Trang

Thứ Năm, 29 tháng 11, 2012

30-11-2012 : THÁNH AN-RÊ, TÔNG ĐỒ, LỄ KÍNH


Ngày 30 tháng 11
Thánh Anrê, Tông Ðồ
Lễ Kính
Thánh An-rê - tranh Greco


Bài Ðọc I: Rm 10, 9-18
"Lòng tin có là nhờ nghe, còn nghe thì dựa vào lời Ðức Kitô".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Nếu miệng ngươi tuyên xưng Ðức Giêsu là Chúa và lòng ngươi tin rằng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại, thì ngươi sẽ được rỗi. Quả thế, tin trong lòng thì sẽ được công chính, tuyên xưng ngoài miệng sẽ được cứu rỗi.
Nhưng người ta kêu cầu thế nào được với Ðấng mà họ không tin? Hoặc làm sao họ tin được Ðấng họ không nghe nói tới? Nhưng nghe thế nào được, nếu không có người rao giảng? Mà rao giảng thế nào được, nếu không được ai sai đi? Như có lời chép rằng: "Cao quý thay chân những người rao giảng sự bình an, rao giảng tin lành!" Nhưng không phải mọi người đều suy phục Tin Mừng cả đâu. Vì Isaia nói rằng: "Lạy Chúa, nào có ai tin lời chúng con rao giảng?"
Vậy lòng tin có là nhờ nghe, còn nghe thì dựa vào lời Ðức Kitô. Nhưng tôi xin hỏi: Phải chăng họ đã không được nghe đến? Quả thật, tiếng của những vị đó đã vang dội ra khắp địa cầu, và lời của những đấng ấy được truyền đến tận cùng thế giới.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 18, 2-3. 4-5
Ðáp: Tiếng chúng đã vang cùng trái đất. (c. 5a).
Xướng: 1) Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp của Người. Ngày này nhắc nhủ cho ngày khác, đêm này truyền tụng cho đêm kia. - Ðáp.
2) Ðây không phải lời cũng không phải tiếng, mà âm thanh chúng không thể lọt tai. Nhưng tiếng chúng đã vang cùng trái đất, và lời chúng truyền ra khắp cõi địa cầu. - Ðáp.

Alleluia: Ga 9, 19
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Các ngươi hãy theo Ta; Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta". - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 4, 18-22
"Các ông bỏ lưới mà đi theo Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, nhân lúc Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy hai anh em là Simon, cũng gọi là Phêrô, và Anrê, em ông, cả hai đang thả lưới dưới biển, vì hai ông là ngư phủ. Người bảo hai ông rằng: "Các ngươi hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta". Lập tức hai ông bỏ lưới đó mà theo Người. Ði xa hơn một đỗi, Người lại thấy hai anh em khác là Giacôbê con ông Giêbêđê, và Gioan em ông đang vá lưới trong thuyền với cha là Giêbêđê. Người cũng gọi hai ông. Lập tức hai ông bỏ lưới và cha mình mà đi theo Người.
Ðó là lời Chúa.

Thánh Anrê Tông Ðồ

Anrê theo tiếng Hy Lạp có ý nghĩa là: trượng phu và thanh nhã. Ngài được nhắc tới nhiều lần trong Tân Ước. Thánh Gioa Baotixita đã giới thiệu Anrê và môn đệ khác với Chúa Giêsu. Ðáp lại lời gọi của Chúa: "Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi thành những kẻ chài lưới người", Anrê và Phêrô đã bỏ mọi sự mà theo Chúa. Khi Chúa Giêsu ở đền thờ ra đi và nói tiên tri về sự tàn phá thành Thánh, Anrê đã hỏi Chúa xem khi nào việc đó sẽ xảy ra.
Sau khi Chúa sống lại, Anrê và các tông đồ khác lên đường rao giảng Tin Mừng. Chúng ta không có được những sử liệu về cuộc hành trình truyền giáo của ngài, trừ một một đoạn văn sau đây đề cập đến cuộc tử đạo của ngài: "Quan lãnh sự Akai bắt trói thánh nhân vào cột đá để cho chết dần chết mòn. Dân chúng nhất quyết can thiệp để xin quan tha cho ngài, nhưng thánh nhân muốn vui lòng chấp nhận cái chết anh dũng vì danh Chúa để nên giống như Chúa". Năm 357, Giáo Chủ thành Alexandrie đem hài cốt ngài về Constantinople.
Nhiều nhà thờ ở La Mã và bên Anh đã được xây cất dâng kính thánh Anrê, Giáo Hội đã ghi tên ngài vào "Lời nguyện hiệp nhất" trong thánh lễ.
(Veritas Asia)


 Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Thánh Anrê Tông Đồ (Ngày 30 tháng 11)
Bài đọc: Rom 10:9-18; Mt 4:18-22.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo Tin Mừng!

Thánh Anrê Tông Đồ, con của ông Jonah hay John (Mt 16:17; Jn 1:42), sinh tại Bethsaida, miền Galilee (Jn 1:44). Ngài là anh em với thánh Phêrô (Mt 10:2; Jn 1:40). Cả hai anh em đều làm nghề đánh cá, và khi được gọi bởi Chúa Giêsu, hai anh em đang sống chung một nhà tại Capernaum (Mk 1:21, 29).
Tin Mừng Thứ Tư cho chúng ta biết Anrê lúc đầu là môn đệ của John Baptist, và sau lời làm chứng của thầy mình, Anrê đã đi theo Chúa Giêsu (Jn 1:35-40). Sau khi nhận ra Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, ông vội vã giới thiệu Ngài cho Phêrô, em mình (Jn 1:41), và cả hai trở thành những môn đệ của Đức Kitô. Hai ông bỏ mọi sự để đi theo Chúa Giêsu (Mt 4:19-20; Mk 1:17-18; Lk 5:11).
Tên của hai anh em được liệt kê vào Nhóm Mười Hai Tông-đồ trong Tin Mừng Nhất Lãm và CVTĐ (Mt 10:2-4; Mk 3:16-19; Lk 6:14-16; Acts 1:13). Anrê luôn được kể là một trong bốn môn đệ đầu tiên. Trong Tin Mừng Nhất Lãm, Anrê chỉ được nhắc tới một lần cùng với Phêrô, Giacôbê và Gioan, khi các ông hỏi Chúa Giêsu về ngày mà Đền Thờ Jerusalem bị phá hủy. Trong Phúc Âm Gioan, Anrê là người được nhắc tới trong phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi 5,000 người ăn (Jn 6:8-9), và khi một số người Hy-lạp đến với Philip để xin cho họ gặp Chúa Giêsu, Philip đã chuyển lời của họ cho Anrê (Jn 12:20-22).
Khi các Tông-đồ bắt đầu nhận lệnh đi khắp tứ phương rao giảng Tin Mừng, thánh Jerome cho biết thánh Anrê lúc đầu đã đi rao giảng tại Cappadocia, Galatia, Bithynia, và trong vùng sa mạc Scythia; sau đó ngài tới Byzantium, Macedonia, Thessaly và Achaia. Truyền thống tin ngài bị đóng đinh bởi Aegeas, Thống Đốc Rôma, tại Patrae trong miền Achaia. Cuộc tử đạo của ngài xảy ra dưới thời hoàng-đế Nero (ngày 30 tháng 11 năm 60 AD). Di hài của ngài lúc đầu được giữ ở Constantinople, khi thành phố này bị chiếm bởi người Pháp vào đầu thế kỷ 13, đức hồng y Phêrô của Capua đã mang di hài của ngài về Ý và đặt trong thánh đường Amalfi. Thánh Anrê được tôn làm quan thầy của Sô Viết và Tô Cách Lan.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Tiếng các ngài đã dội khắp hoàn cầu, và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển.
1.1/ Lời Kinh Thánh giúp con người nhận ra sự thật và tin tưởng nơi Thiên Chúa: Trình thuật hôm nay tiếp tục những gì thánh Phaolô đã trình bày trong những chương trước về đề tài con người được nên công chính là do bởi niềm tin vào Đức Kitô, chứ không do bởi việc giữ cẩn thận các Lề Luật. Ngay trong câu đầu tiên, thánh Phaolô đã trình bày về việc làm sao con người có thể tin tưởng nơi Thiên Chúa: “Vậy Kinh Thánh nói gì? Thưa: Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin.”
Thánh Phaolô muốn nhấn mạnh hai điều trong câu này: thứ nhất, Thiên Chúa là tác nhân chính, Ngài đã đặt Lời vào trong con người; thứ hai, Phaolô chỉ là người cộng tác với Thiên Chúa trong việc rao giảng để khơi dậy đức tin nơi người nghe. Phaolô trích dẫn Sách Đệ Nhị Luật 30:14 theo văn bản của MT. Có sự khác biệt giữa Bản Bảy Mươi và Bản MT: Bản Bảy Mươi có thêm câu “và ngay trên tay bạn;” có lẽ tác giả của Bản Bảy Mươi cũng muốn đến sự liên hệ giữa đức tin và hành động để biểu lộ đức tin. Theo Phaolô, con người phải tin Đức Kitô trong lòng và tuyên xưng ngoài miệng: Ngài đã được Thiên Chúa sai đến với con người để chịu chết và đã sống lại, thì mới được hưởng ơn cứu độ.
1.2/ Thiên Chúa thương xót tất cả những ai tin tưởng nơi Ngài: Ơn cứu độ của Thiên Chúa được mở rộng cho tất cả những ai tin và kêu cầu danh của Ngài; chứ không phải chỉ giới hạn trong vòng dân tộc Do-thái như nhiều người lầm tưởng. Phaolô trích dẫn các Sách Tiên Tri, Isaiah 28:16 trong câu 11, và Joel 2:32 trong câu 13, để nói lên sự thật này. Đây là điều hợp lý và chứng tỏ tình yêu Thiên Chúa dành cho mọi người. Phaolô kết luận: “Như vậy, không có sự khác biệt giữa người Do-thái và người Hy-lạp, vì tất cả đều có cùng một Chúa, là Đấng quảng đại đối với tất cả những ai kêu cầu Người.”

2/ Phúc Âm: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá."
2.1/ Chúa Giêsu mời gọi 4 môn đệ đầu tiên đi theo Ngài: Chúa Giêsu mời gọi các ông hướng tới sứ vụ cao trọng hơn: mang ánh sáng chân lý của Thiên Chúa và ơn cứu độ đến cho con người. Thoạt nghe trình thuật của Matthew, chúng ta có thể thắc mắc: Làm sao 4 môn đệ đầu tiên này có thể đáp trả lời mời gọi của Chúa Giêsu cách dứt khoát và nhanh chóng như thế? Bốn ông đều chắc chắn đã có cơ hội nghe Chúa Giêsu rao giảng trong hội đường Capernaum và chung quanh vùng Biển Hồ Galilee, đã chứng kiến các phép lạ Ngài làm, đã nghe dân chúng bàn tán về Ngài... Tất cả những điều này làm các ông phải suy nghĩ nhiều đêm, để rồi hôm nay, khi Ngài chính thức mời gọi: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá;" các ông mới có thể bỏ mọi sự đi theo Ngài.
2.2/ Các môn đệ phải dứt khoát đáp trả: Tuy thế, phản ứng dứt khoát của các tông đồ cũng làm cho chúng ta phải kinh ngạc. Nghề nghiệp không dễ bỏ vì nó liên quan đến vần đề sinh sống. Các ông chắc cũng thắc mắc: “Bỏ nghề rồi làm gì ăn?” Bỏ cha già ở lại trên thuyền với lưới rách còn khó hơn. Ơn sinh thành phải đền trả. Giờ đã đến lúc người cha già yếu phải sống nương tựa vào sức mạnh của con, thế mà hai người con khỏe mạnh đành lòng để cha già ở lại để bước theo Đức Kitô! Hơn nữa, chắc họ cũng phải nhìn lại con người mình và tự hỏi: Làm sao một dân thuyền chài có thể mang ánh sáng chân lý tới cho con người? Chính họ cần được ánh sáng chân lý chiếu soi trước hết.
Các ông có can đảm bước đi theo tiếng gọi của Chúa Giêsu vì các ông được soi sáng để nhận ra đâu là điều quan trọng trong cuộc đời. Các ông đi theo Chúa Giêsu vì các ông nhận ra có những điều trong cuộc đời cao trọng hơn là nghề nghiệp và sự đáp trả công ơn sinh thành bằng việc giúp đỡ phần xác. Chúa Giêsu phải có những điều có thể lấp đầy những nỗi khao khát trong tâm hồn các ông. Các ông thấy dân chúng lũ lượt và nhiệt thành đến với Chúa Giêsu để nghe Ngài dạy dỗ và chữa lành. Các ông cảm thấy hãnh diện được trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, và việc tham gia vào sứ vụ cứu độ của Chúa phải là điều đáng ao ước hơn cả.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Trong cuộc đời, có những điều quan trọng hơn là công việc làm. Chúng ta hãy noi gương thánh Anrê để đi tìm sự thật, và sau khi đã tìm thấy, loan báo sự thật này cho mọi người.
- Trong tiến trình đem con người đến với Thiên Chúa, con người chỉ là khí cụ Thiên Chúa dùng để rao giảng. Để con người hoán cải và tin vào Thiên Chúa, con người cần ơn thánh hoạt động cả bên trong lẫn bên ngoài.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP

THÁNH ANRÊ TÔNG ĐỒ 
Sứ điệp: Khi xưa, Chúa Giêsu đã kêu gọi các tông đồ theo Chúa. Ngày nay, Chúa cũng mời gọi mọi người như vậy. Theo Chúa có nghĩa là từ bỏ tất cả để sống với Chúa, sống như Chúa, và loan báo Tin Mừng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, cuộc sống con ngụp lặn trong hồng ân Chúa mà đôi khi con vô tình không nhận ra. Giữa muôn người, Chúa đã chọn và kêu gọi mười hai người làm tông đồ để trở nên cột trụ của Hội Thánh. Giữa muôn người, Chúa cũng đoái thương nhìn đến con và kêu gọi con theo Chúa. Chúa đi tìm và gọi con từ giữa cuộc sống của con, giữa tình trạng hiện tại của con, bất kể con giàu hay nghèo, quê mùa hay trí thức, đạo đức hay tội lỗi, nghề này hay nghề nọ. Chúa cho con được sống với Chúa để biết Chúa, để sống tình bạn hữu với Chúa. Và Chúa mời gọi con bắt chước Chúa, sống theo lời Chúa dạy. Tất cả cuộc đời con bắt nguồn từ tiếng Chúa kêu mời. Con tạ ơn Chúa vì niềm hạnh phúc này.
Con xin Chúa ban sức mạnh giúp con bắt chước các tông đồ, biết từ bỏ tất cả để theo Chúa, từ bỏ ngay cả những gì con gắn bó và yêu quý nhất. Đời sống con còn lừng khừng nửa vời, con vẫn quyến luyến vấn vương với tạo vật. Xin Chúa giúp con dứt khoát để theo Chúa sát hơn.
Dù con bất xứng thấp hèn, con cũng xin Chúa biến đổi và thánh hóa để con trở nên ngư phủ cộng tác với Chúa, thả lưới đánh bắt các linh hồn về cho Chúa. Xin Chúa giúp con tận dụng thời giờ và khả năng của con để làm tông đồ trong hoàn cảnh cuộc sống con.
Con đã nhiều lần trong đời nghe tiếng Chúa gọi. Xin cho con được nhận ra tiếng gọi ấy mỗi ngày để con sống xứng đáng hơn. Amen.
Ghi nhớ :"Các ông bỏ lưới mà đi theo Người".
www.phatdiem.org

30/11/12 THỨ SÁU TUẦN 34 TN
Th. Anrê, tông đồ
Mt 4,18-22 

BỎ MỌI SỰ MÀ THEO
Người bảo các ông: “Các anh hãy đi theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà theo Người. (Mt 4,19-20)
Suy niệm: Những người làm kinh doanh đều phải cậy nhờ đến quảng cáo, tiếp thị. Đủ mọi kiểu mời chào được đưa ra. Lời mời chào nào cũng hấp dẫn, cũng êm tai. Tất cả đều đánh động sở thích, khai thác tâm lý của ta, nhằm lôi kéo ta tìm kiếm thỏa mãn các nhu cầu nhân sinh. Chúng làm người ta tưởng rằng cứ dùng sản phẩm được quảng cáo đó là tự động mình được tăng giá trị, trở thành người “đẳng cấp.” Chúa Giêsu thật “hiện đại” khi đưa ra lời mời gọi đầy hứa hẹn và hấp dẫn: theo Ngài làm “kẻ lưới người như lưới cá”! Nhưng còn hơn thế nữa: “Chọn theo” Ngài làm môn đệ là “chọn bỏ” mọi sự của cuộc sống cũ, cuộc sống thế tục để chọn Thiên Chúa là “tất cả” cho cuộc sống mới, cuộc sống nối tiếp sứ mạng của Chúa Kitô.
Mời Bạn: Anrê và các bạn “lập tức bỏ chài lưới” không phải để tìm kiếm một mối lợi nào mà để “đi theo” Đức Kitô. Các ông bỏ một cuộc sống ổn định, an toàn để dấn bước vào một cuộc mạo hiểm; nhưng sự mạo hiểm đó lại chắc chắn an toàn hơn bất cứ chọn lựa nào khác vì “Ai” đó mà các ông theo chính là Đức Kitô. Phần bạn, bạn có đang chọn Chúa Kitô không? Để “chọn” theo Ngài, bạn phải dám “bỏ” những thứ “tình, tiền, tài” làm bạn vướng chân trong những sự đời này và không thể vươn tới hạnh phúc vô biên đích thực.
Sống Lời Chúa: Thường xuyên làm những hy sinh nho nhỏ (kiềm chế một hành vi nóng nảy, một lời nói giận dữ…) để sẵn sàng cho những từ bỏ lớn hơn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con vẫn trông cậy Chúa, lòng con tin tưởng nơi Ngài.
www.5phutloichua.net

Hãy đi theo tôi
Con người của mọi dân tộc là mối bận tâm của Thiên Chúa. Theo Chúa Giêsu là chia sẻ nỗi thao thức của Ngài về nhân loại, và đồng lao cộng khổ với Ngài trong sứ mạng cứu độ thế giới. 
Suy nim:
Như một sự tình cờ, lúc đang đi dọc theo bờ hồ Galilê,
Đức Giêsu thấy bóng dáng các anh đánh cá quen thuộc.
Hẳn họ đã có lần nghe Ngài giảng và thấy Ngài chữa lành bệnh nhân.
Đức Giêsu yên lặng nhìn các anh làm việc.
Họ đang quăng lưới bắt cá hay ngồi trong khoang vá lưới với cha.
Cảnh tượng rất đời thường và ấm áp.
Đẹp biết mấy chuyện con người làm việc chung với nhau.
Sau này họ sẽ biết cách làm việc với nhau trên con thuyền Giáo Hội.
Chúa Giêsu hôm nay cũng thấy tôi.
Tôi thế nào, Ngài thấy tôi thế ấy.
Cái nhìn của Ngài không làm tôi bị tê liệt, nhưng cho tôi tự do.
Ngài chấp nhận trọn vẹn con người tôi, cả tội lỗi và yếu đuối.
Chẳng cần son phấn, tôi thu hút Ngài bằng cái mộc mạc của tôi.
Ngài gặp tôi hôm nay lúc tôi đang mải mê làm một việc gì đó.
Ngài gặp tôi giữa cái vất vả kiếm sống của đời thường.
Hạnh phúc cho người nào được thấy Thiên Chúa (Mt 5, 8),
và cũng thật hạnh phúc cho người nào được Thiên Chúa thấy.
Các anh hãy theo tôi”: đây là một lời mời dành cho mọi Kitô hữu.
Ơn gọi Kitô hữu khởi đi từ tiếng gọi của Thầy Giêsu.
Người Do Thái thường tầm sư học đạo,
còn ở đây, chính Thầy Giêsu đi chọn môn đệ cho mình (Ga 15, 16).
Ngài mời ta đi theo chính con người của Ngài,
chứ không phải theo một lý tưởng cao đẹp hay một dự án hấp dẫn.
Tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới con người.
Một cuộc đổi đời thực sự, từ lưới cá đến lưới con người.
Con người của mọi dân tộc là mối bận tâm của Thiên Chúa.
Theo Chúa Giêsu là chia sẻ nỗi thao thức của Ngài về nhân loại,
và đồng lao cộng khổ với Ngài trong sứ mạng cứu độ thế giới.
Simon và Anrê đã bỏ chài lưới, Giacôbê và Gioan bỏ thuyền và cha.
Sự từ bỏ nào cũng gây ít nhiều xót xa đau đớn.
Biển cả, sóng nước, thuyền bè, lưới cá, người cha, người vợ:
biết bao giá trị phải bỏ lại, những người tôi đã và vẫn còn yêu mến.
Từ bỏ chỉ khả thi nếu tôi gặp một giá trị cao hơn, một tình yêu lớn hơn.
Chúa không đòi mọi người phải sống đời tu, nhưng đòi phải từ bỏ mình.
Từ bỏ đơn giản là đặt Thiên Chúa lên trên mọi thụ tạo khác,
là chọn Giêsu trong giây phút hiện tại, là đón lấy cái bấp bênh.
Bốn anh ngư phủ đã lên bờ để đi theo một ông thợ mộc bỏ nghề.
Đời họ đã sang một trang mới.
Hôm nay Chúa vẫn đi ngang qua đời tôi như một sự tình cờ.
Ngài vẫn thấy, vẫn gọi, để tôi bỏ và đi theo.
Không thấy và gọi, thì cũng chẳng ai từ bỏ và đi theo.
Tiến trình này được lặp lại nhiều lần, làm nên hành trình Kitô hữu.
Hôm nay tôi mong theo Chúa hơn hôm qua, và ngày mai hơn hôm nay.

Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
xin ban cho chúng con
tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói suông,
nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.

(Chân phước Têrêxa Calcutta)


Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
"Các ông bỏ lưới mà đi theo Người".
Tông đồ trước nhất, Andrê

Lễ Thánh Andrê là lễ trước nhất trong lịch sử phụng vụ chư thánh, Ngài là người trước nhất đi theo Đức Giêsu và là người trước nhất tuyên bố Đức Giêsu là Đấng Messia. Thánh Gioan kể nhiiều chi tiết về Thánh Andrê hơn Thánh Matthêu cho chúng ta biết thái độ của Thánh Andrê.
Andrê là anh của Simon. Ngài đã thuộc nhóm đạo đức của Thánh Gioan tiền hô. Ngài cùng với Thánh Gioan đi tháp tùng Thánh Gioan Tiền Hô. Khi Thày thấy Đức Giêsu đi ngang qua, thày đã nói: “Đây Chiên Thiên Chúa Andrê đã bỏ thày lại và đi theo Đức Giêsu, đến nơi ở của Người và họ đã ở lại với Người từ ngày đó!”
Ngày hôm sau, khi em mình là Simon, Ngài nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Messia, rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu”. (Ga 1, 41-42)
Theo truyền khẩu Ngài chết ở Patras Hy Lạp, bị đóng đinh vào thập giá hình chữ X.
Ngày nay, ta luôn luôn có cảm tưởng rằng để noi gương các thánh, chúng ta phải thực hành nhân đức đặc sác của Ngài. Đúng thế! Nhưng suy nghĩ về các Thánh mà chúng ta biết điều thúc dục chúng ta là luôn cầu nguyện theo gương các Ngài, như phụng vụ khêu gợi cho chúng ta. Tờ kê khai các nhân đức của các Ngài thì dài vô tận và chúng ta sẽ như chim chích vào rừng, nói thế không phải chuyện dỡn!
Nhưng thay vì lạc vào rừng, tiên Việt Nam hãy theo Thánh Andrê, cũng như các thánh, muốn dạy chúng ta bài học độc nhất là: gặp gỡ Đức Ki-tô và yêu mến Người. Đó là đúng nhất. Không còn bài học nò khác, cũng không phải tìm ai nữa, Ngài đã tìm được Đấng giải thích cho lý trí của Ngài: “Tôi đã gặp được Đấng tôi yêu và yêu tôi”. “Tôi yêu Người trọn vẹn vì lý do đó”.
Andrê nghĩa là dâng hiến, là trung tín, là tất cả trong tình yêu, tình bạn khiêm tốn.
J.M.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 11
30 THÁNG MƯỜI MỘT
Ngài Đến Để Phán Xét
Kẻ Sống Và Kẻ Chết
Chúng ta biết về cuộc sinh hạ Chúa Giêsu trong đêm nhiệm mầu ấy ở Bê-lem. Chúng ta biết cuộc sống và cái chết của Người trên Thập Giá. Bằng lời Tin Mừng cứu độ của Người và, cuối cùng, bằng cái chết và cuộc Phục Sinh của Người, Người đã rao giảng “những gì công minh chính trực” trên mặt đất. Chúng ta hãy “đứng thẳng dậy và ngẩng đầu lên”. Vì với sự đến của Đấng Công Chính, với mầu nhiệm Vượt Qua của Người, ơn cứu độ của chúng ta được bảo đảm.
Mùa Vọng hướng chỉ về sự đến của Đấng Cứu Chuộc, của Con Người, Đấng đã sinh ra ở Bê-lem đêm ấy. Từ khoảnh khắc kỳ diệu ấy, Người tự tỏ lộ cho chúng ta thấy chính Người trong toàn bộ lịch sử nhân loại từ khởi đầu tới chung cuộc.
Người cho chúng ta thấy lịch sử loài người trên trái đất không phải chỉ là một dòng lịch sử hướng về sự chết. Lịch sử ấy có ý nghĩa của nó và dẫn về điểm hoàn thành mọi sự. Theo nghĩa đó, Mùa Vọng hướng chỉ một sự đến khác của Con Người, lần này trong tư cách là vị Thẩm Phán của hồi tận thời. Người đã đến để ươm mầm Tin Mừng qua cuộc Nhập Thể và cuộc Tử Nạn của Người. Người sẽ đến lần thứ hai để phán xét các dân tộc và thu hoạch hoa trái mà Người đã gieo trồng. Người sẽ đến để bóc trần những kín ẩn của mọi lương tâm và mọi cõi lòng vào cuối thời gian.
Như vậy, lịch sử con người trên trái đất không chỉ là một hành trình tiến về cái chết. Tiên vàn nó là một sự chuẩn bị cho sự thật của cuộc phán xét. Nó là một sự chuẩn bị cho sự sống viên mãn trong Thiên Chúa.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Thánh Anrê Tông Đồ; Rm 10,9-18; Mt 4,18-22.

LỜI SUY NIỆM: Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là ông Simon, cũng gọi là Phêrô, và người anh là Anrê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. Người gọi các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” (Mt 4, 18-20).
          Chúa Giêsu thường kêu gọi những con người đang làm việc, dù là họ đang làm bất cứ việc gì, Chúa gọi Phêrô và Anrê khi các ông đang quăng chài để bắt cá. Chúa chọn ông Mátthêu khi ông đang ngồi làm việc ở bàn thu thuế, một bên là nghề người đời cho là lương thiện, một bên nhiều người căm ghét và xếp vào hàng tội lỗi. Nhưng qua sự đào tạo của Chúa tất cả đã trở thành những vị Tông Đồ nhiệt thành tiên khởi xây dựng Hội Thánh của Chúa tại trần gian này. Trong đời sống của mỗi Ki-tô hữu cũng đang được Chúa Giêsu kêu gọi sống theo giáo huấn của Ngài trong những công việc của chúng ta đang làm. Để những người quanh chúng ta nhìn thấy mà tôn vinh Thiên Chúa.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 30-11
Thánh ANRÊ TÔNG ĐỒ
(Thế kỷ I)

Anrê tiếng Hy lạp có nghĩa là mạnh mẽ can đảm. Thánh Anrê được vinh dự làm một trong số 12 tông đồ của Chúa Giêsu. Con của Gioana. Như em mình là Phêrô, Ngài làm thuyền đánh cá và không có gì khác ngoài chiếc thuyền. Như thế Ngài thuộc lớp người khiêm tốn được Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt. Ngài vẫn sống tại làng Bethsaida nhỏ bé bên bờ biển Galilêa cũng gọi là hồ Giênezareth. Ngày ấy đang khi cùng với Phêrô đi thả lưới, Chúa Giêsu đã đi ngang qua và đưa lời gọi sẽ quyết định cuộc đời các Ngài : - Hãy theo tôi, tôi sẽ làm các anh thành các ngư phủ lưới người ta.
Đây không phải lần đầu Anrê đã gặp đấng cứu thế. Thỉnh thoảng Ngài có tới nghe Gioan Tẩy giả rao giảng trong sa mạc. Khi ấy Chúa Giêsu xuống Galilea và Gioan tẩy Giả đã nói : - Đây là Chiên Thiên Chúa.
Và ANRÊ có mặt ở đó với Gioan, đã biết được Người là Đấng thiên sai mong chờ. Gioan và ANRÊ lên đường theo Người xa xa vì họ cảm động và không dám tới gần. Nhưng Chúa Giêsu quay lại và nói với họ : - Các anh tìm chi vậy ?
Họ, những người chỉ tìm, chỉ muốn Chúa thôi đã thưa lại : - Thưa Thầy, thày ở đâu ?
Chúa Giêsu nói : - Hãy đến mà xem. Và cả hai đã ở với Chúa hôm ấy.
Khi trở về nhà ANRÊ đã nói với em mình : - Chúng tôi đã gặp được Đấng thiên sai.
Từ đó hai anh em đã bỏ chài lưới để tới gần Chúa Giêsu. Họ nghe Người và thần tính của Người dần dần rọi sáng tâm hồn họ. Họ đã tông thờ Đấng cứu thế ở trong lòng rồi.
Ở tiệc cưới Cana, Anrê đã thấy Chúa Giêsu biến nước thành rượu và lần đầu tiên thấy tỏ lộ vinh quang thần linh của Ngài. Thế là sau biến cố ấy Chúa Giêsu đã gọi hai anh em bên bờ biển Galilea và họ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa.
Anrê đã rạng rỡ trong lòng mà tham dự vào cuộc chữa lành các bệnh nhân gặp thấy trên đường đi, việc Phúc âm những kẻ chết, việc Chúa hóa bánh ra nhiều để nuôi đoàn người đói lả vây quanh Chúa Giêsu. Chính Anrê đã nói : - Có một bé trai có năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng bằng ấy thì thấm vào đâu đối với ngần này người (Ga 6,8 -9).
Và Ngài được thấy Chúa Giêsu tăng gấp số thực phẩm. Ở Gierusalem, Ngài còn cho Chúa biết rằng: lương dân đã xin với Philipphê cho được gặp Người. Ngài đã nghe loan báo các chân phúc, các dụ ngôn. Ngài đã có mặt trong bữa tiệc ly. Sau phục sinh, Ngài đã sung sướng gặp lại Thày chí thánh. Ngày lên trời, Ngài thấy Người tiến lên mây trời. Ngày hiện xuống, Ngài đón nhận Chúa Thánh Thần.
Sau những tường thuật trên của Phúc âm, người ta không biết gì chắc chắn nữa về Anrê. Các bản văn không có thẩm quyền nói rằng: Ngài đã góp phần Phúc âm hóa dân chúng miền Bithynia, Bontê và Galitia. Ngài bị bắt bên bờ Bắc hải và kết thúc cuộc đời tại Achaia. Lửa đức ái rực cháy trong lòng vị tông đồ. Người ta nói rằng: để cải hóa một tâm hồn, Ngài ăn chay 5 ngày. Đây là tục truyền kể lại cuộc tử đạo của thánh Anrê ở Taurida.
Êgêa, tổng trấn tỉnh đó cho biết vị tông đồ có mặt ở Patras, thủ phủ của ông, ông liền vội vã tới nơi: kẻ ngoại lai này muốn phá hủy đền thờ các thần minh ư ? Nhưng Anrê không sợ gì Egêa. Ngài đã nắm vững được chân lý. Ngài nói :- Tôn thờ loài người chỉ là dị đoan điên khùng. Ong đã lãnh quyền xét xử người ta, trước hết ông phải biết đến vị thẩm phán xét xử mọi người chúng ta ở trên trời và ông phải tôn kính ca ngợi Người.
Êgêa vặn lại: - Vị thẩm phán anh nói là Chúa Giêsu mà lời ông ta thường giảng dạy đã làm cho ông ta phải chết trên thập giá chứ gì ? Vậy nếu anh không dâng hương tế thần, anh cũng sẽ phải chết trên thập giá như vậy.
Không hề sợ sệt, Anrê như rạng rỡ vì hạnh phúc : làm sao Ngài để mất danh dự được đóng đinh vào cùng một đau khổ giá như thày mình được ? Khi bắt đầu những tra tấn đầu tiên, lòng dũng cảm còn tăng thêm, Ngài nói với Êgêa: - Cực hình cuối cùng ông đe dọa sẽ được tiếp liền bằng vinh quang bất diệt.
Khi thấy thập giá mình sẽ phải chết trên đó, thánh nhân hớn hở chào kính mà người ta thích lập lại lời chào ấy: - Ôi thánh giá tốt lành, thánh giá bấy lâu mong chờ, thánh giá nhiệt tình yêu mến, hãy đưa ta tới thầy chí thánh là Đấng đã nhờ Người mà cứu chuộc Ta.
Dịu dàng Anrê giang tay ra. Ngài bị cột bằng giây để cái chết tới chậm hơn. Hình phạt sẽ kéo dài hai ngày và người ta còn nghe Ngài tiếp tục rao truyền đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Dân chúngvây quanh Ngài với niềm thán phục đã xin quan tổng trấn tháo giây cho Ngài. Họ nói: - Hãy trả con người thánh thiện cho chúng tôi. Đã hai ngày bị treo, Ngài không ngừng nói những lời tốt lành, đừng giết con người yêu quí của Thiên Chúa.
Nhưng Anrê không muốn được trả về cuộc sống khốn cực trần gian này. Ngài cầu nguyện :
- Lạy Chúa Kitô hãy đón nhận con, ôi thầy con yêu, con biết con ước ao được gặp thầy, trong Thày mà con được thế này. Hãy nhận lấy hồn con, lạy Chúa Giêsu Kitô.
Và những người tham dự thấy linh hồn vị tông đồ trong hào quang đã bay về với Chúa tạo thành và cứu chuộc của mình.
Tương truyền thánh Anrê đã bị cột vào thánh giá đã có từ thế kỷ XII và chỉ vào thế kỷ XIV... người ta mới tưởng tượng thánh giá đó hình chữ X. Dụng cụ cực hình ấy được mệnh danh là thánh giá thánh ANRÊ .
(Daminhvn.net)
++++++++++++++++++
30 Tháng Mười Một
Bảo Chứng Của Trường  Sinh Bất  Tử

Công chúa Touwan bên Trung Quốc từ trần vào khoảng năm 104 Trước Công Nguyên, nhưng được những người sinh sống đồng thời tin tưởng là bà sẽ trường sinh bất tử vì bà được an táng trong một quan tài bằng ngọc thạch. Chồng bà nhắm mắt lìa đời 9 năm trước đó cũng được an táng trong một quan tài tương tự.
Ðôi vợ chồng được an nghỉ trong hai ngôi mộ xây cất trong vùng đồi núi hoang vu. Mãi đến năm 1969 người ta mới khám phá ra và cả thế giới ngạc nhiên trước sự giàu sang của thời đại ấy được biểu lộ qua 2,800 của lễ được dâng tặng lúc cử hành lễ an táng, nhưng đặc biệt nhất là hai cái quan tài, mỗi cái gồm tất cả hai ngàn mảnh ngọc nhỏ được kết chung lại bằng những sợi chỉ bằng vàng.
Những người sinh sống vào thời đại ấy quan niệm rằng: vàng và ngọc thạch không bị thời gian làm hư  hại vì thế chúng ta bảo chứng cho sự trường sinh bất tử.
Trên ba vòng bán nguyệt của khung cửa chính ở nhà thờ chánh tòa Milanô bên Italia có khắc ba dòng chữ:
- Phía dưới hình một hoa hồng được chạm trổ tinh vi của một vòng bán nguyệt, người ta đọc được hàng chữ: "Mỗi hạnh phúc chỉ kéo dài trong khoảnh khắc".
- Bên vòng bán nguyệt của khung cửa kia, dưới hình một cây thập giá có ghi hàng chữ: "Mỗi đau khổ chỉ kéo dài trong một khoảnh khắc".
- Ở vòng nguyệt của khung cửa giữa dẫn vào lòng chính của vương cung thánh đường có khắc dòng chữ: "Chỉ có sự đời đời mới là quan trọng".
Ở giữa một bên là quan niệm đi tìm thuốc tiên hay sử dụng quan tài bằng ngọc thạch để được trường sinh bất tử và bên kia là quan niệm cuộc đời con người chấm cùng bằng cái chết, những người Kitô hữu xây dựng cuộc sống vĩnh cửu bằng những giây phút hiện tại và tin tưởng rằng cái chết là ngưỡng cửa dẫn vào cuộc sống đời đời và chính cuộc sống này mới thực sự quan trọng.
Vì thế họ chọn thái độ "sống gửi thác về". Họ thu nhặt những giá trị qúi như vàng ngọc bằng cách sống tốt, sống thật những giây phút hiện tại, bằng cách áp dụng "hai đạo luật vàng: mến chúa yêu người", vì họ biết rằng chỉ có những gì được làm vì tình yêu mới có giá trị vĩnh cửu.
Vì thế họ quan niệm đời sống là một cuộc hành trình, phải luôn cất bước ra đi: nước mắt, nụ cười chỉ có giá trị tương đối, để mỗi ngày họ bắt đầu lại, mỗi ngày họ cất một bước chân mới đi về nhà cha. Năm phụng vụ đã gần kết thúc. Giáo hội mời gọi chúng ta tiếp tục sống, nhưng với chú tâm sống tốt, sống thật từng phút giây hiện tại vì chúng là những hạt cát, những viên gạch xây dựng cho cuộc sống mai sau.
(Lẽ Sống)
Ngày 30
THÁNH ANRÊ, TÔNG ĐỒ


Vị tông đ Anrê, mà chúng ta mừng lễ hôm nay, không phải là người của những hàng đầu. Sách Phúc Âm nht lãm như mun đặt ông trong bóng của ông Phêrô. Có ông Phêrô trước, và chỉ sau đó mới có "anh của ông" là Anrê.
 
Tác giả Tin Mừng Gioan lại không giữ cùng mối liên quan với người anh em của ông Phêrô, mà trái lại, ông c ý giới thiệu trước tiên. Ông Phêrô không nghe và cũng không thấy gì; vì lý do ông không có ở đấy! Còn người anh của ông, với một môn đệ khác, đã nghe lời giảng dạy của ông Gioan Tẩy Giả trong sa mạc (Ga 1,35) và tự phát và tức khắc, ông đã tin lời tiên tri của vị khổ tu đã lên tiếng khi bỗng thấy Đức Giêsu: "Đây là Chiên Thiên Chúa" (Ga 1,36).
 
Ông Anrê là người của các mối quan hệ, là người "dn đến Đức Giêsu", có thể nói là vị tông đ ti ưu: là người bị sự khẩn cấp của Tin Mừng thúc đẩy, đã đi tìm em mình để tuyên b với một sự táo bạo làm kinh ngạc: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mêxia" (Ga 1,40). Và "ông dẫn em mình gặp Đức Giêsu", Tin Mừng nói đơn giản như vậy. Cũng chính ông Anrê là người cụ thể, đã tìm thấy anh thanh niên có năm chiếc bánh và hai con cá - phải có phần đóng góp ít ỏi của một con người - để Đức Giêsu làm cho năm ngàn người được no nê.

Một nữ đan sĩ Huynh đoàn Giêrusalem

Giuse Du (1803-1835)

Giuse Du (Joseph Marchand), Sinh năm 1803 tại Passavaut, Besancon, Pháp, Linh Mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Ðàng Ngoài, bị xử hình bá đao ngày 30/11/1835 tại Thợ Ðúc dưới đời vua Minh Mạng. Đức Lêo XIII đã suy tôn linh mục Marchand Du lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 30/11.
Người tử hùng bá đao
Trong 117 thánh tử đạo Việt Nam, cuộc tử đạo của thánh Marchand Du mang màu sắc bi tráng nhất. Với gần ba tháng trong chiếc cũi chật hẹp, và những cuộc tra tấn chết đi sống lại, ngài là vị duy nhất bị án bá đao, nghĩa là bị cắt xẻo 100 nhát trước khi bị chặt ra làm bốn phần, còn thủ cấp bị nghiền nát đổ xuống biển.
Tuy nhiên, chúng ta không nên quá nhấn mạnh đến những đau thương trong cuộc tử nạn, mà quên mất chứng từ đời sống của thánh nhân : sự nhiệt tâm truyền giáo, lòng yêu mến các tín hữu và chí cương quyết chỉ phục vụ Tin Mừng.
Mong ước tuổi xuân
Đầu thế kỷ XIX, tại làng Passavant, nước Pháp, nhiều người đã phải ngạc nhiên khi thấy hành vi của một cậu bé chưa đầy mười tuổi : sau giờ học, cậu rủ các bạn hữu về nhà, khiêng bàn, trải khăn làm bàn thờ, trang hoàng hoa nến, đặt cây Thánh Giá, rồi bắt trước các cử điệu như khi linh mục dâng lễ Missa cho các bạn xem. Đó là cậu bé Giuse Marchand.
Mở mắt chào đời ngày 17.8.1803 tại làng Passavant, tỉnh Doubs. Ngay từ niên thiếu, dân làng đã thấy rõ ước muốn trở thành linh mục của cậu. Sau khi rước lễ lần đầu, cậu xin cha mẹ đi tu, nhưng vì gia đình làm nghề nông túng nghèo, thiếu người lao động, nên cha mẹ cậu tìm cách trì hoãn cho cậu đổi ý. Tuy nhiên, Marchand đã không thay đổi ý định, cậu kiên quyết hoàn thành mộng ước tuổi xuân, và cuối cùng bên người đổi ý là song thân của cậu. Năm 18 tuổi, Marchand gia nhập chủng viện giáo phận Besacon. Năm 1828, sau khi lãnh chức phó tế, thày Marchand xin chuyển sang Hội Thừa Sai Paris. Độ nửa năm, thày được thụ phong linh mục (04.4.1829), sau đó một tháng thì đáp tàu đi Macao đến Việt Nam giảng đạo.
Nhà du thuyết nhiệt tâm
Tháng 3.1830, cha Marchand vào tới Việt Nam, và lấy tên mới là Du. Sau một thời gian học tiếng và phong tục Việt Nam tại Lái Thiêu, cha du được cử tới Pnom-Pênh để coi sóc các tín hữu Việt Nam tại đây (khi đó đất Campuchia thuộc giáo phận Đàng Trong). Thế rồi ít lâu, cha được gọi về Lái Thiêu coi sóc các chủng sinh, đồng thời phụ trách 25 giáo họ, với khoảng 7000 tín hữu thuộc tỉnh Bình Thuận.
Trong thư đề ngày 13.6.1832 gởi về quê nhà cha viết : "… 25 giáo họ cách nhau rất xa. Muốn chu toàn bổn phận, con không thể bỏ phí một giây nào… từ năm giờ sáng đến chín giờ tối, nhiều ngày chẳng có lúc nào rảnh rỗi cả. Con chỉ có thể dành chút thời giờ chu toàn việc đạo đức riêng lo cho phần rỗi mình, còn thì luôn luôn phải làm việc để thánh hóa kẻ khác… Con chỉ tiếc một điều là không thể tận tụy hơn được nữa, để vừa giúp giáo dân, vừa giúp lương dân, lại cón phải bắt buộc di chuyển bằng thuyền, nên không thể đi mọi nơi, hầu dẫn về đoàn chiên Chúa Giêsu những con chiên bất hạnh lạc đường…".
Cha Du mới đi hết 25 giáo họ này được hai lần thì ngày 16.1.1833 vua Minh Mạng ra chiếu chỉ lùng bắt các giáo sĩ Âu Châu. Đức cha Tabert Từ, cha Cuénot Thể và các thừa sai dẫn theo các chủng sinh trốn qua Thái Lan. Chỉ mình cha Du nhất nhất quyết ở lại, ẩn tránh ở miền Lục Tỉnh, giúp các họ Cái Nhum, Cái Mơn, Bãi Xan, Giồng Rùm, và trú ngụ tại Mặc Bắc, Vĩnh Long.
Tôi chỉ biết một điều là giảng đạo
Lê văn Khôi thực ra có họ Nguyễn, từng nổi loạn ở Cao Bằng, sau ra đầu thú, được Tả quân Lê Văn Duyệt nhận làm con nuôi, mới đổi qua họ Lê. Lợi dụng việc vua Minh Mạng xử tệ với Tả quân (khi đó đã thất lộc cho đánh trên mộ 100 trượng), Lê văn Khôi liền lấy cớ phò cháu đích tôn của vua Gia Long, con hoàng tử Cảnh tên là Đản. Việc bại lộ, khôi bị bắt. Đến 05.7.1833, ông với khoảng 30 bạn tù vượt ngục, giết một vài quan, thả các tù nhân khác, rồi chiêu binh chiếm Phiên An (sài Gòn) và miền Lục Tỉnh.
Lê Văn khôi tuy ngoại đạo, ngưng đã khôn khéo hứa hẹn bãi bỏ các lệnh cấm đạo của vua Minh Mạng, nên một số tín hữu theo ông. Để có thể quy tụ nhiều người Công Giáo hơn ủng hộ mình, Lê Văn Khôi cho mời cha Du về Sài Gòn, cha từ chối. sau vì một số tín hữu Chợ Quán nói : "Nếu cha không chịu về, sợ quan giận mà chém hết bổn đạo trong thành. Ở đó bổn đạo cũng đông lắm…". Thế là cha Du đành lòng về xứ Chợ Quán ở nhà thờ cha Phước, nhưng rất ít khi ở nhà, cha lo đi thăm các gia đình tín hữu. Lê văn Khôi nhiều lần mời, cha vẫn không chịu vào trong thành.
Khi quân triều đình vây thành Gia Định, Khôi cho quan đem voi ra Chợ Quán bắt ép cha Du phải vào thành. Cha Phước và nhiều tín hữu cũng theo vô. Trong thành, tướng Khôi xử đãi cha khá rộng rãi, có nhà riêng để dâng lễ hàng ngày, các tín hữu có thể tụ tập ở đó để đọc kinh, nghe giảng và lãnh các bí tích. Khôi có ý mua chuộc để cha tiếp sức, nhưng trước sau cha chỉ nói : "Tôi chỉ biết việc đạo, còn nghề giặc giã binh lính, tôi không rành".
Một hôm cha được mời vào dinh nguyên soái. Một xấp thư kêu gọi dân chúng và tín hữu nổi dậy chống nhà vua để trên bàn. Tướng khôi xin cha ký tên. Vị linh mục thấy rõ đã đến lúc tỏ rõ lập trường của mình, liền đứng dậy cầm xấp thư, ném tất cả vào lửa. Dầu vậy quân của Khôi không dám làm gì cha, vì sợ các tín hữu trong đội quân sẽ chống lại.
Sau hơn hai năm vây hãm, ngày 08.9.1835 quân chiều đình đã chiếm lại được thành Phiên An. Cha Du vừa cử hành thánh lễ xong thì bị bắt, bị đánh đập và bị nhốt vào cũi nhỏ, dài một mét (1m), rộng bảy tấc (0.7m), cao tám tấc (0.8). Đó sẽ là "nhà ở" của cha cho đến ngày xử tử, căn nhà mà chủ nhân chỉ có thể ngồi khom lưng suốt ngày đêm.
Số người bị tàn sát lên đến 1994, trong đó có 66 tín hữu (chỉ có 20 nam, còn bao nhiêu là phụ nữ và trẻ em), cha Phước cũng bị xử lăng trì (chặt chân tay, rồi chẻ thân hình làm bốn). Cha Du được đưa ra xét xử :
- Giặc đã đem thày vào thành, thày không làm gì để chúng giúp chúng sao?
- Tôi chỉ lo việc giảng đạo mà thôi…
- Giảng đạo là giống gì ?
- Là đọc kinh, làm lễ và dạy dỗ bổn đạo.
- Thày có biết làm thuốc mê để dỗ lòng ngụy cho nó theo không?
- Tôi chỉ biết có một việc là giảng đạo mà thôi.
Sau hai cuộc tra vấn nữa, cha Du bị giam trong cũi và bị áp giải về kinh đô cùng với tổng Trắm, đồ Hoành bốn Bang, phó Nhã và con trai Lê văn Khôi là Lê văn Viên mới bảy tuổi. Đoàn người vế tới Phú Xuân ngày 15.10, cha du bị giam trong ngục Võ Lâm gần tòa Tam Pháp.
Đàng sau bản án phản loạn.
Hôm sau 16.10, cha Du bị đưa ra tòa Tam Pháp. Các quan cố ép cha nhận tội giúp Khôi làm loạn. Nhưng cha khẳng định : "Tôi chỉ lo cầu nguyện cùng Chúa và làm lễ thôi". Quan hạch hỏi: - Có phải người gửi thư vô Xiêm, cùng gửi thư cho quân Gia Tô trong Đồng Nai, biểu nó đến giúp ngụy không ?
Cha Du trả lời : "Ông Khôi có yêu cầu tôi viết thư, song tôi không chịu viết, một nói cho ông ấy hay : Đạo tôi cấm làm như vậy và tôi thà chết chẳng thà làm theo lời ông ấy. Dầu thế ông Khôi còn đem mấy bức thư ra, biểu tôi ký tên vào, thì tôi lấy mấy cái thư ấy mà đốt đi trước mặt ông ấy".
Để bắt cha nhận tội, tối hôm sau, các quan dùng đủ cực hình kìm kẹp : Họ cho nung đỏ kìm sắt và cho kẹp hai lần vào hai đùi cha, rồi giữ nguyên cho tới khi kìm nguội. Một lần như vậy mùi thịt cháy xông lên khét lẹt, chính quân lính cũng phải quay mặt đi. Vị anh hùng đức tin hai lần ngất xỉu, nhưng vẫn giữ nguyên lời khai cũ. Họ đành nhốt cha vào cũi lại, rồi đưa về ngục.
Để tạo chứng gian buộc tội cha, các quan dỗ con trai Lê văn Khôi, hứa trả tự do nếu khai rằng "Ông thày Tây" giúp cha em khởi nghĩa. Nhưng cậu bé bảy tuổi ấy không biết nói dối, cậu nói cha Du hoàn toàn vô can, dầu cha cậu có hứa hẹn, khuyên dụ nhiều phen.
Cuối cùng, các quan đành xoay qua "tội giảng đạo". Họ nhắc đến chiếu chỉ nhà vua, và hứa ân xá nếu cha bước qua Thánh Giá. Cha Du cám ơn quan và tuyên bố sẵn sàng chịu cực hình, chứ không thể thất trung với Chúa. họ lại tiếp tục nhốt cha trong cũi. Sáu tuần lễ ở kinh đô đã trôi qua như thế. Các tín hữu ghé vào thăm và tiếp tế cho cha, đều thuật lại rằng : "Cha Du vẫn luôn vui vẻ và thường cầm cuốn sách nhỏ để đọc đêm ngày".
Thừa lệnh vua Minh Mạng, bản án cuối cùng được viết như sau : "Tây dương ma Sang kêu là danh Du, Gia Tô đạo trưởng, phò ngụy Khôi, nhận tội viết thư xin Hồng Mao (nước Anh) và Xiêm La (Thái Lan) sang giúp ngụy thần. Lệnh xử bá đao".
Chết vì lý do tôn giáo
Sáng sớm 30.11.1835, bảy phát súng thần công nổ vang kêu gọi mọi người đến tham dự cuộc xử án. Cha Du, ba vị tướng của Khôi và em Lê Văn Viên được đưa ra khỏi cũi (phó Nhã đã chết trong ngục), mọi người chỉ được đóng khố, rồi dẫn đến cửa Ngọ Môn trình diện và phục lạy vua năm lạy. Vua Minh Mạng tỏ vẻ giận dữ ném chiếc cờ hiệu xuống đất. Đó là dấu không ân xá lần cuối, năm tội nhân được đưa ra pháp trường. Riêng cha Du, theo mật lệnh, được đưa vào tòa Tam Pháp tra khảo một lần nữa. Đọc nội dung cuộc tra khảo này, chúng ta thấy quan quân không đá động gì đến lý do chính trị cả !
Năm người lính cầm năm kìm nung đỏ kẹp vào bắp vế cha. phía sau là năm người lính khác cầm roi để năm lý hình không được phép nương tay. Ba lần kìm kẹp, thân thể cha Du có đủ 15 vết bỏng. Song song với cuộc tra tấn là mẫu đối thoại sau :
- Tại sao Gia Tô móc mắt mấy người gần chết?
- Không có, không bao giờ tôi thấy điều đó.
- Tại sao mấy người kết hôn lại phải đến các thày đạo trước bàn thờ ?
- Họ đến để thày cả chúc phúc và chứng nhận trước mặt các tín hữu ở đó.
- Khi làm yến tiệc trong nhà thờ, bay làm những sự quái gở lắm phải không ?
- Không, chẳng có những điều quái gở.
- Vậy sao có thứ bánh dùng làm bùa mê thuốc lú để phát cho những đứa đã xưng tội mà làm nó mê đạo đến thế?
Cha Du kiệt sức không thể trả lời được nữa. Lính dọn cho tử tội bữa ăn sau cùng, nhưng cha không dùng chi cả, chỉ lo cầu nguyện với Chúa. Sau đó, lính đưa các tử tội đến pháp trường tại họ Thợ Đúc bên sông Hương, cách kinh thành một dặm đường.
Chết như một tội nhân

Năm cây cọc đã cắm sẵn. Lính trói năm tử tội, cha Du bị trói vào cây cọc thứ hai. Ngài bị án "Phản loạn" và sẽ chết giữa những người phản loạn. Dân chúng bị đuổi lùi ra xa 30 thước. Cứ mỗi tử tội lại có ba lý hình, một cầm kìm, một cầm đao, còn một lo đếm số cho đủ 100 lát cắt. Trước đó, lính đã nhét vào miệng tội nhân và cột chặt, để không ai có thể kêu la được nữa.
Sau một hồi trống, lý hình cắt lớp da trên trán cha Du lật xuống che mặt, rồi cắt từng mảnh hai bên ngực, sau lưng, tay chân. Quá đau đớn, vị chứng nhân giẫy giụa, quằn quại, ngước mắt lên trời cao rồi gục đầu xuống nhắm mắt lìa đời. Tiếp theo quân lính cắt đầu của ngài, cởi dây, bổ thân mình làm bốn, và ném xuống biển chung với bốn tử tội kia. Còn thủ cấp cha, được đưa đi bêu ở nhiều nơi, rồi được trả về kinh đô, bị bỏ vào cối giã nát và cho rắc xuống biển.
Ngày 30.11.1835 cũng là ngày kính thánh Anrê. Các thánh lễ hôm đó đều đọc lại đoạn sách Isaia (Is. 52,7): "Đẹp thay bước chân người rao giảng Tin Mừng" như lời chúc tụng vị thừa sai đã hoàn tất sứ mạng tông đồ của mình. Giáo Hội đã rất thận trọng khi nghiên cứu hồ sơ cha Marchand Du, căn cứ vào các buổi tra khảo, nhất là cuộc thẩm vấn cuối cùng, Giáo Hội khẳng định ngài đã hiến mạng sống vì đức tin. (2)
Đức Lêo XIII đã suy tôn linh mục Marchand Du lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Nguồn từ tu viện Đa Minh
Lời bất hủ: Tướng Lê Văn Khôi (nghịch với Triều Nguyễn) đã ép cha Du phải vào thành. Tướng Khôi có ý mua chuộc cha để cha tiếp sức, nhưng trước sau cha chỉ nói: "Tôi chỉ biết việc đạo, còn nghề giặc giã binh lính, tôi không rành". Cha Du bị bắt và dẫn giải về triều đình Huế, các quan hỏi cung: "Có phải người gửi thư vô Xiêm, cùng gửi thư cho quân Giatô ở Ðồng Nai, biểu nó đến giúp nguỵ không?". Cha Du đáp: "Ông Khôi có biểu tôi viết thư song tôi không chịu viết, một nói cho ông ấy hay: đạo tôi cấm làm như vậy, và tôi thà chết chẳng thà làm theo lời ông ấy. Dầu thế ông Khôi còn đem mấy bức thư ra, biểu tôi ký tên vào, thì tôi lấy mấy cái thư ấy, mà đốt đi trước mặt ông ấy". Bản án thừa lệnh vua Minh Mạng viết như sau: "Tây Dương Ma Sang kêu là danh Du, Giatô đạo trưởng, phò nguỵ Khôi, nhận tội có viết thư sang Hồng Mao (tức nước Anh) và Xiêm La (Thái Lan) sang giúp nguỵ thần, lệnh xử bá đao". Cha Du còn tra hỏi lần chót rồi mới xử. Hỏi: "Khi làm yến tiệc trong nhà thờ, bay làm những sự quái gở lắm phải không?". Ðáp: "Không, chẳng hề có những điều quái gở". "Vậy sao có thứ bánh làm bùa mê thuốc lú, để phát cho những đứa đã xưng tội mà làm nó mê đạo đến thế?". Cha Du kiệt sức không trả lời được nữa.
www.tinmung.net
Thứ Sáu 30-11

Thánh Anrê


 T
hánh Anrê là anh của Thánh Phêrô, và cả hai được Chúa Giêsu gọi cùng một lúc. "Khi Ðức Giêsu đi trên bờ biển Galilee, Người trông thấy hai anh em, ông Simon mà bây giờ gọi là Phêrô, và anh của ông là Anrê, đang quăng lưới xuống biển; họ là các ngư dân. Người nói với họ, 'Hãy đến theo tôi, và tôi sẽ làm cho các anh trở thành kẻ lưới người.' Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người" (Mt 4:18-20).
Thánh Sử Gioan mô tả Thánh Anrê như một môn đệ của Thánh Gioan Tẩy Giả. Một ngày kia, khi Ðức Giêsu đi ngang qua, Gioan Tẩy Giả nói, "Ðây là Chiên Thiên Chúa." Anrê và các môn đệ khác đi theo Ðức Giêsu. "Ðức Giêsu quay lại và thấy họ đi theo mình, Người hỏi, 'Các anh muốn tìm gì?' Họ trả lời, 'Thưa Thầy, Thầy ở đâu?' Ngài nói, 'Hãy đến, và các anh sẽ thấy.' Bởi đó họ đi theo và đã thấy nơi Người cư ngụ, và họ ở với Người cả ngày hôm ấy" (Gioan 1:38-39a).
Trong Phúc Âm không nói nhiều về Thánh Anrê. Trong phép lạ bánh hoá nhiều, chính Anrê là người cho biết về đứa bé trai có một ít bánh và cá (x. Gioan 6:8-9). Khi dân ngoại muốn đến gặp Ðức Giêsu, họ đến với ông Philíp trước, nhưng ông Philíp lại bàn hỏi với ông Anrê (x. Gioan 12:20-22).
Truyền thuyết nói rằng chính Thánh Anrê đã rao giảng Tin Mừng ở những nơi mà bây giờ là Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, và bị chết trên thập giá ở Patras.
Lời Bàn
Cũng như các thánh tông đồ khác, ngoại trừ Thánh Phêrô và Gioan, Phúc Âm không cho chúng ta biết gì nhiều về sự thánh thiện của Thánh Anrê. Ngài là tông đồ. Như vậy là đủ. Ngài được đích thân Ðức Giêsu mời gọi để loan truyền Tin Mừng, để chữa lành nhờ quyền năng của Ðức Giêsu cũng như để chia sẻ sự sống và sự chết của Người. Ngày nay, sự thánh thiện cũng không có gì khác biệt. Ðó là một món quà bao gồm lời mời gọi hãy lưu tâm đến Nước Trời, và một thái độ dấn thân với lòng ao ước không muốn gì khác hơn là chia sẻ sự giầu có của Ðức Kitô cho tất cả mọi người.
Lời Trích
"Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: 'Thật không đúng nếu chúng tôi bỏ việc rao giảng lời Chúa để lo việc ăn uống. Vậy, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người tốt lành, đầy Thần Khí và khôn ngoan, để chúng tôi cắt đặt họ làm công việc đó, còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Chúa." (CVTÐ 6:2-4).
www.nguoitinhuu.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét