Trang

Thứ Tư, 7 tháng 11, 2012

08-11-2012 : THỨ NĂM TUẦN XXXI MÙA THƯỜNG NIÊN


Thứ Năm sau Chúa Nhật 31 Quanh Năm

Bài Ðọc I: (Năm II) Pl 3, 3-8
"Những điều xưa kia được kể là lợi ích cho tôi, thì nay tôi coi là bất lợi vì Ðức Kitô".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.
Anh em thân mến, chính chúng ta là những người chịu cắt bì, chúng ta phụng thờ Thiên Chúa theo thần trí, và khoe mình trong Ðức Giêsu Kitô, chứ không tin tưởng vào xác thịt, mặc dầu chính tôi cũng có thể ỷ lại vào xác thịt. Nếu có ai khác nghĩ mình có lý để ỷ lại vào xác thịt, thì tôi còn có lý hơn: tôi đã chịu cắt bì từ ngày thứ tám, là người chủng tộc Israel, thuộc chi họ Bengiamin, là người Do-thái sinh bởi người Do-thái, là người biệt phái chiếu theo lề luật. Bởi lòng đạo đức nhiệt thành, tôi đã bách hại Hội Thánh Thiên Chúa, chiếu theo đức công chính do lề luật công bố, tôi được coi là người không có gì đáng trách.
Nhưng những điều xưa kia được kể là ích lợi cho tôi, thì nay vì Ðức Kitô tôi coi là bất lợi. Vả lại tôi coi tất cả mọi sự như thua thiệt trước cái lợi tuyệt vời là được biết Ðức Giêsu Kitô, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự, và coi là phân bón cả, để lợi được Ðức Kitô.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 104, 2-3. 4-5. 6-7
Ðáp: Tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui (c. 3b).
Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa, hãy hoan hô danh Người, hãy kể ra sự nghiệp Chúa ở giữa chư dân. Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. - Ðáp.
2) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và những điều Ngài phán quyết. - Ðáp.
3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Người, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Người kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao trùm khắp cả địa cầu. - Ðáp.

* * *

Alleluia: 2 Cr 5, 19
Alleluia, alleluia! - Thiên Chúa ở trong Ðức Kitô đã giải hoà thế gian, để chúng ta nghe lời của Con Chúa. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 15, 1-10
"Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người Biệt phái và Luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng". Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: "Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: "Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!" Cũng vậy tôi bảo các ông: Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải.
"Hay là người đàn bà nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao? Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: "Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất". Cũng vậy, tôi bảo các ông: Các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Tha thứ là biểu hiện của lòng yêu thương. Nơi bài Tin Mừng này, chúng ta nhận ra chân dung của Ðức Giêsu: hiện thân của Chúa Cha. Ngài đầy lòng yêu thương nhân hậu, luôn kiếm tìm chúng ta. Ngài đầy lòng yêu thương nhân hậu, luôn kiếm tìm chúng ta. Ngài sẵn sàng đón nhận chúng ta đang khi chúng ta còn là tội nhân. Và Ngài sẽ vô cùng sung sướng khi chúng ta biết mở lòng đón nhận sự tha thứ và tình yêu thương của Ngài.

Cầu Nguyện:
Lạy Cha, cuộc sống của chúng con đầy dẫy những bất hòa, những lầm lỗi. Vì chúng con đã quên đi vai trò làm chồng, làm vợ, làm cha, làm mẹ, làm con và làm người thân cận của nhau. Nhiều lúc chúng con đã xử với nhau như những phường gian ác, những kẻ thù.
Xin Cha cho chúng con biết nhận ra rằng Cha đã yêu thương và chấp nhận những lầm lỗi, yếu đuối của chúng con. Ðể trong tình yêu của Cha, chúng con cũng biết đối xử như thế với anh chị em con. Chúng con cầu xin, nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
 (Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)
Con Chiên Lạc
(Lc 15,1-10)
Suy Niệm:
Con Chiên Lạc
Có một câu chuyện về cuộc đời của một thiếu nữ tên Liker với nội dung như sau: Liker phục vụ trong quân đội Anh, nhưng hoàn cảnh đưa đẩy cô trở thành gái mãi dâm. Lúc thành phố Paris được giải phóng sau thế chiến thứ hai, không lâu sau đó, Liker phục vụ những khách hạng sang tại một trong những nơi ăn chơi nổi tiếng nhất của Paris do Patric làm chủ. Trong lúc tận tình giúp đỡ một thiếu nữ khác để khỏi rơi vào hoàn cảnh éo le của mình, Liker đã bắn chết Patric. Cô bị tống giam, nhưng trong cảnh ngục tù, Liker đã gặp các Nữ tu có tên gọi là các chị Bêtania, là Dòng chuyên nâng đỡ những cô gái sa cơ lỡ bước, những người nghiện ngập, những người sống đầu đường xó chợ. Vài nữ tu này trước kia cũng là nạn nhân của xã hội như những người họ đang phục vụ. Mãn hạn tù, Liker xin gia nhập dòng và trở thành một trong các chị Bêtania.
Nữ tu Liker trong câu truyện trên đây là tiêu biểu cho con chiên lạc mà Tin Mừng hôm nay đề cập đến. Nàng đã sa cơ lỡ bước, nhưng Thiên Chúa qua cử chỉ của các chị Bêtania đã đi tìm gặp chị và mời gọi chị trở nên bạn chí thiết của Ngài trong đời sống hiến dâng.
Hai dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay rất đơn sơ, nhưng mang đầy ý nghĩa. Vai chính là người chăn chiên và người phụ nữ. Những người chăn chiên thời Chúa Giêsu thường bị khinh miệt, vì họ là những người nghèo nàn, ít học, bị nghi ngờ gian lận, và vì phải luôn sống với đàn chiên ngoài đồng, nên họ không thể giữ luật ngày Hưu lễ cũng như không thể tham dự các giờ kinh trong Hội đường. Còn các phụ nữ là những công nhân hạng hai, theo tâm thức của Việt Nam ngày xưa: "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô", nhưng họ được Chúa Giêsu dùng làm hình ảnh để so sánh với chính Thiên Chúa.
Giá trị của những vật bị mất: một con chiên không có giá trị là bao so với đàn chiên; một đồng bạc cũng thế so với số còn lại; nhưng đối với người chăn chiên và người phụ nữ trong dụ ngôn, con chiên và đồng bạc có giá trị đặc biệt. Mỗi người chúng ta cũng thế, dù là những kẻ vô danh, một con số trong bảng thống kê nhưng lại có giá trị đặc biệt trước mặt Thiên Chúa.
Công khó đi tìm: không quản khó nhọc, không sợ nguy hiểm, người chăn chiên đã lặn lội đi tìm con chiên lạc; người phụ nữ cũng thế, đã thắp đèn quét dọn cho đến khi tìm được đồng bạc đã mất. Thiên Chúa cũng đối xử với các tội nhân như thế.
Niềm vui tìm được những vật đã mất: trên trời sẽ vui mừng và các thiên thần Chúa sẽ nhảy mừng, tượng trưng cho chính Thiên Chúa: Thiên Chúa vui mừng khi một tội nhân ăn năn hối cải.
Một Thiên Chúa sung sướng khi chúng ta sống đúng theo thánh ý Ngài. Một Thiên Chúa giầu lòng thương xót, vì tình thương vô biên của Ngài. Nữ tu Liker trong câu truyện trên đã cảm nghiệm về tình yêu Thiên Chúa, còn chúng ta, cho đến bao giờ mới có một kinh nghiệm như thế?
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã cho chúng ta được hiểu thêm lòng thương xót vô biên của Chúa. Xin cho chúng ta mau mắn chỗi dậy mỗi lần sa ngã, với niềm xác tín vào lòng nhân hậu vô bờ của Chúa luôn chờ đợi chúng ta trở về với Ngài.
(Veritas Asia)

Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 31 TN2
Bài đọc: Phil 3:3-8; Lk 15:1-10.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Lòng thương xót của Thiên Chúa 
Nhiều người trong chúng ta có khuynh hướng tự hào về lịch sử huy hòang của mình: giòng họ phú quí, bằng cấp, chức quyền …, nhưng rất nhiều khi những điều họ tự hào này chẳng giúp ích gì mà còn làm hại chúng ta nữa. Vì thế, chúng ta cần cẩn thận suy xét để tìm ra những gì thực sự giúp ích cho cuộc đời mình. Trong Bài đọc I, Thánh Phaolô nhận ra cái “lịch sử huy hòang” mà ngài đã từng tự hào, làm ngài súyt chết trong biến cố ngã ngựa trên đường đi Damascus; nhưng lòng thương xót của Người mà các Kitô hữu tin tưởng, mới thực sự là Người sinh ích cho cuộc đời của ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mở mắt cho các Kinh-sư và Biệt-phái nhìn thấy lòng thương xót của Thiên Chúa là lý do tại sao con người được cứu độ, chứ không phải thái độ “tự cho mình là công chính” của họ.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC: 
1/ Bài đọc I: Cậy vào “xác thịt”hay cậy trông nơi Thiên Chúa?
1.1/ Phaolô xét mình: Phaolô nhìn lại cái “lịch sử huy hòang” mà ông đã từng tự hào về nó: “Nếu ai có lý do để cậy vào xác thịt, thì tôi càng có lý do hơn: tôi chịu cắt bì ngày thứ tám, thuộc dòng dõi Israel, giòng họ Bengiamin, là người Do-Thái, con của người Do-Thái; giữ luật thì đúng như một người Pharisêu; nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội Thánh; còn sống công chính theo Lề Luật thì chẳng ai trách được tôi.”
Nhưng những gì xảy ra từ khi biến cố ngã ngựa trên đường đi Damascus đã làm ông xét lại niềm tự hào này: Nếu việc ngược đãi những Kitô hữu đẹp lòng Thiên Chúa thì ông đã không bị té ngựa. Thiên Chúa có thể giết chết ông nhưng Ngài vẫn để cho sống. Thiên Chúa có thể để cho ông mù lòa nhưng Ngài đã chữa cho sáng mắt. Thiên Chúa có thể để ông lầm lạc trong niềm tự hào về lịch sử huy hòang của ông, nhưng Ngài đã mặc khải cho ông hiểu đâu là Sự Thật. Thiên Chúa có thể để ông sống như bao tín hữu, nhưng Ngài trao ban cho ông sứ vụ Rao Giảng Tin Mừng.
1.2/ Phaolô được soi sáng và nhận ra lòng thương xót Chúa: Sau khi Thánh Phaolô so sánh cái “lịch sử huy hòang” của mình với tất cả những “ơn thánh” nhận được từ biến cố Damascus đến giờ, Thánh Phaolô khiêm nhường thú nhận: “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi.”
- Cái lợi đầu tiên và quan trọng nhất là biết sự thật, và Sự Thật trên hết mọi sư thật là chính Đức Kitô. Thánh Phaolô xác nhận: “Mối lợi tuyệt vời nhất là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi.” Kinh nghiệm quá khứ mở mắt cho người nhìn thấy tai hại to lớn của việc không biết Sự Thật.
- Cái lợi thứ hai như chúng ta đã thấy trong đạo lý của ngài trước đây: con người không thể nên công chính bằng việc giữ cẩn thận Lề Luật, nhưng bằng niềm tin vào Đức Kitô. Vì Thiên Chúa thương xót con người, nên đã cho Đức Kitô xuống trần để gánh tội thay cho con người. Chính vì Đức Kitô, con người có thể nên công chính trước Thiên Chúa.
1.3/ Phaolô rút ra kết luận cho tương lai: Ngài đưa ra 2 ví dụ cụ thể hôm nay:
(1) Cắt bì theo xác thịt mà đối phương đòi các tín hữu phải làm không có gía trị vì “phép cắt bì chính hiệu là phép cắt bì trong tâm hồn, theo tinh thần của Lề Luật chứ không phải theo chữ viết của Lề Luật” (Rom 2:29). Ngài củng cố các tín hữu: “Chúng ta mới thật là những người được cắt bì, những người thờ phượng Thiên Chúa nhờ Thánh Thần của Người, những người hiên ngang hãnh diện vì Đức Kitô Giêsu, chứ không cậy vào xác thịt.”
(2) Từ bỏ mọi sự để chiếm hữu Đức Kitô: “Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô.”

2/ Phúc Âm: Lòng thương xót của Thiên Chúa
2.1/ Xét đóan tha nhân thay vì xét mình cẩn thận: Một trong những xung đột chính giữa Chúa Giêsu với các Kinh-sư và Biệt-phái là lối sống giả hình. Họ luôn tìm cách bắt bẻ Chúa về việc không giữ luật lệ bên ngòai: rửa tay trước khi ăn, chữa bệnh trong ngày Sabbath; và hôm nay, ăn uống với tội nhân. Trong trình thuật của Luca hôm nay, các người Biệt-phái và các Kinh-sư xét đóan:
- tha nhân: các người thu thuế và gái điếm là những người tội lỗi trước mắt họ; và họ tin những hạng người này không bao giờ được chung hưởng vinh quang trong Nước Thiên Chúa.
- Chúa Giêsu: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng." Giao tiếp với những hạng người như thế làm cho con người ra nhơ bẩn tội lỗi.
Trong những trình thuật khác, Chúa Giêsu đã trách mắng họ là những mồ mả tô vôi: bên ngòai có vẻ đẹp đẽ, nhưng bên trong đầy những giòi bọ rúc rỉa. Hãy xét mình và làm cho sạch bên trong trước rồi mới có đủ sáng suốt để xét đóan tha nhân. Trong trình thuật hôm nay, Chúa hướng lòng họ về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với các tội nhân.
2.2/ Chúa dạy con người 2 ví dụ về lòng thương xót của Thiên Chúa:
(1) Tìm được con chiên lạc: Con chiên đi lạc là vì lỗi của nó, đã không chịu nghe theo chủ; nhưng ông chủ chẳng những không xét lỗi nó, mà còn đi tìm cho kỳ được. Ông đi tìm vì nó là của ông, cho dẫu vẫn còn 99 chiên khác. Khi tìm thấy, ông không kết tội, không đánh đập, nhưng mừng rỡ vác chiên trên vai trở về và mở tiệc ăn mừng!
 (2) Đồng tiền bị mất: Đồng tiền bị mất là vì chẳng may, cũng như bao con người sa ngã vì hòan cảnh chẳng may đưa tới. Người phụ nữ thắp đèn, quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được vì nó là của bà, cho dẫu bà vẫn còn 9 quan khác. Khi tìm thấy Bà mở tiệc ăn mừng! Có người đặt câu hỏi Bà có thể phải dùng cả 9 đồng kia để mua thức ăn đãi khách để ăn mừng đồng tiền kiếm thấy!
Cả 2 ví dụ đều kết thúc bằng câu kết luận của Chúa Giêsu: “Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải năng xét mình cẩn thận để nhận ra chúng ta và mọi người đều là tội nhân trước Thiên Chúa.
- Thiên Chúa yêu thương tội nhân và sẵn sàng đi tìm họ như Đức Kitô đi tìm Phaolô trên đường đi Damascus, như người mục tử đi tìm con chiên lạc, và như người đàn bà đi tìm đồng bạc đánh mất.
- Vì Thiên Chúa đã yêu thương tha thứ cho chúng ta, chúng ta không được quyền kết tội tha nhân như các Kinh-sư và Biệt-phái, nhưng phải sẵn sàng tha thứ cho họ.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP

Thứ Năm tuần 31 thường niên
Sứ điệp: Dụ ngôn tìm chiên lạc và tìm đồng bạc bị đánh mất nói lên lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa đối với mọi tội nhân. Qua đó Chúa mời gọi ta trở về với Chúa để nhận ơn tha thứ và để ta cũng biết tha thứ cho anh em.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, qua dụ ngôn tìm chiên lạc và tìm đồng bạc bị đánh mất, con cảm thấy lòng thương xót của Chúa đối với tội nhân thật bao la vô ngần. Cái nhìn yêu thương cảm thông của Chúa thật khác xa với cái nhìn hằn học ghen tị của những người biệt phái và luật sĩ.
Lạy Chúa, Chúa không bao giờ bỏ rơi con, cho dù con là một kẻ đốn mạt tội lỗi. Người chăn chiên quên đi chín mươi chín con chiên đang ở với mình để đi tìm một con chiên lạc, hình ảnh ấy diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với tội nhân thật lạ thường biết bao. Chúa vẫn luôn nghĩ đến con cho dù trong trái tim con không hề có hình ảnh Chúa. Chúa vẫn yêu thương con cho dù bao lần con đã xúc phạm đến Chúa. Và Chúa sẵn sàng ra đi tìm kiếm con cho dù con luôn tìm cách trốn chạy, muốn xa lìa Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con luôn biết tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa để con quyết tâm trở về với Chúa. Xin cho con xác tín rằng: Chúa sẽ vui mừng biết bao khi thấy con thật lòng ăn năn thống hối tội lỗi, vì chính tình yêu thương tha thứ của Chúa sẽ mang đến cho con niềm hạnh phúc bình an. Và xin Chúa ban cho con trái tim nhân ái của Chúa, để con cũng biết yêu thương tha thứ cho những anh em lầm lỡ và giúp đỡ họ trở về với Chúa. Amen.
Ghi nhớ : "Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải
www.phatdiem.org
08/11/12 THỨ NĂM TUẦN 21 TN
Lc 15,1-10 

PHÚC CỦA KẺ CÓ TỘI
“Tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.” (Lc 15,10)
Suy niệm: Bản chất của Thiên Chúa là tình yêu, được thể hiện nơi chính con người Chúa Giêsu. Đi tìm những con chiên lạc đàn đã trở thành “sở trường” của Ngài. Trong suốt những năm công khai rao giảng Tin Mừng về Nước Thiên Chúa, rất nhiều lần Chúa đã lên tiếng bênh vực người tội lỗi trước sự dèm pha, nghi kỵ, khinh chê rẻ rúng của các kinh sư, biệt phái và Pharisêu. Người đã cho họ thấy được sự khác biệt giữa cái nhìn bao dung của Thiên Chúa và cái nhìn thiển cận của con người; giữa lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa và sự hẹp hòi của lòng người. Qua đó, Chúa muốn họ hiểu rằng vì để cứu loài người tội lỗi mà Thiên Chúa đã xuống thế. Nơi khác, Chúa nói: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mc 2,17b).
Mời Bạn: Chúng ta là kẻ có tội nhưng là những tội nhân có phúc, không phải vì chúng ta có gì đáng tự hào mà vì mình tội lỗi như thế mà đã được Chúa thứ tha. Chúng ta cần phải nhận ra mình yếu đuối bất toàn, để mỗi ngày biết quay về với Chúa. Đó là điều làm Chúa vui hơn cả. Bạn có nhận ra điều đó không? Hay bạn chỉ thấy lỗi lầm của người khác mà không thấy được mình để trở lại với lòng thương xót Chúa?
Sống Lời Chúa: Đọc lại và suy gẫm sâu xa: “Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc 15,10).
Cầu nguyện: Lạy Chúa là Đấng hay thương xót. Xin cho con biết khiêm tốn trước mặt Chúa luôn và quay về bên tình yêu Chúa. Xin cũng mở lòng con ra để con biết yêu thương như Chúa. Amen.
www.5phutloichua.net
XIN CHUNG VUI VỚI TÔI
Thiên Chúa mừng vui vì Ngài đã từng lo âu, đau khổ, tìm kiếm. Mỗi tội nhân hoán cải là một thành tựu của Thiên Chúa. Ngài quý từng con người được dựng nên theo hình ảnh Ngài.
Suy nim:
Nhiều người nghĩ rằng Thiên Chúa là Đấng cao cả,
nhưng lại xa lạ và lạnh lùng với con người,
vì con người có là gì đâu trước mặt Thiên Chúa.
Thật ra con người là mối bận tâm lớn của Ba Ngôi,
đến độ ta dám nói rằng con người chiếm chỗ trong tâm trí Thiên Chúa.
Trước khi con người hướng về Thiên Chúa
thì Thiên Chúa đã đưa tay ra, hướng về con người.
“Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi.”
Đó là điều chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính.
Thiên Chúa Ba Ngôi sống cho nhau,
nhưng cũng sống vì con người và cho con người.


Hai dụ ngôn hôm nay cho thấy Thiên Chúa quý con người.
Mà con người ở đây lại không phải là những người thánh thiện.
Có những động từ được nhắc đến trong cả hai dụ ngôn:
có, mất, tìm, tìm được, chung vui, vui mừng.
Những động từ này nói lên tất cả tình cảm của Thiên Chúa.
Dụ ngôn về người đàn ông hay người phụ nữ
có một trăm con chiên hay mười đồng quan.
Vì lý do nào đó, một con chiên hay một đồng quan bị mất.
Sự mất mát này lớn lao đến nỗi người ta muốn tìm cho kỳ được.
Tìm cho kỳ được là tìm đến khi thấy mới thôi (cc. 4. 8).
Việc tìm kiếm này đòi phải hành động quyết liệt.
Người chăn chiên để chín mươi chín con ngoài đồng hoang,
người phụ nữ thắp đèn, quét nhà, moi móc mọi ngõ ngách.
Trong lo âu, người tìm kiếm chỉ nghĩ đến chuyện làm sao tìm lại được.
Chính vì thế niềm vui bùng lên khi tìm thấy điều đã mất.
Niềm vui không giữ lại cho riêng mình trong lòng.
Niềm vui đòi chia sẻ với bạn bè, với bà con lối xóm.
“Xin ông bà anh chị chung vui với tôi, vì tôi tìm thấy rồi” (cc. 5. 9).

Thiên đàng không cắt đứt với trần thế.
Các thiên thần của Thiên Chúa vui vì một người tội lỗi hối cải (c. 10).
Thiên Chúa mừng vui vì Ngài đã từng lo âu, đau khổ, tìm kiếm.
Mỗi tội nhân hoán cải là một thành tựu của Thiên Chúa.
Ngài quý từng con người được dựng nên theo hình ảnh Ngài.
Thái độ của Đức Giêsu đối với tội nhân cho thấy trái tim Thiên Chúa.
Trái tim ấy nghiêng chiều về những con người đã lạc đường.
Đồng quan không thể tự ý trốn đi, nhưng con người có tự do quay lưng.
Thiên Chúa đi tìm con người quay lưng ấy.
Với sự khiêm hạ, Ngài chinh phục trái tim con người.

Hãy để Ngài đi tìm bạn, và cho Ngài niềm vui khi tìm thấy người đã mất.
Nói cho cùng, Thiên Chúa đi tìm ta suốt đời,
trong một cuộc chơi năm mười kéo dài mà ta chủ yếu là người đi trốn.
Hãy cảm được sự tế nhị của Ngài khi cố tìm ta mà vẫn tôn trọng tự do.
Nếu ta chịu để Ngài tìm thấy, ta sẽ nếm được ngay niềm vui thiên đàng.

Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu,
xin đánh thức con.
Xin đưa con ra khỏi cơn mê
mà tự sức con không sao thoát ra được.
Xin đừng ngại đánh thức con
bằng những biến cố đôi khi mạnh mẽ,
nhưng xin cho con thấy bàn tay Chúa nhân từ
đang cắt tỉa con vì yêu con.
Ước gì con được tỉnh táo
để nhìn lại vẻ đẹp từng làm con say mê,
những chỗ dựa mà con tưởng là tuyệt đối.
Như ngọn đèn chầu trong nhà nguyện,
xin cho con thức luôn và sáng luôn,
trước nhan Chúa.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
"Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".
Khía Cạnh Sâu Xa Của Tình Yêu
Trọng tâm của đoạn Tin Mừng hôm nay nêu bật khía cạnh sâu xa nhất của tình yêu đó là sự tha thứ, một sự tha thứ được gói trọn trong tình yêu khoan dung vì tình yêu này không đóng khung kẻ mình yêu trong những ngục tù của lỗi lầm, của quá khứ. Tình yêu này cũng không giới hạn kẻ làm ơn trong hiện tại đen tối của người ấy mà còn phóng tầm mắt nhìn về những điều họ có thể trở nên tốt hơn trong tương lai.
Trong cách hành xử của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Ngài sẵn sàng tha thứ để biểu lộ một tình yêu chân thành qua việc Ngài tiếp xúc với những người thu thuế, làm bạn với những người bị xã hội thời bấy giờ gán cho là kẻ tội lỗi. Ngài không ngăn cấm họ năng lui tới nơi Ngài giảng dạy, hơn nữa Ngài còn cùng ăn uống đồng bàn với họ. Những cuộc gặp gỡ giao tế này minh chứng rằng Chúa Giêsu nhìn những kẻ thu thuế và những người tội lỗi trong hai trạng thái: trạng thái hiện tại của họ và trạng thái họ có thể trở nên tốt lành hơn trong tương lai. Trong hiện tại, mặc dù đang sống trong tình trạng tội lỗi nhưng họ biết lắng nghe lời Chúa để khởi sự tiến những bước đầu tiên trên con đường hoán cải, và những điều họ có thể trở nên minh chứng qua những hành động cụ thể sau đó. Thí dụ như hành động dứt khoát với quá khứ tội lỗi để đi theo Chúa của ông Mátthêu. Là một người thu thuế, khi được Chúa gọi, ông đã bỏ bàn thu thuế đứng dậy và đi theo làm môn đệ Chúa. Hay qua sự hoán cải của một người thu thuế khác sau khi gặp gỡ Chúa và nghe Ngài dự định tới trọ nhà mình, ông Zakêu đã hứa là sẽ lấy nửa gia tài của mình mà phân phát cho những người nghèo và bồi thường gấp bốn cho những ai ông đã làm thiệt hại.
Chúa Giêsu ngày hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một Chúa Giêsu duy nhất không bao giờ thay đổi. Lòng nhân hậu vẫn khiến Ngài rảo bước đi tìm những con chiên lạc và khi gặp thấy thì mừng rỡ đặt nó lên vai mang về nhà và bảo người láng giềng: "Hãy chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên lạc". Như thế, đối với Chúa Giêsu, Ðấng đầy lòng khoan dung nhân hậu, không ai dại gì mà để cho con người phải chịu đóng dấu vào những vòng tội lỗi và rồi bị xếp loại vào những người bị kết án muôn đời.
Vậy, chúng ta đây còn chần chờ gì nữa. Hãy chỗi dậy kíp hoán cải để thống hối ăn năn thực lòng, để được Ngài âu yếm vỗ về và để cho các thánh trên trời đều reo vui như lời kết thúc của câu chuyện dụ ngôn của Chúa Giêsu: "Thật vậy, Ta bảo cho các ngươi rõ, các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn trở lại".
Lạy Chúa
Xin cho con được ý thức tình thương của Chúa trong đời sống con và luôn luôn quay trở về mỗi lần lầm lỗi.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Thiên Chúa lo cứu kẻ lạc
“Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác chiên lên vai.” Cũng thế tôi nói cho các ông hay: “Giữa triều thần Thiên Chúa, ai lấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc. 15, 4-5.10)
Trong đám đông dân chúng có nhiều người thu thuế và tội lỗi. Họ đã thấy việc Đức Giêsu làm và mau mắn đến nghe lời Người. Biệt phái và luật sĩ cậy mình là người công chính, họ rình xét Người và lẩm bẩm kêu: Ôi gương mù quá! Người nói nhân danh Thiên Chúa, lại đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với bọn ô uế.
Sáng kiến tìm chiên lạc:
Luôn luôn Thiên Chúa được giới thiệu như mục tử yêu mọi con chiên. Nếu lạc mất một con, mục tử để lại cả đoàn và đi tìm con chiên lạc với bất cứ giá nào và vác lên vai đưa về. Anh vui mừng biết bao và chia sẻ vui mừng với tất cả mọi người. Cũng vậy, một bà đánh mất một đồng bạc và hết sức quét nhà tìm cho được.
Đức Giêsu muốn chỉ cho thấy Thiên Chúa sáng kiến tìm đưa người tội lỗi về với Ngài trước, khi tìm được, Ngài tỏ lòng rất dịu dàng và thương xót an ủi họ. Trái lại, biệt phái loại họ khỏi cộng đồng hội thánh của Ít-ra-en, còn Thiên Chúa rất cảm động trước sự thống hối và tha thứ cho tội nhân, dẫn đưa họ về gia đình trong vui mừng.
Vui mừng tìm được chiên lạc
Niềm vui này, Thiên Chúa chia sẻ với mọi người, để họ nhận ra lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa, như Thiên Chúa đã nói qua ngôn sứ Ô-sê: “Tim Ta rạo rực trong Ta, cùng với lòng từ bi rung động … Vì Ta là Thiên Chúa, chứ không phải là người, Ta là Đấng Thánh ở giữa ngươi; Ta không đến với ngươi trong cơn thịnh nộ”. Chính vì Thiên Chúa không vứt bỏ những tội nhân, nhưng còn cảm thấy vui mừng lớn lao khi tha thứ cho họ, nên Đức Giêsu chăm lo cho họ và đồng bàn với họ. Những kẻ giả hình công chính phải lo ăn năn trở về, thay vì lẩm bẩm kêu trách. Như thế, họ sẽ không được chia sẻ sự vui mừng do lòng thương xót Chúa ban.
Dù ăn uống với những người tội lỗi, Người luôn luôn kêu gọi phải từ bỏ tội lỗi, ăn năn sám hối trở về, Người chỉ cho thấy ai đáp lại lời kêu gọi này thì không bị cơn giận của Thiên Chúa đổ xuống, nhưng được vui mừng hưởng lòng thương xót và ân phúc cứu độ của Ngài.
RC.

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 11
8 THÁNG MƯỜI MỘT
Giáo Xứ, Một Môi Trường Ưu Tiên
Thế giới ngày nay có xu hướng lãng xa Thiên Chúa. Thế giới chỉ muốn các dữ kiện thực tế và không sẵn lòng để lắng nghe. Nhưng Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta mở rộng tấm lòng mình ra: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Giáo xứ là môi trường ưu tiên để trình bày chứng tá ấy. Chúng ta cần thể hiện lại trong thời đại hôm nay điều kỳ diệu đã xảy ra trong các cộng đoàn Kitôhữu đầu tiên: điều kỳ diệu của một sự sống mới, không chỉ về mặt thiêng liêng nhưng cả về mặt xã hội và lịch sử nữa.
“Để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17, 21). Công Đồng Vatican II chú giải rằng qua những lời ấy, Chúa Giêsu đề nghị chúng ta “bắt chước sự kết hợp của Ba Ngôi thần linh để kết hợp các con cái Thiên Chúa trong tình yêu và chân lý” (MV 24). Thiên Chúa Ba Ngôi chính là kiểu mẫu của mọi mối tương quan con người và của đời sống chung giữa con người với nhau!
Từ mẫu thức tối thượng ấy, chúng ta có thể rút ra vô số hàm ý cho giáo xứ. Thực vậy, ơn gọi cao cả của một cộng đoàn giáo xứ là phấn đấu để một cách nào đó trở thành một minh họa về Thiên Chúa Ba Ngôi, “hòa hợp mọi sự khác biệt của con người” (AA 10): người già và người trẻ, nam và nữ, trí thức và lao động, giàu và nghèo …
Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 08-11 : Pl 3, 3-8a; Lc 15. 1-10.
LỜI SUY NIỆM: Tất cả những người thu thuế và những người tội lỗi thường đến gần Đức Giêsu mà nghe Người. Còn những người thuộc phái Phrrisêu và các kinh sư thì lẩm bẩm: Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng’ (Lc 15,1-2).
 Thường thường những người thuộc đạo đức giả, người ta thích hạ bệ những người khác xuống, xuống càng sâu càng tốt, bởi vì họ quan niệm hạ người khác xuống càng sâu thì chính họ được nâng cao hơn. Họ không có sự đồng cảm, họ không thể buồn với người đang khóc, họ không thể vui cười khi thấy người khác đang được hạnh phúc. Trước sự đón tiếp của Chúa Giêsu đối với những hạng người trên đây đáng được trân trọng và vui mừng. Bởi vì những con người này họ đang cần phải nghe, những lời phải nghe; thấy được những công việc tốt lành, cần phải được thấy, để nhờ những công việc lành thánh; những lời dạy bảo đạo đức này có thể cải hóa được họ, làm cho họ trở nên những người đáng sống với mình. Đây là một là một hồng ân lớn cho mỗi một người là được Chúa Giêsu đón tiếp , Ngài không loại bỏ bất kỳ mội ai. Thật hạnh phúc cho chúng ta, khi chúng ta đến với Ngài trong sự bất toàn, nhưng Ngài vẫn đón nhận những bất toàn của chúng ta để Ngài thánh hóa, biến đổi chúng ta trở thành tốt đẹp hơn.
Mạnh Phương
08 Tháng Mười Một
Tôi Là Người Hạnh Phúc Nhất Trần Gian
 Một ông vua giàu có nọ không bao giờ cảm thấy thỏa mãn, bởi vì tất cả tài sản mà ông có đều do sự miễn cưỡng đóng góp của thần dân. Ông tự so sánh mình với những người hành khất: người hành khất nhận được tiền của do lòng thương của người khác, còn ông, ông nhận được tiền do sự cưỡng bách.
Ngày nọ, ông vua giàu có đã quyết định làm một việc táo bạo: đó là cải trang thành người hành khất để cảm nghiệm được những đồng tiền bố thí... Thế là mỗi ngày Chúa Nhật, ông biến mình thành một người ăn xin lê lết trước cửa giáo đường. Ông cho tất cả những tiền ăn xin được vào một chiếc hộp nhỏ. Tuy không là bao so với cả kho tàng của ông, nhưng có lẽ nó vẫn có giá trị hơn... Ông tự nghĩ: bây giờ ta nới thực sự là người giàu có nhất trên đời, bởi vì tiền của ta nhận được là do lòng thương xót của con người, chứ không do một sự cưỡng bách nào.
Khi đã gom góp được một số tiền khá lớn sau những năm tháng ăn xin trước cửa các giáo đường, ông đã xin từ chức khỏi ngai vàng và đi đến một phương xa, nơi không ai có thể nhận ra ông. Ông mua một mảnh đất, và tự tay cất được một ngôi nhà tranh đơn sơ. Không mấy chốc, do sự hòa nhã, vui tươi của ông, mọi người trong lối xóm đều mến thương ông, nhất là các em bé. Ông kể chuyện cho chúng nghe, ông đem chúng đi câu cá, ông dạy chúng ca hát.
Trong đám trẻ nhỏ, có một cậu bé gia đình còn nghèo hơn cả ông nữa. Cậu bé chỉ có vỏn vẹn một con chim họa mi. Nghe tin ông đau nặng, cậu bé đã vội vàng mang con chim đến tặng ông, với hy vọng rằng con chim sẽ hót cho ông được khuây khỏa.
Ðón nhận món quà, con người đã từng là vua của một nước mới thốt lên: "Từ trước đến nay, tất cả những gì tôi có, tôi đều lãnh nhận do lòng thương xót của người khác. Người ta cho tôi, nhưng không phải là cho tôi mà là cho một người hành khất. Giờ đây, với món quà tặng là con chim này, người ta tặng cho tôi với tất cả tấm lòng yêu thương... Chắc chắn, tôi là người hạnh phúc nhất trên trần gian".
Một thời gian sau đó, trong vùng, có một người táđiền nghèo bị người chủ đe dọa lấy nhà và trục xuất ra khỏi mảnh vườn đang canh tác. Nghĩ đến cảnh hai vợ chồng và 7 đứa con dại bị đuổi ra khỏi nhà, ông vua không thể nào ăn ngủ được... Cuối cùng, ông quyết định tặng chính mảnh vườn và ngôi nhà của mình cho gia đình người tá điền nghèo... Và một lần nữa, không một đồng xu dính túi, ông lên đường trẩy đi một nơi khác.
Bùi ngùi vì phải chia tay với những người quen biết trong vùng, nhưng ông cảm thấy hạnh phúc vô cùng, bởi vì lần đầu tiên ông cảm nghiệm được niềm vui của sự ban tặng. Ông hiểu được rằng cho thì có phúc hơn là nhận lãnh... Lần này, ông thốt lên với tất cả xác tín: "Tôi là người hạnh phúc nhất trên trần gian này".
Câu chuyện của ông vua đi tìm hạnh phúc trên đây có thể gợi lên cho chúng ta về hình ảnh của chuyến đi cuộc đời của chúng ta... Người Kitô là một người lữ hành đi tìm hạnh phúc. Và hạnh phúc đích thực của chúng ta là gì nếu không phải là trao tặng, trao tặng cho đến lúc trống rỗng, nhưng bù lại, chúng ta được lấp đầy bằng chính Chúa.
(Lẽ Sống)
Ngày 08


"Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của l sng động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người" (Rm 12,1)
 
Lời khuyên nhủ này của Thánh Phaolô tông đ nói lên, trong vài câu, bí quyết làm cho cuộc đời thành nghi lễ, và nghi lễ thành cuộc đời.
 
"Hãy hiến dâng thân mình". Để chúng ta cảm nhận ý nghĩa trọn vẹn của từ "thân mình" trong Tân Ước, Phụng vụ dịch là: "thân xác và cuộc đời". Đó là "tất cả cái tôi", như khi Đức Giêsu nói: "Đây là Mình Thầy". Là tt cả Giáo hội. Một ngày kia sẽ là tất cả vũ trụ: "Lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô, thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người, và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài (lCr 15,28). "Hiến dâng" là sự gợi nhớ, gần như là một c chỉ; đó là hành động đặt, đ, có nghĩa là gần kề, là xích lại. Điều đó tương ứng với những gì mà các tác giả về tâm linh dạy chúng ta về sự phó thác. Thánh Phaolô nói: đây là thờ phượng "đi với anh em"; chúng ta có thế hiểu: đó là phần của anh em trong nghi lễ.
 
Marthe Robin nói: "Mọi cuộc đi là một thánh lễ, và mọi tâm hn là một bánh thánh".
Alain Bandelier
Hạnh Các Thánh
Ngày 08 tháng 11
KÍNH NĂM THÁNH: CLAUĐIÔ, NICÔTATÔ,SIMPRÔNIANÔ, CATTÔRIÔ VÀ SIMPLIXIÔ TỬ ĐẠO

Ngay từ thế kỷ thứ IV, năm vị thánh thời danh này đã được toàn thể giáo dân Rôma hết lòng sùng kính. Các ngài đều là những nhà điêu khắc kỳ tài, và cũng chính nhờ tài hiếm có đó mà các ngài đã may mắn chiếm được triều thiên vinh quang Nước Trời.
Nhân dịp kinh lý miền Pannonia, Hoàng đế Điôclêtianô được nhìn tận mắt nhiều tác phẩm điêu khắc trứ danh của các nghệ sĩ địa phương; đặc biệt là của bốn nhà điêu khắc kỳ tài Clauđiô, Simprônianô, Cattôriôâ và Nicotatô. Tất cả bốn vị này đều bí mật tôn thờ Chúa Kitô, thực hành thập giới và đặc biệt, trước khi tạc một tác phẩm nào, các ngài đều tạc nhân danh Chúa Giêsu Kitô. Một hôm Hoàng đế Điôclêtianô truyền cho tất cả kỹ sư cũng như thợ các miền Pannonia tạc cho ngài một tượng thần Mặt Trời bao gồm cả chiếc xe bốn bánh và với đôi long mã, tất cả phải chung một khối đá liền. Sau khi đã gom sức kiếm được một khối cẩm thạch khổng lồ trong hầm đá, 620 tay thợ lại bất đồng ý kiến với năm viên kỹ sư về các đường gân của đá. Giữa lúc đôi bên tranh luận gay go thì Simprônianô đã lên tiếng dàn xếp: “Xin quí đồng nghiệp hãy bớt nóng, nếu các bạn đồng ý, tôi và các bạn Clauđiô, Simplixiô, Nicôtatô và Cattôriô của tôi đây sẽ bảo lãnh tất cả”. Nghe thế mọi người như thấy trút một trách nhiệm nặng nề, liền trao việc tạc tượng thần Mặt Trời đó cho Simprônianô và các bạn ông. Sau khi tìm thấy đường gân của đá, các ông liền khởi công tạc nhân danh Chúa Giêsu Kitô. Công việc cứ mỗi ngày một tiến, cuối cùng tượng thần Mặt Trời khổng lồ cao hơn bảy thước được hoàn thành đúng kỳ hạn nhà vua đã ấn định.
Hết sức vui mừng trước kiệt tác vĩ đại ấy, Hoàng đế Điôclêtianô, một mặt truyền xây cất ngôi đền thờ rộng lớn, đoạn đem đặt tượng đã khảm bạc mạ vàng vào đó để nhân dân sùng bái, mặt khác vua ban thưởng bội hậu cho các nghệ nhân đã thực hiện pho tượng, đồng thời triệu Clauđiô, Simprônianô, Nicôtatô, Cattôriô và Simplixiô vào triều yết. Trong buổi triều yết, nhà vua không tiếc lời ca tụng tài nghệ các vị và xin các vị dốc hết sở trường chạm cho nhà vua một số cột đền lộng lẫy nữa.
Tuân lệnh Hoàng đế, các vị cùng một số thợ lên núi đá cẩm thạch và khởi công đẽo một tảng đá dài tới 12 thước, Clauđiô đã nhân danh Chúa Giêsu mà làm nên kết quả rất hoàn hảo trái hẳn với Simplixiô, một bạn thân nhưng hãy còn ngoại giáo. Ngày kia, Nicôtatô hỏi Simplixiô: “Sao đồ làm của anh cứ sứt mẻ hoài thế?”. Simplixiô đáp với giọng năn nỉ: “Xin anh luyện nó giúp tôi với, anh mà giúp thì chắc chắn nó sẽ hết gãy”. Clauđiô xen vào: “Vậy anh đưa đồ nghề đây cho tôi”. Và khi Simplixiô đưa đồ nghề ra thì Clauđiô chỉ nói: “Nhân danh Chúa Giêsu Kitô, xin cho đồ nghề này được bền bỉ”. Kể từ đó, những đồ nghề của Simplixiô không còn bể gãy nữa. Simplixiô vô cùng thắc mắc trước sự kiện lạ lùng ấy. Anh muốn biết sức mạnh nào đã khiến cho đồ nghề của anh bền bỉ như thế. Không để bạn thắc mắc lâu, Clauđiô bảo: “Bạn không hiểu cách tôi luyện đồ nghề ư? Chính Đấng Tạo Hóa đã cho nó sức mạnh bền dai đấy”.
- Cảm tạ ơn Ngài, Simplixiô nói, nhưng Đấng Tạo Hóa đây có phải là thần Jupiter không?
- Trời, Clauđiô đáp, anh hãy hối lỗi đi vì đã nói phạm thượng, Đấng Tạo Hóa đây là Thiên Chúa Cha và Con của Ngài, là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta và Ngôi Ba Thánh Thần. Còn Jupiter mà anh xưng tụng là thần thì anh há lại không biết là chính chúng ta đã tạo nên ư? Anh không biết rằng thần Mặt trời mà chúng ta đã tạo nên đó lại không chỉ là một tảng đá sao?
- Xin anh cho tôi biết Đấng Tạo Hóa anh tôn thờ, để tôi cũng được tôn thờ Ngài, và để trở thành bạn thiết với các anh.
- Nếu anh tin Ngài, chắc chắn Ngài sẽ cho anh rất khéo tay và hơn nữa, sẽ cho anh được hạnh phúc muôn đời.
- Vâng, xin anh kíp lo liệu cho tôi mau trở nên như các anh cả hai phương diện làm việc và tín ngưỡng.
Thế rồi họ đi tìm một vị linh mục để giúp đỡ Simplixiô, và may mắn họ đã tìm gặp Đức cha Cyrillô, Giám mục Antiôkia đang bị cầm tù vì Chúa trong ngục thất. Sau khi nghe Clauđiô trình bày câu truyện, Đức Giám mục hết sức vui mừng bảo Simplixiô:
- Hỡi con, nếu con thật lòng tin, Chúa sẽ ban cho con tất cả những gì con muốn. Cảm động đến rơi lệ Simplixiô đáp:
- Thưa Đức cha, con phải biểu lộ đức tin của con thế nào?
- Con có tin Đức Chúa Giêsu là Đấng tác tạo mọi sự và con có từ bỏ mọi ngẫu tượng do tay loài người tạc nên không?
- Vâng, con tin Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật, và con sẵn sàng bỏ mọi ngẫu tượng.
Thế là trong ngục thất, Đức Giám mục Cyrillô làm phép Thánh Tẩy cho Simplixiô nhân danh Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần. Sau đó Simplixiô cùng các bạn lại trở về với công việc thường xuyên.
Vì quá tín nhiệm ở tài nghệ các ông, Hoàng đế Điôlêxianô đã đặt các ông đứng điều khiển nhóm kỹ sư và số thợ đông đúc trong miền, đồng thời lại truyền cho các ông tạc những tượng thần thắng trận, thần ái ân, nhất là thần Esculapa. Kể từ ngày đó, danh tiếng các ông nổi như cồn, nhưng cũng bắt đầu từ đó tất cả các kỹ sư đều đem lòng căm giận các ông. Tuy nhiên, mặc cho ai ghét ghen, các ông cứ tiếp tục công việc, và chẳng bao lâu đã hoàn thành nào là tượng chiến thắng, nào là tượng ái ân, nào là sư tử phun lửa, nào là chim phượng hoàng v.v… Nhưng hỏi đến tượng thần Esculapa thì được biết hình như các ông không muốn làm. Ngay lúc đó, mấy kỹ sư vốn sẵn lòng ghen ghét các ông liền lên tiếng: “Muôn tâu Hoàng đế cao cả, cúi xin Hoàng đế hãy biết những người Hoàng đế yêu chuộng kia đều là kitô hữu cả, bất cứ việc gì họ cũng làm nhân danh Ông Giêsu Kitô”. Hoàng đế phán: “Nếu vì danh Giêsu Kitô mà họ tạo được các tuyệt phẩm như thế thì có gì là xấu, càng vẻ vang hơn chứ gì” – “Vâng, nhưng tâu Hoàng đế, chính vì cái danh Kitô ấy, mà họ đã trái lệnh Hoàng đế, nhất định không chịu tạc tượng thần Esculapa.
- Thế thì các khanh hãy mời họ đến yết kiến trẫm.
Khi Clauđiô, Simprônianô, Cattôriô, Nicôtatô và Simplixiô vào trước bệ rồng, Hoàng đế liền phán:
- Các khanh đều biết, trẫm yêu thương và ưu đãi các khanh rất hậu, tại sao các khanh lại không tuân lệnh trẫm mà tạc tượng thần Esculapa? Clauđiô tâu:
- Muôn tâu bệ hạ, các thần luôn luôn tuân lệnh bệ hạ, nhưng các thần sẽ không bao giờ tạc tượng một con người xấu xa vì có lời rằng: các kẻ tạc tượng nó và tin tưởng nó sẽ xấu như nó. Các kỹ sư liền lên tiếng tố cáo:
- Muôn tâu bệ hạ đã nghe nói những lời gian tà và kiêu căng đến mức nào! Điôclêtianô phán:
- Không được nguyền rủa các nghệ nhân tài ba như thế, trái lại phải tôn kính họ.
- Các thần sẵn sàng tôn kính họ nếu họ tuân lệnh bệ hạ, đàng này họ đã kiêu căng, bất tuân thánh lệnh. Vả lại, còn có nhiều người tài giỏi khác chứ đâu phải chỉ có mình họ.
- Nếu các khanh tìm ra người tài giỏi tạc được tượng thần Esculapa thì họ sẽ phải chịu tội bất tuân thánh lệnh.
Bọn kỹ sư liền đi tuyển một số thợ tạc tượng Esculapa, và sau hơn một tháng họ hoàn tất pho tượng ấy. Các kỹ sư liền tâu trình Hoàng đế ngự lãm. Vua trông thấy pho tượng, nhà vua liền hỏi:
- Có phải mấy người thợ mà trẫm vẫn ngưỡng mộ nhân tài đã tạc pho tượng này không? Các kỹ sư liền đáp:
- Muôn tâu bệ hạ, các tên thợ mà trước kia bệ hạ ngưỡng mộ đều là những hạng theo đạo gian tà, họ đã nhiều lần bất tuân thánh lệnh. Nhà vua phán:
- Nếu quả thật như lời các khanh nói, thì chúng phải chịu phạt vì tội phạm thánh.
Sau đó nhà vua truyền cho thượng quan Lampađiô cứu xét việc này. Lampađiô truyền thiết lập toà án ngay trước đền thờ thần Mặt Trời, đoạn đòi các ông Simprônianô, Clauđiô, Nicôtatô, Cattôriô và Simplixiô đến hầu toà, đồng thời vời các viên kỹ sư nguyên cáo. Khi mọi người đã an vị, thượng quan Lampađiô tuyên bố:
- Chiếu lệnh Hoàng đế, nay ta tuyên bố khai mạc phiên toà để xét xử vụ tranh tụng giữa nguyên cáo là các viên kỹ sư, và bị cáo là các nghệ sĩ Clauđiô, Simprônianô, Catôriô, Nicôtatô và Simplixiô.
Lời tuyên bố vừa dứt, dưới hàng ghế thính giả liền vang lên những tiếng reo hò: nhân danh Hoàng đế Cêsarê hãy xử tử bọn phạm thượng, hãy thủ tiêu bọn phù chú… Đoán biết sự kiện ấy xảy ra chỉ là do xui giục vì lòng ghen ghét của các viên kỹ sư, viên thượng quan nói:
- Công việc chưa xét xử, làm sao ta có thể lên án được? Các kỹ sư liền bẩm:
- Nếu chúng không phải là hạng bùa chú thì chúng hãy lạy vua Cêsarê coi.
Thượng quan liền truyền cho các nghệ sĩ thờ lạy thần Mặt Trời. Các ông liền đáp:
- Không bao giờ chúng tôi lại cúi mình thờ lạy cái tượng chính tay chúng tôi đã tạc nên, chúng tôi chỉ thờ lạy Đấng Thượng Đế tạo dựng trời đất.
Nghe thế, các kỹ sư cùng những kẻ a dua liền reo lên:
- Thật là phạm thượng, hẳn thượng quan không còn nghi ngờ gì nữa.
Thế là Lampađiô liền tống các ngài vào ngục thất. Chín ngày sau, nhân một buổi triều yết, Lampađiô liền đem vụ kiện tâu lên Hoàng đế. Và ngay hôm đó các kỹ sư cũng nhắc lại lời tố cáo trước:
- Nếu tha những người này thì đạo thờ Mặt Trời sẽ bị tiêu diệt.
Giận dữ, Hoàng đế Điôclêtianô phán:
- Nếu chúng không nghe lời khuyên nhủ mà tôn thờ thần Mặt trời theo lề lối xưa, thì chúng sẽ phải chịu gia hình cực độ.
Hôm sau thương quan Lampađiô truyền điệu các nghệ nhân ra hầu toà cũng tại địa điểm trước. Mở đầu ông hỏi ngay:
- Các anh có biết Hoàng đế truyền cho các anh làm gì không? Ngài truyền cho các anh phải thờ lạy thần Mặt Trời. Clauđiô thay mặt anh em đáp:
- Chúng tôi chỉ tôn thờ một Thiên Chúa quyền phép và Con Ngài là Đức Giêsu Kitô, Đấng chúng tôi hằng trông cậy và tin tưởng sẽ đến đem ánh sáng huy hoàng vào nơi tối tăm.
- Ánh sáng anh nói đây huy hoàng hơn ánh sáng mặt trời sao? Vị thượng quan hỏi.
- Dạ, thưa thượng quan, Đức Giêsu Kitô sinh ra bởi Chúa Thánh Thần và Trinh Nữ Maria, Ngài là Đấng soi sáng mặt trời, mặt trăng cùng mọi người nơi trần gian, chỉ mình Ngài là ánh sáng chân thật mà thôi.
- Ta khuyên các anh không nên làm phiền lòng Hoàng đế, Hoàng đế quí mến tất cả những ai vâng lệnh ngài mà tôn thờ thần Mặt trời.
Simprônianô cùng các bạn thành thực:
- Hoàng đế chỉ nên lo việc cai trị dân nước, chứ đừng xúc phạm đến Thượng đế là Đấng tạo dựng mọi sự. Chúng tôi phải tuân lệnh Thiên Chúa kẻo phải phạt nơi biển lửa chẳng hề tắt.
Thấy các ngài chẳng tuân lệnh Hoàng đế, Lampađiô truyền đem các hình cụ ra đoạn bảo:
- Các anh hãy nghe lời, kẻo phải bị gia hình cực khổ, bây giờ không phải lúc để các anh lý luận khéo léo.
Lòng đầy tin tưởng, Clauđiô lên tiếng cùng với các bạn:
- Chúng tôi không sợ hình khổ trần gian, chúng tôi chỉ sợ hình khổ đời đời thôi. Hoàng đế đã biết chúng tôi là Kitô hữu thì cũng nên biết rằng: không bao giờ chúng tôi bỏ tôn giáo của chúng tôi đâu.
Tức giận, Lampađiô truyền lột áo và đánh đòn các ngài. Nhưng một biến cố ghê sợ xảy ra: đang khi các thánh bị đánh đòn dã man, thì Satan nhập vào Lampađiô khiến ông xé áo quần và lăn ra chết ngay tại công đường. Nghe hung tin đó, bà vợ cùng gia đình Lampađiô liền chạy đến kêu khóc, chửi rủa, yêu cầu các kỹ sư báo cáo tự sự ngay lên Hoàng đế Điôclêtianô.
Nhận được báo cáo, nhà vua giận dữ gầm lên:
- Lấy áo quan bằng chì chôn sống chúng vào đó, đoạn đem liệng xuống sông.
Niciô, một vị quan khác, phụng mệnh nhà vua truyền đúc ngay những áo quan bằng chì, bỏ các ngài vào đó, rồi ném xuống sông. Hôm đó, là ngày mồng 08 tháng 11. Hay tin đó, thánh Cyrillô tuy đau khổ, nhưng lại hết sức vui mừng vì chắc chắn thiên đàng đã thêm được một số vị thánh, sau đó ngài cũng nối gót các thánh tử đạo bay về hưởng nhan Chúa.
Kính xin các thánh tử đạo, cầu cùng Chúa cho chúng con được lòng vững vàng và can đảm tuyên xưng danh Chúa ra trước mặt muôn dân, dầu phải hy sinh tính mệnh, hầu cho nhiều người trở về nhận biết, thờ phượng Thiên Chúa, Đấng đáng tôn thờ và yêu mến vô cùng. Amen.
Gioan Baotixita Cỏn (1805 – 1840)

Gioan Baotixita Cỏn, Sinh năm 1805 tại Kẻ Bàng, Nam Ðịnh, Giáo dân, Lý Trưởng, bị xử trảm ngày 8/11/1840 tại Bẩy Mẫu dướiđời vua Minh Mạng, Đức Lêo XIII suy tôn hai ông Martinô Thọ và Gioan Baotixita Cỏn lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 8/11.
Đối với ông Gioan Cỏn, việc tử đạo là biến cố ông hân hoan hằng mong đợi. Trên đường ra pháp trường, ông vẫn tười cười chào giã biệt mọi người dù quen hay không. Khi thấy một người đang khóc thương mình, ông dừng lại nói : "Sao anh lại khóc, lẽ ra phải mừng cho tôi chứ ?" Có lẽ ông đã thấy cửa Thiên Đàng đang rộng mở đón tiếp mình.
Gioan Cỏn sinh năm 1805 tại làng Kẻ Báng, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định và có họ hàng với ông Martinô Thọ. Ông sống bằng nghề nông, cầy sâu cuốc bẫm, chân lấm tay bùn, gia đình tuy nghéo nhưng luôn thuận hòa ấm êm, là một tín hữu sáng suốt và nhiệt thành, ông Cỏn ý thức phải đem Tin Mừng thánh hóa mội trường mình đang sống. Ông đã thành công trong vụ kiện một người Lý trưởng cậy thế chiếm đoạt tiền của dân chúng.
Từ sau vụ kiện đó, uy tín ông càng ngày càng gia tăng cho đến khi ông được dân tín nhiiệm đề cử làm Lý trưởng. trong chức vụ ấy, ông hết lòng tận tụy với việc chung. Tuy nhiên do bạn bè lôi kéo, ông thường bê trễ trong các sinh hoạt tôn giáo. Bù vào đó, ông rất sẵn lòng phục vụ anh em vì đạo. Có lần ngay giữa đêm khuya, ông lặn lội mưa gió mời linh mục đến giúp một bệnh nhân hấp hối.
Khi vua Minh Mạng ra lệnh truy nã các thưà sai và linh mục, ông Cỏn bố trí xếp đặt cho các vị đến ẩn trong làng. Ông bị bắt vì tội chứa chấp các đạo trưởng : Cha già Thịnh ở Kẻ Trình bị bệnh nặng và không có chỗ chữa trị, ông Cỏn đón về để cha ở trong nhà cháu mình, để dễ dàng chăm sóc thuốc thang, và thế là hai cha con bị bắt ở đây.
Thánh Martinô THỌ - Viên thuế - (1787 – 1840)
Tiểu sử thánh Martinô Thọ được ghi nhớ cách đặc biệt qua những lời trăn trối với các con vào thăm trong tù. Di ngôn của ông đáng trở thành bản mẫu cho những người cha Kitô hữu trong giờ phút cuối của cuộc đời : Vừa thực tế, vừa dạt dào tình cảm, mà cũng đầy tin tưởng:
"Các con thân mến, cha không còn làm gì giúp các chúng con ở thế gian này được nữa, cha chỉ còn lo chuẩn bị tâm hồn đón nhận những thử thách cuối cùng. Ý Chúa đã muốn cha xa lìa các con mãi mãi, nhưng các con còn có mẹ, hãy cố vâng lời mẹ. Các con lớn hãy nhớ quan tâm em mình. các con nhỏ phải biết kính trọng và vâng lơi anh chị. Hãy yêu thương nhau, siêng năng làm việc đỡ đần mẹ. Nhớ đọc kinh tối sáng và lần chuỗi Mân Côi hàng ngày. Chúa trao cho mỗi người một Thánh Giá riêng, hãy vui vẻ vác theo chân Chúa và kiên trung giữ đạo".
Martinô Thọ sinh khoảng năm 1787 tại làng Kẻ Báng, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Ông tên thật là Nho, còn Thọ là tên người con thứ chín. Tuy gia đình đông con, nhưng ông đã khéo léo giáo dục chúng bằng đời sống gương mẫu của chính mình.
Dân trong làng biết ông ngay thẳng, nên cử ông phụ trách việc thu thuế đinh. Ông sống rất thanh liêm, không nhận hối lộ, không ăn chận của ai, cũng không qùy lụy cấp trên, cứ theo lẽ công mà làm nên rất có uy tín. Ngoài ra, ông Thọ còn thức khuya dậy sớm lao động như mọi người, vừa làm ruộng, vừa ươm tơ nuôi tăm.
Ông thường khuyên các con: "Sống công bằng thôi chưa đủ, phải có bác ái nữa, mà muốn thực thi bác ái phải có điều kiện". Dành dụm được chút nào, ông giúp đỡ người nghèo, hoặc góp phần vào việc chung, trong làng, trong giáo xứ. Nhà ông luôn mở rộng cửa tiếp đón các linh mục đến giáo xứ làm việc. Ông không sợ chết, lại còn tỏ ra muốn được chết vì đạo nữa.
Năm 1838, khi nghe tin hai ông Trùm Đích và ông Lý Mỹ bị xử trảm tại pháp trường Bẩy Mẫu, ông thu xếp công việc đến viếng xác, và về nhà dặn dó con cái :"Các con yêu dấu, nếu Chúa cho cha theo chân hai đấng ấy, các con hãy vui lòng. Phần các con, nếu bị bắt, hãy can đảm giữ vững đức tin".
Ngày 30.5.1840, nghe báo tin ở làng Kẻ Báng có linh mục, quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh đưa hàng ngàn lính về bao vây làng. Ông chia lính thành những tốp 10 người đi sục sạo hết các xó xỉnh, các bụi rậm. Sau hai ngày lục soát họ bắt được ba linh mục: cha Nghi, cha Ngân và cha Thịnh. Ông Thọ và ông Cỏn cũng bị bắt vì tội chứa chấp đạo trưởng. quan lệnh đóng gông và giải tất cả về tỉnh Nam Định.
Một tháng đầu quan bỏ lơ không nói gì đến. Sau đó, cho gọi ra bắt bước qua Thập Giá, các ông không chịu, quan truyền đánh mỗi người 50 roi, rồi bắt phơi nắng cho đến tối không được ăn uống gì cả. Lần khác, quan lại gọi ra và dụ dỗ : "Cứ đạp đi rồi xưng tội là khỏi tội thôi mà". Hai ông vẫn từ chối. Trịnh Quang Khanh liền cho lính nắm gông khiêng các ngài qua ảnh chuộc tội. Hai ông co chân lên và khẳng khái tuyên bố : "Đạo tại tâm. Quan lớn cưỡng bách mà lòng chúng tôi không thuận thì chẳng mắc tội gì".
Thế là quan nổi giận, nảy ra một sáng kiến kinh dị : Khi ba vị linh mục cùng bị bắt vừa chịu tra tấn, máu me loang lổ khắp mình, quan bắt hai ông hoặc liếm máu nơi các vết thương ấy, hoặc bỏ đạo. Hai ông liền quỳ xuống thực hiện điều quan yêu cầu một cách cung kính. Trịnh Quang Khanh vừa rùng mình, vừa kinh ngạc nói với các quan : "Xem kìa ! Bọn chúng kính trọng các đạo trưởng biết bao ! Chẳng lẽ chúng bị bỏ bùa mê sao. Rồi ông truyền đem trói hai ông lại, bắt quỳ trên cát giữa trời nắng gắt suốt ngày.
Một lần quan tra hỏi về các thừa sai, ông Thọ trả lời : "Thưa quan, tôi có biết Đức cha Giacôbê, nhưng ngài đã qua đời, còn các thừa sai khác vua bắt hết rồi, còn đâu ? Hơn nữa chúng tôi ở trong tù làm sao biết các vị ấy ở đâu được ?". Tức giận, quan cho lính hôm đó tự do đánh đập tùy thích. Ông Cỏn chịu được 61 roi thì kiệt sức, máu miệng trào ra, được quân lính khiêng về trại. Còn ông Thọ bị đánh đúng 150 roi. Về sau ông nói với con cái rằng : "50 roi đầu đau đớn khôn tả, còn 100 roi sau, nhờ ơn Chúa, cha thấy nhẹ nhàng như gió thoảng qua vậy".
Quan thấy hình khổ không làm cho các ông xiêu lòng, nên cho lệnh bắt vợ con để áp lực, buộc các ông bỏ đạo. May măn hai ông biết trước, vội nhắn tin cho gia đình lẩn tránh nơi khác. Tuy thế, quan vẫn nói với các ông: "Nếu ta đưa vợ con các ngươi đến đây để giết thì các ngươi có chịu bỏ đạo không?".
Ông Cỏn đáp: "Thưa quan, cửa nhà vợ con đều do Chúa ban, chúng tôi chẳng có gì tiếc xót cả. nếu vợ con tử đạo, chúng tôi càng mong ước về Thiên Đàng". Ông Thọ nói thêm: "Gông cùm và roi vọt của quan là hai cánh đưa chúng tôi bay về Thiên Quốc".
Nghe thế, quan càng giận dữ hành hạ ác liệt hơn nữa : Ban ngày phơi nắng, ban đêm bắt nằm ngoài cống rãnh nước thải của trại tù, và bớt phần ăn suốt tuần lễ. Đến ngày thứ bày, cô Thuyên con gái ông Thọ tìm cách vào thăm cha. Thấy cha nằm dài bất tỉnh, cô lấy nước rót vào miệng, nhưng phải khá lâu ông mới hồi tỉnh nhận ra con mình. Lần khác, khi gặp lại con cái, ông nói với chúng những lời dặn dò sau hết.
Bản án trảm quyết gởi vào kinh đô và được vua Minh Mạng ký duyệt. Ngày 06.11, các ông biết tin, tìm cách gặp các cha cũng bị bắt để xưng tội và chuẩn bị tâm hồn. Ngày 08.11.1840, cùng với ba vị linh mục, hai ông bị điệu ra pháp trường Bẩy Mẫu. Dọc đường hai vị vẫn tươi cười chào hỏi mọi người. đến nơi, hai ông quỳ cầu nguyện một lát, rồi đưa tay cho quân lính trói vào cọc.
Theo lệnh quan, lý hình vung gươm, đưa các ngài về Quê Hương mong ước. Một vị 35 tuổi, một vị 53 tuổi, từ nay mãi mãi bên nhau trong vinh quang bất diệt. Thi hài hai đấng tử đạo được đưa về an táng ở xứ Kẻ Báng.
Đức Lêo XIII suy tôn hai ông Martinô Thọ và Gioan Baotixita Cỏn lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.
Giuse Nguyễn Ðình Nghi (1771-1840)
Giuse Nguyễn Ðình Nghi, Sinh năm 1771 tại Kẻ Với, Hà Nội, Linh mục, bị xử trảm ngày 8/11/1840 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng. Đức Lêo XIII suy tôn ba linh mục Giuse Nguyễn Đình Nghi, Phaolô Nguyễn Ngân và Martinô Tạ Đức Thịnh lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên hàng Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 8/11.
Thánh Phaolô NGUYỄN NGÂN - Linh mục - (1790 – 1840)
Điều bận tâm nhất trong đời linh mục của thánh Phaolô Ngân là theo gương Đức Giêsu, vị mục tử nhân hiền. Trong thời bách hại, cha thường than với mọi người rằng: "chủ chăn khó đi tìm chiên lạc, khó biết tin từng con một quá…". Cha thường tỏ ra tiếc vì hoàn cảnh không săn sóc kỹ lưỡng từngn tín hữu của mình được. Phaolô Nguyễn Ngân sinh năm 1790 tại họ Cự Khanh, tỉnh Thanh Hóa. Cậu đi tu từ nhỏ, đến khi vào chủng viện thì học cùng lớp với cha Nghi. Sau khi thụ phong linh mục, cha về giúp xứ Phúc Nhạc, phu6 trách luôn họ Duyên Mậu và các họ lẻ chung quanh. Được ít lâu cha bị sốt rét nên phải nghỉ và dạy học ở chủng viện Vĩnh Trị được bẩy năm. Khi khỏi bệnh, cha phụ trách xứ Trình Xuyên ba năm nữa. Cuối cùng về làm phó xứ Kẻ Báng giúp cha Nghi mới được khoảng một năm thì bị bắt.
Thánh Giuse NGUYỄN ĐÌNH NGHI - Linh mục - (1793 – 1840)

Đọc lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu theo thánh Gioan, ta thấy : khi thuộc hạ các thượng tế đến bắt Đức chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu, ngài nói với họ : "Tôi đã bảo với các anh là chính tôi đây. Vậy nếu các anh tìm bắt tôi thì hãy để cho những người này đi".
Thế là ứng nghiệm lời Ngài đã nói : "Những người cha đã trao phó cho con, con không để thất lạc một ai"(Ga. 18, 8-9). Đó là điều cha Giuse Nguyễn Đình Nghi hằng suy niệm trong thời bách hại. Lúc nào trong người cha cũng mang sẵn một vài nén bạc, để nếu bị bắt ở nhà người khác thì có tiền chuộc chủ nhà. Cha sẵn sàng hy sinh tử đạo nhưng không muốn liên lụy đến ai.
Giuse Nguyễn Đình Nghi sinh năm 1793 tại xứ Kẻ Vồi, huyện Thượng Phúc, nay thuộc Hà Nội, trong một gia đình trung lưu. Ngay từ nhỏ, cậu Nghi đã dâng mình cho Chúa, sống với cha Liêm ở xứ Kẻ Vồi. Học xong trường thày giảng, thày lại trở về giúp xứ nhà. Các cha thấy thày thông minh hiền hậu, nên cho theo thần học, và năm 30 tuổi, thày Nghi thụ phong linh mục. Đức cha Havard Du bổ nhiệm cha làm phó xứ Sơn Miêng một năm, phó xứ Kẻ Vạc bốn năm, rồi phụ giúp cha Khoan ở xứ Phúc Nhạc. Do khả năng quản trị, ngài được về làm cha sở xứ Đa Phạn khoảng mười năm. Cuối cùng đang làm cha xứ Kẻ Báng thì bị bắt.
Cha Nghi có nếp sống rất đạo hạnh, chuyên chăm việc giảng dạy và siêng năng ngồi tòa giải tội. Cha có biệt tài giúp tội nhân thống hối, hoán cải. Cha ăn chay nhiều ngày cách nghiêm ngặt, cha thày giảng lo cho sức khỏe, phải can gián cha nhiều lần. Tính tình cha hòa nhã vui vẻ, nhanh nhẹn hoạt bát, nhất là thông thạo luật đạo đời, nên trong giao tế, cha được mọi người kính trọng mến yêu. Lương dân chung quanh thường đồn đãi với nhau là: Nếu ông này không đi tu chắc làm quan lớn lắm…
Trong những năm vua Minh Mạng cấm đạo, cha biểu lộ niềm mong ước tử đạo, nhưng ngài nói: "Tôi mong sẽ bị bắt ở đồng vắng, để không hại đến anh chị em tín hữu". Khi đi làm mục vụ, cha cẩn thận mang theo ít tiền để chuộc chủ nhà, nếu không may bị bắt.
Thánh Martinô TẠ ĐỨC THỊNH - Linh mục - (1760 – 1840)
Sau 80 năm phụng sự Chúa, tóc đã bạc, chân mỏi, sức hầu cạn, cộng với cơn bệnh đang dằn vặt trong mình, cha Martinô Thịnh vẫn cảm thấy phải dâng hiến cho Chúa phần còn lại là chính mạng sống để làm chứng cho Người. tuy có thể thoát thân trong cuộc truy lùng, cha đã trả lời cho người lính hỏi: "Ông có phải là đạo trưởng không", bằng lời xác nhận "Phải tôi đây". Lời xác nhận đó đưa cha đến chỗ chết, nhưng cũng đưa cha lên đài vinh quang cho muôn đời noi gương.
Martinô Tạ Đức Thịnh sinh năm 1760 tại làng Kẻ Sét, huyện Thanh Trì, nay thuộc khu vực Hà Nội, trong một gia đình nề nếp. Năm 18 tuổi, gia đình định cho anh kết duyên với một thiếu nữ thùy mỵ, duyên dáng và đạo hạnh, nhưng anh xin hãn lại để suy nghĩ, và cuối cùng quyết định xin đi tu dâng mình cho Chúa.
Thày Thịnh thụ phong linh mục trong thời Cảnh Thịnh cấm đạo. Cha làm bí thư cho Đức cha Giacôbê Longer Gia một thời gian, đã tháp tùng Đức cha đến yết kiến vua Gia Long về đăng quang tại Thăng Long năm 1803.
Theo sự bổ nhiệm của Đức Giám mục, cha phục vụ tại nhiều giáo xứ: trước tiên là Cửa Bạng rồi Đồng Chuối, sau về xứ Nam Sang phục vụ hai mươi năm liền. cuối cùng, làm cha sở xứ Kẻ Trình khi đó cha đã 80 tuổi. ngài là một người cha già, đạo đức, hiền lành, được tất cả các tín hữu kính nể và yêu mến.
Một hôm cha bị nhọt ở má, rồi lở miệng, nửa hàm răng bị mưng mủ và đau nhức khôn tả. Ông Cỏn lên thăm, thấy tình cảnh cha như vậy liền rước cha về nhà cháu ở xứ Kẻ Báng để chăm sóc chữa trị. Được độ tám tháng, cha bị bắt cùng hai cha Nghi và Ngân.
Tai họa cho làng Kẻ Báng.
Tổng đốc Trịnh Quang Khanh là một công tác viên đắc lực nhất của vua Minh Mạng trong việc bách hại đạo Công Giáo. Trong vòng ba năm, ông phá hủy hơn 400 nhà thờ, tu viện và chủng viện. Ông cho phóng thích một tội nhân phạm tội hình sự đang bị giam ở Nam Định, để anh ta đến làng Kẻ Báng do thám, lập công chuộc tội. Anh này tuy không trong đạo, nhưng quen biết nhiều, nên ra vào và gặp gỡ các giáo hữu dễ dàng. Khi biết chắc trong làng có ba linh mục, anh liền đi tố giác với quan.
Ngày 30.5.1840, theo tin mật báo, quan Tổng đốc liền đem 1000 quân đến vây làng Kẻ Báng. Rồi ông cho phát loa kêu gọi dân ra đình điển danh. Tất cả đàn ông, thanh niên trên 15 tuổi đều bị trói lại và tập trung ở một chỗ, quân lính canh gác cẩn thận. Họ bắt cứ phải ngồi vậy phơi nắng, phơi sương suốt hai ngày. Anh chị em phụ nữ lo cơm nước tiếp tế cho lính và thân nhân. đồng thời quan sai lính đi lục soát tất cải "hang cùng ngõ hẻm". Ngày đầu tiên không tìm thấy linh mục nào, ông nản lòng định rút quân, nhưng người tố giác cứ nhất quyết, lấy đầu ra mà thề, nên ông lại cho lục soát tiếp.
Ngày thứ ba, quan ra lệnh phá các vách dầy trong làng thì quả thật bắt được cha Nghi đang ẩn giữa hai lớp vách nhà bà Duyên. Quan cho gọi bà ra bước qua Thánh Giá, nhưng may mắn quân lính nghe lộn ra bà Doãn, bà này ngoại giáo nên sẵn sàng bớc qua, nhờ đó bà Duyên thoát mạng. Khoảng giữa trưa thì quân lính bắt được cha Ngân đang ẩn ở nhà ông Thọ và cha bị bắt trói, điệu ra chỗ cha Nghi ngoài đình.
Về cha Thịnh thì giả điếc nằm ngay võng nhà ông Chiền là cháu ông Cỏn, quân lính đi ngang thấy cụ già nhà quê bệnh tật, nên chẳng nghi ngờ gì. Nếu có hỏi thì co Thanh, một nữ tu họ Kẻ Trình đi theo phục vụ cha khai là : "Bố tôi đấy, ông bị bệnh nặng nên không ra điểm danh được". Đến khi nghe tin cha Nghi và Ngân bị bắt, cha Thịnh khôngh muốn im lặng nữa. Nhân một cai đội họi cụ : "Ông có phải là đạo trưởng không ?" Cha liền đáp: "Phải tôi đây". Thế là cha Thịnh đồng số phận bị bắt với hai cha bạn cùng chí hướng. Lợi dụng cơ hội này, quân lính ùa vào làng cướp tiền của, thóc lúa, trâu bò… Họ vừa đập phá, vừa reo hò chiến thắng vang dậy cả làng. Sau đó quan cho đóng gông và áp giải ba linh mục, ông Thọ, ông Cỏn và 20 tín hữu Kẻ Báng về nhà lao Nam Định.
Vững vàng tuyên tín…
Suốt một tháng đầu, ba cha, ngày mang gông xiềng, tối bị cùm chân, nhưng chưa phải ra tòa. Đến đầu thàng bẩy, quan gọi ra công đường, bắt bước qua Thập Giá, các cha đều can đảm từ chối. Cha Thịnh lên tiếng: "Tôi đã bằng này tuổi đầu mà còn sợ chết nữa sao ? Tôi không thể làm theo lời quan được". Quan lại hỏi về tên và chỗ ở của các thừa sai, nhưng các cha đều chối không biết. Quan liền truyền trói ba vị bắt quỳ giang nắng suốt ngày không cho ăn uống nước.
Ba ngày sau (06.7), Tổng đốc Trịnh Quang Khanh lại cho gọi ba cha và nói : "Nếu các ông không đạp lên Thập Tự, các ông sẽ phải chết". Cha Nghi trả lời: "Thưa quan, nếu quan thương chúng tôi nhờ; nếu không thương chúng tôi cũng xanh rì nấm mộ, còn bước qua Thập Giá, chúng tôi không dám". Quan liền cho đánh mỗi người 50 roi. Thấy không hiệu quả, ông cho đánh cha già Thịnh thêm 10 roi nữa, vì nghĩ tuổi già sức yếu, cha sẽ chịu khuất phục. Nhưng ông không ngờ cha Thịnh mạnh mẽ can đảm chịu đòn cách vui vẻ. Tức giận, quan lại bắt ba vị ra phơi nắng một ngày nữa.
Hạnh phúc thiên thu.
Thấm thoát ba cha ở trong ngục được năm tháng. Với nhiều trận đòn chí tử, nhiều ngày giang nắng ngoài trời…, các vị vẫn không nản lòng, cứ một mực tuyên xưng niềm tin vào Đấng chịu khổ nạn. Các quan thấy các ngài cương quyết giữ vững lập trường, liền làm án gửi về kinh đô. Vua Minh Mạng phê chuẩn và ra lệnh thi hành. Được tin ấy, ba cha hớn hở vui mừng, giải tội cho nhau và chuẩn bị tâm hồn sốt sắng lãnh nhận triều thiên tử đạo.
Ngày 08.11.1840, cha Thịnh, cha Ngân, cha Nghi, ông Thọ, ông Cỏn bị đoàn lính 500 người điệu ra pháp trường Bẩy Mẫu. Đến nơi, tất cả các ngài quỳ xuống cầu nguyện một lát, rồi ra hiệu đã sẵn sàng. Theo lệnh quan, lý hình chém rơi đầu năm chiến sĩ đức tin, kết thức cuộc đời dương thế và khai mở cuộc sống vĩnh hằng trên Thiên Quốc.
Thi thể hai cha Nghi và Ngân được đưa về Kẻ Báng. Còn cha Thịnh được mai táng ở xứ Vũ Điện, sau đưa về quê hương ngài là Kẻ Sét, Hà Nội.
Đức Lêo XIII suy tôn ba linh mục Giuse Nguyễn Đình Nghi, Phaolô Nguyễn Ngân và Martinô Tạ Đức Thịnh lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên hàng Hiển thánh.
Nguồn từ thư viện Đa Minh
Thứ Năm 8-11

Chân Phước John Duns Scotus

(1266-1308)

 C
hân Phước John Duns Scotus là một tu sĩ Phanxicô khiêm tốn, mà tư tưởng của ngài có ảnh hưởng trong nhiều thế kỷ.
Sinh ở Duns trong quận Berwick, Tô Cách Lan, John thuộc dòng dõi một gia đình giầu có. Trong những năm về sau, ngài được gọi là John Duns Scotus để ghi dấu nơi sinh trưởng. ("Scotus" là chữ Latinh thay cho "Scotland" [Tô Cách Lan]).
John mặc áo dòng Phanxicô ở Dumfries, mà bác của ngài là Cha Elias Duns làm bề trên. Sau thời kỳ tập viện, John theo học ở Oxford và Paris và thụ phong linh mục năm 1291. Sau đó ngài tiếp tục theo học ở Paris cho đến năm 1297, ngài trở về làm giáo sư ở Oxford và Cambridge. Bốn năm sau, ngài trở lại Paris để dạy học và hoàn tất luận án tiến sĩ.
Vào thời đại mà nhiều người chấp nhận các hệ tư tưởng không có giá trị, thì John đã vạch ra sự phong phú của truyền thống Phanxicô-Augustinô, quý trọng sự uyên thâm của Thánh Aquinas, của Aristotle và các triết gia Hồi Giáo -- nhưng ngài vẫn duy trì là một nhà tư tưởng độc lập. Ðiều đó được chứng tỏ khi Hoàng Ðế Philip, trong một tranh chấp với Ðức Giáo Hoàng Boniface VIII năm 1303, đã cố chiếm lấy Ðại Học Paris về phía mình. John Duns Scotus bất đồng ý và được lệnh phải rời Pháp trong vòng ba ngày.
Trong thời đại của John Duns Scotus, một số triết gia chủ trương rằng con người bị định đoạt bởi các động lực ở bên ngoài cá thể. Họ cho rằng sự tự do của ý muốn là một ảo tưởng. Là một người rất thực tế, John lý luận rằng nếu tôi đánh một người nào đó mà họ khước từ sự tự do của ý muốn, thì ngay lập tức người ấy bảo tôi ngừng tay. Nhưng nếu tôi thực sự không có tự do ý muốn, làm sao tôi có thể ngừng tay? John đã khéo léo đưa ra một thí dụ mà ai ai cũng dễ nhớ!
Sau một thời gian ở Oxford, ngài trở về Paris, là nơi ngài lấy bằng tiến sĩ năm 1305. Ngài tiếp tục dạy ở đây và vào năm 1307 ngài đã bảo vệ đặc tính Vô Nhiễm Nguyên Tội của Ðức Maria mà sau cùng đại học đã chính thức công nhận lập trường của ngài. Cùng năm đó, bề trên tổng quyền bổ nhiệm ngài về trông coi trường của dòng Phanxicô ở Cologne mà ngài đã từ trần ở đây năm 1308. 
Dựa vào lý luận của John Duns Scotus, vào năm 1854 Ðức Giáo Hoàng Piô IX đã long trọng tuyên bố tín điều Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. John Duns Scotus, vị "Tiến Sĩ Khôn Ngoan", được phong chân phước năm 1993.
Lời Bàn
Cha Charles Balic, O.F.M., người có uy tín nhất của thế kỷ 20 về Chân Phước Scotus, đã viết: "Toàn bộ thần học của Scotus đều quy hướng về đức ái. Ðặc tính nổi bật của đức ái là sự tự do tuyệt đối. Khi đức ái ngày càng trở nên tuyệt hảo và sâu đậm, sự tự do trở nên cao quý và trọn vẹn hơn trong con người" (New Catholic Encyclopedia, Bộ. 4, tr. 1105).
Lời Trích
Sự thông thái ít khi đảm bảo sự thánh thiện. Nhưng John Duns Scotus không chỉ là một người tài giỏi mà ngài còn là một người khiêm tốn và siêng năng cầu nguyện -- đó chính là sự tổng hợp mà Thánh Phanxicô muốn nơi bất cứ tu sĩ nào có học thức. Vào lúc phong trào dân tộc chủ nghĩa ở Pháp đe dọa quyền lợi của đức giáo hoàng, John Duns Scotus đã đứng về phía giáo hội và phải gánh chịu mọi hậu quả. Ngài cũng bảo vệ sự tự do của con người đối với những ai thỏa hiệp sự tự do ấy với chủ thuyết tất định (determinism).
Tư tưởng thì quan trọng. John Duns Scotus đã dùng tư tưởng hay nhất của ngài để phục vụ gia đình nhân loại và Giáo Hội.
www.nguoitinhuu.com 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét