Chúa Nhật 32 Quanh Năm Năm B
Bài Ðọc I: 1 V 17, 10-16
"Bà goá lấy bột làm
một cái bánh nhỏ, rồi mang đên cho ông Êlia".
Trích sách Các Vua quyển thứ
nhất.
Trong những ngày ấy, tiên tri
Êlia chỗi dậy lên đường đi Sarephta. Khi ông đến trước cửa thành, ông thấy một
quả phụ đang lượm củi; ông gọi bà và nói với bà rằng: "Xin đem cho tôi một
ít nước trong bình để tôi uống". Ðương lúc bà đi lấy nước, ông gọi lại mà
nói: "Xin cũng mang cho tôi một miếng bánh".
Bà thưa: "Có Chúa là
Thiên Chúa hằng sống chứng giám: Tôi không có sẵn bánh, tôi chỉ còn một nắm bột
trong hũ với một ít dầu trong bình. Này đây tôi lượm vài que củi về nấu cho tôi
và con trai tôi ăn, rồi chết thôi".
Êlia trả lời bà rằng:
"Bà đừng lo, cứ đi và làm như bà đã nói. Nhưng, với chút bột ấy trước hết
hãy làm cho tôi một cái bánh nhỏ, đem ra đây cho tôi, sau đó hãy làm cho bà và
con trai bà. Vì Chúa là Thiên Chúa Israel truyền rằng: 'Hũ bột sẽ không cạn và
bình dầu sẽ không vơi đi cho đến ngày Chúa cho mưa xuống trên mặt đất'".
Bà đi làm theo lời ông Êlia;
chính ông và bà cùng cả nhà đều đủ ăn; từ ngày đó hũ bột không cạn và bình dầu
không vơi như lời Chúa đã dùng Êlia mà phán.
Ðó là lời Chúa.
Elia và bà góa |
Ðáp Ca: Tv 145, 7. 8-9a.
9bc-10
Ðáp: Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa! (c. 1).
Xướng: 1) Thiên Chúa trả lại
quyền lợi cho người bị áp bức, và ban cho những kẻ đói được cơm ăn. Thiên Chúa
cứu gỡ những người tù tội. - Ðáp.
2) Thiên Chúa mở mắt những kẻ
đui mù, Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu
quý các bậc hiền nhân, Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. - Ðáp.
3) Thiên Chúa nâng đỡ những
người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm
vua tới muôn đời, Sion hỡi, Ðức Thiên Chúa của người sẽ làm vua tự đời này sang
đời khác. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Dt 9, 24-28
"Ðức Kitô chỉ tế lễ
chính mình một lần để huỷ diệt nhiều tội lỗi".
Trích thư gửi tín hữu
Do-thái.
Ðức Giêsu không tiến vào cung
thánh do tay người phàm làm ra chỉ là hình bóng cung thánh thật, nhưng Người
vào chính thiên đàng, để từ đây xuất hiện trước tôn nhan Thiên Chúa vì chúng
ta. Người không còn hiến dâng chính mình nhiều lần, như vị thượng tế vào cung
thánh mỗi năm một lần với máu không phải của mình. Chẳng vậy, từ tạo thiên lập
địa, Người đã phải chết nhiều lần; nhưng từ nay cho đến tận thế, Người chỉ xuất
hiện một lần tế lễ chính mình để huỷ diệt tội lỗi. Như đã quy định, người ta
chỉ chết một lần thế nào, sau đó là phán xét, thì Ðức Kitô cũng hiến tế một lần
như vậy, để xoá tội lỗi của nhiều người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, không
phải để chuộc tội, nhưng để cứu độ những ai trông đợi Người.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mt 24, 42a và 44
Alleluia, alleluia! - Các con
hãy tỉnh thức và sẵn sàng: vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến. -
Alleluia.
Phúc Âm: Mc 12, 41-44 {hoặc 38-44}
"Bà goá nghèo này đã
bỏ nhiều hơn hết".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Marcô.
Khi ấy, {Chúa Giêsu phán cùng dân chúng trong khi giảng dạy rằng:
"Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ. Họ thích đi lại trong bộ áo thụng,
ưa được bái chào ngoài công trường, chiếm những ghế nhất trong hội đường và
trong đám tiệc. Họ giả bộ đọc những kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà
goá: Họ sẽ bị kết án nghiêm ngặt hơn".}
Chúa Giêsu ngồi đối diện với
hòm tiền, quan sát dân chúng bỏ tiền vào hòm, và có lắm người giàu bỏ nhiều
tiền. Chợt có một bà goá nghèo đến bỏ hai đồng tiền là một phần tư xu. Người
liền gọi các môn đệ và bảo: "Thầy nói thật với các con: Trong những người
đã bỏ tiền vào hòm, bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người
kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình
có để nuôi sống mình".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Ðức Giêsu đưa ra hai hình ảnh
đối nghịch: một bên là sự giả hình của các kinh sư, biệt phái. Lòng họ đầy mưu
mô xảo quyệt nhưng được che đậy bằng một lớp vỏ bọc bên ngoài hết sức an toàn.
Bên kia là sự chân thành của bà góa nghèo, bà đã dâng số tiền nhỏ mọn với thái
độ âm thầm và quảng đại. Như thế giá trị của việc dâng cúng hay bất cứ việc gì
khác không tùy thuộc số lượng, hay kết quả bên ngoài; nhưng tùy thuộc tấm lòng
thành và cách sống của mỗi người.
Cầu Nguyện:
Lạy Cha, Cha không cần chúng
con phải dâng cho Cha của lễ cao trọng. Cha cũng không bắt chúng con phải hy
sinh, phải chia sẻ cho anh em quá độ ngoài sức chúng con. Nhưng Cha đòi hỏi nơi
chúng con sự chân thành, và quảng đại thực sự. Chúng con vẫn còn cái nhìn rất
hạn hẹp khi đánh giá người khác qua hình thức bên ngoài. Chúng con vẫn dùng
tiền bạc của cải làm thước đo thang giá trị. Xin cho chúng con tích cực cộng
tác về mọi phương diện trong việc xây dựng Hội Thánh, xây dựng giáo xứ, khu xóm
và chân thành thực thi bác ái đối với anh chị em chúng con. Amen.
(Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)
Câu
Chuyện Về Người Góa Phụ
(Sách Các Vua, quyển I 17,10-16; Hipri 9,24-28; Marcô
12,38-44)
Suy Niệm:
Chúa Nhật XXXII Thường
Niên Năm B
Sách Các Vua, quyển I
17,10-16; Hipri 9,24-28; Marcô 12,38-44
Nhiều khi chúng ta muốn giữ
đạo một cách thoải mái. Nhưng Lời Chúa hôm nay cảnh giác chúng ta về quan niệm
này. Tiên tri Êlia ngày trước đã giữ đạo rất vất vả. Ðức Yêsu trong bài Tin
Mừng cũng bảo chúng ta đừng bắt chước các ký lục Dothái, nhưng hãy xem gương
người góa phụ dám dâng cúng cả đồng trinh cuối cùng. Và tác giả Hipri cho chúng
ta thấy Ðức Yêsu đã trở thành Thượng tế một cách khổ đau như thế nào. Chúng ta
cần suy niệm các bài Kinh Thánh hôm nay để đón nhận ơn cứu độ của Chúa muốn đến
với chúng ta hằng ngày trong đời sống.
1. Câu Chuyện Về Êlia
Chúng ta đã nói nhiều về
Êlia. Ông là tiên tri của Chúa, sống ở thời đất nước Dothái phân đôi. Ông được
lệnh nói tiên tri ở miền Bắc, tạm gọi là Israel. Các vua ở đây đi xa đường lối
của Thiên Chúa mau lẹ hơn các vua ở Yuđa. Ðặc biệt, vua Omri, nước Israel đã
cưới Izabel, công chúa nước Tyr, cho Akhab hoàng tử kế vị ông. Bà này đưa tà
giáo vào cung điện, quảng cáo cho thần Baal, một thần được coi như nắm giữ mưa
nắng ở trên trời và do đó cả mùa màng dưới mặt đất. Êlia chống đối hoạt động
của bà. Có lần ông thách thức phe tà giáo ở núi Camêlô. Câu chuyện thời danh ấy
ai ai cũng biết (I Các Vua 18,20-40). Nhưng rồi Izabel đã trả thù, bắn tin sai
người bắt Êlia... Nhà tiên tri phải đi ẩn ở trên núi Horeb. Nhưng được thần
lương bổ sức, ông lại tiếp tục. Cuộc đời của ông là cuộc đời chiến đấu với tà
giáo để bảo vệ độc thần. Và các câu chuyện kể về ông đều ít nhiều nói lên sự
phấn đấu này.
Trong đoạn trích sách Các Vua
hôm nay cũng vậy. Có rất nhiều yếu tố chiến đấu mà không ý tứ người ta sẽ không
dễ nhận ra. Tác giả kể có một góa phụ ở Serepta hôm ấy đi kiếm củi. Êlia thấy
bà ta đội một cái bình trên đầu thì tưởng bà ta đi múc nước. Nhưng không, đó là
một cái vò đựng một chút bột còn sót lại. Bà ta đi kiếm củi để về nướng chút
bột đó lên nuôi sống mình và đứa con đang ở nhà.
Ðó là hình thức văn chương
tác giả dùng để nói lên thời kỳ hạn hán và đói kém ở trong dân. Không phải vì
Baal không làm mưa cho mùa màng tốt tươi nhưng vì Êlia đã tuyên sấm với Akhab
rằng: "Yavê hằng sống! Thiên Chúa của Israel, Ðấng tôi chầu hầu, những năm
tới đây sẽ không có sương, cũng không có mưa, trừ phi là thừa lệnh của tôi"
(17,1). Tiếp theo đó, tác giả đã mô tả cảnh hạn hán để làm chứng hiệu lực của
lời sấm, tức là uy quyền của Yavê và tiên tri của Người. Hơn nữa sự kiện lại
xảy ra ở Serepta thuộc dân ngoại. Và điều này làm chứng Yavê cai trị toàn thế
giới chứ không riêng gì ở đất Israel. Người thống trị cả những nơi mà người ta
bảo là giang sơn của Baal hay của thần nào khác vì tất cả chỉ là ngẫu tượng và
duy một mình Yavê là Chúa.
Tác giả lại chọn câu chuyện
một góa phụ. Phải chăng ông không có ý chống đối và mỉa mai bà Izabel? Góa phụ
kia dễ thương biết bao và bà sẽ được phúc. Còn Izabel? Tác giả để cho độc giả
từ đó mà suy.
Ông cho ta thấy Êlia phải xin
nước, rồi xin bánh của một góa phụ. Ngày xưa các góa phụ là hình ảnh của những
thành phần lam lũ, khổ sở, túng cực trong dân. Thế mà Êlia phải đến xin nước và
bánh của một người như thế. Ðời ông không khổ cực và bị dồn vào túng cực sao?
Ðiều này muốn nói lên thân phận Người Tôi Tớ Chúa. Họ bị "rạc gáo".
Ðời họ còn hơn phong sương vì họ còn bị tầm nã, bắt bớ và giết đi. Dù sao bề
ngoài họ cũng chỉ như những chiếc bình sành, tuy bên trong họ mang những kho
tàng quý giá. Chính câu chuyện Êlia làm chứng. Ông đang đói khát cho bản thân
mình. Nhưng Lời Chúa ông đang mang trong mình có thể làm cho bình bột không hết
và bình dầu không cạn. Những ơn này dành để cho người khác. Và ở đây, cho người
góa phụ thành Serepta.
Bà được ơn như vậy, mặc dầu
bà là dân ngoại và đang sống trên đất của lương dân. Ðiều này làm chứng ơn Chúa
không kỳ thị ai. Nhưng mọi kẻ có điều kiện đều có khả năng nhận được. Người là
Thiên Chúa của mọi người và muốn thi ân cho hết thảy những ai biết đón nhận.
Người góa phụ thành Serepta
không những tỏ ra rất nhân đạo, nhưng nhất là còn tin ở lời vị tiên tri và tin
vào Lời Chúa. Chính niềm tin ấy khiến bà dám làm bánh cho nhà tiên tri ăn
trước. Bà như quên và như bỏ mạng sống của mẹ con bà vì tin vào lời nhà tiên
tri. Và Chúa đã thưởng công lòng tin này, khiến câu chuyện về bà hôm nay đáng
được dùng để dẫn nhập vào bài Tin Mừng. Nhưng chúng ta đừng vội đi qua mà không
ghi kỹ lấy nhiều bài học thâm thúy của đoạn sách Các Vua.
Không kể những tư tưởng về
đạo độc thần và phổ quát, chúng ta hãy nhớ gương Êlia và người góa phụ này. Cả
hai đã giữ đạo và sống đạo không dễ dàng. Êlia suốt đời phải chiến đấu; lắm lúc
thật rã rời và nhục nhã. Người góa phụ trông cũng tội nghiệp: chỉ còn một chút
bột mà cũng phải hy sinh. Nhưng đó là những con người thánh, dám vì lòng tin
Chúa mà chịu đựng gian khổ thử thách. Hậu thế không quên được những con người
như vậy. Cũng như câu chuyện về người góa phụ trong bài Tin Mừng hôm nay sẽ
luôn luôn còn sống động.
2. Câu Chuyện Về Người Góa
Phụ
Thoạt đầu chúng ta ít thấy có
liên lạc giữa các đoạn Ðức Yêsu nói về các ký lục và câu chuyện về bà góa.
Thánh Marcô đặt cả hai việc xảy ra trong Ðền thờ. Và có lẽ người đã dùng chữ bà
góa trong câu nói về các ký lục: "ngốn cả nhà cửa các bà góa" để
chuyển sang câu chuyện bà góa nọ bỏ hai trinh vào hòm tiền cúng. Tuy nhiên
chúng ta cũng có thể nhìn ra một liên lạc về ý tưởng. Phần đầu Ðức Yêsu sẽ công
kích thái độ đạo đức giả dối của bọn ký lục; và phần sau Người trỏ cho chúng ta
thấy thái độ đạo đức đích thực nơi người góa phụ, để dạy dỗ chúng ta.
Trước hết, Người tỏ ra không
ưa lối sống đạo của các ký lục. Họ khoe khoang, tham danh vọng, vì họ hay qua
lại những nơi đông người, y phục xúng xính cho người ta dãn ra dành lối cho họ
và chào cả trong hội đường lẫn nơi các bàn tiệc. Trong khi đó, Ðức Yêsu vẫn bảo
người ta khi cầu nguyện phải khiêm tốn và cúi đầu, đấm ngực ăn năn thống hối.
Và khi đi dự tiệc hãy ngồi những hàng ghế dưới. Có lần Người còn bảo môn đệ
"chớ cho gọi mình là Thầy vì Thầy của các ngươi chỉ có một, còn các ngươi
hết thảy đều là anh em" (Mt 23,8). Tệ hơn nữa, các ký lục còn làm nhiều
bất công xã hội. Ðối với cả những phần tử đáng thương nhất, vì khổ sở nhất và
cần được nâng đỡ nhất. Ðó là các bà góa. Họ có gì đâu? Của cải chồng họ để lại
thuộc về trưởng nam. Có thể trước đó họ đã gửi gắm ở đâu được một chút của nào
đó. Hay tài sản riêng họ có trước khi về nhà chồng, họ đã đem gửi nơi các ký
lục mà họ tưởng sẽ là những người đạo đức nâng đỡ họ. Ai ngờ bọn này lại lợi
dụng và dã tâm ngốn cả nhà cửa của họ! Trong khi đó, bọn ký lục còn làm bộ cầu
nguyện lâu dài để mặc hình thức đạo đức. Nhưng Ðức Yêsu lên án thứ đạo đức giả
hình này. Và Người muốn cho các môn đồ thấy sự đạo đức chân thật.
Cơ hội đến khi có nhiều người
đến bỏ tiền vào hòm cúng. Lắm người giàu có bỏ nhiều. Bà góa khó nghèo nọ cũng
đến và bỏ vào hai trinh, tức là không đáng kể gì. Nhưng Ðức Yêsu nói: bà đã bỏ
nhiều hơn cả, vì mọi người lấy của dư bỏ vào, còn bà lấy tất cả của độ thân mà
dâng cúng.
Dĩ nhiên có thể có nhiều bài
học ở đây. Người ta không xem mặt mà bắt hình dong. Không phải vì bà góa nọ
nghèo mà không đáng trọng bằng kẻ giàu có; và không phải vì bà bỏ ít mà lòng
đạo đức của bà thua kém ai. Cũng như tác giả sách Các Vua đã lấy hình ảnh một
góa phụ ở Serepta để đối chọi với con người lộng quyền ở thời bấy giờ là
Izabel, thì ở đây thánh Marcô cũng đặt người góa phụ nghèo khó đối lập với bọn
giàu có và các ký lục xúng xính trong y phục. Thân góa phụ đã đáng thương rồi.
Thế mà Marcô còn thêm tính từ nghèo khó. Cũng như Êlia xưa đã đáng thương khi
bị tầm nã, thế mà tác giả sách Các Vua còn bắt ông phải ngửa tay ra xin nước
uống và bánh ăn của một góa phụ. Ðó là những con người nghèo của Chúa. Người
mến họ vì họ dám phục vụ Người với hết cả linh hồn và sức lực. Kìa bà góa nghèo
nọ đang đến bỏ vào hòm tiền, tất cả của độ thân của bà, tức là tất cả mạng sống
của bà. Bà làm một cử chỉ mà Ðức Yêsu không thể không nhìn thấy như muốn báo
trước chính công việc Người sẽ làm, là thí mạng sống mình cho chúng ta. Chúng
ta hãy nghe tác giả thư Hipri bàn về vấn đề này.
3. Câu Truyện Về Ðức Kitô
Hôm nay tác giả nhắc cho
chúng ta nhớ, Ðức Kitô cũng đã tiến vào thánh điện. Không phải thánh điện nhân
tạo, do tay loài người dựng nên. Nói rõ hơn, không phải thánh điện trong đền
thờ Yêrusalem ngày trước. Bởi vì ở đây không phải là nơi Thiên Chúa ngự thật
sự. Yêrusalem chỉ là hình bóng hay bản sao của thánh điện trên trời. Ðây mới
thật là thánh điện Ðức Kitô đã vào nhờ mầu nhiệm vượt qua của Ngài. Thánh điện
trên trời này chính là bản tính Thiên Chúa và cung lòng của Người.
Như vậy, Ðức Yêsu vượt xa các
ký lục và những người đến đền thờ dâng tiền hôm nay, kể cả bà góa nọ. Ngay các
vị Thượng tế trong đạo cũ cũng thua kém hẳn Người. Vì họ cũng chỉ vào trong một
thánh điện nhân tạo, cho dù nơi ấy có được gọi là nơi Cực Thánh, và chỉ có vị
Thượng tế mỗi năm được vào một lần.
Ðức Kitô còn hơn hẳn họ vì
Người vào thánh điện không phải là để thi hành một lễ tế vô giá trị như họ. Lễ
dâng của Người có giá trị vô song. Họ thì chỉ dâng tế vật. Trường hợp vị Thượng
tế thì dâng máu thay vật. Ðó là những của lễ "ở ngoài họ", cho dù có
được gọi là thế vật cho họ đi nữa. Chính họ đã ý thức giá trị kém cỏi của những
lễ dâng này, nên họ cứ phải dâng đi dâng lại. Và hằng năm vị Thượng tế lại phải
vào nơi cung thánh. Nhưng nhân hoặc cộng các sự không hoàn toàn vần chỉ đem lại
một cộng số hay tổng số không hoàn toàn.
Trong khi đó, lễ dâng của Ðức
Kitô là chính Máu của Người, sự sống của Người. Và máu này, sự sống này lại
tinh sạch tội lỗi, lại thánh thiện công chính hoàn toàn. Ðó là hy lễ dứt khoát,
vẹn tuyền, tẩy xóa tội lỗi. Thế nên không thể lập đi lập lại, và chỉ cần thực
hiện một lần vào chính lúc sung mãn của thời gian. Thành ra cũng một sự chết mà
ở nơi mọi người chỉ mở sang sự phán xét, còn nơi Ðức Kitô lại đem đến ơn tha
thứ cho mọi người.
Chúng ta hãy sung sướng cảm
tạ lễ Vượt qua của Ðức Kitô. Nó mưu phần rỗi cho chúng ta. Chúng ta hãy thành
tâm cử hành mầu nhiệm Vượt qua ấy trong thánh lễ này. Không phải chỉ để chiêm
ngưỡng một hy tế của Ðức Kitô; nhưng còn để tham dự vào hành vi tiến lên thánh
điện của Người. Êlia và bà góa phụ ở Serepta đã muốn tham dự vào lễ tế này khi
Êlia chấp nhận cuộc đời phấn đấu và bà góa kia bằng lòng làm theo lời Thiên
Chúa. Người đàn bà góa khó nghèo trong bài Tin Mừng quả thật cũng đã báo trước
việc Ðức Kitô thí mạng sống mình để xóa tội trần gian. Tất cả những con người
ấy đều có lòng đạo đức chân thật, khác hẳn những người ký lục mà Marcô nói tới
hôm nay. Chúng ta sẽ giống hạng người nào? Chỉ có đời sống xả kỷ mới là tiêu
chuẩn để giúp trả lời. Chúng ta cầu xin và quyết tâm bắt chước các gương tốt
lành đã xem trong các bài Kinh Thánh hôm nay, và đặc biệt gương của Ðức Kitô
sắp được tái hiện trên bàn thờ.
(Trích dẫn từ tập sách
Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời
Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật 32 Thường
Niên,
Năm B
Bài đọc: I
Kgs 17:10-16; Heb 9:24-28; Mk 12:38-44.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Phải hy sinh tất cả cuộc đời để cho đi.
Nhiều người ngày nay sợ
hy sinh vì nó ảnh hưởng đến thể xác, ý muốn, và thời gian hưởng thụ của họ;
nhưng nếu mọi người đều sợ và sống ích kỷ, làm sao thế giới này có thể tồn tại
chứ đừng nói tới việc thăng tiến cá nhân và xã hội. Tình yêu thực sự đòi phải
hy sinh tất cả những gì mình có, chứ không phải chỉ cho đi những của dư thừa mà
thôi. Người đời có thể đánh giá tình yêu bằng những vật chất bên ngoài; nhưng
Thiên Chúa đánh giá theo tâm lòng bên trong: niềm tin và tình yêu con người
dành cho Thiên Chúa và tha nhân. Sự hy sinh cao cả nhất một người có thể làm
được là hy sinh chính mạng sống của mình.
Các Bài Đọc hôm nay nêu
bật những hy sinh anh hùng của các tâm hồn cao quí, cho dù có phải hy sinh mạng
sống mình. Trong Bài Đọc I, sự hy sinh của bà góa thành Zareptha: Bà can đảm hy
sinh nắm bột và chút dầu còn lại sau cùng để làm bánh cho tiên tri Elijah và
hai mẹ con; dẫu Bà biết ăn xong là hai mẹ con sẽ chết vì đói. Hậu quả của niềm
tin vào lời ngôn sứ, hai mẹ con có bánh ăn muôn đời. Trong Bài Đọc II, nhờ sự
hy sinh vô cùng cao quí của Đức Kitô đã hy sinh đổ máu trên Thánh Giá một lần,
con người được thanh tẩy khỏi mọi tội lỗi và được sống muôn đời. Trong Phúc Âm,
Chúa Giêsu dạy các môn đệ hãy có cặp mắt thần để biết đánh giá đúng các hành
động của con người. Người thế gian dễ bị đánh lừa bằng các hành động phô trương
bên ngoài; nhưng người môn đệ Chúa phải biết nhìn sâu và đánh giá tâm hồn bên
trong, dù hành động bên ngoài của con người xem ra rất tầm thường.
KHAI
TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Bác
ái đòi hy sinh cho dù phải đương đầu với cái chết.
1.1/ Sự quan phòng kỳ
diệu của Thiên Chúa cho tiên tri Elijah: Để hiểu rõ ràng trình thuật hôm nay, chúng ta
cần đọc toàn chương 17 của Sách Các Vua I. Thiên Chúa để hạn hán xảy ra, không
mưa và cũng không sương rơi trong toàn vùng suốt ba năm, vì vua quan và con cái
Israel bỏ Thiên Chúa để chạy theo các thần ngoại và đường lối riêng của mỗi
người. Riêng tiên tri Elijah được Thiên Chúa truyền sống trong một thung lũng
có suối nước để uống và quạ nuôi ông ăn. Khi suối nước cạn, Thiên Chúa truyền
cho ông đến Zareptha để được nuối ăn bởi một bà góa ở đó.
Ông liền đứng dậy đi
Zareptha. Khi đến cổng thành, ông thấy có một bà goá đang lượm củi. Ông gọi bà
ấy và nói: "Bà làm ơn đem bình lấy cho tôi chút nước để tôi uống." Bà
ấy liền đi lấy nước. Ông gọi bà và nói: "Bà làm ơn lấy cho tôi miếng bánh
nữa!" Bà trả lời: "Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông tôi thề
là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi
đang đi lượm vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi. Chúng tôi
sẽ ăn rồi chết."
1.2/ Niềm tin của bà góa
vào lời của tiên tri Elijah: Không gì kinh khủng cho con người bằng đói khát. Nhiều
người Việt-nam chúng ta vẫn còn nhớ những kinh hoàng của tháng ba đói năm Ất
Dậu; bao nhiều người đã chết đói và số còn lại chưa ăn xong bữa nay đã phải lo
cho ngày mai. Ít người dám bố thí vì ai cũng phải lo cho gia đình mình. Bà góa
này bị đặt trong trường hợp rất khó xử, vì điều tiên-tri xin ảnh hưởng đến sự
sống còn của Bà và người con trai.
(1) Phản ứng của
tiên-tri Elijah: Tiên-tri biết rõ uy quyền của Thiên Chúa; nên cho dù được Bà cho
biết tình cảnh tang thương như thế, ông vẫn nói với bà: "Bà đừng sợ, cứ về
làm như bà vừa nói. Nhưng trước tiên, bà hãy lấy những thứ đó mà làm cho tôi
một chiếc bánh nhỏ, và đem ra cho tôi, rồi sau đó bà sẽ làm cho bà và con bà.
Vì Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel phán thế này: "Hũ bột sẽ không vơi, vò
dầu sẽ chẳng cạn, cho đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất."
(2) Phản ứng của bà góa: Hành động của bà góa là
một hành động anh hùng và biểu lộ một niềm tin sâu xa, vì Bà không biết kế
hoạch của Thiên Chúa như tiên-tri Elijah. "Bà ấy đi và làm như ông Elijah
nói;" cho dù biết hai mẹ con có thể chết đói sau đó.
Thiên Chúa thử thách và
ân thưởng những người có lòng tin nơi Ngài và tỏ tình yêu mến tha nhân:
"Thế là bà ấy cùng với ông Elijah và con bà có đủ ăn lâu ngày. Hũ bột đã
không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Elijah mà
phán." Ngoài ra, Thiên Chúa còn cho người con trai của Bà đã chết được
sống lại nhờ sinh khí của tiên-tri Elijah.
2/
Bài đọc II: Đức Kitô đã hy sinh đổ máu để chuộc
tội cho con người.
2.1/ Hiến tế độc nhất vô
nhị của Đức Kitô: Tác giả Thư Do-thái so sánh hiệu quả của hy lễ của Chúa Giêsu
trên đồi Calvary với hy lễ của các Thượng Tế làm mỗi năm Nơi Cực Thánh trong
Ngày Xá Giải, và nhận ra những khác biệt sau đây:
(1) Nơi Cực Thánh khác
nhau:
"Quả thế, Đức Kitô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra,
vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Nhưng Người đã vào chính
cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng
ta." Nơi Cực Thánh mà Chúa Giêsu vào không còn là Đền Thờ; mà là chính Nước
Trời, nơi cung điện của Thiên Chúa.
(2) Hiến tế của Đức Kitô
chỉ xảy ra một lần trên đồi Calgary; nhưng mang lại hiệu quả suốt đời. Tác giả trình
bày: "Người vào đó, không phải để dâng chính mình làm của lễ nhiều lần,
như vị thượng tế mỗi năm phải đem theo máu của loài khác mà vào cung thánh.
Chẳng vậy, Người đã phải chịu khổ hình nhiều lần, từ khi thế giới được tạo
thành. Nhưng nay, vào kỳ kết thúc thời gian, Người đã xuất hiện chỉ một lần, để
tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình." Máu của các thú vật chỉ
có khả năng hạn hẹp là tha các tội nhẹ và phải tái diễn nhiều lần; nhưng Máu
của Con Một Thiên Chúa có sức mạnh tha các tội, cho dù chỉ đổ ra một lần mà
thôi.
2.2/ Đức Kitô đã hy sinh
chịu chết để mang lại ơn cứu độ cho muôn người: Khi làm bất cứ việc gì, Đức Kitô cũng
như con người đều cân nhắc những hiệu quả mang lại. Chúng ta đã một lần bàn qua
những hiệu quả xảy ra do việc hy sinh chính thân mình của Đức Kitô: (1) Thánh ý
Đức Chúa Cha được thể hiện: Ngài mong muốn cho con người không phải chết; nhưng
được sống hạnh phúc bên Ngài muôn đời. (2) Chính Đức Kitô sẽ được Chúa Cha cho
sống lại và làm Vua tất cả mọi người. (3) Con người được tha thứ mọi tội lỗi và
được giao hòa với Thiên Chúa. Họ sẽ không phải chết muôn đời, nhưng sẽ đạt được
đích điểm là hạnh phúc muôn đời bên Chúa Ba Ngôi.
Vì những hiệu quả này mà
Đức Kitô sẵn sàng nhập thể, hy sinh trải qua cuộc Thương Khó, Tử Nạn, và Phục
Sinh; vì Ngài biết sẽ mang lại hiệu quả tốt đẹp cho Chúa Cha, cho chính mình,
và cho mọi người. Hơn nữa, Đức Kitô biết đau khổ chỉ tạm thời; nhưng hiệu quả
sẽ tồn tại muôn đời, như lời tác giả Thư Do-thái nói: "Đức Kitô đã tự hiến
tế chỉ một lần, để xoá bỏ tội lỗi muôn người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai,
nhưng lần này không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi
Người."
Đây phải là bài học cho
con người noi theo: Nhiều người than phiền cứ hy sinh mãi rồi mà chết à! Đức
Kitô dạy chúng ta: nếu phải hy sinh cho đến chấp nhận cái chết để mang lại lợi
ích cho Thiên Chúa và tha nhân, chúng ta vẫn phải làm; vì chết không hết, Ngài
sẽ trao lại sự sống và ân thưởng những gì chúng ta đã hy sinh cho tha nhân.
Biết bao vị thánh đã đổ máu hay trọn đời hy sinh cho tha nhân, vì họ đã thấu
hiểu triết lý sống của Đức Kitô. Nếu một người sợ phải hy sinh chết cho người
khác, và sống theo tính ích kỷ của bản thân, anh vẫn không thoát khỏi cái chết;
và sẽ bị Thiên Chúa phán xét theo những gì anh đã không làm cho tha nhân. Chúng
ta chỉ có một đời để chứng tỏ niềm tin yêu vào Thiên Chúa và cho tha nhân, hãy
biết sống làm sao cho đẹp một đời.
3/
Phúc Âm: Bà
rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống
mình.
3.1/ Đừng phán xét con
người theo các hành động bên ngoài: Người Việt-nam chúng ta có câu "chiếc áo
không làm nên ông thầy tu," có nghĩa: để được gọi là bậc chân tu, một
người phải sống những điều của một tu sĩ; chứ không phải chỉ khoác trên mình
chiếc áo dòng mà thôi. Trong trình thuật hôm nay, Chúa Giêsu cũng vạch trần
những thói xấu của những người lợi dụng chiếc áo tôn giáo để kiếm lợi nhuận cá
nhân cho mình: "Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh xúng
xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ
ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ nuốt
hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ."
Những người như thế có
thể đánh lừa được những tâm hồn ngây thơ; nhưng không thể đánh lừa được Thiên
Chúa, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn trong tâm hồn. Họ sẽ bị Thiên Chúa phán xét
nghiệm nhặt vì đã lợi dụng tôn giáo cho các ý đồ xấu xa của họ.
3.2/ Hãy biết nhìn sâu
vào tâm lòng bên trong của tha nhân: Chúa Giêsu không chỉ dạy các môn đệ đừng xét
đoán theo tiêu chuẩn của thế gian bên ngoài; nhưng Ngài còn dạy cho họ biết
cách nhìn sâu vào tâm hồn bên trong qua việc dân chúng đóng góp tiền vào Đền
Thờ.
(1) Xét đoán theo cách
thức bên ngoài của thế gian: Nhiều người sẽ trầm trồ khen ngợi những người bỏ tiền nhiều
vào thùng, và kết luận họ có lòng quảng đại với Thiên Chúa; nhưng Chúa Giêsu
dạy các môn đệ đừng dễ kết luận như thế, vì có thể đó chỉ là những của dư thừa
của người giầu.
(2) Xét đoán theo tâm
hồn bên trong của Thiên Chúa: Ngồi theo dõi, Chúa Giêsu thấy cũng có một bà goá nghèo đến
bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá khoảng một phần tư đồng xu Rôma. Chúa
Giêsu nói các môn đệ: "Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào
thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ
mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó
tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình."
Thiên Chúa không phán
xét theo số lượng con người đóng góp, vì Ngài ban cho mỗi người tài năng và số
lượng khác nhau; nhưng Ngài phán xét theo sự cố gắng của con người. Nhiều lần
Chúa Giêsu nói: "Ai được ban tặng nhiều sẽ bị đòi lại nhiều;" nghĩa
là sẽ phải chịu phán xét nặng hơn.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG:
- Tình yêu đòi hỏi phải
hy sinh đến cùng, cho dù phải thiệt hại đến bản thân. Chúng ta có thể làm điều
này vì chúng ta tin chết không hết; nhưng Thiên Chúa sẽ trao lại mạng sống và
ân thưởng tất cả những gì chúng ta đã làm cho tha nhân.
- Gương mẫu hy sinh
chúng ta cần noi theo là Đức Kitô. Ngài đã hy sinh nhập thể, rao giảng, chữa
lành, và sẵn sàng chịu đóng đinh trên Thập Giá để chuộc tội cho con người. Chúng
ta hãy bắt chước Ngài trong mọi việc chúng ta làm trong cuộc đời này.
- Khi phải đánh giá con
người, chúng ta đừng hời hợt đánh giá họ theo tiêu chuẩn của người thế gian;
nhưng phải biết nhìn sâu vào tâm hồn yêu thương bên trong, thì mới nhận ra được
những hy sinh cao quí của họ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
Chúa Nhật tuần 32 thường niên, năm B
|
Suy niệm: Ðức Giêsu đưa ra hai hình ảnh đối nghịch: một
bên là sự giả hình của các kinh sư, biệt phái. Lòng họ đầy mưu mô xảo quyệt
nhưng được che đậy bằng một lớp vỏ bọc bên ngoài hết sức an toàn. Bên kia là sự
chân thành của bà góa nghèo, bà đã dâng số tiền nhỏ mọn với thái độ âm thầm và
quảng đại. Như thế giá trị của việc dâng cúng hay bất cứ việc gì khác không tùy
thuộc số lượng, hay kết quả bên ngoài; nhưng tùy thuộc tấm lòng thành và cách
sống của mỗi người.
Cầu nguyện: Lạy Cha, Cha không cần chúng con phải dâng cho
Cha của lễ cao trọng. Cha cũng không bắt chúng con phải hy sinh, phải chia sẻ
cho anh em quá độ ngoài sức chúng con. Nhưng Cha đòi hỏi nơi chúng con sự chân
thành, và quảng đại thực sự. Chúng con vẫn còn cái nhìn rất hạn hẹp khi đánh
giá người khác qua hình thức bên ngoài. Chúng con vẫn dùng tiền bạc của cải làm
thước đo thang giá trị. Xin cho chúng con tích cực cộng tác về mọi phương diện
trong việc xây dựng Hội Thánh, xây dựng giáo xứ, khu xóm và chân thành thực thi
bác ái đối với anh chị em chúng con. Amen.
Ghi nhớ :"Bà goá nghèo này đã bỏ
nhiều hơn hết".
www.phatdiem.org
11/11/12 CHÚA NHẬT TUẦN 32 TN – B
Mc 12,38-44
Mc 12,38-44
DÂNG TẤT CẢ CHO CHÚA
“Thầy bảo thật anh
em, bà góa nghèo này bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết.” (Mc 12,43)
Suy niệm: Thi hào Tagore (Ấn Độ) viết một bài thơ kể về một người ăn
xin gặp Đức Vua đi vi hành. Anh mừng thầm vì phen này chắc sẽ được Đức Vua ban
tặng. Nào ngờ, chính Đức Vua lại chìa tay xin anh bố thí. Bối rối, ngỡ ngàng,
người hành khất lấy ra một hạt thóc từ trong cái bị của mình và dâng cho Đức
Vua. Buổi tối về đến nhà anh đổ bị thóc ra thì thấy một hạt vàng lấp lánh nằm
giữa những hạt thóc… Anh đã khóc vì hối tiếc: “Phải chi lúc đó tôi dâng tất cả
bị thóc này cho Đức Vua”!…
Bà góa nghèo trong Phúc
Âm chỉ dâng cúng hai đồng xu nhỏ cho đền thờ, nhưng bà đã không phải hối tiếc.
Chúa đã nhìn thấy bà, Ngài không đánh giá theo số lượng nhưng ở tấm lòng. Chúa
đã ca ngợi bà làngười dâng cúng nhiều nhất vì bà đã dâng tất cả.
Mời Bạn nhìn lại sự dâng hiến của bạn cho Chúa, như thời giờ, tiền
bạc, sức lực, những sự dâng cúng của bạn cho các công cuộc bác ái từ thiện… Sự
đóng góp của bạn có phát xuất từ tấm lòng đối với Chúa không, hay chỉ vì tiếng
khen, hay cũng chỉ bởi tiền dư bạc thừa? Mỗi ngày hãy nhìn xem Chúa đã yêu bạn
thế nào, để bạn biết quảng đại đáp trả bằng sự dâng hiến tất cả cuộc đời cho
Ngài, với tất cả tấm lòng.
Sống Lời Chúa: Dâng những hy sinh nhỏ bé, những việc làm tầm thường, hay
thời giờ, tiền của để phục vụ Chúa với hết cả tấm lòng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con xin dâng cho Chúa con người của con,
trí nhớ, trí hiểu, tự do, mọi sự Chúa ban cho con, con xin dâng lại cho Chúa,
chỉ xin Chúa ban cho con tình yêu và ân sủng của Chúa, thế là đủ cho con rồi.
www.5phutloichua.net
Bỏ vào tất cả
Ðiều quan trọng khiến tôi bận tâm đó là tôi có
dâng tất cả bản thân cho Chúa không, chẳng giữ lại gì cho mình, dù chỉ một xu
nhỏ.
Suy niệm:
Khó lòng
nhận ra đồ giả trong các món hàng.
Ta thường đánh giá một sản
phẩm dựa trên mẫu mã,
nên dễ bị đánh lừa về chất
lượng.
Thật ra đồ giả cũng có ở nơi
con người.
Làm cho mình trẻ hơn nhờ trang
điểm, tốt hơn nhờ ăn nói.
Làm cho mình có dáng trí thức
hơn, quý phái hơn
để chiếm được lòng tin, lòng
quý mến của người khác.
Có loại người giả hình dạy một
đàng, làm một nẻo,
bắt người khác làm những điều
mình chẳng bao giờ làm,
mạt sát người khác về những
tội mình không tránh khỏi.
Có loại người giả hình rất tử
tế với người ngoài,
còn sống với người trong nhà
thì không ai chịu nổi.
Nói chung mọi thứ giả hình đều
không thật.
Ðức Giêsu cảnh giác chúng ta
về thứ giả hình đạo đức:
“Anh em hãy coi chừng...”, kẻo
lại giống một số kinh sư.
Ðức Giêsu cố
ý ngồi đối diện với thùng tiền ở Ðền Thờ.
Ngài tò mò muốn xem đám đông
bỏ tiền ra sao.
Những người giàu bỏ nhiều hơn
cả.
Nhưng Ngài lại xúc động khi
thấy một bà goá nghèo
rón rén bỏ vào thùng hai đồng
xu nhỏ.
Ngài quả quyết trước mặt các
môn đệ:
“Bà goá này đã bỏ nhiều tiền
hơn người khác,
vì mọi người lấy từ cái dư
thừa mà bỏ vào,
còn bà, bà lấy từ cái túng
thiếu của mình
mà bỏ vào tất cả những gì bà
có, tất cả của nuôi thân”.
Các môn đệ
ngỡ ngàng trước cách đánh giá của Ðức Giêsu,
cách nhìn con người dựa trên
tấm lòng của họ.
Bà goá bỏ tiền ít hơn mọi người,
nhưng dưới mắt Ðức Giêsu, bà
đã bỏ nhiều hơn cả,
vì bà đã bỏ tất cả.
Lối đánh giá của Ðức Giêsu
đòi ta xét lại lối đánh giá
của mình về người khác.
Có khi chúng ta ca ngợi một
người
chỉ vì người ấy đã có những
đóng góp lớn lao,
đã đem lại những kết quả cụ
thể, rõ ràng.
Có khi chúng ta chê một người
vì người đó kém cỏi, thiếu
năng lực.
Tiếng khen chê của ta thường
dựa trên hiệu quả bề ngoài,
và ít đụng đến phần nội tâm
sâu thẳm.
Lối đánh giá của Ðức Giêsu
cũng đòi ta xét lại
lối đánh giá của mình về chính
mình.
Tôi xao xuyến khi bị chê, tự
mãn khi được khen.
Tôi quá trọng dư luận đến nỗi
trở nên nô lệ cho dư luận.
Thật ra tôi cần đánh giá mình
dựa trên cái nhìn của Chúa.
Chúa thấy tôi thế nào thì tôi
là thế ấy.
Ðiều quan
trọng khiến tôi bận tâm
đó là tôi có dâng tất cả bản
thân cho Chúa không,
chẳng giữ lại gì cho mình, dù
chỉ một xu nhỏ.
Cần rất nhiều liều lĩnh khi bỏ
nốt đồng xu cuối cùng
để thực sự trở nên người tín
thác trọn vẹn vào Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
khi đến với nhau,
chúng con thường mang những mặt nạ.
Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.
Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt
dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.
Khi đến với Chúa,
chúng con cũng thường mang mặt nạ.
Có những hành vi đạo đức bên ngoài
để che giấu cái trống rỗng bên trong.
Có những lời kinh đọc trên môi,
nhưng không có chỗ trong tâm hồn,
và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.
Lạy Chúa Giêsu,
chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,
tự ru ngủ và đánh lừa mình,
mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.
Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,
đã ăn sâu vào da thịt chúng con,
để chúng con thôi đánh lừa nhau,
đánh lừa Chúa và chính mình.
Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,
để chúng con được lớn lên trong bình an.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
"Bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết".
Giá trị đạo đức
1.
Đức Giêsu đưa ra ba hạng người tiêu biểu trong đời sống đạo đức, giúp ta nhận
ra đâu là giá trị đạo đức thật, đâu là giả.
Ba
hạng người đó giống như một ông đi họp từ thiện ăn mặc sang trọng. Trước khi
đi, ông quyết định giúp 20.000$, đến nơi, thấy nhiều người giúp 20.000$, ông
muốn hơn người ta, nên góp 50.000$ nhưng ông lại rút lộn bao thư 100.000$ trao
cho hội từ thiện. Vậy đâu là giá trị việc bác ái của ông?
Giá
trị việc bác ái của ông xét theo đạo đức học là ở ý hướng, ở lòng tốt, thiện
tâm, thiện chí. Lòng tốt của ông ở quyết định giúp 20.000$. Đến nơi, ông muốn
góp 50.000$ để hơn người ta, nổi tiếng hơn người ta, đó là do tính ham danh
vọng, ham địa vị của ông, nên ông không được phúc lại mắc thêm tội kiêu ngạo. Còn
việc ông rút lầm bao thơ 100.000$ là ngoài ý hướng tốt của ông. Đây là việc
đóng góp vô ý thức, nó vô thưởng vô phạt, nó vô ích đối với ông. Xét về đạo
đức, nó không có giá trị gì với ông.
2.
Ba hạng người trong Tin mừng hôm nay cũng có những hành vi đạo đức tương tự như
ông đi họp từ thiện trên.
-
Hạng kinh sư làm việc đạo đức chỉ vì cầu danh, cầu lợi, cầu địa vị. Họ mặc lễ
phục trịnh trọng, làm bộ đọc kinh nguyện lâu giờ chỉ để cầu được kính trọng
chào hỏi, cầu ngồi chỗ danh dự nhất, cầu kiếm được nhiều tiền của biếu tặng. Họ
hoàn toàn có mục đích xấu, vụ lợi, ích kỷ, kiêu ngạo. Xét theo giá trị đạo đức,
hạng này rất xấu: “Họ sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn”.
-
Hạng thứ hai là những người giàu có, làm việc đạo đức bằng dâng cúng những của
dư thừa, hoặc vì gò bó theo tục lệ phải dâng cúng, hoặc vì sợ chê cười, hoặc
làm cho qua đi, cho xong chuyện, khỏi bị quấy rầy. Họ làm việc bác ái từ thiện
sống đạo đức theo thói quen, sợ dư luận hay sợ tội, sợ phạt. Họ thiếu lòng
thành tâm, thiện chí. Họ không có ý tốt, lòng tốt. Xét theo giá trị đạo đức,
việc từ thiện, dâng cúng, đọc kinh của họ là vô ích. Họ không được công phúc
gì.
-
Hạng thứ ba là những người sống đạo đức, làm việc từ thiện, bác ái cách thành
tâm, thiện chí, cố gắng hy sinh làm việc thiện, việc tốt, việc thiêng liêng sốt
sắng như bà góa nghèo, dù chỉ có một phần tư xu để nuôi mình, bà cũng dâng cúng
hết. Bà cũng không sợ chê cười vì bỏ quá ít so với người khác. Bà chấp nhận
cảnh thấp hèn thua kém người khác. Bà thật là người thành tâm, thiện chí, rất khiêm
tốn. Đức Giêsu đã đánh giá bà có lòng đạo đức rất cao đáng làm gương cho các
môn đệ: “Thầy bảo thật anh em: Bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai
hết, tuy rất túng thiếu, đã bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để
nuôi sống bà”.
Bà
góa này cũng giống bà góa thành Sarépta: “Chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu
trong vò, đang đi tìm mấy thanh củi rồi về nướng cho con trai và mình ăn, rồi
chết”. Sống trong nạn đói cùng cực như vậy, vẫn sẵn sàng hy sinh nhường cho
Êlia ăn, dù chẳng biết Êlia là ai. Chính vì lòng hy sinh bác ái tột độ đó,
Thiên Chúa đã cho hũ bột không vơi, vò dầu không cạn để cứu sống bà, con bà và
tiên tri Êlia nữa.
3.
Người Việt Nam cũng đề cao giá trị đạo đức chân chính bằng những câu châm ngôn
như: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. “Cái nết đánh chết cái đẹp”. Gỗ là giá trị chân
chính, nước sơn mầu mè bên ngoài là phụ thuộc. Tính nết là giá trị cốt cách của
con người, còn vẻ đẹp, duyên dáng bên ngoài là tùy phụ, chóng phai, chóng tàn.
Tuy nhiên, thời đại ngày nay, người ta bị hấp dẫn về mẫu mã, quảng cáo, tuyên
truyền, hơn là phẩm chất tốt của vật dụng. Vì thế, giá trị đạo đức bị suy đồi,
những sản phẩm, hàng hóa giả dối lan tràn khắp nơi, gây nên biết bao tai họa.
Phân, thuốc, giống cây dổm làm mất mùa, đói kém, nghèo khổ khắp nơi. Vật liệu
xây cất dổm làm bao nhiêu công sở, nhà cửa mới xây đã đổ nát, bỏ hoang không ai
dám ở. Máy móc, nhiên liệu dổm, sản phẩm kém phẩm chất, xuất khẩu bị trả lại
làm kinh tế xuống dốc. Miệng hô hào: “Người tốt việc tốt” nhưng làm láo, báo cáo
rất hay, tệ đoan tham nhũng, ô dù, thành tật vô phương cứu chữa, tương lai đất
nước thật đen tối!
Mỗi
người chúng ta phải tự xét mình: mọi việc chúng ta làm giả dối hay chân chính,
nhất là những việc bác ái và đạo đức thiêng liêng, chúng ta có thành tâm, thiện
chí cố gắng thực hiện không. Những dâng lễ, đọc kinh cầu nguyện, dâng cúng giúp
đỡ làm vì mến Chúa yêu người hay vì bó buộc, vì thói quen, vì sợ dư luận, tệ
hơn nữa làm vì cầu danh, khoe khoang?
Lạy
Chúa Giêsu, Chúa đã thấu suốt tận đáy lòng mỗi người chân thực hay giả dối, và
đã tán thưởng bà góa nghèo túng biết hết lòng hy sinh dâng cúng tất cả những gì
bà có đến cạn kiệt, không còn chút gì để nuôi sống. Còn Chúa, chính Chúa đã hy
sinh dâng tất cả những gì Chúa có và cả mạng sống cho chúng con hơn gấp trăm
ngàn lần bà góa kia. Xin cho chúng con biết chân thành hiến dâng đời sống mình
để phục vụ mọi người vì hết lòng mến Chúa. Amen.
(Trích
trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. ViKiNi)
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 11
11 THÁNG MƯỜI MỘT
Nguồn Tài Nguyên Cho
Tương Lai
Quả
là mối đe dọa khủng khiếp đang tiềm ẩn trong sự thay đổi kỹ thuật đã đánh thức
lương tâm chúng ta, giúp chúng ta thấy cần phải khôn ngoan và cần phải nhớ lại
những giá trị đạo đức của nền văn minh của mình. Chính sự tiến bộ khoa học đã
đặt ra "vấn đề đạo đức" như là "vấn đề xã hội" mới của
tương lai. Và đâu là câu trả lời?
Chúng
ta phải bắt đầu bằng việc theo đuổi sự khôn ngoan. Vì sự khôn ngoan đích thực
là tinh túy của lương tâm các dân tộc, nên vai trò của công chúng trong việc
quyết định tương lai thế giới là một cái gì rất hiển nhiên. Chẳng hạn, hãy xem
xét lãnh vực di truyền học đang ngày càng phát triển. Những nghiên cứu hiện nay
cho thấy rằng con người có thể đạt được những thành tựu rất lớn. Những cũng có
nhiều khả năng hủy hoại tàn khốc đối với loài người chúng ta. Các nhà khoa học
và các chính quyền có trách nhiệm không thể tránh né việc tự hỏi mình những câu
hỏi hệ trọng của triết học và thần học. Con người là ai? Định mệnh của con
người là gì?
Trong
khi theo đuổi sự khôn ngoan, nhiều người bắt đầu khám phá lại câu trả lời của
chân lý Kitô giáo. Họ bắt đầu thấy rằng sự bảo đảm đích thực duy nhất cho nhân
tính trong xã hội tương lai chính là sự tôn trọng đối với con người và đối với
sự sống. Chúng ta đang về nguồn. Con người đang nhận ra rằng các giá trị dường
như cũ kỹ trong quá khứ đang tỏ ra là những của gia bảo cần phải được trân
trọng giữ gìn cho tương lai.
Và sự khôn ngoan này
trong việc nhận biết con người và bản tính con người xuất phát từ chính lương
tâm của các dân tộc trên trái đất. Sở dĩ tôi đi khắp nơi trên thế giới và gặp
gỡ người ta thuộc mọi nền văn hóa và tôn giáo, đấy bởi vì tôi tin rằng Chúa
Thánh Thần ươm trồng những mầm khôn ngoan trong lương tâm của mọi dân tộc. Đó
là nguồn tài nguyên thực sự cho tương lai của thế giới chúng ta, một tương lai
trong đó con người biết phục vụ cho con người.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Chúa Nhật XXXII Thường Niên;
1V 17, 10-16; Dt 9, 24-28; Mc 12, 38-44.
LỜI
SUY NIỆM:
Trong câu chuyện về đồng xu của người đàn bà góa nghèo dâng cúng. Đức Giêsu
liền gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ
vào thùng nhiều hơn ai hết.” (Mc 12,43).
Chúa Giêsu quan sát những người đang dâng cúng trong Đền Thờ và Ngài đánh giá.
Cách Ngài đánh giá và Ngài giải thích thế nào là nhiều và thế nào là ít, thế
nào là lòng chân thành và hy sinh, thế nào là hình thức là dư thừa. Có lắm
người giàu bỏ thật nhiều tiền, Đây là những đồng tiền dư bạc thừa của những
người giàu có, Họ có dâng cúng như thế cũng không ảnh hưởng đến đời sống của
họ. Còn đối với bà góa nghèo với hai đồng tiền kẻm, giá trị của nó chỉ bằng một
phần tư đồng bạc Rô-ma. Nhưng đồng tiền của bà góa nghèo này, bà đang rút từ
cái túng thiếu của mình, Có ảnh hưởng đến tài sản của bà; đó là tất cả tài sản của
bà, để bà sống. Qua câu chuyện người đàn bà góa nghèo dâng cúng cho chúng ta
một cách suy nghĩ, là của dâng cúng phải là do lòng thành của chính mình, chứ
không phải vì nhìn qua ngó lại người ta, thứ đến là của dâng cúng phải là cái
xót ruột của chính mình khi bỏ ra; chứ không phải là của dư thừa của mình. Cẩn
thận trong việc dâng cúng. Chúa cần lòng chân thành và sự hy sinh của mỗi
người.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 11-11
Thánh Martin và kẻ ăn xin |
Thánh MARTINÔ Thành
Turinô
Giám Mục (khoảng 315 - 397)
Chúng
ta biết được thánh Martinô nhờ Sulpicô Sêvêrê, thân hữu và nhà chép sử của
Ngài. Nhiều phép lạ động trời ông kể lại tuy khó tin nhưng đầy sống động và xác
tín khiến các phép lạ chỉ còn khó tin đối với những ai chối bỏ thế giới thiêng
liêng. Một cách chính yếu chúng ta có thể tin vào Sulpiciê được.
Martinô
sinh ra khoảng năm 315 ở Sabaria... miền Pannonia (hay là Hungaria) là con của
một sĩ quan. Cha mẹ Ngài đều là lương dân, nhưng còn trẻ Ngài đã ghi tên làm dự
tòng.
Lúc
15 tuổi, Martinô nhập ngũ và sớm được phái sang miền Gaule ngoại đạo (nước Pháp
ngày nay). Các binh sĩ trong trại sống không gương mẫu gì, nhưng Martinô tin
vào Chúa Kitô nên sống như một Kitô hữu. Ngài phân phát một phần tiền lương cho
người nghèo và có những hành vi bác ái ít gặp thấy, chẳng hạn đảo ngược vai trò
để đánh giày cho người hầu. Ơ cửa thành Amiens một ngày mùa đông, chàng hiệp sĩ
sẽ trẻ gặp người ăn xin dường như trần truồng. Martinô nói: - Tôi chỉ có áo
quần và khí giới.
Rồi
rút kiếm ra, Ngài xẻ đi chiếc áo cho người ăn xin.
Câu
chuyện kết thúc với giấc mơ trong đó Martinô thấy Chúa Kitô hiện ra mặc nửa
chiếc áo và nói với các thiên thần. - Chính Martinô đã mặc cho Ta đây.
Sau
đó ít lâu vào khoảng 20 tuổi, Martinô lãnh nhận phép rửa tội, nhưng vẫn phải
miễn cưỡng ở lại trong quân đội hai năm sau khi quân rợ xâm lăng Gaule, Martinô
xin cấp chỉ huy, có lẽ là Constantinô để được từ nhiệm: - Tôi là binh sĩ Chúa
Kitô, thật sái phép nếu tôi phải phục vụ trong quân ngũ.
Bị
coi là hèn nhát, Ngài bị giải pháp trong hành tiền quân tại chiến điạ. Tuy
nhiên, quân rợ đã bao vậy nhưng không động binh. Martinô được giải ngũ có lẽ
năm 339.
Danh
tiếng của thánh Hilariô giám mục Poitier đã thu hút Martinô trở thành môn đệ
của Ngài. Nhưng ao ước cho cha mẹ trở lại đạo, Martinô đã trở về sinh quán ở
Pannonia. Khi qua núi Alple, Ngài bị bọn cướp vây bắt. Martinô đã nói với người
sắp dùng búa giết Ngài:
-
Một người Kiô hữu không sợ gì, nhưng chính anh lại phải sợ tất cả. Anh sẽ trả
lời thế nào với Chúa khi anh phải trả lẽ cho đời sống đầy tội ác của anh ?
Ngài
đã được tên cướp giải phóng và đưa hắn trở về với Chúa.
Tương
truyền rằng: bên ngoài Milan, thánh Martinô gặp qui và satan tuyên cáo rằng : -
Đi đâu mày cũng sẽ phải gặp tao. Đáp lại, thánh Martinô hứa hẹn với qủi một
cuộc chiến cam go : - Cả hai bên đều phải giữ lời nhé.
Thánh
Martinô được hạnh phúc thấy mẹ trở lại nhưng người cha không muốn nghe gì hết.
Bị bắt bớ và bị người đồng hương đánh đòn, thánh Martinô đi Gaule. Nhưng Ngài
biết rằng: thánh Hilariô đã bị những người theo Kitô bắt đi đày. Ngài rút vào
một tu viện gần Milan, nhưng bị những người theo lạc giáo săn đuổi và chạy ẩn
vào một hoang đảo gần Ghênes, sống bằng cây cỏ. Ngày kia, Ngài bị trúng độc và
như sắp chết. Theo thói quen, Ngài chống lại bệnh tật bằng lời cầu nguyện và
cơn bệnh biến mất, Ngài gặp lại thánh Hilariô trên đường lưu đày trở về và xây
dựng ở Lihugné. Gần Poitiers một nơi ẩn tu mà chẳng bao lâu đã trở thành cộng
đoàn của các nhà ẩn tu.
Ngài
được chọn làm giám mục thành Tour vì danh tiếng và sự thánh thiện của Ngài. Nhưng
để đưa được Ngài ra khỏi tu viện, người ta phải kiếm cớ là có bệnh nhân ở Tours
cần được chữa khỏi. Thày dòng vội vã ra đi nhưng chĩ gặp và một số giám mục đến
tấn phong cho Ngài ngày 4 tháng 7 năm 371. Trong khi đó những người quí phái và
lãnh Chúa chống lại "một người ăn mặc bẩn thỉu và đầu tóc rối bù".
Vị
tân giám mục vẫn giữ được chiếc áo len thô, ngai tòa Ngài là một chiếc ghế đẩu
bằng gỗ. Càng nặng trách nhiệm Ngài càng cảm thấy cần hồi tâm. Ngài lập tu viện
Marmoutiers với chủng viện và nhà trường. Các linh mục được đào tạo tại đó để
nâng hàng giáo sĩ buông thả lên. Marmuotiers sắp sinh ra trường công lập đầu
tiên là mẹ đại học Oparis.
Công
cuộc truyền giáo của thánh Martinô mở rộng khác thường. Đời sống luân lý của
dân quê thật khắc khổ. Có những Kitô hữu hợp nhau với lương dân để mừng kính
thần Jupiter, tập hợp quanh những dòng nước, nhưng cây cổ thụ. Vị giám mục
truyền giáo không dừng lại ở giáo phận Ngài, nhưng đi khắp nơi tìm kiếm các
linh hồn. Ở mỗi sào huyệt của ngẫu tượng, Ngài dừng lại giảng dạy cải hóa thay
thế đền miếu bằng một thánh đường, và đặt linh mục Marmoutiers dẫn dắt. Thế là
một giáo xứ thành hình.
Thiên
Chúa luôn giúp đỡ Ngài. Ở Ambroisé có một ngôi đền vĩ đại thờ thần Mars. Không
ai dám nghĩ đến việc phá đổ. Martinô cầu nguyện suốt đêm. Hôm sau một cơn bão
lớn nổi lên phá đổ ngẫu tượng. Một nhà thờ được dựng lên và thế là giáo xứ
Ambroise được thành lập.
Trong
một thị trấn nhỏ, vị tông đồ truyền chặt bỏ cây cổ thụ được thần thánh hóa.
Những người thờ ngẫu tượng nói: - Nếu Thiên Chúa ông thờ quyên phép như ông
nói, ông hãy nằm dưới chỗ cây đổ xuống, nếu ông thoát nạn, chúng tôi sẽ tin
Thiên Chúa.
Martinô
nhận lời, cây bị đốn lung lay ngã xuống... sắp nghiền nát Đức giám mục... nhưng
Ngài bỉnh tĩnh làm dấu thánh giá và cây bỗng quay ngược về phía đối diện.
Ở
Apris Ngài chữa lành một người cùi, ở Treves Ngài làm phép dầu để chữa lành một
cô bé bất toại, trên đường về Ngài phục sinh đứa con duy nhất Chúa một phụ nữ
và toàn dân hò vang niềm tin vào Thiên Chúa. Tới gần Vandome tái diễn phép lạ:
sau bài giảng làm động lương tâm người nghe, một phụ nữ đưa tới cho Ngài một em
bé đã chết, quỳ xuống cầu nguyện và trả đứa bé sống lại cho mẹ nó.
Đây
là một giai thoại đẹp về chiếc áo thánh Martinô mặc, biến thành áo choàng sáng
láng. Các Vua Chúa nhận lời thề của các chư hầu trên "chiếc áo choàng
thánh Martinô này" và người ta có lẽ đã hay gọi nơi giữ áo choàng này là
nguyện đường (tiếng Pháp là Capelle hay Chapelle). Aix, nơi Charlemanghe ở trẻ
thành Aix-la-chapelle, và tên chapelle này lan rộng để chỉ mọi nơi người ta đến
cầu nguyện.
Tới
80 tuổi, thánh Martinô vẫn truyền giáo không mệt mỏi. Ngài còn chuộc các tù
nhân, tham dự các cộng đồng. Ngài chỉ nghỉ ngơi đôi chút nơi các tu sĩ của
mình, ở Marmoutiers để lại ra đi bằng bất cứ phương tiện nào dùng được cho việc
truyền giáo. Trong một sứ vụ cuối tại địa phận, khi thấy cái chết tới gần,
thánh Martinô báo cho môn đệ biết, nhưng vẫn dâng lao lực của mình cho Chúa.
-
"Lạy Chúa, nếu dân Chúa còn cần đến con, con không từ chối đau khổ và công
việc nào, nguyện cho ý Chúa được thực hiện".
Nằm
trên tro như Ngài muốn. Thân thể lên cơn sốt, Đức giám mục vẫn đưa tay ngước
mắt lên trời. Các tu sĩ xin Ngài xuôi tay, Ngài nói: - "Các anh để tôi
nhìn trời hơn là nhìn thế gian để hồn tôi theo đường ngay mà tới Chúa".
Quỉ
dữ tấn công Ngài lần chót, người ta nghe tiếng người hấp hối nói: - "Đồ
súc vật độc ác, mầy làm gì đó ? mầy không tìm được nơi tao điều gì đâu, đồ bị
chúc dữ ! Chính lòng Abraham sẽ đón nhận tao".
Đó
là những lời sau cùng trước khi Ngài chết vào ngày 8 tháng 11 năm 379. Ba ngày
sau ngày được mai táng ở Tours. Ngài là vị thánh đầu tiên không phải là tử đạo
hay lừng danh vì cuộc tử đạo. Mộ của Ngài ở Tours là thành trì vững chắc chống
lại dân man di. Toàn dân Pháp và các vị thánh của nước này suốt nhiều thế kỷ
vẫn hành hương để khấn cầu vị cải hóa Gaule che chở.
(Daminhvn.net)
++++++++++++++++++
11
Tháng Mười Một
Xẻ
Áo
Trong một ngày đông giá
lạnh, Martinô, lúc ấy đang còn phục vụ trong quân ngũ và chưa lãnh nhận niềm
tin Kitô, gặp một ông ăn mày nghèo khổ đến độ không có lấy một mảnh vải che
thân, đang ngồi tựa lưng vào bức tường giơ bàn tay khẳng khiu van xin từng đồng
xu nhỏ của những người qua lại. Không sẵn tiền trong túi và cũng không có lương
thực để cho, Martinô nhanh nhẹn leo xuống ngựa, tuốt gươm cắt phân nửa áo
choàng của mình và quàng lên tấm thân gầy guộc của người ăn xin đang run rẩy vì
cái lạnh buốt xương. Kẻ qua đường đồng thanh cười nhạo cử chỉ khác lạ của người
thanh niên.
Ðêm hôm đó, Martinô nằm
mơ thấy chính Chua Giêsu bận nửa áo choàng mà chàng đã trao tặng cho người ăn
mày và Chúa nói: "Martinô, tuy chưa lãnh nhận Phép Rửa Tội, đã đắp lên tôi
chiếc áo này".
Ai trong chúng ta cũng
biết câu chuyện truyền khẩu trên về hành động bác ái của thánh Martinô, vị
thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay.
Chào đời vào khoảng thế
kỷ thứ 4 tại Sabaria, nay thuộc nước Hungari, năm 20 tuổi, Martinô được gửi
theo học tại Italia. Tuy là người không theo đạo Kitô, nhưng vì sống giữa các
sinh viên Công Giáo, nên chàng đã suy nghĩ nhiều khi nghe bạn bè nói đến Ðức
Giêsu. Chàng nhất định tìm hiểu xem Giêsu là ai?
Nhưng chẳng bao lâu
chàng bị động viên. Khoảng năm 350, rời khỏi quân ngũ, Martinô xin làm đồ đệ
thánh Hilariô, giám mục thành Potiers. Nhận thấy Martinô là người đầy nhân đức
và có học thức, giám mục Hilariô đã phong cho chàng các chức thánh.
Năm 350, bè rối Ariô
bắt thánh Hilariô đem đi đày vì ngài chống lại họ. Martinô cũng bị giám mục
thành Milan là người bệnh vực bè rối trục xuất khỏi giáo phận và sống trên một
hòn đảo cùng với một linh mục khác. Sau khi thánh Hilariô được tha, Martinô trở
lại Poachi và lập một dòng tu tại Luguygé. Năm 370, khi đến Cadet để hòa giải
một bất bình giữa một số linh mục và tu sĩ, ngài đã ngã bệnh và từ trần tại đó.
Mỗi năm gần đến ngày lễ thánh Martinô thành
Tôrinô, các trẻ em vùng nói tiếng Ðức cũng náo nức như các trẻ em Việt Nam nôn
nao đếm từng ngày trước lễ Trung Thu. Vì đây cũng là ngày các em rước đèn đi
đến khoảng sân rộng để xem diễn tuồng thánh Martinô, với những bài hát ca ngợi
tình yêu thương cụ thể của chàng sĩ quan trẻ tuổi, với vở tuồng được trình diễn
bằng người ngựa thật và nhất là với những quà bánh thơm ngon được trình bày bán
chung quanh chỗ diễn tuồng.
Chủ đích của cuộc lễ này vẫn là khắc ghi đậm nét
vào lòng các trẻ em mẫu gương "xẻ áo" của thánh Martinô để giúp các
em hiểu rõ lời Chúa Giêsu tuyên bố trong ngày phán xét: "Ta bảo thật: mỗi
lần anh chị em làm những điều ấy cho một kẻ hèn mọn trong anh em Ta, thì là làm
cho chính Ta vậy".
(Lẽ Sống)
Ngày 11
CHÚA NHẬT XXXII
THƯỜNG NIÊN
Thánh Máctinô, giám
mục
Cả chúng ta nữa, hãy nhìn với cái nhìn của
Chúa. Cái nhìn vĩ đại và đẹp của Chúa thấy cái không là gì cả, thấy mọi người cùng lúc và rút ra kết luận không đắng cay,
nhưng với sự kinh ngạc. Bởi vì: ở tầng trệt của thế giới, ngay sát đất, nghĩa
là ngang tầm với đàn chim bồ câu, với bọn trẻ con, với những người
lang thang vô nghề nghiệp, với những bà goá, - (có ý nói là qua những cái bình
thường của cuộc sống)- lại xẩy ra điều lý thú, điều gây kinh ngạc, điều mới mẻ,
như chuyện bà goá trong Tin Mừng chúa nhật này. Cũng như bà goá Sarépta đã vất
hai khúc gỗ vào lửa, bà goá này đến gần và bỏ hai đồng tiền kẽm vào thùng dâng cúng cho Đền thờ. Hai khúc gỗ,
hai đồng tiền. Hai số tiền của cuộc đời bà. "Là tất cả
tài sản bà có để nuôi sống
mình", như Đức Giêsu lưu ý, và theo đúng nguyên văn đoạn Tin Mừng này (Mc
12,44). Cuộc sống của bà
với hai đồng tiền,
cũng như cuộc sống của mọi
người Trước ngày tận thế trước cái
chết kết thúc cuộc đời, chúng ta hãy bỏ cuộc sống của chúng ta - tất cả cuộc đời bằng hai đồng tiền - vào thùng dâng cúng, qua khe
cạnh Sườn Chúa, là "nơi cất giấu
tất cả kho tàng của Đức Khôn ngoan" và của lòng ưu ái. Hãy bỏ cuộc đời của
chúng ta, một cách cuồng nhiệt, vào thùng đựng tiền của Ánh Sáng, nghĩa là vào Trái tim Đức
Giêsu Kitô.
François Cassingena-Trévedy
11-11
Thánh Martin ở Tours
(316?-397)
M
|
ột người chống đối hành động
vô lương tâm muốn trở nên một tu sĩ; một tu sĩ bị gài ép để trở nên một giám
mục; một giám mục chống đối những người vô tôn giáo nhưng cũng xin tha thứ cho
những người lạc giáo -- đó là Thánh Martin ở Tours, một trong những vị thánh
nổi tiếng.
Ngài sinh trong một gia đình
vô tôn giáo ở chỗ bây giờ là Hungary và được lớn lên ở Ý. Là con của một cựu
chiến binh, ngài bị ép buộc phải gia nhập quân đội vào lúc 16 tuổi. Ngài theo
học đạo và được rửa tội lúc 18 tuổi. Người ta kể rằng ngài sống như một tu sĩ
hơn là một binh sĩ. Năm 23 tuổi, ngài từ chối tham dự cuộc chiến của Hoàng Ðế
Julian Caesar chống với thế giới bằng lập luận sau: "Tôi đã phục vụ
ngài như một người lính; bây giờ hãy để tôi phục vụ Ðức Kitô. Hãy thưởng cho
những người muốn chiến đấu. Nhưng tôi là một người lính của Ðức Kitô, và thật
sai lầm nếu tôi đi đánh nhau." Sau nhiều khó khăn, ngài được giải ngũ
và trở thành môn đệ của Ðức Giám Mục Hilary ở Poitiers.
Martin được tấn phong làm
người trừ quỷ và hoạt động tích cực chống với bè rối Arian. Ngài trở thành vị
ẩn tu, trước hết sống ở Milan và sau đó sống ở một đảo nhỏ. Khi Ðức Hilary được
phục hồi quyền bính sau thời gian lưu đầy, Martin trở về Pháp và thành lập tu
viện có thể nói đầu tiên ở Pháp, gần Poitiers. Ngài sống ở đó trong 10 năm, đào
tạo các môn đệ và đi rao giảng khắp nước.
Dân chúng ở Tours đòi hỏi
ngài làm giám mục cho họ. Và ngài bị lừa đến thành phố này và được đưa đến nhà
thờ, là nơi ngài lưỡng lự nhận chức giám mục. Một vài giám mục tấn phong nghĩ
rằng ngài không xứng đáng làm giám mục vì cái bề ngoài xuề xòa và mái tóc thiếu
chải chuốt của ngài.
Cùng với Ðức Ambrôsiô, Ðức
Giám Mục Martin chống với Ðức Giám Mục Ithacius về đề nghị xử tử những người
lạc giáo -- cũng như sự can thiệp của hoàng đế vào vấn đề này. Ngài còn thuyết
phục được hoàng đế tha chết cho Priscillian (người chủ trương những điều sai
lạc về nhân tính của Ðức Kitô). Vì những nỗ lực này, Ðức Giám Mục Martin bị cho
là cùng phía với bọn lạc giáo, và sau cùng Priscillian bị xử tử. Sau đó Ðức
Giám Mục Martin xin chấm dứt việc bách hại những người ở Tây Ban Nha theo tà
thuyết của Priscillian. Ngài còn muốn cộng tác với Ðức Giám Mục Ithacius về một
vài lãnh vực, nhưng vì lương tâm không thấy ổn thỏa nên ngài đã bỏ dở ý định
ấy.
Khi đến giờ chết, các môn đệ
xin ngài đừng bỏ họ. Ngài cầu nguyện, "Lạy Chúa, nếu dân của Ngài vẫn
còn cần đến con, con sẽ không từ chối làm việc. Nhưng con xin vâng theo ý Chúa."
Lời Bàn
Ðiều Thánh Martin quan tâm về
sự cộng tác nhắc nhở cho chúng ta biết hầu như không có gì hoàn toàn trắng hoặc
hoàn toàn đen. Các thánh cũng là những tạo vật ở trần gian: Họ cũng phải do dự
khi quyết định như chúng ta. Bất cứ quyết định nào của lương tâm đều ít nhiều
có sự liều lĩnh. Nếu chúng ta chọn đi hướng bắc, có thể chúng ta không biết
được những gì xảy ra ở hướng đông, hướng tây hay hướng nam. Tuy nhiên, quá thận
trọng không dám quyết định thì cũng không phải là nhân đức khôn ngoan, thật
vậy, nếu cho rằng "không quyết định là sự quyết định" thì đó là một
quyết định sai lầm.
www.nguoitinhuu.com
Lectio: Chúa Nhật XXXII Thường Niên (B)
Chúa Nhật, 11 Tháng 11, 2012
Chúa Giêsu, các Kinh Sư và bà góa
Cách tính toán khác thường trong Nước
Thiên Chúa
Mc 12:38-44
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí
Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn
đệ trên đường Emmau. Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong
Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên
Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa. Vì thế, cây thập
giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn gốc của sự
sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo sự thinh lặng trong chúng con để chúng con có thể
lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện
của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người
nghèo khó và đau khổ. Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống
như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của
Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng
con như nguồn gốc của tình anh em, công lý và hòa bình. Chúng con cầu xin
vì danh Chúa Giêsu, con của Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa
Cha và đã gửi Chúa Thánh Thần đến với chúng con. Amen.
2. Bài
Đọc
a) Chìa
khóa dẫn đến bài đọc:
Bài Phúc Âm của Chúa Nhật
tuần này trình bày cho chúng ta hai sự kiện đối nghịch nhưng liên hệ với nhau: một
mặt chúng ta có Đức Giêsu đang phê phán các Kinh Sư là những kẻ lợi dụng tôn
giáo để khai thác các bà góa nghèo, và mặt khác, chúng ta có ví dụ của bà góa
nghèo đã cống hiến vào Đền Thờ tất cả những gì bà có để sinh
sống. Thậm chí những sự kiện này còn thích hợp cho đến ngày nay!
b) Phần
phân đoạn văn bản để trợ giúp cho bài đọc:
Mc 12:38-40: Chúa Giêsu phê
phán việc khai thác của các Kinh Sư
Mc 12:41-42: Đức Giêsu quan
sát dân chúng bỏ tiền dân cúng vào hòm tiền của Đền Thờ
Mc 12:43-44: Chúa Giêsu cho
thấy giá trị hành động của bà góa nghèo
c) Tin Mừng:
38 Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng
trong khi giảng dạy rằng: "Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ. Họ thích
đi lại trong bộ áo thụng, ưa được bái chào ngoài công trường, 39 chiếm những ghế nhất trong hội đường và
trong đám tiệc. 40 Họ giả bộ đọc những kinh dài để nuốt hết
tài sản của các bà góa: Họ sẽ bị kết án nghiêm ngặt hơn."
41 Chúa Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền,
quan sát dân chúng bỏ tiền vào hòm, và có lắm người giàu bỏ nhiều tiền.42 Chợt có một bà góa nghèo đến bỏ hai đồng
tiền là một phần tư xu. 43 Người liền gọi các môn đệ và bảo: "Thầy nói thật với các
con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn
hết. 44 Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư
thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống
mình".
3. Giây
phút thinh lặng cầu nguyện:
Để Lời Chúa có thể thấm nhập và soi sáng
đời sống chúng ta.
4. Một vài câu hỏi gợi ý:
Để giúp chúng ta trong phần suy gẫm cá
nhân.
a) Điểm nào trong bài Tin Mừng này làm bạn hài
lòng nhất hoặc chú ý nhất? Tại sao?
b) Chúa Giêsu chỉ trích điều gì và khen Luật Sĩ
về điều gì?
c) Chúng ta tìm thấy trong văn bản những bất
công xã hội và tôn giáo nào vào thời bấy giờ?
d) Làm thế nào mà hai đồng tiền của bà góa lại
có giá trị hơn số tiền lớn bỏ vào của người giàu? Bạn hãy xem xét kỹ
văn bản và thấy điều sau đây: “Tại sao Chúa Giêsu lại khen ngợi bà
góa nghèo?”
e) Ngày nay văn bản này truyền đạt sứ điệp gì
cho chúng ta?
5. Dành cho những ai muốn đào
sâu vào trong chủ đề
a) Bối cảnh xưa và nay:
· Bối
cảnh vào thời Chúa Giêsu.
Đoạn Tin Mừng của Máccô 12:38-44 kể lại
phần cuối cùng các hoạt động của Chúa Giêsu ở Giêrusalem (Mc 11:1 đến
12:44). Đó là những ngày rất căng thẳng, đầy dẫy các cuộc xung
đột: xua đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Đền Thờ (Mc 11:12-26), và
nhiều cuộc thảo luận với các nhà thẩm quyền (Mc 11:27 đến 12:12), với những
người Biệt Phái, với nhóm Hêrôđê và Sađốc (Mc 1213-27) và với các luật sĩ (Mc
12:28-37). Bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần này (Mc 12:38-44) thuật lại
những lời phê phán cuối cùng của Chúa Giêsu liên quan đến cách cư xử xấu xa của
các luật sĩ (Mc 12:38-40) và lời khen ngợi cho việc làm tốt lành của bà
góa. Vào gần khi kết thúc các hoạt động của Người tại Giêrusalem,
Chúa Giêsu ngồi ở phía trước của hòm tiền nơi mà dân chúng bỏ tiền dâng cúng
của họ cho Đền Thờ. Chúa Giêsu hướng sự chú ý của các môn đệ về hành
động của bà góa nghèo và dạy cho các ông về giá trị của sự chia sẻ (Mc 12:41-44).
· Bối
cảnh vào thời Máccô.
Trong suốt bốn mươi năm đầu tiên của
lịch sử Giáo Hội, từ thập niên 30 đến thập niên 70, các cộng đoàn Kitô hữu,
phần đông các giáo hữu là những người nghèo khó (1 Cr 1:26). Sau đó
một số người giàu có hay những người có những vấn đề khác nhau gia nhập
vào. Những căng thẳng xã hội đã xuất hiện trong Đế Chế La Mã, cuộc
sống trong các cộng đoàn cũng đã bắt đầu cảm thấy như thế. Ví dụ,
những sự chia rẽ đã trở nên nổi bật khi cộng đoàn tụ họp nhau để cùng cử hành
bữa tiệc của Chúa (1Cr 11:20-22), hoặc khi họ gặp nhau (Gc
2:1-4). Do đó, việc giảng dạy liên quan đến cử chỉ của bà góa thì
rất thực tế đối với họ. Nó giống như soi vào một tấm gương, bởi vì
Chúa Giêsu so sánh hành vi của người giàu với người nghèo.
· Bối
cảnh ngày nay.
Chúa Giêsu khen ngợi bà góa nghèo bởi vì
bà có thể san sẻ nhiều hơn những người giàu có đã làm. Nhiều người
nghèo ngày nay cũng làm như vậy. Người ta nói: Người
nghèo không bao giờ để cho một người nghèo khác chết đói. Nhưng thỉnh
thoảng ngay cả điều này cũng không đúng. Donna Cicera, một phụ nữ
nghèo đã đi từ miền thôn quê lên vùng ngoại ô thành phố thường nói
rằng: “Ở thôn quê, tôi là một người rất nghèo, nhưng tôi luôn có một
cái gì đó để chia sẻ với người nghèo khác gõ cửa nhà tôi. Bây giờ
tôi ở trong thành phố, khi tôi trông thấy một người nghèo gõ cửa nhà tôi, tôi
xấu hổ chạy trốn vì tôi không có gì để san sẻ!” Như vậy, một mặt
chúng ta thấy những người giàu có tất cả mọi thứ, và mặt khác người nghèo khó
hầu như không có gì để cho đi, vậy mà lại chia sẻ những của cải ít oi họ có
được.
b) Lời bình luận về văn bản:
Mc 12:38-40: Chúa Giêsu
chê trách các Luật Sĩ.
Chúa Giêsu tạo sự chú ý của các môn đệ
về hành vi đạo đức giả và bóc lột của một số luật sĩ. “Luật sĩ” hay
Kinh sư là những kẻ giảng dạy Lề Luật Thiên Chúa. Nhưng họ đã chỉ
giảng dạy bằng lý thuyết, bởi vì đời sống của họ thì cho thấy trái ngược
lại. Họ ưa đi lại ngoài phố phường trong bộ áo thụng, để được người
ta bái chào, chiếm những chỗ nhất trong hội đường và nơi đám
tiệc. Nói cách khác, họ mong muốn ra vẻ là những kẻ quan
trọng. Họ dùng kiến thức và nghề nghiệp của mình như là một phương
tiện để leo lên những nấc thang xã hội và làm giàu cho bản thân, chứ không phải
để phục vụ. Họ thích đến thăm các bà góa và đọc những câu kinh dài
để bòn rút tiền của! Chúa Giêsu kết luận bằng câu
nói: "Họ sẽ bị kết án nghiêm nhặt hơn là những gì họ nhận
được!”
Mc 12:41-42: Việc dâng
cúng của bà góa.
Chúa Giêsu và các môn đệ đang ngồi đối
diện với hòm tiền của Đền Thờ và quan sát người ta bỏ tiền dâng cúng vào
hòm. Người nghèo cho vài đồng xu, người giàu bỏ vào những món tiền
lớn. Hòm tiền đầy lên. Tất cả mọi người đều dâng cúng ít nhiều
để duy trì việc phụng tự, hỗ trợ các tư tế và bảo trì Đền Thờ. Một số tiền
bạc được dùng để giúp đỡ người nghèo, bởi vì vào thời ấy không có chương trình
phúc lợi xã hội. Người nghèo phụ thuộc vào tổ chức từ thiện công
cộng. Người nghèo khốn nhất giữa những người nghèo là các góa phụ và
trẻ mồ côi. Họ chẳng có gì. Họ hoàn toàn sống nhờ vào
lòng từ tâm của những người khác. Tuy nhiên, mặc dù không có gì, họ
vẫn cố gắng san sẻ với những người khác những gì ít oi mà họ có. Như
vậy, một bà góa rất nghèo đã bỏ tiền dâng cúng của mình vào hòm tiền, dù rằng
chỉ là một vài đồng xu!
Mc 12:43-44: Chúa Giêsu
chỉ cho chúng ta đâu là ý muốn của Thiên Chúa.
Cái nào có giá trị lớn
hơn: vài đồng xu của bà góa hay là ngàn quan tiền của người
giàu? Đối với các môn đệ, ngàn quan tiền của người giàu để làm các
việc phúc đức thì có giá trị hơn rất nhiều so với vài đồng xèng của bà
góa. Họ nghĩ rằng các vấn nạn của người ta thì có thể giải quyết
được bằng cách dùng rất nhiều tiền. Nhân dịp bánh hóa nhiều, các ông
thưa với Chúa Giêsu: “Chúng con phải đi mua tới hai trăm quan tiền
bánh mà cho họ ăn sao?” (Mc 6:37) Thật thế, đối với những người suy
nghĩ theo cách này, hai đồng xu của bà góa thì chẳng dùng vào được việc
gì. Nhưng Chúa Giêsu lại nói rằng: “Bà góa nghèo này đã
bỏ nhiều hơn hết trong tất cả những người đã bỏ vào”. Đức Giêsu có
một chuẩn mực khác. Kêu gọi sự chú ý của các môn đệ đến cử chỉ của
bà góa, Người dạy cho các ông và cho chúng ta phải đi tìm sự biểu lộ ý muốn của
Thiên Chúa ở đâu, đó là, trong việc san sẻ. Nếu ngày nay chúng ta
chia sẻ của cải mà Thiên Chúa đã ban cho trong vũ trụ cho toàn thể nhân loại,
thì sẽ không có sự nghèo khó hoặc đói rách. Sẽ có đủ cho tất cả mọi
người và sẽ còn dư lại cho những người khác.
c) Phần phụ
chú: Làm phúc bố thí, chia sẻ, giàu có
Thói quen làm phúc bố thí thì rất quan
trọng đối với người Do Thái. Nó được coi là một “việc làm tốt lành”
(Mt 6:1-4), bởi vì lề luật của Cựu Ước nói rằng: “Vì trong đất
của anh em sẽ không thiếu người nghèo, nên tôi truyền cho anh
em: hãy mở rộng tay giúp người anh em khốn khổ, nghèo khó của anh
em, trong miền đất của anh em” (Đnl 15:11). Của làm phúc bố
thí thì được bỏ vào trong hòm tiền, cho dù để dùng cho việc phụng tự hay cho
việc bảo trì Đền Thờ hoặc cho những kẻ thiếu thốn, trẻ mồ côi và các góa phụ,
được coi như là cử chỉ làm đẹp lòng Thiên Chúa. Làm phúc là cách để
chia sẻ với những người khác, cách để nhận ra rằng tất cả của cải và quà tặng
đều thuộc về Thiên Chúa và chúng ta chỉ là những người cai quản những của cải
này, để có thể có một sự phong phú trong đời sống này cho tất cả mọi
người.
Từ sách Xuất Hành mà dân Israel đã học
được tầm quan trọng của việc bố thí, chia sẻ. Cuộc hành trình bốn
mươi năm trong sa mạc đã cần thiết để vượt qua những mong muốn cho việc tích
lũy của cải từ vua Pharaôn của đất Ai Cập và đã được in sâu vào trong tâm trí
của dân chúng. Rất dễ để rời khỏi đất của Pharaôn. Nhưng
người ta khó mà thoát ly được trạng thái tâm lý của Pharaôn. Mộng
tưởng về sự vĩ đại là sai lầm và lừa dối. Thật là cần thiết phải
trải nghiệm qua cơn đói trong sa mạc để hiểu được rằng những gì thật là cần
thiết cho cuộc sống đối với tất cả mọi người. Đây là những gì thực
phẩm Manna đã dạy: “Kẻ có nhiều thì không dư, người có ít thì không
thiếu” (Xh 16:18).
Thế nhưng khuynh hướng muốn tích lũy đã
có từ lâu đời và rất mạnh mẽ. Và nó liên tục tái xuất hiện trong
trái tim loài người. Bởi chính vì khuynh hướng muốn tích lũy này mà
các đế chế lớn trong lịch sử nhân loại đã được thành hình. Ước muốn
chiếm hữu và tích lũy là trung tâm điểm ý thức của những đế chế và vương quốc
này. Chúa Giêsu cho thấy việc hoán cải cần thiết để được vào Nước
Trời. Người nói với người thanh niên giàu có: “Hãy đi bán
những gì anh có mà cho người nghèo” (Mc 10:21). Điều kiện này đã
được lặp lại trong các sách Tin Mừng khác: “Hãy bán tài sản của mình
đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho
tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén bảng, mối mọt không
đục phá” (Lc 12:33-34; Mt 6:9-20). Rồi Chúa Giêsu còn cho biết thêm
lý do cho lời đòi hỏi này: “Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì
lòng anh em ở đó.”
Thực hành sự chia sẻ, bố thí và đoàn kết
là một trong những dấu hiệu Thần Khí của Chúa Giêsu, đã ban cho chúng ta vào
ngày Lễ Ngũ Tuần (Cv 2:1-13), và Người mong muốn chúng hiện diện trong các cộng
đoàn. Kết quả của sự tuôn tràn của Chúa Thánh Thần chính là điều
này: “Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những
người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông
Đồ”(Cv 4:34-35a; 2:44-45). Những của dâng cúng này nhận được bởi
các Tông Đồ đã không được tích lũy mà là“Tiền ấy được phân phát cho mỗi
người, tùy theo nhu cầu” (Cv 4:35b; 2:45).
Một mặt, việc những người giàu có gia
nhập vào các cộng đoàn đã khiến Giáo Hội Kitô giáo có thể mở mang, bởi vì những
người này đã cung cấp những điều kiện tốt hơn cho công việc truyền
giáo. Tuy nhiên, về mặt khác, việc tích lũy tài sản đã chắn lối
phong trào cho tình đoàn kết và san sẻ được linh ứng bởi quyền năng của Chúa
Thánh Linh. Thánh Giacôbê đã muốn giúp những người như vậy hiểu được
rằng họ đã đi sai đường: “Giờ đây, hỡi những kẻ giàu có, các
người hãy than van rên rỉ về những tai họa sắp đổ xuống trên đầu các
người. Tài sản của các người đã hư nát, quần áo của các người đã bị
mối ăn” (Gc 5:1-3). Tất cả chúng ta đều cần phải trở thành
những học trò của bà góa nghèo đó là người đã chia sẻ những gì bà có để nuôi
sống, như để tìm hiểu đường vào Nước Trời (Mc 12:41-44).
6. Cầu
Nguyện với Thánh Vịnh 62 (61)
Thiên Chúa là dũng lực và là tình
yêu
Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi,
hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn.
Ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến,
duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi,
là thành lũy chở che: tôi chẳng hề nao núng.
Tới bao giờ các ngươi còn xúm lại
để xông vào quật ngã một người?
Hắn đã như bức tường xiêu đổ,
như hàng rào đến lúc ngả nghiêng.
Con người ấy, chúng chỉ mưu hạ bệ,
chúng thoả lòng vì đã nói dối nói gian.
Miệng thì chúc phúc cầu an,
mà lòng nguyền rủa chứa chan những lời.
Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi,
này hồn tôi hãy nghỉ ngơi yên hàn.
Vì hy vọng của tôi bởi Người mà đến,
duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi,
là thành lũy chở che: tôi chẳng hề nao núng.
Nhờ Thiên Chúa, tôi được cứu độ và vinh quang,
Người là núi đá vững vàng,
ở bên Thiên Chúa tôi hằng ẩn thân.
Hỡi dân ta, hãy tin tưởng vào Người luôn mãi,
trước mặt Người, hãy thổ lộ tâm can:
Thiên Chúa là nơi ta ẩn náu.
Kẻ thường dân âu chỉ là hơi thở,
người quyền quý đều ví tựa ảo huyền,
đứng cả lên cân cũng chẳng tày mây khói.
hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn.
Ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến,
duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi,
là thành lũy chở che: tôi chẳng hề nao núng.
Tới bao giờ các ngươi còn xúm lại
để xông vào quật ngã một người?
Hắn đã như bức tường xiêu đổ,
như hàng rào đến lúc ngả nghiêng.
Con người ấy, chúng chỉ mưu hạ bệ,
chúng thoả lòng vì đã nói dối nói gian.
Miệng thì chúc phúc cầu an,
mà lòng nguyền rủa chứa chan những lời.
Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi,
này hồn tôi hãy nghỉ ngơi yên hàn.
Vì hy vọng của tôi bởi Người mà đến,
duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi,
là thành lũy chở che: tôi chẳng hề nao núng.
Nhờ Thiên Chúa, tôi được cứu độ và vinh quang,
Người là núi đá vững vàng,
ở bên Thiên Chúa tôi hằng ẩn thân.
Hỡi dân ta, hãy tin tưởng vào Người luôn mãi,
trước mặt Người, hãy thổ lộ tâm can:
Thiên Chúa là nơi ta ẩn náu.
Kẻ thường dân âu chỉ là hơi thở,
người quyền quý đều ví tựa ảo huyền,
đứng cả lên cân cũng chẳng tày mây khói.
Đừng tin tưởng ở trò áp bức nữa,
chớ hoài công cậy ngón bóc lột người!
Tiền tài dẫu sinh sôi nảy nở,
lòng chẳng nên gắn bó làm chi.
Lạy Thiên Chúa, một lần Ngài phán dạy,
con nghe được hai điều,
rằng: Ngài nắm quyền uy
và giàu lòng nhân hậu;
rằng: Ngài theo tội phúc mà thưởng phạt mỗi người.
chớ hoài công cậy ngón bóc lột người!
Tiền tài dẫu sinh sôi nảy nở,
lòng chẳng nên gắn bó làm chi.
Lạy Thiên Chúa, một lần Ngài phán dạy,
con nghe được hai điều,
rằng: Ngài nắm quyền uy
và giàu lòng nhân hậu;
rằng: Ngài theo tội phúc mà thưởng phạt mỗi người.
7. Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ
Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa
Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và
ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con. Nguyện
xin chúng con, trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng
nghe mà còn thực hành Lời Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng
với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn
đời. Amen.
www.dongcatming.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét