Thứ Hai sau Chúa Nhật 32 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm
II) Tt 1, 1-9
"Thiết lập các Trưởng
lão trong mỗi thành như cha đã căn dặn con".
Khởi đầu bức thư của Thánh
Phaolô Tông đồ gửi cho Titô.
Phaolô, tôi tớ Thiên Chúa,
cùng là Tông đồ của Ðức Giêsu Kitô, để rao giảng đức tin cho những kẻ được
Thiên Chúa kén chọn và làm cho họ nhận biết chân lý; chân lý đó giúp họ ăn ở
đức hạnh và ban cho họ niềm hy vọng sống đời đời mà Chúa, Ðấng chẳng hề nói
dối, đã hứa từ thuở đời đời. Khi đã đến thời, Người đã tỏ lời Người ra bằng
việc rao giảng mà Người đã uỷ thác cho cha theo lệnh của Thiên Chúa là Ðấng cứu
chuộc chúng ta. Gửi cho Titô, con yêu dấu thuộc cùng một đức tin. Nguyện ân
sủng và bình an của Thiên Chúa Cha và của Chúa Giêsu, Ðấng Cứu chuộc chúng ta,
ở cùng con.
Lý do Cha để con ở lại đảo
Crêta là để con chỉnh đốn những gì còn thiếu sót, và thiết lập các Trưởng lão
trong mỗi thành như cha đã căn dặn. Con người được chọn phải là người không có
gì đáng trách, chỉ kết hôn một lần; có con cái ngoan đạo, không mang tiếng
buông tuồng hoặc ngỗ nghịch. Vì chưng, chủ tịch cộng đoàn, theo tư cách là
người quản lý của Chúa, phải là người không có gì đáng trách, không kiêu căng,
không nóng nảy, không mê rượu, không gây gỗ, không trục lợi đê hèn, nhưng hiếu
khách, hiền lành, tiết độ, công minh, thánh thiện, tiết hạnh, nắm giữ lời chân
thật hợp với đạo lý, để có thể dùng đạo lý lành mạnh mà khuyên dụ và phi bác
những kẻ chống đối.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 23, 1-2. 3-4ab.
5-6a
Ðáp: Lạy Chúa, đó là dòng dõi tìm kiếm long nhan Chúa (x. c. 6).
Xướng: 1) Chúa là chủ trái
đất và mọi vật làm sung mãn nó, chủ địa cầu và muôn loài cư trú ở trong. Vì
chính Ngài xây dựng nó trên biển cả, và Ngài giữ vững nó trên chỗ nước nguồn. -
Ðáp.
2) Ai khá trèo lên cao sơn
của Chúa, ai được đứng trong nơi thánh của Ngài? Người tay vô tội và lòng thanh
khiết, người không để lòng xu hưởng bả phù hoa. - Ðáp.
3) Người đó sẽ được Chúa chúc
phúc cho, và được Thiên Chúa là Ðấng cứu độ ban ân thưởng. Ðó là dòng dõi người
tìm kiếm Chúa, người tìm long nhan Thiên Chúa nhà Giacóp. - Ðáp.
*
* *
Alleluia: Mt 11, 25
Alleluia, alleluia! - Lạy Cha
là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã mạc khải những mầu nhiệm nước
trời cho những kẻ bé mọn. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 17, 1-6
"Dù một ngày bảy lần
nó trở lại nói cùng con rằng: Tôi hối hận, thì con hãy tha cho nó".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng
các môn đệ rằng: "Không thể nào mà không xảy ra gương xấu, nhưng vô phúc
cho kẻ nào gây ra gương xấu. Thà nó bị cột cối đá vào cổ mà ném xuống biển còn
hơn là làm gương xấu cho một trong những trẻ nhỏ này.
"Các con hãy cẩn thận:
nếu có anh em con lỗi phạm, con hãy răn bảo nó, và nếu nó hối cải, thì hãy tha
thứ cho nó; cho dù một ngày nó phạm đến con bảy lần, và bảy lần nó trở lại nói
cùng con rằng: "Tôi hối hận", thì con hãy tha thứ cho nó".
Các Tông đồ thưa với Chúa
rằng: "Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con". Chúa liền phán rằng:
"Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này
rằng: "Hãy tróc rễ lên và xuống mọc dưới biển", nó liền vâng lời các
con".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Qua bài Tin Mừng, Ðức Giêsu
dạy chúng ta bài học về đời sống chung trong gia đình, giáo xứ, hay bất kỳ một
cộng đoàn nào:
Chúng ta không được làm gương
xấu, xúi dục hay nên cớ cho người khác phạm tội bằng bất cứ hình thức nào. Vì
đời sống của chúng ta ảnh hưởng đến anh chị em xung quanh.
Chúng ta phải biết góp sức
xây dựng với nhau trong yêu thương quảng đại và tha thứ. Khi chúng ta đối diện
với cuộc sống, điều quan trọng là phải có đức tin vững mạnh để chiến đấu với
những thử thách cam go. Ðức tin càng lớn mạnh, con người càng làm được những
điều phi thường.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa, xin giúp chúng con
luôn biết khôn ngoan và vững tin. Biết lắng nghe và thực thi những điều Chúa
dạy. Ðể trong suy nghĩ, lời nói, hành động, trong từng biến cố xảy đến trong
cuộc đời, chúng con luôn vững bước trên đường tiến về với Chúa. Amen.
(Lời Chúa trong
giờ kinh gia đình)
Sống Là Liên Ðới
(Lc 17,1-6)
Suy Niệm:
Sống Là Liên Ðới
Trong tác phẩm "Hãy Giúp
Nhau Làm Lại Cuộc Ðời", xuất bản đầu thập niên 60, ông Henri Vicardi,
người sáng lập cơ xưởng chuyên giúp những người tàn tật tự lực cánh sinh kể lại
rằng: cơ xưởng do ông sáng lập năm 1952, khởi sự với một công nhân bị tê bại,
làm việc trong một nhà xe bỏ trống, lụp xụp. Nhưng chỉ một năm sau, xưởng đã
trở nên một cơ sở kinh doanh với số vốn cả triệu Mỹ kim và thu dụng đến 300
công nhân. Mỗi công nhân đều có một mẫu truyện cảm động về con người xây dựng
lại cuộc đời từ sự tàn tạ của mình. Ðiển hình là trường hợp của Jim Chapin, một
người bị tê liệt từ thắt lưng trở xuống vì một chiếc bướu ở xương sống. Ngay
sau khi được khiêng từ bàn giải phẫu xuống, các Bác sĩ đã tuyên bố ông sẽ sống
nhưng không làm gì được. Thế nhưng các Bác sĩ đã lầm: năm đó Jim Chapin đã 62
tuổi, tuy không rời được khỏi xe lăn, ông đã tìm đến cơ xưởng của ông Henri và
bắt đầu làm lại cuộc đời. Ông cho biết rằng ông rất hãnh diện về khả năng của
mình và nhất quyết không chịu trở lại với đời sống ỷ lại và vô vọng nữa.
Câu truyện trên đây là một
bằng chứng hùng hồn rằng dù tàn tật đến đâu, mỗi người vẫn là một giá trị độc
nhất vô nhị trên cõi đời này, và do đó có trách nhiệm đối với chính bản thân
cũng như hữu dụng cho người khác và có trách nhiệm đối với người khác.
Tin Mừng hôm nay có lẽ nhắc
nhở chúng ta về ý tưởng ấy. Chúa Giêsu nói đến hai thứ bổn phận của con người
đối với người đồng loại: một là phải sống thế nào để không trở thành cớ vấp
phạm cho người khác, hai là phải tha thứ cho nhau. Ngay từ những trang đầu
tiên, khi mạc khải về con người, Kinh Thánh đã nói đến tình liên đới. Bị Thiên
Chúa tra vấn sau khi phạm tội, Adam đã đổ lỗi cho Evà; đây quả là khuynh hướng
chạy tội và chối bỏ trách nhiệm đối với người khác; cắt đứt liên lạc với Thiên
Chúa, con người cũng muốn chối bỏ tương quan với tha nhân. Sự chối bỏ này lại
càng rõ nét trong thái độ của Cain sau khi đã giết em mình là Abel: "Tôi
có phải là người giữ em tôi đâu!"
Sống là liên đới: không thể
sống mà không cần người khác, cũng không thể sống mà không cảm thấy có trách
nhiệm đối với người khác. Cuộc sống của tôi dù âm thầm đến đâu vẫn có âm hưởng
trên người khác; dù tôi có tàn tật và bé nhỏ đến đâu, tôi vẫn là người hữu dụng
cho người khác; không có một hành động nào của tôi mà không có liên hệ đến
người khác, đó chính là ý nghĩa và giá trị của cuộc đời tôi; tôi có hạnh phúc
hay không là tùy tôi có biết sống cho người khác hay không.
Nhắc nhở chúng ta về trách
nhiệm đối với người khác, lời Chúa hôm nay cũng nói lên phẩm giá cao trọng của
mỗi người. Ðó là lý do đem lại cho chúng ta niềm tin trong cuộc sống mà chúng
ta phải không ngừng cầu xin Chúa.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần 32 TN2
Bài đọc: Tit
1:1-9; Lk 17:1-6.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Người môn đệ
Đức Kitô phải tin mình có thể làm thế giới tốt hơn.
Sống trong một thế giới
có quá nhiều gương xấu: tranh giành, ghen ghét, hận thù, bạo lực, chiến tranh,
con người thường dễ có thái độ an phận tránh né hay phê bình chỉ trích. Người
xưa dạy: “Thà thắp sáng một ngọn nến hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối.” Người
môn đệ Đức Kitô phải tin mình có thể làm thế giới tốt hơn bằng việc rao giảng
Tin Mừng và bằng việc chọn lựa các nhà lãnh đạo tốt lành. Các Bài đọc hôm nay
giúp chúng ta nhận ra những gì mình có thể làm cho thế giới đang sống tốt hơn:
Bài đọc I tường thuật sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Phaolô và sứ vụ tổ chức lãnh
đạo của Titô. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy các môn đệ cần tránh làm cớ cho
người khác vấp phạm, phải sửa dạy, và sẵn sàng tha thứ cho tha nhân; nhưng trên
hết tất cả phải có đức tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa Đấng có thể làm mọi sự, và
vào sự có thể thay đổi của tha nhân.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Rao
giảng Tin Mừng và lãnh đạo giáo đòan.
Thư của Thánh Phaolô gởi
cho cộng sự viên của ngài, Titô, cho chúng ta cái nhìn vào một trong những giáo
đoàn các tín hữu đầu tiên tại Đảo Crête. Tuy việc rao giảng Tin Mừng để làm cho
con người tin vào Đức Kitô là điều đầu tiên và quan trọng hơn cả; nhưng việc tổ
chức giáo đòan để bảo vệ đức tin của các tín hữu giữa bao nhiêu cám dỗ nguy
hiểm của ba thù là điều không kém phần quan trọng. Thánh Phaolô đã khôn ngoan
nhìn nhận ra điều này nên đã cắt đặt các cộng sự viên như Timôthê và Titô, và
đặt ra những điều kiện cần thiết để các ông lựa chọn các Kỳ-mục và Giám-quản để
lãnh đạo các giáo đòan tại địa phương.
1.1/ Sứ vụ của Phaolô: Thánh Phaolô liệt kê 3
điều ngài phải làm cho các tín hữu:
(1) Trước tiên, đưa
những kẻ Thiên Chúa chọn đến đức tin.
(2) Sau đó, phải hướng
dẫn để họ nhận biết chân lý cho phù hợp với đạo thánh.
(3) Sau cùng, phải hướng
dẫn họ biết sống làm sao để đạt được sự sống đời đời mà Thiên Chúa, Đấng không
hề nói dối, đã hứa từ thuở đời đời.
1.2/ Sứ vụ của Titô: Thánh Phaolô sớm nhận
ra một mình ngài không thể chu tòan mọi công việc, mà phải cần đến sự cộng tác
của nhiều người. Nhưng trước khi giao cho họ sứ vụ, ngài phải chọn và huấn
luyện các cộng sự viên. Điều cần thiết nhất và trên hết là tất cả phải đều có
một đức tin chung: tin Thiên Chúa là Cha và tin Đức Kitô là Đấng Cứu Độ. Chính
đức tin chung này là động lực cần thiết để giúp xóa bỏ mọi khác biệt và cùng
nhau làm việc để phát triển Nước Thiên Chúa. Thánh Phaolô lặp lại những gì ngài
mong muốn Titô làm: “Tôi đã để anh ở lại Đảo Crête, chính là để anh hoàn thành
công việc tổ chức, và đặt những kỳ mục trong mỗi thành, như tôi đã truyền cho
anh.” Ngài thiết lập các điều kiện cần thiết để lựa chọn hai giới lãnh đạo
trong giáo đòan:
(1) Kỳ-mục (presbusteros = lớn tuổi): Cũng giống như truyền
thống Do-Thái, những người lớn tuổi được chọn trong dân là một thành phần của
Ban Lãnh Đạo. “Kỳ mục phải là người không chê trách được, chỉ có một đời vợ,
con cái cũng tin đạo, và không mang tiếng là sống phóng đãng hay bất phục
tùng.” Vì Kỳ-mục là người sống giữa dân, nên đức tin và tư cách của họ và gia
đình sẽ được mọi người chung quanh quan sát: Nếu họ không tu thân tề gia trước,
làm sao họ có thể hướng dẫn người khác?
(2) Giám-quản (episkopos = giám mục, người đứng
đầu): là
người đứng đầu và chịu trách nhiệm trước Hội-Thánh về giáo đòan địa phương. Vì
đây là chức vụ địa phương quan trọng, nên Thánh Phaolô không những ra điều kiện
về những tật xấu không nên có, mà còn những đức tính phải có khi lựa chọn
Giám-quản:
- không có các thói quen
xấu: phải là người không chê trách được, không ngạo mạn, không nóng tính, không
nghiện rượu, không hiếu chiến, không tìm kiếm lợi lộc thấp hèn.
- phải có những đức tính
tốt: phải hiếu khách, yêu chuộng điều thiện, chừng mực, công chính, thánh
thiện, biết tự chủ. Người ấy phải gắn bó với lời đáng tin cậy và đúng đạo lý:
để vừa có khả năng dùng giáo lý lành mạnh mà khuyên nhủ, vừa có khả năng bẻ lại
những kẻ chống đối.
2/
Phúc Âm: Đời
sống đạo của người Kitô hữu
Trình thuật hôm nay đưa
ra 3 điều liên quan đến đời sống của Kitô hữu, mỗi điều tóm gọn trong 2 câu:
2.1/ Cớ làm cho người ta
vấp ngã:
Tiếng Hy-Lạp dùng chữ cớ làm cho người ta vấp ngã, skandalon. Từ ngữ này có 3 ý
nghĩa:
(1) cái bẫy: để bắt chuột, cái đinh
trên đường để làm nổ bánh xe người khác;
(2) nguyên nhân cho tội: các sòng bài, tửu lầu,
nhà chứa, websites xấu, nói hành, nói chơi giỡn; ngay cả Thập Giá của Chúa
Giêsu cũng là nguyên nhân cho tội nơi những người không tin;
(3) người làm cho người
khác sa ngã:
khách đưa đường, người mặc quần áo khêu gợi, khinh thường trẻ nhỏ … Chúa Giêsu
gọi Phêrô là Satan vì ông trở thành cớ cho Chúa phạm tội.
Không có lửa thì làm sao
có khói! Không có cớ thì sẽ không có tội. Không thể không có cớ làm con người
sa ngã trong thế giới; nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người khác vấp ngã. Những
người làm cớ cho các trẻ nhỏ phạm tội nặng hơn vì chúng chưa đủ trí khôn để suy
nghĩ tốt xấu. Đối với hạng người này, cần buộc cối đá vào cổ mà ném xuống biển
cho chết.
2.2/ Sửa lỗi và tha thứ: Trình thuật của Matthêu
về 2 đề tài này rõ ràng hơn (x/c Mt 18:15, 21-22). Trong Luca, 2 đề tài được
tóm gọn lại trong 2 câu: (1) Phải sửa lỗi trước và tha thứ nếu ăn năn: Chúa
Giêsu nói: “Anh em hãy đề phòng! Nếu người anh em của anh xúc phạm đến anh thì
hãy khiển trách nó; nếu nó hối hận thì hãy tha thứ cho nó.” (2) Phải luôn luôn
tha thứ: “Dù nó xúc phạm đến anh một ngày đến bảy lần, rồi bảy lần trở lại nói
với anh: "Tôi hối hận", thì anh cũng phải tha cho nó.”
2.3/ Sức mạnh của đức
tin: Các
Tông Đồ thưa với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con,"
vì không dễ để tránh làm cớ cho người khác phạm tội và không dễ để luôn tha thứ
cho người xúc phạm đến mình. Chúa đáp: "Nếu anh em có lòng tin lớn bằng
hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: "Hãy bật rễ lên, xuống dưới
biển kia mà mọc", nó cũng sẽ vâng lời anh em.” Thái độ tin tưởng cần thiết
để ra tay làm việc: nếu không có thái độ này, sẽ không thể hòan tất bất cứ điều
gì. Thiên Chúa không truyền cho con người làm điều không thể: Nếu con người tin
nơi Thiên Chúa, họ có thể làm những chuyện không ngờ; vì không có điều gì là
không thể đối với Thiên Chúa. Lịch sử đã nhiều lần chứng minh những điều này:
các phép lạ thực sự xảy ra.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải tin mình
có thể xây dựng thế giới tốt đẹp hơn: (1) bằng việc rao giảng Tin Mừng hay bằng
việc cắt cử những nhà lãnh đạo tốt lành; hay (2): tạo môi trường sống lành
mạnh: dạy cho mọi người biết làm gương sáng, tránh gương mù, sửa dạy, và tha
thứ cho nhau.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 11
12 THÁNG MƯỜI MỘT
Xin Hãy Quan Tâm Đến Thế
Hệ Trẻ
Chúng
ta đang càng ngày càng phải khẩn trương hơn trong việc cổ võ một khát vọng mãnh
liệt và thâm sâu muốn bảo vệ con người và bảo vệ sự sống con người, nhất là
giữa những người trẻ. Chúng ta phải giáo dục và giúp các bạn trẻ trở thành
những con người trưởng thành để các bạn ấy có thể biểu dương tính thánh thiện
của sự sống con người trong thế giới chúng ta. Vâng, chúng ta phải làm thấm
nhập trong họ một niềm tôn trọng sâu xa đối với các giá trị Kitô giáo đích thực
dựa trên những xác tín mạnh mẽ của bản thân họ.
Bổn
phận của chúng ta là giúp các bạn trẻ và không ngăn trở họ trên con đường tiến
tới trưởng thành hoàn toàn trong Đức Kitô. Các bạn trẻ có quyền hưởng một nền
giáo dục thích đáng để họ có thể lèo lái thế giới này trong tương lai. Tôi tha
thiết mời gọi các bậc phụ huynh, các nhà giáo, nhà văn, ký giả, các nhà khoa
học, các nghệ sĩ, và mọi người … vâng, tôi mời gọi tất cả những ai tin vào phẩm
giá con người hãy đóng góp phần mình cho thế hệ trẻ hôm nay.
Thế
hệ của ngàn năm thứ ba phải tránh những nỗi kinh hoàng đã làm cho thế kỷ XX của
chúng ta nhuộm đỏ máu. Còn có vô số bước phát triển mà xã hội con người có thể
thực hiện để phục vụ cho chính con người. Khi chúng ta tiến bước đến tương lai,
chúng ta có trong tay những khả năng chưa từng có để xây dựng một xã hội tốt
đẹp hơn và nhân đạo hơn theo tinh thần của Tin Mừng.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Thánh Jôsaphát, Giám mục Tử đạo;
Tt 1, 1-9; Lc 17, 1-6.
LỜI
SUY NIỆM:
Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Không thể không có những cớ làm cho người ta vấp
ngã! Nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã.” (Lc 17,1).
Chúa Giêsu đang xác nhận những điều trên đây đối với mỗi người trong chúng ta,
để chúng ta luôn luôn nhớ mà giữ mình; bởi trong cuộc sống của chúng ta có rất
nhiều lúc chúng ta vô tình, mà trở nên làm cớ cho người khác vấp phạm, chỉ cần
những chuyện nhỏ trong gia đình, như có một người muốn đến gặp mình, tại gia
đình của mình, trong lúc mình đang có mặt tại nhà, nhưng mình không muốn gặp,
lại bảo con cái mình nói với khách là mình không có ở nhà, và không biết đi
đâu. Khi chúng ta thấy hành động và lời nói của mình vô hại; nhưng thật ra
chúng ta đang mắc phải tội tập cho con cái mình nói láo. Sự nói láo từ việc
nhỏ, sẽ dẫn đưa đến những láo lường lớn sau này, từ sự láo lường sẽ sinh ra
muôn vàng sự lừa dối, phỉnh gạt người khác để đạt được sự ham muốn bất chính.
Cho nên chúng ta phải cẩn thận trong mọi hành động và lời nói của mình, để
tránh làm cớ cho người khác phạm tội, nhất là các em nhỏ chung quanh chúng ta.
Có khi những cớ rất nhỏ, nhưng hậu quả dây chuyền của nó sẽ không lường được.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 12-11
Thánh GIOSAPHAT
Giám mục, Tử đạo (1580 - 1625)
Thánh
Giosaphat sinh năm 1580 (vài tác giả nói là 1584), ở Vladimir, thủ đô của
Volynia miền Ukraine, rồi sau là một tỉnh của Balan dầu cha mẹ Ngài thuộc dòng
quí phái, nhưng họ đã nhập thương trường với vài thành công và cha Ngài đã trở
thành nghị viên thành phố. Giosaphat (tên rửa tội là Gioan) trước hết đã học
nghề với một thương gia ở Vilna miền Lithuania và làm việc với ông tới năm 1604
khi Ngài trở thành một tu sĩ nhà dòng Basiliô ở Vilna.
Các
Kitô hữu Ruthenia và Ukraina phần lớn theo nghi thức Byzantine bị phân rẽ sâu
xa kể từ khi một số đông các giám mục của họ năm 1596 tuyên bố ở Brest- Litovsk
hiệp nhất với Giáo hội Roma. Thượng phụ giáo chủ ở Constantinople đã cố gắng
ngăn cản sự chia cắt này khỏi giáo hội chính thống và đã đặt một vị nhiếp chính
cho Ruthenia vì mục đích này. Điều này chẳng quen thuộc với các bậc vị vọng địa
phương vì họ coi đó như một đe dọa cho sự tự chủ của họ, nhưng lại được vương
quốc Balan và chính quyền trung ương ủng hộ hoàn toàn.
Dầu
vậy suốt cuộc đời, thánh Giosaphat luôn trung thành với Thánh nhân, viễn quan
thiêng liêng và phụng vụ của Ngài theo nghi thức Byzantine. Ngài đã học thuộc
lòng toàn sách các phép bằng tiếng Slave như một đứa trẻ, nắm giữ nghiêm nhặt
việc ăn chay theo lịch Byzantine còn nhặt nhiệm hơn lịch chay tịnh của Roma
nhiều, và kinh nguyện Ngài cũng dùng nhiều nhất là "Kinh nguyện Chúa
Giêsu", lòng sùng kính được nhiều nhà khổ hạnh và thần trí Kitô giáo Đông
phương ưa thích. Nhưng lý lẽ của nhưng người theo Chính thống hay giáo hoàng,
và những thúc đẩy đưa tới đối nghịch chính trị đều vô nghĩa đối với thánh
Giosaphat, Ngài không thể tin được rằng những việc sùng mộ và phong tục của dân
tộc Ngài và dĩ nhiên của toàn thế giới lại không hòa được với sự trung thành
đối với Giáo hội hiệp nhất dưới thánh nhan.
Ngài
sớm nổi tiếng với những khắc khổ nhiệm nhặt và với kiến thức của Ngài. Ngài
được tấn phong linh mục năm 1609 và sớm nổi tiếng như là vị hứơng dẫn thiêng
liêng. Ngài cũng viết nhiều sách tranh luận về thời này (về phép tửa của thánh
Vladimir, về sự gải mạo của các sách tiếng Slave).
Năm
1617, Ngài được thánh hiến làm giám mục Vitebsk với quyền kế vị Đức Tổng giám
mục Pskov. Ngài đã làm tổng giám mục Pskov năm 1618. Được dân chúng kính trọng,
Ngài lại cương quyết với những người ly khai, không chấp nhận cả những nhượng
bộ chính quyền trung ương Balan định làm. Năm 1623 khi đang viếng Vitebsk, Ngài
bị một đám đông theo tinh thần quốc gia quá khích tấn công chặt đầu và bắn
chết. Xác Ngài được đưa về Pskov và trên đường về này đã được nhiều người tôn
kính gồm cả những người thủ địch của Ngài nữa.
Cuộc
tử đạo của Ngài đã bảo đảm sự hồi sinh của Giáo hội công giáo Slave. Họ khác về
phong tục, kỷ luật, phụng vụ và ngôn ngữ với người Balan theo công giáo Roma,
trong khi đó họ vẫn độc lập với Maxcơva và người Nga vì sự liên kết của họ với
Roma. Bởi đó họ trở thành một trung tâm quan trọng của phong trào quốc gia
Ruthania.
Đức
giáo hoàng Urbanô VIII năm 1628 đã khởi đầu cuộc án phong thánh cho Giosaphat
khi mở mộ ra và thấy xác Ngài còn nguyên vẹn. Ngài được phong chân phước năm
1643 và được phong thánh năm 1867.
(Daminhvn.net)
++++++++++++++++++
12
Tháng Mười Một
Tình
Yêu Mạnh Hơn Thời Gian
Một hôm, vua Ai Cập
đang đứng chiêm ngưỡng những bia tháp mà ông đã cho dựng lên tại thành phố
Eliopolis. Bỗng nhiên có một cụ già râu tóc bạc phơ không biết từ đâu đến, đã
cười ngạo nghễ và thách thức với nhà vua như sau: Hãy bỏ tất cả và cút đi...
Nhà vua giận tím
gan, thế nhưng ông ta đã tự chủ và trả lời: "Hỡi người già, ngươi là ai mà
dám ra lệnh cho ta một cách hỗn láo như thế... Không lẽ ngươi có nhiều quyền
thế hơn ta?".
Lão ông tự giới
thiệu: "Ðúng thế, bởi vì ta là Thời Gian...".
Nghe đến tên Thời
Gian, vua Ai Cập tái mặt và té khỏi ngai vàng... Cùng với ông, cả đế quốc Ai
Cập cũng sụp đổ.
Lão già Thời Gian
cũng rảo qua khắp các đế quốc trên thế giới. Lão đi đến đâu, thì các đế quốc
rơi rụng như sung: Hôm nay tại Babylone, ngày mai tại Athène, ngày mốt tại
Ninive, tại Carthage...
Nhưng ngày kia,
người ta bỗng thấy xuất hiện tại đồi Vatican một cụ già khác. Cụ tuyên bố
nghênh chiến với lão già Thời Gian. Lão già Thời Gian tưởng mình có thể phá vỡ
tất cả mọi công trình của con người trên trần gian này. Cũng một giọng điệu vô
cùng hách dịch, lão ta cũng đến trước cửa Vatican và dõng dạc tuyên bố:
"Ta là Thời Gian đây". Tiếng gầm thét đó đã làm rung chuyển trái đất,
thế nhưng đã không làm cho bô lão trên ngọn đồi Vatican mảy may lo sợ. Cụ bình
tĩnh đáp lại: "Còn ta, ta chính là Vĩnh Cửu!... Xuyên qua các thế hệ, ta
phải đại diện cho lòng chung thủy của Thiên Chúa đối với loài người...".
Thời gian là liều thuốc chữa được mọi khổ
đau... Thời gian giúp chúng ta quên được dĩ vãng u buồn... Ðó là những câu nói
mà chúng ta thường dùng để tự an ủi mình hoặc người khác khi đứng trước thất
bại, hay bất cứ một nỗi bất hạnh nào...
Mà quả thật, thời gian không những giúp chúng
ta chữa lành được nhiều vết thương trong cuộc sống, thời gian còn là một kẻ phá
hoại tàn nhẫn. Cái chết xảy ra hằng ngày xung quanh chúng ta là một chiến thắng
của thời gian. Sự sụp đổ của không biết bao nhiêu đế quốc trên cõi trần này
cũng là một chiến thắng của thời gian...
Chỉ có một sức mạnh thời gian phải nhượng bộ:
đó là sức mạnh của Tình Yêu. Chúng ta thường nói: Tình Yêu mạnh hơn sự chết.
Ðúng hơn, chúng ta phải nói: Tình Yêu mạnh hơn Thời Gian, bởi lẽ thời gian
không bao giờ có thể xóa mờ được tình yêu.
Bất cứ một nghĩa cử yêu thương nào mà con
người làm cho tha nhân, đều trở thành bất diệt. Những nghĩa cử yêu thương trở
thành bất diệt là bởi vì nó tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa. Người sống cho
kẻ khác là người sống cho Chúa. Và ai sống cho Chúa tức là sống mãi trong Tình
Yêu.
Chúng ta đang cầu nguyện cho các đẳng linh hồn
trong tháng 11 này. Chúng ta cầu nguyện vì chúng ta tin rằng thời gian đã không
đưa họ đi vào quên lãng. Trong tình yêu của Chúa mà chúng ta đang san sẻ cho
những người xung quanh, những người quá cố cũng sẽ được sống mãi. Còn lời kinh
nào hữu hiệu hơn cho những người quá cố cho bằng những nghĩa cử yêu thương của
chúng ta...
(Lẽ Sống)
Thứ Hai tuần 32 thường niên
|
Sứ điệp: Khi lãnh bí tích Rửa Tội, chúng ta đã trở thành
phần tử dân Thiên Chúa. Cuộc sống chúng ta phải làm chứng cho sự thánh thiện:
không làm gương xấu và giúp nhau sửa lỗi lầm.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con người có tính xã hội. Chúng
con không sống đơn độc, nhưng lệ thuộc lẫn nhau. Khi con sống, là con sống với
nguời khác, sống cho và sống nhờ người khác. Cách riêng trong đời sống tinh
thần, người trên phải hướng dẫn giáo dục người dưới, người đi trước chỉ đường
cho kẻ đến sau. Anh em bạn bè phải giúp nhau nên tốt. Tất cả đều liên đới chịu
trách nhiệm về nhau trong tình huynh đệ.
Lạy Chúa, được gia nhập Hội Thánh, chúng con
phải chịu trách nhiệm giúp nhau sống thánh thiện hơn. Con có bổn phận lo cho
chính minh và còn có trách nhiệm với tha nhân đang sống chung quanh con, nhất
là đối với trẻ nhỏ. Thế mà, suốt bao năm tháng qua, không biết được mấy lần con
là ngọn đèn dẫn dắt người khác bước đi theo con đường của Chúa. Và có lẽ cũng
không thiếu những lúc con đã trở nên chướng ngại vật cản đường anh em đến với
Chúa, vì đã làm gương xấu cho họ. Con đã dửng dưng truớc lỗi lầm của tha nhân
vì chưa biết khích lệ nhau nên thánh.
Lạy Chúa Giêsu, con sợ lời cảnh báo của
Chúa. Xin Chúa giúp con sống đời chứng nhân bằng những gương sáng, bằng cuộc
sống thánh thiện trong môi trường hằng ngày. Xin giúp con thay vì thúc đẩy lôi
kéo nhau đến tội lỗi, thì trái lại, biết dẫn đưa nhau tới đời sống thánh thiện
bằng lời nói, bằng việc làm, và bằng cả cuộc sống. Amen.
Ghi nhớ : "Dù một ngày bảy lần nó trở lại nói cùng
con rằng: Tôi hối hận, thì con hãy tha cho nó".
www.phatdiem.org
12/11/12 THỨ HAI TUẦN 32 TN
Th. Giôsaphát, giám mục, tử đạo
Lc 17,1-6
Th. Giôsaphát, giám mục, tử đạo
Lc 17,1-6
THA THỨ KHÔNG GIỚI HẠN
“Dù người anh em của
anh xúc phạm anh một ngày đến bảy lần, rồi bảy lần nó trở lại và nói với anh:
‘Tôi hối hận’ thì anh cũng phải tha cho nó.” (Lc 17,4)
Suy niệm: Còn nhớ ngày nào con người vẫn xử với nhau theo “luật
rừng”, “mắt đền mắt, răng đền răng.” So với thứ “luật rừng” đó, người Việt Nam
chúng ta tha thứ tới mức “quá tam ba bận” đã là “cực kỳ” tiến bộ, quảng đại
rồi. Ấy thế mà chưa thấm vào đâu so với tiêu chuẩn của Chúa Ki-tô: tha thứ tới
7 lần – chắc bạn còn nhớ con số 7 trong Thánh Kinh, con số nói lên sự hoàn hảo
tốt đẹp thấy được trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Phúc Âm theo thánh
Mát-thêu còn nói mạnh hơn “tha
thứ đến 70 lần 7,” tha thứ mà
không đợi người xin lỗi. Phải chăng Chúa Giê-su muốn nói tha thứ là hành xử
theo cung cách của Thiên Chúa, là góp phần làm cho người anh em được trở nên
con người mới như thể được sáng tạo một lần nữa?
Mời Bạn: Điều làm cho người ta khó tha thứ là khi bị xúc phạm người
ta cảm thấy một cái gì đó uất nghẹn như thể bị đè nén, một cái gì đó mất mát
như thể bị chiếm đoạt, một cái gì đó đau đớn như thể đang chết đi. Đó chính là
một nửa của cái gọi là “cục tự ái” của bạn đấy (xin mách nhỏ “nửa kia” của cục
tự ái là cảm giác khó khăn khi bạn phải xin lỗi ai đó). Phải “giải phẫu” cái
khối u đó ra khỏi tim bạn thì bạn mới có thể tha thứ được – và cũng biết xin
lỗi nữa.
Sống Lời Chúa: Mỗi khi bạn bị xúc phạm, hoặc cảm thấy khó tha thứ, hãy
nhìn ngắm thật kỹ Đức Ki-tô trên thập giá và hỏi Chúa: “Ở địa vị của con, Chúa
sẽ làm gì?”
Cầu nguyện: Hát kinh Hoà Bình, đặc biệt ghi nhớ câu: “Vì chính khi thứ tha là khi được
tha thứ.”
www.5phutloichua.net
Làm cớ vấp ngã
Cái xấu xem ra hấp dẫn hơn, mạnh mẽ hơn, dễ bắt
chước hơn, khiến con người hôm nay, đặc biệt là giới trẻ, bị ảnh hưởng nặng nề.
Suy niệm:
Thỉnh thoảng báo chí lại nói đến một chuyện không
hay nào đó
bị coi
là gây sốc hay phản cảm.
Có những
chuyện tồi tệ hơn được gọi là xì-căng-đan.
Xì-căng-đan
gốc là một từ Hy Lạp dùng trong Tân Ước (scandalon)
để chỉ một
viên đá làm người ta vấp ngã (Rm 11, 9),
hay một
duyên cớ khiến người ta phạm tội (Mt 13, 41).
Trong Giáo Hội đôi khi cũng có những xì-căng-đan.
Nơi bài Tin
Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhắc chúng ta hãy đề phòng
về những
xì-căng-đan trong chính cộng đoàn tín hữu.
Ngài nhìn
nhận rằng không thể nào tránh được những xì-căng-đan (c. 1).
Nhưng Ngài
lại rất nặng lời với người nào gây ra cớ vấp phạm đó.
Cột cối đá
lớn vào cổ anh ta và xô xuống biển cho chết đi
thì tốt
cho anh ấy hơn là để anh ấy làm cớ phạm tội
cho một
trong những kẻ bé nhỏ này (c. 2).
Những
kẻ bé nhỏ ở đây là những người môn đệ của
Chúa.
Rõ ràng Đức Giêsu quý tâm hồn trong sạch của con người.
Tuy hiền
lành, nhưng Ngài lại tỏ ra không khoan nhượng
với những kẻ làm
gương xấu khiến người khác phạm tội.
Ngài muốn
bảo vệ những kẻ yếu đuối, đơn sơ, thiếu bản lãnh.
Ngài không
muốn những Kitô hữu khác lợi dụng, lôi kéo họ,
khiến
họ mất đức tin, mất niềm hy vọng và mất lòng yêu mến.
Trong bài
diễn từ cuối cho các kỳ mục của Êphêsô ở Mi-lê-tô,
thánh Phaolô
đã khuyên các ông nên coi chừng sói dữ vào đàn chiên,
“giảng dạy
những điều sai lạc, lôi cuốn các môn đệ đi theo” (Cv 20,30).
Làm cớ cho người khác phạm tội
là một
tội chúng ta ít để ý và ít xưng thú.
Chúng ta cho
mình có quyền tự do nói và làm điều mình thấy là đúng.
Nhưng khi
làm như vậy, chúng ta lại không để ý
đến những
thương tổn có thể gây ra nơi lương tâm
của những
người anh em yếu đuối trong cộng đoàn,
cũng
như đến chuyện làm cớ cho anh em mình sa ngã (1 Cr 8, 11.13).
Thánh
Phaolô nhấn mạnh: phạm đến anh em là phạm đến Đức Kitô.
Không
thể vì tự do của tôi mà làm mất một người anh em
đã được
Đức Kitô chết cho (1 Cr 8, 11).
Trong cuộc sống nối mạng toàn cầu hiện nay,
cái tốt
và cái xấu được loan đi xa với tốc độ chớp nhoáng.
Một biến cố
mới xảy ra ở đây, lập tức cả thế giới đều biết.
Nhưng cái
xấu xem ra hấp dẫn hơn, mạnh mẽ hơn, dễ bắt chước hơn,
khiến con
người hôm nay, đặc biệt là giới trẻ, bị ảnh hưởng nặng nề.
Làm
thế nào để những gương tốt được nhân lên khắp đó đây?
Làm
thế nào để Giáo Hội bớt đi những viên đá làm người ta vấp ngã?
Mong
có ngày một giáo dân bình thường cũng biết nhận định đúng sai
khi tiếp thu
đủ thứ thông tin từ mọi nguồn.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
việc tông
đồ của con phải là việc tông đồ diễn tả lòng tốt.
để khi
thấy con, người ta phải nói:
“vì anh
này tốt quá, nên đạo của anh phải là đạo tốt”.
Và nếu có ai hỏi con tại sao con lại hiền lành
và tốt như thế,
con
sẽ trả lời vì con là tôi tớ của một Đấng tốt hơn
con nhiều.
“Chớ chi
bạn biết được Chủ Giêsu của tôi tốt biết bao!”
Con muốn sống thật tốt để người ta có thể nói:
“Nếu tôi
tớ mà tốt như vậy, thì Chủ sẽ tốt đến thế nào!”
(Chân phước Charles Foucauld)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
"Dù một ngày bảy lần nó trở lại nói cùng con rằng:
Tôi hối hận, thì con hãy tha cho nó".
Chối Bỏ
Trách Nhiệm.
Cựu
tổng thống Phi Luật Tân, ông Joseph Estrada đã gặp nhiều chống đối trong nước
theo sau tiết lộ của một tổng trưởng thân thiết của ông về số tiền hối lộ ông
đã nhận được từ các tổ chức cờ bạc. Hẳn lúc đó vẫn còn nhiều người ủng hộ ông,
nhưng con số bất mãn trong mọi giai tầng xã hội, từ giới kinh doanh, chính trị
gia, sinh viên học sinh, cho đến cả người nghèo, ngày càng gia tăng. Ông khó có
thể lấy lại sự ủng hộ mà những người dân nghèo đã dành cho ông trước đây.
Trong
một quốc gia có đa số dân theo công giáo, ảnh hưởng của Giáo Hội Công Giáo vẫn
còn rất lớn và luân lý đạo đức vẫn còn là chuẩn mực để đánh giá sự lãnh đạo.
Ðây là điều mà người tiền nhiệm của ông, cựu tổng thống Fidel Ramos đã nói
thẳng với ông Estrada khi còn tại chức: "Hoặc là tổng thống phải từ chức
trước lễ Giáng Sinh, hoặc là ông phải chỉnh đốn lại cách sống của ông".
Ông Ramos nói như sau: "Tổng thống Estrada phải trước tiên sửa đổi bản
thân bằng cách thay đổi nếp sống vô kỷ luật và cách làm việc thiếu trách
nhiệm".
Trong
một buổi lễ qui tụ hàng ngàn người chống đối ông Estrada, Ðức Hồng Y Sin, tổng
giám mục Manila, cũng đã thách thức nhà lãnh đạo Phi lúc đó rằng: "Liệu
ông có thể nhìn thẳng vào nhân dân Phi, nhất là giới trẻ, và nói với họ rằng
ông là một con người gương mẫu cho họ không". Người dân Phi nào cũng biết
rằng ông Estrada đã và đang dan díu với nhiều phụ nữ cũng như cờ bạc và rượu
chè thâu đêm suốt sáng. Nhà lãnh đạo của một quốc gia được trao phó cho trách
nhiệm phục vụ công ích. Công ích ấy không chỉ giới hạn trong lãnh vực kinh tế,
nó còn bao hàm cả những giá trị tinh thần và đạo đức. Do đó, ngoài tài năng,
nhà lãnh đạo nào cũng còn được đòi hỏi phải có tác phong đạo đức. Nói cách
khác, ông được đặt vào vị trí cao nhất trong nước để trở thành ngọn đèn pha cho
nhiều người. Trong cụ thể, ông phải là một mẫu người đáng được đề cao về tư
cách làm người, về đời sống gia đình, v.v... Ðây cũng là trách nhiệm mà Chúa
Giêsu đòi hỏi nơi những ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu. Thật ra, đây không phải
là trách nhiệm dành riêng cho những môn đệ của Chúa Giêsu mà là trách nhiệm làm
người. Ðã làm người thì ít hay nhiều, cách này hay cách khác, ai cũng phải có
trách nhiệm với những người anh chị em của mình.
Trong
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra hai trường hợp cụ thể về trách nhiệm đối
với tha nhân: một là phải tránh làm gương mù cho anh em, hai là phải tha thứ
cho anh em. Mệnh lệnh của Chúa Giêsu làm cho chúng ta nhớ lại câu hỏi mà Thiên
Chúa đã đặt ra cho Cain sau khi Cain đã sát hại em mình là Aben: "Cain, em
của ngươi đâu?" Cain đã trả lời: "Tôi có phải là người đã giữ em tôi
đâu". Câu trả lời của Cain là lời thú nhận về một trách nhiệm mà ông muốn
chối bỏ. Thái độ của Cain vẫn thường được lập lại trong cuộc sống hàng ngày của
các Kitô hữu chúng ta. Làm thiệt hại người anh em bằng nhiều cách khác nhau đã
đành, đối xử với người anh em như một phương tiện đã đành, chúng ta cũng thiếu
trách nhiệm đối với người anh em bằng thái độ dửng dưng. Mặc ai sống chết,
chúng ta chỉ nghĩ đến quyền lợi của riêng chúng ta.
Trong
ngày sau hết, chúng ta sẽ chỉ bị xét xử dựa trên cách cư xử của chúng ta đối
với người anh chị em của chúng ta mà thôi. Chúa Giêsu đồng hóa với mỗi tha
nhân. Nguyện xin Chúa cho chúng ta luôn được tỉnh thức để nhận ra Ngài trong
mỗi một tha nhân và đối xử với người ấy như với chính Ngài.
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Toa
thuốc nuôi sống cộng đồng
Đức
Giêsu nói: “Nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã.”
Dù
nó xúc phạm đến anh một ngày đến bẩy lần, rồi bẩy lần nó trở lại nói với anh:
Tôi hối hận, thì anh cũng phải tha cho nó Các tông đồ thưa với Chúa Giêsu rằng:
“Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc. 17, 1b+4-5)
Đức
Giêsu ban cho các môn đệ mấy quy tắc về cách cư xử của các phần tử trong Giáo
hội.
Loại bỏ gương mù:
Sự
khôn ngoan của Thiên Chúa không dựa vào sự khôn ngoan loài người. Kẻ xấu dùng
gương mù để bóp nghẹt đức tin và khiêu khích sự chống đối, có khi nổi loạn
chống cả Thiên Chúa. Những người nhỏ bé như người nghèo khó, bị áp bức, bị khinh
chê, rất dễ xúc động khi gặp những người giàu, những luật sĩ phản đối và gây
cho họ sa ngã, mất tin tưởng và hy vọng. Con người ta dễ gây ra gương mù và mắc
vào tội lỗi đáng chịu hình phạt nặng nề. Người ta không thể tha thứ gương mù
trong Giáo hội, như thánh Phao-lô viết trong thư gửi giáo đoàn Cô-rin-tô.
Toa thuốc tha thứ:
Giáo
hội là một cộng đồng anh chị em tội lỗi đang được thánh hóa. Khi ai phạm tội và
gây lây lan cho những người khác, người ta phải lo giúp họ ăn năn trở lại. Lòng
thương người phải noi theo lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa, phải biết
tha thứ, dù bảy lần trong một ngày, nếu là cần thiết.
Sự
tha thứ chân thực do lòng yêu mến. Người ta chỉ có thể giúp anh chị em mình và
hướng dẫn họ ăn năn nếu có ý thức hiểu biết cảnh ngộ cùng khốn và đau khổ của
họ, cần có lòng tốt vô vị lợi và xả kỷ.
Sức mạnh của lòng tin:
Ý
thức rõ ràng về lời kêu gọi của Đức Giêsu, các tông đồ cầu nguyện Người ban
thêm lòng tin cho mình. Câu trả lời của Đức Giêsu cho các ông thấy lòng tin dù
nhỏ bé như hạt cải cũng có sức rất mạnh mẽ. Lòng tin tự phó thác vào sự quan
phòng của Thiên Chúa đem lại can đảm và sức mạnh để có lòng tha thứ. Và đồng
thời, còn làm cho kẻ tội lỗi ăn năn trở về.
Sự
phó thác này tăng thêm tình yêu cho các phần tử của Hội thánh và rất cần để
chống lại những ảnh hưởng chia rẽ của tội lỗi. Và tình yêu có sức hoạt động
mạnh mẽ và hữu hiệu để tăng thêm lòng tin của các phần tử của Hội thánh.
RC.
Ngày 12
Thánh
Giôsaphát, giám mục, tử đạo
Bởi vì ngôn sứ được Thần Khí cư ngụ, nên có khi nhận được những thiên
cảm đặc biệt. Ngôn sứ cũng là một tâm hồn cầu nguyện.
Vì ngôn sứ có mối lo lắng
- có sứ mạng - quan tâm đến sự trung thành với dự định của Thiên Chúa, nên ngôn
sứ không chỉ công bố một lời,
nhưng còn tố cáo điều chống lại ý Thiên Chúa và cam kết thực
hiện. Như vậy, ngôn sứ đóng vai trò cốt yếu trong cộng đoàn để cộng đoàn vẫn là
chứng nhân của Nước Trời. Với tư cách
là đặc sủng, làm ngôn sứ là ân ban của Thiên Chúa, là mục tiêu của lời hứa,
nhưng là hoa trái Thiên Chúa cho nhưng không. Giáo Hội cần đến tầm cỡ thể chế bao nhiêu, để đảm bảo căn
tính, việc chuyển giao Lời
Chúa và truyền thông, thì tư
cách là ngôn sứ cũng cần thiết bấy nhiêu, để Giáo Hội tiếp tục để Chúa Thánh
Thần đến, có khi bất ngờ. Nếu không có những gương mặt có uy thế của ngôn sứ,
như các vị sáng lập vĩ đại của các dòng tu, chẳng hạn, thì Giáo Hội đã không
tránh được khỏi tinh thần thế tục, vào những thời kỳ nào đó.
Vậy nếu đặc sủng ngôn sứ, theo nghĩa mạnh, không được ban
cho mọi người, thì mọi Kitô hữu được mời gọi trở nên "dấu chỉ phản
biện", nơi họ sống.
Bernard Ugeux
Thứ
Hai 12-11
Thánh Josaphat
(1580?-1623)
T
|
hánh Josaphat, vị giám mục
theo lễ điển Ðông Phương, được coi là vị tử đạo cho sự hợp nhất giáo hội vì
ngài cố gắng đưa Chính Thống Giáo về hợp nhất với Rôma.
Vào năm 1054, một sự chia cắt
chính thức được gọi là đại ly giáo đã xảy ra giữa Giáo Hội Ðông Phương ở
Constantinople và Giáo Hội Tây Phương ở Rôma vì những bất đồng về thần học và
đời sống độc thân của giáo sĩ. Cho đến năm thế kỷ sau, một giáo chủ Chính Thống
Giáo ở Kiev và năm giám mục Chính Thống Giáo quyết định đưa hàng triệu người
Chính Thống Giáo dưới quyền về hợp nhất với Rôma. Khi Thượng Hội Ðồng ở Brest
Litovsk khai mạc vào năm 1595 thì Thánh Josaphat Kunsevich lúc ấy chỉ là một
cậu bé trai, nhưng đã được chứng kiến các kết quả tích cực cũng như tiêu cực
của thượng hội đồng.
Hàng triệu Kitô Hữu đã không
đồng ý với các giám mục về sự hiệp thông với Công Giáo, và cả đôi bên đều tìm
cách giải quyết sự bất đồng, không chỉ bằng lời nói mà còn bằng vũ lực. Do đó
cả hai phía đều có nhiều người đã tử vì đạo. Giữa những xáo trộn ấy, Thánh
Josaphat là một tiếng nói hòa bình.
Khi còn niên thiếu, nhờ sự
khuyến khích của hai vị linh mục dòng Tên nên ngài đã gia nhập tu viện Holy
Trinity ở Vilna năm 1604. Trong thời gian này, ngài quen thân với Joseph
Benjamin Rutsky, là người trở lại Kitô Giáo sau một thời gian theo phái Calvin.
Cả hai đều muốn sự hợp nhất trong giáo hội và cải tổ đời sống tu trì.
Sau đó, Josaphat được gửi đi
trông coi một cơ sở ở Rôma, còn Rutsky được làm tu viện trưởng ở Vilna. Khi
Rutsky được làm giáo chủ của Kiev, thì Josaphat lại được thế chỗ Rutsky làm tu
viện trưởng. Nhân cơ hội này, Josaphat thi hành kế hoạch cải tổ, nhưng đường
hướng cải tổ phản ảnh một đời sống nghiêm nhặt và khắc khổ của ngài, nên không
mấy ai hưởng ứng. Ngay cả một tu hội còn dọa ném ngài xuống sông!
Khi là vị giám mục đầu tiên ở
Vitebsk và sau đó ở Polotsk vào năm 1617, Ðức Giám Mục Josaphat phải đối diện
với nhiều khó khăn. Có thể nói giáo hội lúc ấy thật thối nát, giáo sĩ tái hôn
đến hai ba lần, và họ không lo lắng gì đến việc mục vụ hoặc đời sống gương mẫu.
Trong vòng ba năm, Ðức Giám Mục Josaphat phải chấn chỉnh lại giáo hội qua các
thượng hội đồng, phân phát sách giáo lý khắp nơi, và áp đặt những quy luật cho
hàng giáo sĩ. Nhưng đáng kể hơn cả là chính đời sống của ngài mà hầu như lúc
nào cũng đi rao giảng, giáo dục đức tin, thăm viếng những kẻ đau ốm.
Bất kể công việc và tiếng tăm
của Ðức Giám Mục Josaphat, những người Chính Thống Giáo ly khai đã bầu một tổng
giám mục của họ ngay ở cùng một thành phố. Thật đau lòng cho Ðức Giám Mục
Josaphat khi thấy những người ngài phục vụ bị phân ly trong những cuộc bạo
loạn. Ngay cả giáo phận cũ của ngài ở Vitebsk cũng chống đối sự hợp nhất và
chống chính ngài. Ðau khổ hơn cả, là chính người Công Giáo mà ngài tìm cách hợp
nhất cũng chống đối ngài, chỉ vì họ không thích lễ điển Byzantine mà ngài chủ
trương thay vì lễ điển Rôma. Vì sợ hãi hoặc vì ngu dốt, vị chưởng ấn của
Lithuania, tin lời đồn đãi rằng ngài xúi giục dân chúng nổi loạn, nên thay vì
giúp đỡ thì lại lên án Ðức Giám Mục Josaphat. Thực sự ngài chỉ dùng đến quyền
lực khi các người ly khai chiếm nhà thờ Mogilev và ngài xin nhà cầm quyền giúp
phục hồi lại quyền bính.
Vào tháng Mười 1623, Ðức Giám
Mục Josaphat quyết định trở về Vitebsk để đích thân lắng dịu vấn đề. Ngài biết
rất nguy hiểm nhưng cho biết, "Nếu tôi xứng đáng được phúc tử đạo, thì
tôi không sợ chết."
Những người ly khai coi đây
là cơ hội để trừ khử Josaphat và làm ngài mất uy tín nếu họ xúi giục được phe
của ngài nổi loạn trước và coi đó là cái cớ để chống lại. Sự đe dọa tính mạng
của ngài quá lộ liễu đến nỗi ngài phải lên tiếng, "Quý vị muốn giết tôi
sao. Quý vị phục kích tôi trên đường phố, trên cầu cống, trong chợ búa, ở khắp
mọi nơi. Chính tôi đây. Tôi đến với quý vị như một mục tử. Quý vị biết là tôi
rất vui mừng để hy sinh cho quý vị. Tôi sẵn sàng chết cho sự hợp nhất của Giáo
Hội dưới quyền Thánh Phêrô và các giáo hoàng kế vị."
Khi người ly khai thấy kế
hoạch thất bại, họ lập mưu bằng cách đưa một linh mục tên Elias đến nơi tụ họp
của phe đức giám mục để lên tiếng sỉ vả bất cứ ai đi ngang qua, nhất là vu
khống Ðức Giám Mục Josaphat và Giáo Hội Công Giáo, cốt để chọc tức.
Biết được thâm ý của họ, Ðức
Giám Mục Josaphat giữ im lặng và cầu nguyện nguyên ngày. Qua ngày hôm sau,
Elias lại đến nữa và các người phục dịch của đức giám mục đã bắt nhốt Elias
trong một căn phòng khi ngài đi vắng. Trở về nhà, thấy vậy ngài đã mở cửa phòng
cho Elias trốn đi. Nhưng đã quá trễ. Ðám ly khai chỉ chờ có thế để báo động cả
thành phố đến bao vây với gậy gộc trên tay.
Khi bước ra sau vườn, ngài
thấy đám du côn đánh đập các người phục dịch và các linh mục khác, ngài lớn
tiếng kêu: "Này các con, các con làm gì những người đó vậy? Nếu các con
muốn chống đối cha, thì có cha đây, đừng đụng đến những người ấy!" Sau
tiếng hô to, "Hãy giết tên theo giáo hoàng," bọn họ đánh đập
Ðức Giám Mục Josaphat với gậy gộc, sau đó họ dùng rìu và cuối cùng bắn vào đầu
ngài. Thi thể đầy máu của ngài bị họ kéo lê ra sông và quăng xuống đó cùng với
xác con chó của ngài.
Những anh hùng vô danh trong
thảm kịch này là các người Do Thái ở Vitebsk. Họ đã liều mạng xông vào toà giám
mục để can gián và cứu những người trong toà giám mục khỏi bị sát hại. Nhờ sự
can đảm của họ, nhiều người đã được cứu sống. Cũng chính những người Do Thái
này đã công khai lên án các tên sát nhân và thương tiếc Ðức Giám Mục Josaphat,
trong khi người Công Giáo ở thành phố lại trốn chui trốn nhủi vì sợ hãi.
Thông thường, sự bạo động
luôn luôn có hậu quả trái ngược. Vì hối hận và kinh hoàng về cuộc bạo động
khiến họ mất đi một vị giám mục thánh thiện nên công chúng lại hướng về sự hợp
nhất với Rôma. Và sau cùng, đức tổng giám mục mà phe ly khai dựng lên là
Meletius Smotritsky cũng đã hoà giải với Rôma.
Vào năm 1867, Ðức Giám Mục
Josaphat là vị thánh đầu tiên của Giáo Hội Ðông Phương được Rôma tuyên phong
hiển thánh.
Lời Bàn
Mầm mống chia rẽ được bắt đầu
vào thế kỷ thứ tư, khi Ðế Quốc La Mã bị chia cắt làm hai phần Ðông và Tây.
Không một lý do nào có thể biện minh cho sự phân ly hiện nay trong Kitô Giáo,
mà trong đó 64 phần trăm là Công Giáo Rôma, 13 phần trăm là các Giáo Hội Ðông
Phương (hầu hết là Chính Thống Giáo) và 23 phần trăm Tin Lành, trong khi 71
phần trăm dân số thế giới chưa được biết đến Ðức Kitô thì họ phải là những người
được mục kích sự hợp nhất Kitô Giáo và đức bác ái của những người mệnh danh là
Kitô Hữu!
www.nguoitinhuu.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét