là "đứa con lai", vì thân phụ là một người lính Tây Ban Nha, thân mẫu là người da đen. Lúc còn nhỏ, người học nghề bốc thuốc. Sau này, khi đã trở thành một thầy trợ sĩ trong dòng Anh Em Thuyết Giáo, người giữ chức vụ y tá, đặc biệt giúp đỡ những người nghèo. Người sống khiêm tốn và hãm mình thật nghiêm nhặt, nhưng đặc biệt, người đón nhận được ánh sáng và sức mạnh nhờ việc cầu nguyện, nhất là trước Thánh thể lúc đêm khuya. Cũng chính nhờ đó, người trở thành một người dạy giáo lý có biệt tài. Người qua đời năm 1639.
Mác-ti-nô tình thương 
Trích bài giảng của đức Giáo hoàng Gioan XXIII trong lễ phong thánh cho chân phúc Mác-ti-nô Po-rét.

Qua gương sáng đời sống của mình, thầy Mác-tin-nô cho thấy : Chúng ta có thể được cứu độ nhờ và nên thánh bằng con đường Đức Giê-su Ki-tô đã vạch ra, nghĩa là nếu trước hết chúng ta yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn chúng ta, rồi sau đó nếu chúng ta yêu người thân cận như chính mình. 
Khi thầy nhận biết rằng Đức Giê-su Ki-tô đã chịu đau khổ vì chúng ta và đã mang vào thân thể mình tội lỗi của chúng ta mà đưa lên cây thập giá, thầy đã hết lòng yêu mến và đi theo Đức Giê-su chịu đóng đinh trên thập giá. Lúc suy niệm các hình khổ dữ dằn Người phải chịu, thầy không thể cầm mình mà không khóc lóc thảm thiết. Thầy cũng đặc biệt yêu mến và tôn sùng bí tích Thánh Thể rất uy linh, cũng như thường kín đáo chầu Thánh Thể lâu giờ trong phòng thánh của nhà nguyện và hết sức ước ao được năng nhận lãnh bí tích này.
Rồi vâng phục Thầy chí thánh dạy bảo, thánh Mác-ti-nô hằng đem lòng bác ái rất đặc biệt mà đối xử với anh em ; lòng bác ái đó phát xuất từ một đức tin toàn vẹn và một tâm hồn khiêm nhu. Thánh nhân cũng luôn yêu mến mọi người vì chân thành coi họ là con cái Thiên Chúa, là anh em của mình ; hơn nữa, người còn yêu mến họ hơn chính mình, và vì khiêm tốn, người cho rằng tất các những người khác công chính và tốt lành hơn bản thân mình. 
Thánh nhân chữa lỗi cho kẻ khác và tha thứ cho những kẻ xúc phạm mình cách tàn tệ, vì xác tín rằng mình đáng phải chịu những hình phạt lớn hơn thế nhiều do tội lỗi đã phạm. Người hết sức cố gắng đem tội nhân trở về đường chính nẻo ngay, lại ân cần chăm sóc các bệnh nhân, và tuỳ theo khả năng, cung cấp cho kẻ nghèo lương thực, quần áo, thuốc men, lại tận tình giúp đỡ nông dân, người da đen hay người lai là những người thời ấy coi như những nô lệ hèn kém. Do đó, người xứng đáng nhận được danh hiệu “Mác-ti-nô tình thương”, như dân chúng quen gọi. 
Xưa vị thánh này đã dùng lời an ủi, gương sáng và ảnh hưởng của mình mà lôi kéo biết bao người vào con đường đạo đức, nay lại có khả năng hướng tâm trí chúng ta về những sự trên trời một cách kỳ lạ. Than ôi, đáng buồn thay ! Không phải mọi người ai cũng hiểu biết và quý trọng cho đúng mức những giá trị cao cả trên trời ! Tệ hơn nữa, nhiều người còn bị thói hư tật xấu lôi cuốn vào những thú vui bất chính, nên ít lưu tâm, chán ghét hay tuyệt nhiên khinh thường những giá trị đó. Chớ gì gương sáng của thánh Mác-ti-nô dạy một cách hữu hiệu cho nhiều người biết : bước theo vết chân Đức Giê-su Ki-tô và tuân giữ các điều răn của Người, thì dịu dàng và hạnh phúc biết bao !
Lời nguyện 
Lạy Chúa, Chúa đã dẫn đưa thánh tu sĩ Mác-ti-nô qua con đường khiêm nhu ẩn dật đến vinh quang thiên quốc. Xin cho chúng con ngày nay biết noi gương người, để mai sau được cùng người hưởng nhan thánh Chúa. Chúng con cầu xin...
 
(trích bài đọc Giờ Kinh Sách ngày 3-11- Bản dịch của nhóm CGKPV)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét