Thứ Ba sau Chúa Nhật 31 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm
II) Pl 2, 5-11
"Người đã tự hạ mình,
vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người".
Trích thư Thánh Phaolô Tông
đồ gửi tín hữu Philipphê.
Anh em thân mến, anh em hãy
cảm nghĩ trong anh em điều đã có trong Ðức Giêsu Kitô: Người tuy là thân phận
Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái
lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống
như loài người với cách thức bề ngoài như một người phàm.
Người đã tự hạ mình mà vâng
lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người,
và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu,
mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng
lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 21, 26b-27.
28-30a. 31-32
Ðáp: Lạy Chúa, bởi Chúa mà lời con ca ngợi vang lên trong Ðại
hội (c. 26a).
Xướng: 1) Bởi Chúa mà lời con
ca ngợi vang lên trong Ðại hội. Con sẽ làm trọn những lời khấn hứa của con,
trước mặt những người tôn sợ Chúa. Bạn cơ bần sẽ ăn và được no nê, những kẻ tìm
kiếm Chúa sẽ ca khen Chúa: "Tâm hồn các bạn hãy vui sống tới muôn
đời". - Ðáp.
2) Thiên hạ sẽ ghi lòng và
trở về với Chúa, khắp cùng bờ cõi địa cầu; và toàn thể bá tánh chư dân sẽ phủ
phục trước thiên nhan Chúa. Bao người ngủ trong lòng đất sẽ tôn thờ duy một
Chúa. - Ðáp.
3) Miêu duệ con sẽ phục vụ
Ngài, sẽ tường thuật về Chúa cho thế hệ tương lai, và chúng kể cho dân hậu sinh
biết đức công minh Chúa, rằng: "Ðiều đó Chúa đã làm". - Ðáp.
*
* *
Alleluia: Tv 147, 12a và
15a
Alleluia, alleluia! -
Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa, Ðấng đã sai lời Người xuống cõi trần ai. -
Alleluia.
Phúc Âm: Lc 14, 15-24
"Anh hãy ra ngoài
đường ngoài ngõ, và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Khi ấy, một người đồng bàn
thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Phúc cho kẻ sẽ được ăn tiệc trong nước Thiên
Chúa". Người phán cùng kẻ ấy rằng: "Có một người kia dọn tiệc linh
đình, và đã mời nhiều thực khách. Tới giờ dự tiệc, ông sai đầy tớ đi báo cho
những kẻ được mời để họ đến, vì mọi sự đã dọn sẵn sàng rồi. Nhưng mọi người
đồng thanh xin kiếu. Người thứ nhất nói với ông rằng: "Tôi mới tậu một
thửa ruộng, tôi cần phải đi xem đất, nên xin ông cho tôi kiếu". Người thứ
hai nói: "Tôi mới mua năm đôi bò, và tôi phải đi thử chúng, nên xin ông
cho tôi kiếu". Người khác lại rằng: "Tôi mới cưới vợ, bởi đó tôi
không thể đến được".
"Người đầy tớ trở về
thuật lại những điều đó cho chủ mình. Bấy giờ chủ nhà liền nổi giận, bảo người
đầy tớ rằng: "Anh hãy cấp tốc đi ra các công trường và các ngõ hẻm thành
phố mà dẫn về đây những người hành khất, tàn tật, đui mù và què quặt".
Người đầy tớ trở về trình rằng: "Thưa ông, lệnh ông ban đã được thi hành,
thế mà hãy còn dư chỗ". Ông chủ lại bảo người đầy tớ rằng: "Anh hãy
ra ngoài đường ngoài ngõ và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi. Vì tôi bảo cho
các người biết: không một ai trong những kẻ đã được mời, sẽ được nếm bữa tiệc
của tôi".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay, Ðức
Giêsu muốn nói đến lòng thương xót của Chúa Cha đối với mọi người, đặc biệt là
những người Do Thái. Nhưng họ đã không đón nhận và đánh mất đi tình thương ấy.
Vì thế ân lộc bị cất đi khỏi họ.
Ðối với người Kitô hữu hôm
nay, chúng ta cũng được diễm phúc làm con cái Chúa, nếu chúng ta không biết quý
trọng ân huệ cao cả này, chúng ta cũng sẽ bị loại ra ngoài bàn tiệc đời đời của
Ngài.
Cầu Nguyện:
Lạy Cha, xin cho chúng con
nhận ra những ân huệ mà Cha ban tặng cho chúng con. Xin cho chúng con trân
trọng đón nhận và làm phát triển phúc lành của Cha. Ðồng thời chúng con biết mở
rộng bàn tay chia sẻ với anh em, hầu tất cả chúng con đều được vào dự tiệc với
Cha. Chúng con cầu xin, nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
(Lời Chúa trong
giờ kinh gia đình)
Lời Mời Dự Tiệc
(Lc 14,15-24)
Suy Niệm:
Lời Mời Dự Tiệc
Một trong những hình ảnh Kinh
Thánh dùng để nói về Nước Thiên Chúa, đó là bữa tiệc. Sách Cách Ngôn đã mô tả
bữa tiệc của Ðấng Khôn Ngoan như một giá trị cứu rỗi. Ngôn sứ Isaia nói đến một
bữa tiệc Thiên Chúa dọn ra cho dân khi thời Cứu thế đến, tất cả mọi người đều
được mời đến dụ, không phân biệt ai. Ðó cũng là bữa tiệc mà Chúa Giêsu dùng để
nói về Vương Quốc của Ngài.
Tại Palestina, mỗi khi có tổ
chức một bữa tiệc lớn, thì khách luôn luôn được mời trước, và người chủ tiệc
cũng nhận được câu trả lời của khách trước. Khi tiệc rượu đã sẵn, ông chủ sai
các đầy tớ đi báo cho người được mời để họ đến dự. Bởi thế, một lời từ chối vào
phút cuối quả là một tổn thương lớn cho người chủ tiệc.
Thiên Chúa là ông chủ của bữa
tiệc Nước Trời cũng đã chuẩn bị một bữa tiệc lớn cho Israel. Các Tiên tri được
sai đi gọi mời, và khách được mời cũng sống trong tâm tình chờ đợi. Nếu có các
sách Tiên tri để loan báo về bữa tiệc thì cũng có các Thánh vịnh nói lên tâm tình
tin tưởng và đợi chờ Thiên Chúa. Thế nhưng, khi giờ đến, lúc tiệc rượu đã chuẩn
bị sẵn sàng thì kháck được mời lại từ chối.
Bàn tiệc Nước Trời vẫn được
dọn ra và khách được mời hôm nay không ai khác hơn là mỗi người chúng ta. Bí
tích Rửa tội là tấm thiệp cho phép chúng ta tham dự bàn tiệc này. Nhưng khi giờ
đã đến, chúng ta lại để mình bị lôi cuốn bởi của cải vật chất, bởi thú vui trần
thế, mà bỏ qua lời mời gọi đến tham dự bàn tiệc thánh.
Thiên Chúa vẫn mời gọi và chờ
đợi chúng ta. Ước gì chúng ta hiểu đúng giá trị của bữa tiệc Ngài dọn sẵn cho
chúng ta mỗi ngày, để với tất cả lòng yêu mến biết ơn, chúng ta tham dự, ngõ
hầu chúng ta được mạnh sức tiến tới bàn tiệc vĩnh cửu trên Thiên quốc.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba
Tuần 31 TN2
Bài đọc: Phil
2:5-11; Lk 14:15-24.
GIỚI THIỆU CHỦ
ĐỀ:
Tai hại của việc
không biết hay biết sai
Con người có khuynh hướng giản lược tất cả đời sống vào các nhu cầu vật chất:
công ăn việc làm, giải trí hưởng thụ, … và rất ít người chịu bỏ thời giờ để học
hỏi và tìm kiếm những của ăn tinh thần. Vì thế, khi con người phải làm những
quyết định quan trọng cho cuộc đời, đa số sẽ nhắm vào những giá trị vật chất
hơn là những giá trị tinh thần. Bài đọc I trình bày cho con người biết đường
lối Cứu Độ của Thiên Chúa qua Đức Kitô: Thiên Chúa cứu con người không bằng
quyền năng và sức mạnh quân sự, nhưng bằng sự khiêm nhường tự hạ và sự vâng lời
tuyệt đối của Con Thiên Chúa. Phúc Âm dẫn chứng chân lý vì không chịu học hỏi
Kinh Thánh để biết sự thật về Đấng Thiên Sai, nên đa số con người đã làm quyết
định sai lầm khi từ chối lời mời dự tiệc của Thiên Chúa, và bị lọai ra ngòai
vương quốc mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho họ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Cách
Cứu Độ con người của Thiên Chúa
Đa số các học giả Kinh Thánh đồng ý đây là một bản thánh ca có sẵn trong các
cộng đồng tín hữu sơ khai, và được Thánh Phaolô dùng để khuyên các tín hữu
Philipphê biết noi gương Đức Kitô để sống đức bác ái trọn hảo như ngài nói:
“Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu.”
Nghiên cứu cấu trúc của bài Thánh Ca này, chúng ta nhận ra 3 điểm chính:
(1) Sự khiêm nhường tự hạ của Đức Kitô: Có rất nhiều điều liên quan đến tín lý mà các
Thánh Gíao Phụ và các Công Đồng đầu tiên rút ra từ 2 câu của Bài Thánh Ca này:
“Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc
lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế.” Giáo Hội
dùng những tín lý này để chống lại các Bè Rối thời đó: Hai bản tính của Đức
Kitô: con người và Thiên Chúa (chống lại 2 bè rối: Chúa Kitô hòan tòan là Thiên
Chúa hay hòan tòan là con người); sự ngang hàng bằng nhau của Cha và con (chống
lại bè rối Con Nuôi); Chúa Giêsu thực sự làm người (chống lại bè rối Docetism).
(2) Sự vâng lời tuyệt đối của Đức Kitô: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi
bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” Chúa Giêsu không bị Thiên Chúa bắt
chịu cực hình, nhưng Ngài tự nguyện vâng lời để làm trọn Kế Họach Cứu Độ của
Thiên Chúa. Ngài đã chết thực sự (không ai khác như chủ thuyết Docetism tin).
(3) Vinh quang được ban tặng cho Đức Kitô: Chính vì sự khiêm nhường tự hạ và sự vâng lời
tuyệt đối của Đức Kitô mà “Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu
trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.” Những kết quả đạt được từ công việc Nhập
Thể - Cuộc Thương Khó – Cái Chết – và sự Phục Sinh của Đức Kitô:
- Đức Kitô đã chiến thắng tội lỗi: Bằng cuộc Khổ Nạn, Chúa xóa sạch tội lỗi con
người.
- Đức Kitô đã chiến thắng thần chết: Nếu Đức Kitô không sống lại, thần chết sẽ thống
trị nhân lọai, và con người không có hy vọng gì đựơc sống đời đời; nhưng vì
Ngài đã sống lại, nên Ngài đã chiến thắng thần chết, kẻ thù cuối cùng của con
người.
- Đức Kitô đã chiến thắng ma quỉ: Trong sa mạc, ma quỉ thách thức Chúa để dùng
những cách của nó để làm cho con người tin: bánh ăn, làm phép lạ, bả vinh hoa.
Chúa Giêsu chứng minh cho chúng biết con người có thể tin vào Lời Chúa, tình
thương hy sinh, và cuộc sống đời đời.
2/ Phúc Âm: Phúc thay ai được dự tiệc trong
Nước Thiên Chúa.
2.1/ Truyền thống và phong tục của người Do-Thái: Theo truyền thống, người Do-Thái tin khi Đấng Thiên Sai tới,
Ngài sẽ đãi dân một bữa tiệc (Isa 25:6-9). Đó là lý do tại sao một trong những
kẻ đồng bàn nói với Đức Giê-su: "Phúc thay ai được dự tiệc trong Nước
Thiên Chúa!" Họ tin chỉ có những người Do-Thái mới được dự bữa tiệc này mà
thôi. Chúa Giêsu muốn dùng dụ ngôn này để dạy họ một bài học: Nếu họ không sẵn
sàng, họ có thể bị lọai ra ngòai để lấy chỗ cho các dân tộc khác. Theo phong
tục của người Do-Thái, buổi tiệc được phác họa và khách dự tiệc được mời và đáp
trả một thời gian lâu trước khi bữa tiệc xảy ra, nhưng giờ dự tiệc chưa được
loan báo. Khi ngày dự tiệc tới và mọi sự đã sẵn sàng, chủ sai các đầy tớ đi
triệu tập các khách đã nhận lời mời. Vì thế, khách nào đã nhận lời nhưng từ
chối không đến là một khinh thường cho chủ nhà.
2.2/ Những lý do xin kiếu:
(1) Bận rộn chuyện làm ăn: Người thứ nhất nói: "Tôi mới mua một thửa đất, cần
phải đi thăm; cho tôi xin kiếu.” Đây là lý do có lẽ phổ thông nhất của con
người: xưa cũng như nay. Quá bận rộn chuyện làm ăn khiến con người không còn
thời giờ cho Thiên Chúa, và dần dần làm con người quên đi mục đích của cuộc
đời.
(2) Quyến dũ của cuộc sống: Người khác nói: "Tôi mới tậu năm cặp bò, tôi đi thử
đây; cho tôi xin kiếu.” Những vui thú của thế gian dễ cám dỗ con người chạy
theo hơn là giữ những Lề Luật của Thiên Chúa. Sau một tuần vất vả làm việc,
những giải trí vui thú cuối tuần dễ làm cho con người chiều theo hơn là phải đi
tham dự Thánh Lễ. Một cuộc sống chiều theo sở thích như thế sẽ làm con người
dần dần đi trật đường.
(3) Lo toan cho gia đình: Người khác nói: "Tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được.”
Cưới vợ là niềm vui lớn nhất của con người. Theo Sách Đệ Nhị Luật, người mới
cưới vợ có thể được miễn trừ các bổn phận như quân dịch, làm ăn để ở nhà vui vẻ
với vợ trong một năm (Dt 24:5). Tuy nhiên, ngay cả những miễn trừ này cũng
không thể được dùng làm cớ cho con người xao lãng bổn phận với Chúa, nhất là
lời mời dự tiệc Nước Trời.
2.3/ Ý nghĩa của dụ ngôn: Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để giải thích cho con người biết Mầu
Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa. Theo Mầu Nhiệm này, Thiên Chúa đã chọn và mời gọi
dân Do-Thái ngay từ đầu để tham dự Tiệc Cưới Nước Trời; nhưng vì họ từ chối
không tham dự nên Tiệc Cưới mở rộng đến mọi người: Dân Ngọai, những người thu
thuế, và gái điếm… tất cả những ai sẵn sàng tin vào Đức Kitô. Những nghĩa biểu
tượng của các nhân vật trong dụ ngôn có thể được nhận ra dễ dàng như sau:
- Chủ nhà:
là Thiên Chúa.
- Các đầy tớ:
là các ngôn sứ và môn đệ của Chúa.
- Các khách kiếu không dự tiệc: là những người Do-Thái.
- Các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt: là những người thu thuế và gái điếm.
- Các người đến từ các đường xóm đường làng: là tất cả các Dân Ngọai.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Cuộc sống con người không thể bị gỉan lược vào những nhu cầu vật chất. Con
người cần biết dùng thời gian để học hỏi về Thiên Chúa và trau dồi những nhu
cầu tâm linh. Không biết hay biết sai sẽ thúc đẩy con người làm những quyết
định sai trong cuộc đời.
- Kẻ được mời gọi thì nhiều, kẻ được chọn thì ít. Cho dù chúng ta đã được mời,
nhưng nếu không chịu dùng thời giờ để học hỏi về Chúa, năng chịu các Bí-tích để
lấy sức mạnh chiến đấu với ba thù, chúng ta sẽ dễ dàng đi trật đích và bị lọai
ra ngòai.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
Thứ Ba tuần 31 thường niên
|
Sứ điệp: Nước Thiên Chúa không dành riêng cho một loại người nào,
trái lại, tất cả mọi người đều được Thiên Chúa mời gọi vào dự tiệc Nước Chúa.
Ai đáp lại lời mời gọi ấy thì thật là hạnh phúc.
Cầu nguyện: Lạy Cha, con cảm tạ Cha đã thương mời gọi con vào dự Bàn
Tiệc Nước Cha. Con cảm tạ Cha đã thương yêu con và ban cho con được tham dự vào
sự sống hạnh phúc của Cha. Thật ra con chỉ là kẻ nghèo hèn bất xứng, là kẻ chỉ
biết ngửa tay ăn xin lòng thương xót của Cha. Xét cho cùng, con chỉ là kẻ ở bờ
rào bờ giậu, lang thang vất vưởng trên khắp các nẻo đường cuộc đời.
Nhưng Cha đã đoái nhìn đến thân phận khốn cùng
của con và đón nhận con vào Nhà Cha. Được biết Cha, được sống với Cha, được
theo Chúa Giêsu Con Cha, quả thực là một ân huệ, một hạnh phúc. Nước Trời chẳng
phải là do công lao cố gắng của con, chẳng phải là một nỗ lực hy sinh tu luyện,
nhưng trước hết đó là ân huệ của Cha, là niềm vui, là hạnh phúc, là sự sống
sung mãn mà Cha muốn chia sẻ cho con.
Lạy Cha, xin Cha giúp con nhận ra niềm hạnh phúc
của đời Kitô hữu. Con đã vì những mối lo trần thế mà từ chối lời mời của Cha.
Công ăn việc làm, của cải vật chất, bổn phận gia đình, tất cả những điều ấy tự
nó không xấu, nhưng rất nhiều lúc đã lấn át lời mời của Cha, đã cản trở con đến
với Cha. Được dự tiệc Nước Cha là một hồng ân, nhưng nhiều lúc con lại coi đó
như là một gánh nặng, một vật cản, coi đó như một sự mất mát thua lỗ cuộc đời.
Con coi thường lời Cha mời gọi cũng chính là con chưa coi trọng Cha. Xin Cha
tha thứ và xin giúp con từ nay biết đến với Cha trong niềm hân hoan và tạ ơn.
Amen.
Ghi nhớ :"Anh hãy ra ngoài đường
ngoài ngõ, và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi".
www.phatdiem.org
06/11/12 THỨ BA TUẦN 31 TN
Lc 14,15-24
Lc 14,15-24
VINH HẠNH DỰ TIỆC NƯỚC
TRỜI
“Phúc thay ai được dự
tiệc trong Nước Thiên Chúa.” (Lc 14,15)
Suy niệm: Tối 14/03 vừa qua, tổng thống Obama mở một bữa tiệc chiêu
đãi đặc biệt tại Toà Nhà Trắng. Khỏi phải nói, thực khách của bữa tiệc này đều là
những khách mời VIP: Vợ chồng thủ tướng Anh, nhiều nhà tỷ phú và nhân vật nổi
tiếng khác đã có mặt trong những bộ y phục dạ tiệc sang trọng. Nếu phải góp một
khoản tiền lớn để được mời dự bữa tiệc này, hẳn rất nhiều người sẵn sàng mở hầu
bao, chứ đừng nói chi tới việc được mời mà không đến dự vì những lý do vớ vẩn.
Cách hành xử như vậy không khác gì một sự khinh miệt nặng nề, thậm chí còn là
một thái độ thù địch. Bữa tiệc đó giúp liên tưởng đến điều mà Lời Chúa muốn nói
với chúng ta hôm nay qua dụ ngôn bữa tiệc Nước Trời. Có những người được mời
nhưng không ý thức hạnh phúc và vinh dự lớn lao mình có, mà từ chối chỉ vì
những lý do nhỏ mọn. Thật đáng tiếc! Trái lại, những người bé mọn, nghèo hèn
được mời và nhận thức hạnh phúc lớn lao “được
dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”! Và họ đã không phụ lòng Ngài.
Mời Bạn: Bạn có biết bạn thật hạnh phúc khi được là Kitô hữu không?
Với danh nghĩa đó bạn rất vinh dự là khách mời trong bữa tiệc Nước Trời mà ngay
từ bây giờ bạn đã thưởng nếm trong bữa tiệc Thánh Thể. Đó là điều Giáo Hội mời
gọi chúng ta trong Năm Đức Tin: “tái
khám phá niềm vui đức tin và tìm lại niềm hăng say thông truyền đức tin” cho người khác (Porta Fidei, số
7).
Sống Lời Chúa: Tham dự thánh lễ, đặc biệt thánh lễ Chúa Nhật, cách “ý thức, trọn vẹn và tích cực”(HC
Phụng Vụ, 14).
Cầu nguyện: Lạy Chúa, hạnh phúc của con là được Chúa ở cùng. Xin cho
con biết chia sẻ niềm vui đó cho anh em.
www.5phutloichua.net
XIN KIẾU
Chẳng ai xứng đáng được dự bàn
tiệc Nước Thiên Chúa nếu Thiên Chúa không mời. Nhưng chẳng ai bị loại trừ khỏi
bàn tiệc cánh chung nếu họ không cố ý từ chối lời mời đó.
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay vẫn nằm
trong bối cảnh của bữa tiệc
do một ông Pharisêu chức sắc
mời Đức Giêsu vào ngày sabát (Lc 14, 1).
Những lời Ngài nói trong bữa
tiệc đã đánh động một người cùng bàn.
Ông chia sẻ với Đức Giêsu về
niềm hạnh phúc
của người được dự tiệc trong
Nước Thiên Chúa (c. 15),
ở đó có mặt các tổ phụ và
thiên hạ từ khắp tứ phương (Lc 13, 28-29).
Chính vì thế Đức Giêsu đã muốn
kể một dụ ngôn về Nước Trời.
Nước Trời giống như một đại
tiệc do một người khoản đãi.
Ông đã mời nhiều quan khách
đến dự.
Khi đến giờ đãi tiệc, ông còn
sai đầy tớ đi mời họ lần nữa.
“Mời quý vị đến, vì mọi sự đã
sẵn sàng rồi” (c. 17).
Tiếc thay lời mời ấy, đại tiệc
ấy, lại bị mọi người coi nhẹ.
Ai cũng có lý do để xin kiếu
từ.
Kẻ thì kiếu vì cần phải đi xem
miếng đất mới mua (c. 18).
Kẻ thì kiếu vì phải đi kiểm
tra năm cặp bò mới tậu (c. 19).
Kẻ khác lại xin kiếu vì phải ở
nhà với người vợ mới cưới (c. 20).
Có vẻ các lý do đưa ra đều có
lý phần nào.
Nhưng thực sự chúng có phải là
những lý do chính đáng
để từ chối đại tiệc mà mình đã
được mời cách trân trọng hay không?
Vấn đề chỉ là chọn lựa.
Xem đất mới mua, xem bò mới
tậu, ở nhà với vợ mới cưới,
những điều ấy hẳn cần thiết và
quan trọng.
Nhưng có quan trọng bằng
chuyện đi dự tiệc không?
Nếu đi dự tiệc để diễn tả sự
hiệp thông của tình bạn
thì có thể hoãn các chuyện
khác không, để chọn điều có giá trị hơn?
Chúng ta hiểu được sự nổi giận
của ông chủ,
khi thấy bữa tiệc dành để
khoản đãi các khách quý lại bị đổ vỡ.
Ông thấy chính mình bị xúc
phạm, tình bạn bị coi thường.
Ông quyết định dành bữa tiệc
này cho những ai không phải là khách quý,
những người thuộc giới hạ lưu,
nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù (c. 21).
Và khi phòng tiệc vẫn còn chỗ trống,
ông đã khẩn khoản lôi kéo vào
cả những người ở ngoài đường
hay trong vườn nho (c. 23).
Cuối cùng, người được mời
trước thì bị loại, vì họ tự loại chính họ (c. 24).
Còn những người có vẻ không
xứng đáng lại được ngồi vào bàn.
Chẳng ai xứng đáng được dự bàn
tiệc Nước Thiên Chúa
nếu Thiên Chúa không mời.
Nhưng chẳng ai bị loại trừ
khỏi bàn tiệc cánh chung
nếu họ không cố ý từ chối lời
mời đó.
Chẳng ai có thể tự cứu mình mà
không cần đến Thiên Chúa,
nhưng con người có thể làm
mình bị trầm luân mãi mãi
chỉ vì thái độ khép kín của
mình trước ơn Chúa ban.
“Tôi xin kiếu”, đó là câu nói
của nhiều người Kitô hữu hôm nay.
Chúng ta xin kiếu một cách quá
dễ dàng,
chẳng để ý gì đến nỗi thất
vọng và đau đớn của người đãi tiệc.
Lời mời của Thiên Chúa bị từ
chối chỉ vì những chuyện không đâu.
Chuyện tất bật làm ăn, chuyện
vui chơi giải trí, chuyện mời mọc của bạn bè.
Có nhiều chuyện thấy có vẻ
quan trọng hơn, khẩn trương hơn,
đến nỗi có người bỏ tham dự
thánh lễ Chúa Nhật.
Hãy chọn Thiên Chúa và biết
quý những gì Ngài muốn ban cho ta.
Đại tiệc Thiên Chúa đã dọn sẵn
rồi,
không chỉ ở đời sau, mà ngay ở
đời này.
Ngài mong ta đến để dự tiệc,
hay đúng hơn để chia sẻ một tình bạn.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại
chọn những cầu thủ bóng đá,
những tài tử điện ảnh
làm thần tượng cho đời mình.
Hôm nay
Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai,
và chúng con thật sự đắn đo
trước khi chọn Chúa.
Bởi chúng con biết rằng
chọn Chúa là lội ngược dòng,
theo Chúa là bước vào con đường hẹp:
con đường nghèo khó và khiêm nhu,
con đường từ bỏ và phục vụ.
Hôm nay, chúng con chọn Chúa
không phải vì Chúa giàu có,
tài năng hay nổi tiếng,
nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người.
Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa.
Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.
Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa
nhiều lần trong ngày,
qua những chọn lựa nhỏ bé,
để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con,
và để chúng con
thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
"Anh hãy ra ngoài đường
ngoài ngõ, và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi".
Chủ bị ế mặt
Đầy
tớ nói: “Thưa ông lệnh ông đã được thi hành mà vẫn còn chỗ. Ông chủ bảo người
đầy tớ: Ra các nẻo đường, dọc theo bờ rào bờ giậu, ép người ta vào đầy nhà cho
ta. Tôi nói cho các anh biết: Những khách đã được mời trước kia, không ai sẽ
được dự tiệc của tôi.” (Lc. 14, 22-24)
Một
người đồng bàn nghe Đức Giêsu nói về ngày sống lại của những người công chính
liền bình luận: “Phúc thay cho ai được dự tiệc trong nước Thiên Chúa”. Kẻ ấy
chắc chắn được cứu độ và được hưởng hạnh phúc. Để lay chuyển quan niệm sai lầm
về định mệnh vững chắc của họ, như thường lệ, Đức Giêsu dùng một câu chuyện
tiếp tục liên quan đến một bữa tiệc lớn để đem áp dụng vào tiệc nước trời.
Khách
từ chối vinh dự.
Quý
khách đã được giấy mời dự đại tiệc và chủ biết ai sẽ đến. Trước bữa tiệc, như
thường lệ, chủ sai đầy tớ đi mời lần nữa: “Mời quý vị đến, cỗ bàn đã sẵn”. Quý
khách đã nhận lời trước, đến phút chót lại từ chối, làm chủ nhục nhã ế mặt quá.
Những lời từ chối cho chủ thấy rõ: Họ quan tâm đến công việc của họ hơn đến dự
tiệc với chủ mời. Xin kiếu vì mới mua thửa đất, mới tậu bò, mới cưới vợ.
Tất
cả mọi người Ít-ra-en đều được Thiên Chúa mời dự tiệc nước trời. Bây giờ, Đức
Giêsu đến mời lần chót. Cần phải ăn năn sám hối trở về vì đây là ngày cứu độ.
Biệt phái từ chối lời mời của Người vì họ lo việc riêng của họ, quay mặt đi chỗ
khác không lưu tâm đến Thiên Chúa. Họ phỉ báng và kiêu ngạo từ chối quà tặng
vinh quang của Thiên Chúa.
Tặng
ban cho những người bất hạnh.
Ông
chủ lúc đó sai đi mời vào dự đại tiệc tất cả mọi người đã bị cộng đồng dân
thánh Ít-ra-en loại bỏ. Vẫn còn nhiều chỗ trống trong đại tiệc, đầy tớ lại đi
mời tất cả mọi dân tộc dân ngoại một cách tha thiết, khẩn khoản dù họ luôn luôn
bị coi là thứ ô uế như cộng đồng Ít-ra-en khinh bỉ họ. Họ được thuyết phục để
họ thấy mình thật sự được mời dự đại tiệc.
Trước
sự chai đá của biệt phái đã từ chối tin vào Đức Giêsu, Người muốn nhấn mạnh để
họ suy nghĩ rằng: Họ đã tự ý tách khỏi nước trời, trong khi Thiên Chúa vô cùng
thương yêu đã kêu gọi những người nghèo khó và tội lỗi, dù họ cảm thấy họ là kẻ
bất xứng nhất.
RC.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 11
6 THÁNG MƯỜI MỘT
Thánh Thể, Trung Tâm
Của Cộng Đoàn
Bằng
cách nào một cộng đoàn được khai sinh? Vấn nạn ấy tìm thấy câu trả lời tuyệt
vời của nó nơi Đức Kitô: cộng đoàn không được khai sinh chủ yếu từ sức lực và
sáng kiến của chính chúng ta. Chính Đức Kitô xây dựng cộng đoàn Kitô hữu. Và
chính công việc loan báo Tin Mừng là nhân tố quy tụ các tín hữu lại với nhau
(GH 26; PO 4). Nguyên lý hướng dẫn một cộng đoàn giáo xứ là: Lời Chúa được công
bố. Dân Thiên Chúa lắng nghe Lời Ngài, suy gẫm Lời Ngài và áp dụng Lời Ngài vào
cuộc sống thường ngày. Họ tìm cách “hội nhập chân lý vĩnh cửu của Đức Kitô vào
những hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống” (PO 4). Thật vậy, chỉ lắng nghe Lời Chúa
mà thôi thì không đủ. Chỉ công bố Lời Chúa mà thôi cũng không đủ. Cần phải sống
Lời Chúa nữa.
Cộng
đoàn Kitô hữu được khai sinh từ Lời Chúa, nhưng trung tâm và chóp đỉnh của đời
sống cộng đoàn là việc cử hành Thánh Thể (CD 30). Qua Thánh Thể, cộng đoàn cắm
rễ vào mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô. Nhờ Đức Kitô, Dân Thiên Chúa được đi
vào trong mối hiệp thông với Chúa Ba Ngôi. Đời sống của một cộng đoàn có chiều
sâu thẳm như thế! Và đó là ý nghĩa của các cử hành phụng vụ – những cử hành
được cắm rễ nơi cung lòng Thiên Chúa. Qua các cử hành ấy, chúng ta gặp gỡ Đức
Kitô, Đấng đã chết, đã sống lại, và đang sống giữa chúng ta.
Thánh
Thể mạc khải cho chúng ta ý nghĩa của lao động, ý nghĩa của những khó khăn gian
khổ mà chúng ta đương đầu trong cuộc sống đời thường. Ý nghĩa của mọi nỗi đau
buồn được soi chiếu rõ. Vì khi được kết hợp với hy tế của Đức Kitô, tất cả sẽ
trở thành một lễ phẩm dâng lên Thiên Chúa và trở thành nguồn sống cho chúng ta.
Không gì có thể chặn đứng được sự tăng triển của một cộng đoàn nếu cộng đoàn ấy
luôn biết sống như một cộng đoàn Phục Sinh – một cộng đoàn cùng chết và sống
lại với Chúa Kitô (Rm 6, 4-8)
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 06-11
Pl 2, 5-11; Lc 14, 15-24.
LỜI
SUY NIỆM:
Trong dụ ngôn khách được mời xin kiếu, Chúa Giêsu đã kết luận: “Tôi nói cho các
anh biết: Những khách đã được mời trước kia, không ai sẽ được dự tiệc của tôi”
(Lc 14,24).
Dân tộc Do-thái là một dân đã được Thiên Chúa tuyển chọn để đớn nhận Con Một
của Ngài, nhưng đến khi Con Một của Ngài được sai đến, thì họ lại viện rất
nhiều điều để từ chối, không đón nhận. Một lần nữa Ngài vẫn dành cho họ một ưu
tiên bởi sự trung tín của Ngài đối với dân mà Ngài đã tuyển chọn, Ngài lại cho
các tôi tớ đi mời một lần nữa, loan báo bữa tiệc đã dọn sẵn. Nhưng tất cả đều
nhất loạt từ chối. Trước sự cố tình vắng mặt của dân được tuyển chọn. Chương
trình yêu thương và cứu độ của Ngài không thể bị phá vỡ một lần nữa. Thiên Chúa
lại cho các tôi tớ ra ngoại thành khẩn khoảng mời hết mọi người. Đây chính là ân
sủng của Thiên Chúa, là sức mạnh làm cho những con người ngoại thành sẽ lướt
thắng mọi trạng thái bất xứng của mình, cũng như thiếu sự chuẩn bị khi được
mời. Là dân ngoại, là chúng ta ngày hôm nay, dân đã nhận biết Chúa Giêsu là Con
Một của Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ trần gian và được sống với giáo huấn của
Ngài để mai sau được ngồi vào tiệc của Ngài thiết đãi.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
06
Tháng Mười Một
Ðồng
Bạc Nhân Nghĩa
Một câu chuyện ngụ
ngôn của Nga kể rằng: Có một nhà phú hộ kia khi gần chết lòng trí vẫn chỉ nghĩ
đến tiền của là động lực đã thúc đẩy ông lao lực không biết mệt mỏi suốt cả
cuộc đời. Dùng chút sức tàn, ông cố gỡ chiếc bao nhỏ đeo ở cổ, lấy ra chiếc
chìa khóa trao cho người đầy tớ trung tín nhất của ông. Ông phú hộ ra dấu chỉ
chiếc rương nằm trong góc nhà và ra lệnh cho cô ta lấy những túi tiền vàng ở
trong đó bỏ vào quan tài.
Khi chết xong, ông
bắt đầu sống cuộc đời mới.
Ðứng trước chiếc bàn
dài trưng bày đủ thứ cao lương mỹ vị, ông ta hỏi: "Món này giá bao nhiêu
vậy?". Người bán hàng trả lời: "Một xu". Ông phú hộ chỉ một món
khác kém giá trị hơn và hỏi: "Còn hộp cá mòi kia giá bao nhiêu?".
"Cũng một xu", người bán hàng nhã nhặn trả lời.
Thấy người bán hàng
vui tính ông phú hộ tiếp tục hỏi: Còn miếng bánh này?". "Tất cả các
vật trưng bày ở đây đều được bán với giá một xu", người bán hàng cho biết.
Ông phú hộ mỉm cười
thỏa mãn. Rẻ thật, ông nghĩ thầm. Rồi sau một hồi ngắm nghía, ông chọn một đĩa
thức ăn lớn. Nhưng khi ông lấy một đồng tiền vàng mang theo lúc từ giã cõi đời
ra trả, cô thu tiền không nhận. Cô ta vừa lắc đầu vừa nói: "Ông đã học
được quá ít trong cuộc sống". Nghe nói thế ông phú hộ không khỏi ngạc
nhiên, gặn hỏi: "Thế nghĩa là gì? Ðồng tiền vàng của tôi không đủ để trả
cho đĩa thức ăn này sao?".
Bấy giờ người thu
tiền mới cho ông biết: "Ở đây chúng tôi chỉ nhận những đồng tiền mà trong
cuộc sống trước đây ông đã dùng để giúp đỡ cho những người nghèo túng, đói
khổ".
Tại những vùng chịu ảnh hưởng của Phật Giáo
đến từ Trung Hoa, vào những ngày giỗ hay ngày tư, ngày tết, các phật tử có thói
quen đốt những giấy tiền vàng bạc với niềm tin là qua đó họ có thể gửi tiền ấy
cho ông bà, cha mẹ đã quá cố để họ có thể tiêu xài nơi chốn suối vàng.
Những người Công Giáo cũng thể hiện lòng hiếu
thảo của mình đối với những thân nhân đã qua đời bằng cách dâng những hy sinh
và kinh nguyện đặc biệt trong tháng 11 mỗi năm. Cộng vào đấy, là những hành
động bác ái, chia sẻ, làm thay cho những người đã từ biệt cõi đời.
Lúc rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nêu bật
thật rõ ràng ý nghĩa của biến cố "Nhập Thể" của Ngài: Ngài không
những "làm người" trong một thân xác duy nhất, ngài còn đồng hóa mình
với tất cả mọi người để nếu chúng ta yêu thương bất kỳ ai, đó là chúng ta cũng
yêu mến Ngài.
Ðể sống trọn ý nghĩa của tháng 11, tháng các
đẳng linh hồn, chúng ta không chỉ dâng lời cầu nguyện cho những người đã khuất
bóng, nhưng cũng hãy gia tăng những việc từ thiện bác ái, chia cơm sẻ áo với
những anh chị em thiếu thốn đang sống bên cạnh, để dâng các công đức ấy cho các
đẳng, đồng thời cũng để thâu nhập cho chính chúng ta những công nghiệp có giá
trị vĩnh cửu trong cuộc sống mai hậu.
(Lẽ Sống)
Ngày 06
Chúng ta biết rõ,
không cần ở một
mình mới cảm thấy cô đơn, lẻ loi. Ngày nay, những thành phố hiện đại được thành lập, có hàng
triệu người cô đơn, sống sát cạnh nhau trong sự e ngại
người kia.
Với bao cảnh cô đơn, Đức Giêsu kêu gọi
"hiệp thông". Người đã đến trên những con đường chúng ta đi và cầm tay dắt chúng
ta đến với một Thiên Chúa có gương mặt người cha: một người Cha của toàn thể
nhân loại, vì thế tất cả chúng ta là anh em của nhau! Trên đường, Chúa ban Lời Người cho chúng ta, để soi sáng
"lòng trí không hiểu biết và chậm tin" của chúng ta. Khi ngày xế
chiều, Chúa bẻ bánh để lại sự Hiện diện của Người trong cử chỉ chia sẻ. Như món
quà tặng, Người cho chúng ta hiệp thông với Người, trong gia đình các thánh.
Lễ Các Thánh của đất và trời, là tình huynh đệ rất mong ước đang trên đường được thực
hiện. Chúng ta phải hành động để mau thuộc về Vương quôc của lòng tin cậy và
tình yêu thương. Bởi vì chúng ta càng thuộc về Chúa, thì chúng ta càng thuộc về
nhau. Và ngược lại! Ước gì chúng ta hiểu sâu hơn sự Hiện diện nào có thể tràn
ngập và lấp đầy những tình trạng cô độc của chúng
ta! Chỉ hai người với nhau, nhưng để là tất cả cho mọi người.
Philippe
Baud
Hạnh Các Thánh
Ngày 06 tháng 11
THÁNH LÊÔNARĐÔ TU HÀNH
Thánh Lêônarđô sinh trưởng trong một gia đình võ quan
thuộc thành phố Amélia nước Pháp. Thân phụ ngài là một vị tướng có tài thao
lược trong quân đội của Hoàng đế Clôđôvêô, vì thế ngày chịu phép rửa tội,
Lêônarđô đã được Hoàng đế đỡ đầu và nhận làm con thiêng liêng.
Sống trong một gia đình sung túc, Lêônarđô được thụ hưởng
một đời thơ ấu sung sướng an vui. Nhưng có lẽ Chúa nhiệm mầu đã muốn dùng
Lêônarđô để nhắc cho hậu thế biết rằng: quyền cao chức trọng, vàng bạc phú quý
không phải là lý tưởng con người theo đuổi, nhưng Chúa Kitô khó nghèo và âm
thầm ở Nagiarét mới là cứu cánh cuộc đời. Vì thế khi Lêônarđô mới lên 14 tuổi,
tuổi mà các cậu thiếu niên xây nhiều mộng vàng, cậu lại được thân phụ gửi gắm
vào tu viện Mici để nhờ chính cha bề trên giáo dục về cả hai phương diện đạo
đức và học vấn. Càng theo học, Lêônarđô càng thấy rằng đời sống vật chất xa
hoa, cũng như quyền chức danh vọng của bậc vương giả, đều không làm cho cậu
được thoả mãn những khát vọng thiêng liêng cao cả của tâm hồn. Thế rồi Lêônarđô
nhất định trở về sống với thánh Kêmiđiô, Giám mục thành Reims là người đã rửa
tội cho cậu. Sống gần Đức Giám mục, Lêônarđô luôn luôn lo lắng để tìm cho mình
một con đường trọn lành. Lúc này cậu rất chán ghét những chức tước mà cha cậu
muốn đặt cho. Lêônarđô luôn luôn hạ mình và coi mình như con một nhà cùng đinh
khố rách áo ôm. Cậu từ chối tất cả những kiểu cách ăn mặc, những cuộc vui nhộn
mà con một vị tướng có quyền hưởng.
Nhưng ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Lêônarđô đã được
Chúa ban cho một sức mạnh thiêng liêng quý báu: cậu có một sức quyến rũ những
người lầm lạc tội lỗi một cách phi thường. Vì thế, Lêônarđô dìu dắt được nhiều
chiên lạc trở về bằng đời sống cầu nguyện và những lời khuyên nhủ của mình.
Tiếng nhân đức của Lêônarđô đồn vang khắp nơi. Khi nghe
biết, Hoàng đế cho triệu ngài vào triều đình và có ý định bầu cử cho ngài lên
làm Giám mục. Nhưng Lêônarđô đã mạnh dạn tâu lại Hoàng đế rằng:
Tâu Bệ hạ, nếu muốn được quyền cao chức trọng thì hạ thần
đã xung phong vào làm tướng cho quân đội Bệ hạ, nhưng hạ thần muốn lo những
việc thiêng liêng hơn những việc vật chất. Vì thế hạ thần cũng muốn ở bậc
thường dân hơn là lên làm Giám mục.
Hoàng đế nghe vậy rất lấy làm cảm phục lòng khiêm nhường phi
thường của Lêônarđô, vua liền để ngài xin điều gì mặc ý. Sau những giây phút
suy nghĩ, thánh nhân đã xin một điều mà Hoàng đế chưa bao giờ tưởng tới. Ngài
xin Hoàng đế cho vào các ngục thất để ủy lạo phạm nhân, và ai tỏ vẻ hối lỗi,
ngài sẽ bầu cử với Hoàng đế tha cho về. Được sự đồng ý của Hoàng đế, thánh nhân
ngày đêm lăn lộn trong các nhà ngục và đã đem an vui đến cho bao tâm hồn, vì
ngài đi đến đâu, là người ta nhận được hình ảnh của một người cha nhân từ luôn
luôn thương yêu những đứa con lầm lỗi trở về đến đấy.
Ngày tháng trôi qua, Lêônarđô vẫn chưa thoả mãn lối sống
như thế, một ngày kia ngài nghe thấy như có tiếng từ trời cao phán bảo: “Con
hãy vào nơi thanh vắng mà an nghỉ một chút”. Theo tiếng gọi của trời cao,
Lêônarđô lên đường đến xứ Aquitania, vào trong một rừng sâu, dựng một túp lều
và bắt đầu sống đời tu hành ở đó. Trong những ngày sống âm thầm ở khu rừng này,
không ai biết Lêônarđô, chỉ trừ một số người man di mọi rợ mà thánh nhân đến
giảng đạo và xin họ bố thí của ăn mà thôi. Nhưng một ngày nọ, khi Hoàng đế và
Hoàng hậu nước Pháp vào trong khu rừng Lêônarđô ở để săn bắn, và Hoàng hậu
không chịu được chướng khí của núi rừng nên đã ngã bệnh nặng. Tất cả các danh y
đều chịu bó tay không còn thuốc nào có thể cứu sống được Hoàng hậu nữa. Được tin
ấy, Lêônarđô cũng mủi lòng, ngài liền đến gần nơi Hoàng đế đang nghỉ để chia
buồn. Vừa tới nơi, ngài liền sấp mình xuống đất cầu nguyện xin Chúa cứu sống
Hoàng hậu.
Sau một hồi lâu, Chúa đã nghe lời thánh nhân và đã cho
Hoàng hậu khỏi hết tất cả thứ tật bệnh. Thấy vậy, Hoàng đế cũng như tất cả
những người xung quanh hết sức vui mừng sung sướng. Được phép lạ ấy, Hoàng đế
đem một số vàng và một ít tiền đến để tạ ơn thánh nhân, nhưng ngài đều từ chối:
“Tâu Hoàng đế, không có vàng bạc, châu báu nào có thể sánh được với ơn Chúa.
Thế mà Người đã ban cho Hoàng đế một cách nhưng không. Vậy xin Hoàng đế đem
những vàng bạc này làm phúc cho những người nghèo đói, góa bụa, côi cút. Còn
phần tôi, tôi chỉ trông đợi mong ước những của châu báu trên trời mà mối mọt
không xông, kẻ trộm không lấy được mà thôi”. Thấy Lêônarđô từ chối tất cả,
Hoàng đế buồn lòng nên năn nỉ xin dâng cho thánh nhân cả khu rừng, nhưng thánh
nhân chỉ nhận một miếng con con để làm đẹp lòng Hoàng đế.
Sau đó thánh Lêônarđô dựng một đền thờ nhỏ ở trên một
đỉnh núi để dâng kính Đức Mẹ và lại tiếp tục sống cuộc đời với hai môn đệ. Ba
thầy trò sống trong trầm lặng, ngày đêm cầu nguyện cho những người chưa nhận
biết Chúa được tìm thấy ánh sáng đức tin, cho giáo dân được hết dạ mến yêu và
phụng sự Chúa. Tục truyền rằng: chỗ ba thầy trò ở không có nước để dùng, nên
ngày ngày hai môn đệ phải thay đổi nhau đi kín nước mãi tận đàng xa. Một môn đệ
đã xin với thánh Lêônarđô liệu cách nào cho đỡ phải đi xa quá như thế. Thánh
nhân bảo đào một cái giếng ở ngay sườn núi, nhưng không có một giọt nước nào
vọt lên cả. Ngài liền sấp mình xuống đất kêu xin Chúa, Đấng xưa đã cho nước ở
trong mạch đá chảy ra cho dân Do thái, xin Chúa thương cho môn đệ mình được như
vậy. Lập tức đáy giếng, nước vọt lên như suối nước chảy tràn cả một vùng.
Nghe biết những phép lạ ngài làm, nhiều người ở những đô
thị sầm uất cũng như ở những miền hẻo lánh đua nhau đem các thứ bệnh nhân đến
xin ngài cứu giúp. Có nhiều người bị gông cùm xiềng xích nhờ người đến xin cũng
được thánh nhân làm phép lạ cứu thoát một cách lạ lùng. Những người ấy đem tất
cả xiềng xích đến tạ ơn thánh nhân và xin ở lại luôn trong rừng với ngài.
Họ hàng thánh nhân cũng có một số đông bán hết của cải để
làm phúc bố thí và xin ngài cho vào rừng cầy cấy sống bên cạnh ngài. Thế là
chẳng mấy chốc khu rừng hẻo lánh của thánh nhân trở nên một làng nhỏ, trong đó
mọi người đều sống thanh bình thư thái trong yên vui của tình huynh đệ nồng
cháy.
Khi được 70 tuổi, thánh nhân ngã bệnh, ngài truyền cho
các môn đệ khiêng lên đền thờ ở trên đỉnh núi. Sau khi khuyên nhủ các đồ đệ,
thánh nhân đã an nghỉ giữa những tiếng khóc thê lương của hết mọi người trong
khu rừng cỏn con đó. Xác ngài được an táng trong đền thờ ấy, và ngày ngày có
rất nhiều khách thập phương lui tới cầu nguyện và tĩnh tâm. Thánh Lêônarđô đã
được đặt làm bổn mạng những người bị giam cầm, tù ngục, vì lúc sinh thời thánh
nhân hằng xót thương những hạng người đó, nhất là những người đang bị ma quỷ
cầm buộc trong đống bùn tội lỗi.
www.tinmung.net
Thứ Ba 6-11
Thánh Nicholas Tavelic và Các Bạn
(c. 1391)
hánh Nicholas và các bạn là
những người trong số 158 tu sĩ Phanxicô được tử đạo ở Ðất Thánh khi họ được
giao cho nhiệm vụ trông coi các vương cung thánh đường ở đây vào năm 1335.
Nicholas sinh năm 1340
trong một gia đình giầu sang và quý phái ở Croatia. Ngài gia nhập dòng
Phanxicô và được gửi đi rao giảng ở Bosnia với Deodat Rodez. Năm 1384, các
ngài tình nguyện sang Ðất Thánh với nhiệm vụ trông coi các địa danh linh
thiêng, chăm sóc các người hành hương và học tiếng Ả Rập.
Vào năm 1391, Nicholas,
Deodat, Peter Narbonne và Stephen Cuneo quyết định thuyết phục người Hồi Giáo
trở lại đạo một cách công khai. Ngày 11-11-1391, họ đến Ðền Omar ở Giêrusalem
và xin được gặp Qadi (giáo sĩ Hồi Giáo). Từ một bản văn viết sẵn, họ nói mọi
người phải chấp nhận phúc âm của Ðức Giêsu Kitô. Và khi được yêu cầu rút lại
lời tuyên bố ấy, họ đã từ chối. Sau khi bị đánh đập và cầm tù, sau cùng họ bị
chặt đầu trước đám đông.
Nicholas và các bạn được
phong thánh năm 1970. Họ là các tu sĩ Phanxicô duy nhất được phong thánh vì
tử đạo ở Ðất Thánh.
Lời Bàn
Thánh Phanxicô đưa ra hai
đường lối truyền giáo cho các tu sĩ trong dòng. Trong nhiều năm trời,
Nicholas và các bạn đã chọn đường lối thứ nhất (sống thầm lặng và làm chứng
cho Ðức Kitô). Sau đó họ cảm thấy được mời gọi để đi theo đường lối thứ hai
là rao giảng công khai. Các tu sĩ Phanxicô hiện vẫn hoạt động ở Ðất Thánh qua
đời sống gương mẫu để nhiều người biết đến Ðức Kitô hơn.
Lời Trích
Trong Quy Luật 1221, Thánh
Phanxicô viết cho các tu sĩ được sai đến Saracens (Hồi Giáo) "có thể
tự đối xử trong hai phương cách. Một cách là tránh tranh luận hoặc cãi cọ, và
'vì Chúa, hãy tùng phục bất cứ ai' (1 Phêrô 2:13), để làm chứng rằng mình là
Kitô Hữu. Một cách khác là công khai rao giảng lời Chúa, khi họ thấy đó là ý
Chúa muốn mời gọi những người được rao giảng hãy tin vào Thiên Chúa toàn
năng, là Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần, Ðấng Tạo Dựng muôn loài, và
qua Chúa Con, Ðấng Cứu Thế, hãy rửa tội cho họ để trở nên người Kitô đích
thực và thánh thiện" (Ch. 16).
|
|
|
www.nguoitinhuu.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét