Ngày 24 tháng 11
Lễ Thánh Anrê Trần An Dũng Lạc,
và các bạn Tử Ðạo
(Lễ Các Thánh Tử Ðạo Việt Nam)
Lễ Kính
Bài Ðọc I: Kn 3, 1-9
"Chúa chấp nhận các
ngài như của lễ toàn thiêu".
Trích sách Khôn Ngoan.
Linh hồn những người công
chính ở trong tay Chúa, và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài. Ðối với
con mắt của người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã chết và việc các
ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu diệt. Nhưng thật ra các ngài sống
trong bình an. Và trước mặt người đời, dầu các ngài có chịu khổ hình, lòng
trông cậy của các ngài cũng không chết. Sau một giây lát chịu khổ nhục, các
ngài sẽ được vinh dự lớn lao; vì Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong
lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu.
Khi đến giờ Chúa ghé mắt nhìn
các ngài, các người công chính sẽ sáng chói và chiếu toả ra như ánh lửa chiếu
qua bụi lau. Các ngài sẽ xét sử các dân tộc, sẽ thống trị các quốc gia, và
Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài muôn đời. Các ngài đã tin tưởng ở Chúa,
thì sẽ hiểu biết chân lý, và trung thành với Chúa trong tình yêu, vì ơn Chúa và
bình an sẽ dành cho những người Chúa chọn.
Ðó là Lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 125, 1-2ab.
2cd-3. 4-5. 6
Ðáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng
rỡ hân hoan (c. 3).
Xướng: 1) Khi Chúa đem những
người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như Người đang mơ, bấy giờ miệng
chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan. - Ðáp.
2) Bấy giờ dân thiên hạ nói
với nhau rằng: "Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng". Chúa đã đối xử
đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin hãy đổi số
phận của con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt
trong hân hoan. - Ðáp.
4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc,
tay mang thóc đi gieo; họ trở về hân hoan, vai mang những bó lúa. - Ðáp.
(Khi mừng theo bậc Lễ
Trọng thì có Bài Ðọc II này):
Bài Ðọc II: 1 Cr 1, 17-25
"Vì tiếng nói của
Thập Giá là sức mạnh của Thiên Chúa ban cho chúng ta".
Trích thư thứ nhất của Thánh
Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, Ðức Kitô
không sai tôi đi rửa tội, mà là rao giảng Tin Mừng, không phải bằng lời nói
khôn khéo, kẻo Thập giá của Ðức Kitô ra hư không.
Vì chưng lời rao giảng về
Thập giá là sự điên rồ đối với những kẻ hư mất; nhưng đối với những người được
cứu độ là chúng ta, thì điều đó là sức mạnh của Thiên Chúa. Vì như đã chép
rằng: "Ta sẽ phá huỷ sự khôn ngoan của những kẻ khôn ngoan, sẽ chê bỏ sự
thông thái của những người thông sáng. Người khôn ngoan ở đâu? Người trí thức ở
đâu? Người lý sự đời này ở đâu?" Nào Thiên Chúa chẳng làm cho sự khôn
ngoan của đời này hoá ra điên rồ đó sao? Vì thế gian tự phụ là khôn, không theo
sự khôn ngoan của Thiên Chúa mà nhận biết Thiên Chúa, thì Thiên Chúa đã muốn
dùng sự điên rồ của lời rao giảng để cứu độ những kẻ tin. Vì chưng, các người
Do-thái đòi hỏi những dấu lạ, những người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, còn
chúng tôi, chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ
vấp phạm cho người Do-thái, một sự điên rồ đối với các người ngoại giáo. Nhưng
đối với những người được gọi, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, thì Ngài là Chúa Kitô,
quyền năng của Thiên Chúa, và sự khôn ngoan của Thiên Chúa, vì sự điên dại của
Thiên Chúa thì vượt hẳn sự khôn ngoan của loài người, và sự yếu đuối của Thiên
Chúa thì vượt hẳn sức mạnh của loài người.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: 1 Pr 4, 14
Alleluia, alleluia! - Nếu anh
em bị sỉ nhục vì danh Chúa Kitô, thì phúc cho anh em, vì Thánh Thần Chúa sẽ ngự
trên anh em. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 10, 17-22
"Các con sẽ bị điệu đến
nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại
biết".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng
các Tông đồ rằng: "Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con
cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu
đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại
được biết. Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải
nói thế nào và nói gì. Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì: vì
chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói
trong các con. Anh sẽ nộp em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại cha mẹ và
làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét,
nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ".
Ðó là lời Chúa.
(Veritas Asia)
Cảm Mến Công Ơn
Của Các Anh Hùng Tử Ðạo
(2M 7,1-2.9-14; 2C 4,7-15; Mt 10,16-23)
Suy Niệm:
Ngày 24 Tháng 11
Lễ Các Thánh Tử Ðạo Việt
Nam
(2M 7,1-2.9-14; 2C 4,7-15;
Mt 10,16-23)
Ngày lễ Các Thánh Tử Ðạo Việt
Nam là dịp để chúng ta ca tụng Thiên Chúa đã làm những việc vĩ đại trên Quê
hương Ðất nước và nơi Dân tộc anh hùng chúng ta. Chúng ta chiêm ngưỡng lại
khuôn mặt đẹp đẽ và ý chí quật cường của bao bậc tiền bối. Chúng ta học để quý
mến sự sống mà chúng ta đang mạng trong mình và do các ngài để lại. Và chúng ta
sẽ cố gắng phát huy cơ nghiệp mà tiền nhân đã hy sinh mạng sống để giữ lại cho
chúng ta.
A. Cảm Mến Công Ơn Của Các
Anh Hùng Tử Ðạo
Bài sách Macabê thuật lại câu
truyện tử đạo của một gia đình 7 mẹ con ở thời Cựu Ước. Ðó là một gia đình
không tên không tuổi; và vì thế được phụng vụ coi như là tiêu biểu cho bao bậc
tử đạo vô danh. Chúng ta có thể tựa vào câu truyện ấy để nhắc tới những bậc tử
đạo quá nhiều trên Ðất nước chúng ta.
Thực vậy, Hội Thánh Việt Nam
có nhiều tử đạo bậc nhất thế giới: xét cả về tổng số, cả về tỷ số... Người ta
đã nói tới con số 300,000 tử đạo ở Việt Nam. Ðược mấy Giáo hội có nhiều tử đạo
như vậy! Và con số 300,000 kia ở thời bấy giờ, chắc phải chiếm tới 3, 4 phần
trăm tổng số tín hữu. Chúng ta rùng mình khi nghĩ đến điều ấy. Nhưng thật như
lời người ta nói: máu tử đạo làm nảy sinh kẻ có đạo. Chính Ðức Yêsu cũng đã dạy
trong Phúc Âm: hạt thóc có rơi xuống đất, thối đi thì mới mọc lên cây, đem lại
mùa màng phong phú. Chúng ta ngày nay có đời sống đạo, là nhờ có đông đảo tiền
nhân đã cương quyết giữ vững niềm tin cho đến cùng� Chắc chắn có nhiều bậc phụ
huynh ngồi đây, nhiều gia đình Công giáo ở bên cạnh chúng ta có thể tính lên
đời thứ ba thứ tư và gặp thấy một hay nhiều tử đạo trong gia tộc của mình. Ít
nhất ai cũng nói được rằng tổ tiên của mình đã phải giữ đạo một cách rất vất
vả. Và tất cả chúng ta đều là con cháu các tử đạo theo cả hai nghĩa thiêng
liêng và xác thịt.
Ðiều đó chắc chắn không cần
phải nói thêm. Nhưng phải nói lên điều này, là: 300,000 tử đạo kia là một đoàn
thể đông đảo đủ mọi màu sắc, khác nào một cánh đồng bát ngát đủ mọi sắc hương.
Giám mục, linh mục và tu sĩ nam nữ có; nhưng số giáo dân đông hơn nhiều. Và già
có, trẻ có; thanh niên, phụ nữ, nhi đồng cũng có: không thiếu một hạng người
nào. Ðặc biệt hơn nữa là rất nhiều người đã tử đạo trong y phục lý trưởng cũng
như quân nhân. Họ là những người dân tốt, phục tùng Nhà nước, làm việc tận tâm,
được lòng quan chức nêu gương cho mọi người.
Tổng đốc Trịnh Quang Khanh là
viên chức có lẽ đã giết rất nhiều tín hữu ở miền Bắc. Thế mà dưới quyền ông vẫn
có nhiều người lính có đạo. Và những người này nhiều khi lại gương mẫu và xuất
sắc. Ông quý mến họ và ra sức dụ dỗ họ bỏ đạo... Ông không hiểu rằng chính đức
tin họ đang giữ là động lực cho đời sống công dân tốt lành kia. Thấy họ cương
quyết trung thành với tín ngưỡng đang khi vẫn nhiệt tình với chức năng, ông tìm
cách bao che cho họ. Nhưng họ không chịu. Ông Huy, ông Thể, ông Hiếu và nhiều
người khác dưới quyền Trịnh Quang Khanh đã ra xưng đạo, trước sự khâm phục và
xót thương của bao nhiêu chiến sĩ, không cùng một quan điểm tôn giáo nhưng
không thể không cảm mến những người chiến hữu và đồng bào giá trị như vậy.
Chúng ta không thể kể hết ở
đây về đời sống gia đình, xã hội của các Tử đạo Việt Nam. Chúng ta thường chỉ
biết các ngài tử đạo nghĩa là chịu chết vì đạo. Cùng lắm chúng ta chỉ hay nghĩ
tới lòng can đảm, chí chịu đựng của các ngài khi bị tra tấn, hành hạ. Nhưng
chúng ta cần phải biết: Tử đạo là ơn rất lớn. Nó đưa thẳng người ta về thiên
quốc và lên bàn thờ các thánh ngay ở đời này. Một ơn như vậy không dành cho bất
cứ một người nào đâu, nhưng chỉ dành để cho những phần tử ưu tú được Chúa lựa
chọn. Ở thời các tử đạo, rất nhiều tín hữu đã bị bắt. Có những người đã chối
Chúa. Vì họ không mến đủ! Và sở dĩ như vậy vì như lời thánh Yoan nói: người ta
không mến Chúa vô hình khi không yêu mến Người nơi anh em hữu hình. Các tử đạo,
dù ở chức năng nào, trước khi tuyên chứng lần cuối cùng về lòng yêu mến Ðấng vô
hình, cũng đã trải qua nhiều thử thách trong đời sống phục vụ tha nhân. Chúng
ta cứ đọc lại mà xem! Hết mọi hạnh thánh tử đạo Việt Nam đều kể rằng trước khi
ra pháp trường hay chịu chết trong ngục để xưng đạo, các ngài đã là những người
mẹ, người cha chu toàn phận sự gia đình; những người chồng người vợ thi hành
tốt mọi phận sự công dân; những người con hiếu thảo và những người lính dũng
cảm; những y sĩ và lý trưởng được đồng bào quý mến việc phục vụ. Bởi vì không
ai có thể trở thành công dân Nước Trời sau này, nếu đã không là những công dân
tốt trên mặt đất.
Ngay cái chết của các tử đạo
Việt Nam cũng khiến chúng ta phải suy nghĩ về khía cạnh vừa nói. Anh em Macabê
được tử đạo trong một hoàn cảnh đơn giản hơn. Họ là những người Israel bị ngoại
xâm Batư bắt phải bỏ đạo của tổ tiên. Trong một cái chết họ đã tỏ ra trung
thành với Thiên Chúa và Tổ Quốc. Trường hợp các tử đạo Việt Nam éo le hơn.
Những người bắt các ngài bỏ đạo lại là vua quan "phụ mẫu chi dân".
Thế nên các ngài không có một lời nào xúc phạm đối với các quan tòa. Và cho đến
lúc chết các ngài vẫn chứng tỏ đã chu toàn tốt đẹp mọi nghĩa vụ xã hội. Các
ngài đã chết trong tình mến Chúa yêu người và thương nhà thương Nước. Các ngài
đã hy sinh mạng sống cho đức tin và chân lý ở trên giải đất này... Cho nên Giáo
hội toàn cầu chỉ biết các ngài là tử đạo của Việt Nam.
Do đó khi mừng lễ các ngài,
chúng ta phải biết để ý đến nét Việt Nam nơi các ngài. Chúng ta phải soi gương
các ngài chu toàn các nhiệm vụ xã hội một cách thánh thiện. Và cho được như vậy
chúng ta phải tìm hiểu động lực bên trong thúc đẩy đời sống của các ngài.
Bài thư Phaolô có thể giúp
chúng ta làm công việc này.
B. Ði Theo Ðường Lối Của
Các Tử Ðạo
Quả thật các Tử đạo Việt Nam
có thể mượn những lời thư Phaolô hôm nay để nói với chúng ta. Một đàng các ngài
không giấu giếm sự thật. Bí quyết khiến các ngài có thể vượt thắng trăm ngàn
thử thách là chính sự sống và sự sống lại của Chúa Yêsu trong thân xác yếu hèn
của các ngài. Các ngài nói: chúng tôi chứa đựng những kho tàng ấy trong những
bình sành để biết rằng quyền lực vô song ấy là của Thiên Chúa chứ không phải
phát xuất tự chúng tôi. Các ngài chịu khổ cực tư bề nhưng không bị đè bẹp, bị
bắt bớ nhưng không bị bỏ rơi... bởi vì sự sống của Ðức Kitô tỏ hiện nơi thân
xác của các ngài. Chính Ðức Kitô trong bài Tin Mừng cũng đã nói không phải các
tử đạo ở trước tòa nhưng là Thánh Thần nói trong các ngài.
Và để có Thánh Thần và sự
sống của Ðức Kitô ở trong mình như vậy, các tử đạo đã phải hư vô hóa mình, tức
là chết cho bản thân, không sống theo xác thịt tự nhiên nữa, nhưng theo Thần
trí của Ðức Kitô, tức là đường lối của Người. Hết mọi tử đạo đều đã chết cho
đức tin và vì đức tin; nhưng đức tin ở đây không phải là một hệ thống tư tưởng
vũ trụ nhân sinh quan mà là đức tin sống động, tin Thiên Chúa và tin Ðức Yêsu
Kitô đã yêu thương mình cho đến chết. Ðó là đức tin đầy lòng mến và đầy lòng
trông cậy, chắc chắn rằng nếu cùng chết với Ðức Kitô và vì Ðức Kitô thì sẽ được
sống lại với Ngài và được đồng thừa tự với Ngài. Thế nên, các tử đạo là những
người đầy Chúa Yêsu sau khi đã tát cạn bản ngã và các khuynh hướng xấu xa ở nơi
mình.
Và cũng chính nhờ đó mà đàng
khác, các vị tử đạo trước khi hy sinh mạng sống mình vì Chúa, đã có một đời
sống xã hội đáng khâm phục. Ðiều này cũng rất dễ hiểu! Lời thư Phaolô viết: sự
chết hoành hành nơi chúng tôi còn sự sống hoạt động nơi anh em. Các tử đạo cũng
có thể nói: chúng tôi đã chết cho bản thân để sự sống tăng trưởng nơi anh em.
Thật vậy, con người đã chết đi cho chính mình, thì sống cho Chúa. Nhưng đối với
họ, Thiên Chúa không phải chỉ là Ðấng Vô hình, mà hơn nữa còn là Ðấng đang hiện
diện trong Hội Thánh và trong anh em. Mọi hành vi làm cho người anh em nhỏ mọn
nhất là làm cho Chúa. Thành ra các đấng thánh là những người nhìn thấy Thiên
Chúa ngay ở đời này và cụ thể trên mặt đất này nơi Hội Thánh và nơi anh em. Và
vì họ không còn sống cho chính bản thân và vì bản thân nữa, nên mọi phục vụ của
họ chỉ còn quy vào một đối tượng. Ðó là Thiên Chúa nơi tha nhân... Ðó là tha
nhân trong cái nhìn của đức tin và lòng mến. Các tử đạo làm tốt các nhiệm vụ xã
hội là vì thế. Và mọi người thật có lý để nghi ngờ những kẻ đã phản bội đức tin
của mình.
Như thế, nếu hôm nay mừng lễ
các Tử đạo Việt Nam, chúng ta phải để ý đến nét Việt Nam nơi các ngài, tức là
phải soi gương các ngài trong đời sống xã hội phục vụ anh em đồng bào, thì
chúng ta � người có đức tin � phải luôn duy trì và phát triển động lực thúc đẩy
đời sống xã hội kia tức là Thánh Thần và Ðức Kitô ở trong mình. Và cho được như
vậy, chúng ta phải mang sự chết của Ngài trong thân xác, là biết chết cho bản
thân và các khuynh hướng vị kỷ. Phải làm như vậy mới đi vào được đường lối của
các tử đạo và mới có thể theo các ngài cho đến cùng. Bởi vì muốn nên giống các
ngài hoàn toàn, chúng ta không những phải biết sống như các ngài mà còn phải
biết chết như các ngài. Mà muốn chết như các ngài, chúng ta phải sống đạo như
trên mà vẫn không quên Lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay.
C. Tin Tưởng Như Các Tử Ðạo
Chúa nhắc nhở chúng ta biết
số phận thông thường của các môn đệ Người: "Người ta sẽ bắt bớ các
con". Và trong sách Tin Mừng Yoan, Người còn nói rõ hơn: đó là điều thật
dễ hiểu, vì tôi tớ không trọng hơn Thầy. Có lạ chăng là việc thế gian yêu các
con chứ các con có thuộc về thế gian nữa đâu mà thế gian quý mến các con! Và
lịch sử làm chứng Hội Thánh của Ðức Yêsu, Hội Thánh tiếp nối sứ mạng cứu thế
của Người, luôn luôn có các tử đạo, không ở nơi này thì ở nơi khác, không dưới
hình thức này thì dưới hình thức khác. Ðó là mầu nhiệm, nhưng là mầu nhiệm
tương đối dễ hiểu.
Sứ mệnh của Ðức Yêsu cũng như
của Hội Thánh Người là sứ mệnh tuyên chứng. Tuyên chứng về chân lý, về những
chân lý siêu phàm; thế mà chân lý thì như ánh sáng và thế gian đã bị tối tăm
bao phủ nên luôn luôn muốn vùi dập ánh sáng. Và cũng đồng thời tuyên chứng về
tình yêu, tình yêu của Thiên Chúa yêu thương loài người và chẳng tình yêu nào
lớn bằng tình yêu nơi người hy sinh mạng sống vì người mình muốn yêu.
Thế nên chính khi chịu chết
vì đạo, người tín hữu trở thành chứng tá hoàn toàn hơn cả. Cái chết của họ vừa
nói lên niềm tin chắc chắn, vừa nói lên tình mến tận cùng. Chỉ những kẻ có niềm
tin yếu ớt mới sợ tử đạo. Nhưng nếu chúng ta yếu thì đã có Chúa ban Thánh Thần
của Người đến nâng đỡ sự yếu đuối nơi chúng ta. Và việc này tùy ở chúng ta
trong lúc bình thường có cầu xin và sống đạo để nhận được nhiều Thánh Thần hay
không?
Giờ đây chúng ta cử hành
thánh lễ. Chung quang bàn thờ này hiện diện vô hình đoàn thể các tử đạo Việt
Nam. Các ngài ước mong chúng ta dâng lễ này sốt sắng và hiệu quả. Nếu chúng ta
cầu xin và nhất là phó thác bản thân trong tay Chúa thì Người sẽ ban sự sống
của Chúa Yêsu và Thánh Thần của Người cho chúng ta. Chính Thánh Thần sẽ là sức
mạnh cải tạo cho chúng ta một nếp sống mới để chúng ta dần dần sống bớt đi cho
mình và nhiều hơn cho Chúa, tức là cho Người ở trong anh em. Như vậy chúng ta
sẽ có đời sống trần gian này tốt để chúng ta cũng sẽ chết tốt như các tử đạo.
Chúng ta sẽ tuyên xưng Chúa khi sống và khi chết. Chúng ta sẽ khơi được lòng
ngưỡng mộ của mọi người. Chúng ta sẽ xứng đáng với tổ tiên đức tin của mình,
những vị mà chúng ta mừng lễ hôm nay.
(Trích dẫn từ tập sách
Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Các Thánh Tử Đạo
Việt-Nam
Bài đọc: II
Mac 7:1, 20-23, 27b-29; Rom 8:31b-39; Lk 9:23-26.
( Bài đọc I: II Mac 7:1,20-23;27b-29
1 Có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ. Vua An-ti-ô-khô cho
lấy roi và gân bò mà đánh họ, để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Mô-sê cấm. 20 Bà mẹ là người rất mực xứng đáng cho
ta khâm phục và kính cẩn ghi nhớ. Bà thấy bảy người con trai phải chết nội
trong có một ngày, thế mà bà vẫn can đảm chịu đựng nhờ niềm trông cậy bà đặt
nơi Đức Chúa.
21 Bà dùng tiếng mẹ đẻ mà khuyến khích từng người một, lòng
bà đầy tâm tình cao thượng; lời lẽ của bà tuy là của một người phụ nữ, nhưng
lại sôi sục một chí khí nam nhi; bà nói với các con:
22 "Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế
nào. Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp
đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con.
23 Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và
đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả
lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của
Người hơn bản thân mình." Bà nói với người con út những lời sau đây:
"Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã nuôi
nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. 28 Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và
muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và
loài người cũng được tạo thành như vậy.
29 Con đừng sợ tên đao phủ này; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với
các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả
con và các anh con cho mẹ."
Bài đọc II: Rm 8:31b-39
Có Thiên Chúa bênh đỡ
chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? 32Đến
như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy
chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất
cả cho chúng ta? 33 Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa
đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? 34 Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giê-su
Ki-tô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà
chuyển cầu cho chúng ta? 35 Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình
yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt
bớ, gươm giáo? 36 Như có lời chép: Chính vì Ngài mà mỗi
ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh. 37Nhưng trong mọi thử thách
ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta.38 Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu
là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương
lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, 39 trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một
loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của
Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.
Phúc Âm: Lk 9:23-26
23 Rồi Đức Giê-su nói với mọi người: "Ai muốn theo tôi,
phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. 24 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình,
thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống
ấy.
25 Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình
hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?
26 Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng
sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha
và các thánh thiên thần.)
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Sự sống, tình
yêu, và sự đau khổ
Sự sống, tình yêu, và
đau khổ là ba mầu nhiệm khó hiểu trong cuộc sống con người; vì thế, không phải
ai cũng hiểu đúng. Chẳng hạn khi nói về nguồn gốc của sự sống, có người cho là
do cha mẹ, có người cho là tự nhiên, có người cho là từ Thiên Chúa. Hay khi
phải định nghĩa tình yêu, có người định nghĩa "yêu là chết trong lòng một
ít;" có người cho là "cùng nhìn về một hướng;" hay "yêu ai
là muốn mọi sự tốt đẹp cho người ấy." Khi nói về đau khổ, quan niệm của
nhà Phật cho "cần diệt dục để tránh đau khổ;" trong khi Kitô giáo
quan niệm con người không thể tránh đau khổ, và nó cần thiết để con người chứng
tỏ niềm tin yêu nơi Thiên Chúa.
Các Bài Đọc trong ngày
Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay giúp chúng ta thấu hiểu tại sao các bậc
tiền nhân của chúng ta sẵn sàng hy sinh thân mình để làm chứng cho Chúa. Trong
Bài Đọc I, bà mẹ của bảy anh em nhà Maccabees xác tín: Thiên Chúa là Đấng ban
sự sống và hơi thở cho con người. Ngài sẽ trả lại sự sống cho ai trung thành
làm chứng cho Ngài. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô diễn tả tình yêu của Thiên
Chúa dành cho con người qua biến cố Nhập Thể của Đức Kitô, Người Con của Ngài;
để gánh tội cho nhân loại. Một khi đã cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa, không
một ai hay một quyền lực nào có thể ngăn cản con người đáp lại tình yêu của
Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Đức Kitô mặc khải cho con người nghệ thuật sống theo
thánh ý Thiên Chúa. Đây là cách sống duy nhất mang lại sự sống đầy tràn cho con
người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Không
phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự sống.
1.1/ Ai ban cho con người
hơi thở và sự sống? Vua Antiochus nghĩ mình có quyền trên sự sống của bảy anh em nhà
Maccabees; nên bắt bảy anh em cùng với bà mẹ thay đổi tôn giáo bằng cách cho
lấy roi và gân bò mà đánh họ, để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Moses cấm.
Sách Khôn Ngoan còn nói rõ hơn: những kẻ ngông cuồng muốn tra tấn như thế để
thử xem Thiên Chúa có đến cứu những ai tin cậy Ngài hay không!
Là con người, ai cũng
ham sống và sợ chết; tại sao bà mẹ vẫn bình tĩnh khi chứng kiến bảy người con
trai phải chết nội trong có một ngày? Có phải người mẹ và bảy anh em nhà
Maccabees khinh thường sự sống? Trình thuật hôm nay nói rõ lý do: Bà mẹ là
người rất mực xứng đáng cho ta khâm phục và kính cẩn ghi nhớ. Bà vẫn can đảm
chịu đựng được là nhờ niềm trông cậy bà đặt nơi Đức Chúa.
Là người cưu mang tất cả
các con, mà Bà lại nói với các con: "Mẹ không rõ các con đã thành hình
trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự sống. Cũng
không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. Chính Đấng
Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài.
Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống,
bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình."
Theo niềm tin Kitô giáo,
Thiên Chúa ban sự sống cho con người bằng các ban hơi thở và thần khí, Ngài có
quyền chấm dứt sự sống của con người bằng cách rút hơi thở ra. Hơn nữa, Ngài
còn có quyền ban lại sự sống đời đời cho con người, nếu họ trung thành làm
chứng cho Ngài.
1.2/ Tình yêu mạnh hơn
đau khổ và sự chết: Tình mẫu tử được con người ở mọi nơi và mọi thời ca tụng, vì sự
hy sinh chịu đựng của người mẹ dành cho con mình. Rất nhiều bà mẹ đã hy sinh
cuộc sống cả đời cho tương lai của con cái; và nếu có phải chết vì con, nhiều
bà mẹ cũng sẵn sàng hy sinh để con được sống. Tuy nhiên, tình mẫu tử chỉ là
phản ánh của tình yêu Thiên Chúa, chính Ngài đã phú bẩm tình yêu của Ngài vào
các bà mẹ để họ sẵn sàng hy sinh cho con cái. Vì thế, khi phải chọn giữa Thiên
Chúa và con cái, các bà chọn Thiên Chúa, vì các bà biết Thiên Chúa sẽ trả lại
con cái cho các bà. Chúng ta cảm nhận được niềm tin này qua lời của bà mẹ nói
với người con út: "Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm
bú mớm, mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. Mẹ xin con hãy nhìn
xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất
cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy. Con đừng sợ tên đao phủ
này; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến
ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ."
2/
Bài đọc II: Không có gì tách được chúng ta ra khỏi
tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô.
2.1/ Tình yêu Thiên Chúa
dành cho con người: được diễn tả rất hay và đầy đủ qua ngòi viết của thánh-sử Gioan:
"Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con
của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Jn 3:16). Không
phải chỉ Thiên Chúa Cha yêu thế gian, mà Người Con cũng yêu thế gian qua sự
kiện Ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết đau thương trên Thập Giá: "Không có
tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn
hữu của mình" (Jn 15:13). Tuy con người chưa bao giờ nhìn thấy Thiên Chúa,
nhưng khi nhìn lên Thập Giá, con người cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa. Thánh
Phaolô rút ra hai hệ luận quan trọng từ tình yêu vô biên của Thiên Chúa:
(1) Thiên Chúa không
tiếc con người bất cứ điều gì: Thánh Thomas Aquinas nói: yêu ai là muốn mọi sự tốt lành
cho người ấy. Thiên Chúa yêu con người và muốn cho con người mọi sự tốt lành
như Phaolô diễn tả: "Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha,
nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào
Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?" Ngài còn rất nhiều quà
tặng cho con người, và quà tặng quí giá nhất là cho chúng ta được sống đời đời
với Ngài trên Thiên Đàng.
(2) Tình yêu Thiên Chúa
không quan tâm đến việc xét xử: Nhiều người sợ Thiên Chúa và coi Ngài như vị hung thần chỉ
chờ con người phạm tội là ra tay trừng phạt. Phaolô hoàn toàn chống lại quan
niệm này: "Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên
Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô,
Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển
cầu cho chúng ta?" Thánh Gioan đồng ý với quan niệm này và cắt nghĩa rõ
hơn: Con người xét xử chính mình khi không tin vào Đức Kitô là Con Thiên Chúa:
"Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án
thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào
Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì
đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa" (Jn 3:17-18).
2.2/ Tình yêu con người
dành cho Thiên Chúa: Tình yêu chỉ hoàn hảo khi người được yêu chấp nhận tình yêu của
người cho đi; nếu không, muôn đời nó chỉ là tình đơn phương. Để có thể đáp trả
tình yêu Thiên Chúa, con người phải cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa dành cho
họ. Trong cuộc tử đạo của vị thánh trẻ Anrê Phú Yên, ngài khuyên các tín hữu
đang thương khóc ngài những lời cuối cùng: "Anh chị em: chúng ta phải lấy
tình yêu để đáp trả tình yêu, lấy mạng sống để đáp trả mạng sống!" Nếu Đức
Kitô đã yêu thương và chết cho chúng ta, đến lượt, chúng ta cũng phải yêu
thương và chết để làm chứng tình yêu của chúng ta dành cho Ngài.
Chấp nhận hy sinh và chịu
đau khổ là hai dấu chứng chắc chắn để bày tỏ tình yêu. Thánh Phaolô chắc chắn
đã cảm nhận được tình yêu của Đức Kitô dành cho, nên đã đặt câu hỏi cho mình và
cho các tín hữu: "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô?
Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm
giáo?"
Chấp nhận đau khổ không
nhất thiết là hậu quả của tội lỗi một người gây ra. Như Đức Kitô, Đấng không
bao giờ phạm tội, mà Thiên Chúa muốn Ngài gánh mọi hình phạt của tội lỗi con
người. Noi gương Đức Kitô, các môn đệ của Ngài cũng phải chịu đau khổ để đền
tội cho mình và cho mọi người, như có lời chép: "Chính vì Ngài mà mỗi ngày
chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh" (LXT 43:23, RSV 44:22).
Và thánh Phaolô kết luận: "không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu
của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta."
3/
Phúc Âm: Ai
được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi
gì?
3.1/ Nghệ thuật sống trên
đời: Biết
sống là một nghệ thuật phải học, vì không phải ai cũng biết sống. Nhiều người
tìm đọc cuốn Nghệ thuật Đắc Nhân Tâm của Dale Carnegie, vì
ông dạy cho con người biết sống. Tuy nhiên, nếu so sánh sách này với sự dạy dỗ
của Đức Kitô dành cho các môn đệ, những lời chỉ giáo của Đức Kitô vượt xa những
khôn ngoan của con người.
(1) Ba điều kiện để làm
môn đệ Đức Kitô: Đức Giêsu nói với mọi người: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ
chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo."
- Từ bỏ chính mình: Đây có lẽ là điều khó
làm nhất, vì nó đòi con người phải từ bỏ ý riêng của mình để sống hoàn toàn
theo thánh ý Chúa trong mọi sự.
- Vác thập giá hằng
ngày của mình: Thập giá hằng ngày là tất cả những bệnh tật, hiểu lầm, trái ý, thử
thách do tha nhân và hoàn cảnh gây ra.
- Đi theo Đức Kitô: Con người không chỉ tiêu
cực từ bỏ chính mình và vác thập giá suông; nhưng làm tất cả những điều đó cho
một mục đích cao vời như Đức Kitô: đó là làm sao đem Tin Mừng cứu độ đến cho
muôn người.
(2) Nghịch lý của đời
sống: Nghệ
thuật sống của Đức Kitô dạy không phải là một trong những cách để sống; nhưng
là cách thức duy nhất cho những ai muốn sống cách sung mãn và có ý nghĩa, vì
Chúa Giêsu tuyên bố rõ ràng: "Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ
mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy."
Chúa có ý muốn nói: Nếu con người không theo nghệ thuật sống trên, mà chỉ sống
theo ý riêng mình, họ sẽ mất mạng sống họ muốn giữ; nhưng nếu họ sống theo
thánh ý Thiên Chúa bằng cách sống hy sinh như Đức Kitô, họ sẽ cứu được mạng
sống họ.
3.2/ Hậu quả phải lãnh
nhận của những người không biết sống: Sống làm sao sẽ gặt hái hậu quả tương xứng. Đối
với những người chỉ biết vun quén cho mình để trở nên giàu có, Chúa nhắc nhở
họ: "Người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt
thân, thì nào có lợi gì?" Điều Chúa muốn nói ở đây là phần rỗi linh hồn và
cuộc sống đời sau.
Đối với những người
không sống Lời Chúa và không làm chứng cho Ngài khi có dịp, Chúa cho họ biết
hậu quả: "Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu
hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các
thánh thiên thần."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa là Đấng duy
nhất có quyền trên sự sống: Ngài có quyền ban sự sống và có quyền lấy đi. Hơn
nữa, Ngài còn có quyền cho lại sự sống đã mất và sự sống trường sinh.
- Thiên Chúa yêu thương
con người với tình yêu không biên giới. Ngài cũng đòi chúng ta yêu thương Ngài
và tha nhân như thế, cho dù có phải hy sinh đến tính mạng của mình.
- Hy sinh chịu đựng đau
khổ vì Chúa là cách thức duy nhất chúng ta có thể làm để minh chứng tình yêu
của chúng ta dành cho Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
24/11/12 THỨ BẢY TUẦN 33 TN
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Lc 21,5-19
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Lc 21,5-19
VÌ DANH THẦY
“Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù
ghét. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu. Có kiên trì,
anh em mới giữ được mạng sống mình.” (Lc 21,17-19)
Suy niệm: Chẳng ai muốn người ta thù ghét
mình, càng chẳng có ai cố đi tìm sự thù ghét. Thế nhưng, đi theo Chúa thì “bị
mọi người thù ghét”. Một thực tế phũ phàng! Chúa Giêsu không lập lờ giấu
giếm điều đó: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét.” Điều
này đã được chứng nghiệm suốt 2000 năm lịch sử Hội Thánh. Ngay tại đất nước
này, trong 400 năm Tin Mừng có mặt, hầu như không giai đoạn nào người môn đệ
Chúa Ki-tô không bị thù ghét. Và sự thù ghét không dừng lại ở một tình cảm
suông, mà thực tế là các tín hữu đã phải chịu máu đổ, thịt nát, xương tan...
Điều quan trọng là những người môn đệ ấy đã chấp nhận tất cả những điều
đó “vì danh Thầy”. Các ngài theo gương Thầy Chí Thánh, chấp nhận
chết để diễn tả tình yêu : Không có vị tử đạo nào chết một cách hằn học, hận
thù; bởi vì yêu là tha thứ, và bởi vì chỉ có tha thứ mới có thể tiêu diệt được
oán thù.
Mời Bạn: hiệp thông với Các Thánh Tử Đạo Việt
Nam trong những thống khổ và vinh quang của các ngài. Các ngài nhắc chúng ta
rằng đã là môn đệ Chúa Kitô thì đừng mong gặp những con đường bằng phẳng, trơn
tru, những cánh cửa thênh thang rộng mở. Không chịu nổi một chút trầy sước nhỏ
thì làm sao chấp nhận đổ máu được đây ?
Sống Lời Chúa: Sống tinh thần tử đạo bằng cách vui
tươi hiền hòa đón nhận mọi điều trái ý xảy đến với mình.
Cầu nguyện: Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, đã vì
danh Chúa mà hiến dâng mạng sống, xin cầu cho chúng con cũng biết sống chứng
nhân đức tin.
www.5phutloichua.net
Để làm chứng cho
vua quan.
Thời
nào chúng ta cũng được đặt trước thánh giá, dấu hiệu của sự từ bỏ để phục vụ.
Lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ bước qua thánh giá, bằng đời sống hưởng thụ và
ích kỷ của mình.
Suy niệm:
Các vị tử
đạo Việt Nam đều có kinh nghiệm
sống từng lời của đoạn Tin
Mừng hôm nay:
bị nộp, bị đánh đập, bị
điệu ra trước vua quan,
bị tra hỏi, bị thù ghét và
cuối cùng là bị giết.
Tất cả những gì các ngài phải
chịu
đều vì Ðức Giêsu (c.18), vì
Danh Ðức Giêsu (c.22).
Các ngài cũng có kinh nghiệm
về sự hiện diện của Thiên Chúa.
Bầu khí của toà án là bầu khí
của Thiên Chúa Ba Ngôi.
“Chính Thần Khí của Chúa
Cha sẽ lên tiếng trong anh em”
để tuyên xưng niềm tin vào Ðức
Giêsu (c.19-20)
Cái chết của vị tử đạo cho thấy
sức mạnh của Thiên Chúa
được thi thố nơi một con người
mỏng dòn yếu đuối.
Chết vì Ðạo
là một cách làm chứng.
Làm chứng cho một niềm
tin kiên vững:
Vì tin Ðức Giêsu là Con Thiên
Chúa, là Ðấng Cứu Ðộ,
nên các ngài không bước qua
thánh giá.
Làm chứng cho một tình
yêu nỏng bỏng:
“Không có tình yêu nào lớn hơn
tình yêu
của người hiến mạng vì bạn
hữu” (Ga 15,13).
Làm chứng cho một niềm hy
vọng mãnh liệt:
có sự sống đời sau, có hạnh
phúc vĩnh cửu,
cái chết đưa tôi giáp mặt với
Ðấng tôi yêu.
Các vị tử đạo đã làm chứng
bằng cái chết.
Chúng ta được mời gọi làm
chứng bằng cuộc sống.
Làm chứng nào cũng đòi phải hy
sinh, mất mát, thiệt thòi,
vì đòi ta lội ngược dòng với
thế gian sa đọa.
Các vị tử
đạo thường bị đặt trước thánh giá.
Bước qua là được tiếp tục sống
sung sướng an nhàn.
Không bước qua là phải chịu tù
đày, đòn vọt,
mất tất cả và mất chính mạng
sống.
Chỉ cần một bước chân, là mọi
sự thay đổi.
Ðã có người bước qua, và cũng
có người không.
Có người bị khiêng qua thánh
giá,
nhưng đã co chân lên, như
thánh Antôn Nguyễn Ðích.
Có người bước qua, nhưng sau
lại hối hận.
Ðó là trường hợp của ba vị
thánh quân nhân:
Âutinh Huy, Nicôla Thể và
Ðaminh Ðạt.
Có người được mời giả vờ bước
qua thánh giá
để quan có cớ mà tha, như
thánh Micae Hồ Ðình Hy,
nhưng họ đã thắng được cơn cám
dỗ tinh vi ấy.
Ðứng trước thánh giá là đứng
trước một lựa chọn.
Tôi chọn Ngài hay tôi chọn
tôi?
Không có giải pháp dung hoà
hay lấp lửng.
Giây phút
đứng trước thánh giá là giây phút quan trọng.
Quyết định không bước qua
thánh giá
là kết tinh của những đêm dài
cầu nguyện,
của việc chiến thắng những mời
mọc khéo léo,
của việc thắng vượt những sợ
hãi, giằng co nội tâm,
của những Vườn Dầu trong ngục
thất...
Thời nào chúng ta cũng được
đặt trước thánh giá,
dấu hiệu của sự từ bỏ để phục
vụ.
Lúc nào chúng ta cũng có nguy
cơ bước qua thánh giá,
bằng đời sống hưởng thụ và ích
kỷ của mình.
Cầu nguyện:
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam,
các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi kitô hữu
trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.
Sự hy sinh của các ngài
cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết
và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt.
Dù mang phận người yếu đuối,
nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng,
các ngài đã chiến thắng khải hoàn.
Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài
biết can trường sống đức tin của bậc cha anh
trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa,
biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu
bằng một đời hiến thân phục vụ.
Ước gì ngọn lửa đức tin
mà các ngài đã thắp lên
bằng cuộc sống và cái chết,
được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam.
Ước gì máu thắm của các ngài
thấm vào mảnh đất quê hương
để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy
Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 11
24 THÁNG MƯỜI MỘT
Hòa Bình,
Hoa Trái Của Sự Chuyển
Hóa Nội Tâm
Chính
Thiên Chúa là Đấng biến đổi trái tim con người, như Ngôn Sứ Eâdêkien đã diễn tả
hùng hồn: “Ta sẽ ban cho các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào
lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi, và sẽ ban
tặng các ngươi một quả tim bằng thịt” (Ed 36,26). Giáo Hội không ngừng công bố
sự thật rằng hòa bình thế giới bắt rễ từ trong chính cõi lòng con người, từ
trong lương tâm của mọi con người.
Hòa
bình chỉ có thể là hoa trái của một cuộc chuyển hóa nội tâm, bắt đầu trong lòng
của mỗi người và lan tỏa ra trong mọi xã hội tới mọi cộng đồng. Cộng đồng thứ
nhất trong các cộng đồng chính là gia đình. Gia đình là cộng đồng đầu tiên được
mời gọi sống hòa bình và cũng là cộng đồng đầu tiên được mời gọi tranh thủ hòa
bình và hữu nghị cho hết mọi người trên thế giới này.
Đó
là lý do tại sao suy tư hôm nay của chúng ta về hòa bình được tập chú vào gia
đình. Chúng ta hy vọng rằng trong các tế bào căn bản này của xã hội sẽ có một
niềm khát vọng mãnh liệt được sống hòa bình và hữu nghị với mọi con người.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam;
Kn 3, 1-9; Rm 8, 31-39; Lc 9, 23-26.
LỜI
SUY NIỆM:
Rồi Đức Giêsu nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác
thập giá mình hằng ngày mà theo.” (Lc 9, 23).
Hôm nay, khi kính mầng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam, đây là những người tín hữu
của Chúa đã thực thi đúng những điều kiện mà Chúa Giêsu đưa ra, và đã trung
thành cho đến cùng. Các Thánh đã đi theo trọn vẹn con đường mà Chúa Giêsu đã
đi. Các Thánh đã tin vào lời của Chúa Giêsu: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ
mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” Nhờ
thế các Thánh đã vui hưởng hạnh phúc trong Nước Trời. Còn chúng ta là những tín
hữu hôm nay, chúng ta có đủ can đảm từ bỏ những cái đang mời gọi chúng ta đi
theo chúng hay không? Chúng ta có dám liều mất tất cả, để đón nhận Thập Giá của
mình và vác đi hằng ngày cho đến trọn đời? Tất cả đang ở trước mặt của mỗi
người; chúng ta chọn lựa và tiến bước, và đích đến tùy ở mỗi người đã lựa chọn
cho mình.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 24-11
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT
NAM
Vào
đầu thế kỷ XVI, khi vị thừa sai đầu tiên đặt chân lên đất Việt Nam, ánh sáng
Tin Mừng cũng bắt đầu lan rộng. Giáo hội Việt Nam được khai sinh từ đấy. Tuy
nhiên, như bầu trời có những ngày mây đen giăng mắc, Giáo hội Việt Nam cũng có
những ngày tăm tối. Giáo hội Mẹ Roma đã trải qua 3 thế kỷ bị bách hại, trước
khi được mở rộng như ngày nay, thì Giáo hội Việt Nam cũng phải trải qua gần 3
thế kỷ chìm ngập trong thử thách. suốt từ năm 1630 - 1883, bao giòng máu đã đổ
ra để bảo vệ đức tin và để làm phát sinh Giáo hội này, trong những cuộc bắt bớ
đời các chúa: Trinh Doanh, Trịnh Sâm, các vua : Cảnh Thịnh, Minh Mạng, Triệu
Trị, Tự Đức.
Hàng
vàn chứng nhân đã hiên ngang hiến mạng sống để bảo vệ đức tin. Gương hy sinh
quả cảm của các Ngài thật sáng ngời và Giáo hội qua 3 đời giáo hoàng: Lêô VIII,
Piô X và Piô VII, đã tôn phong 117 vị lên hàng chân phước. Tất cả đã được Đức
Gioan Phaolô II suy tôn lên hàng hiển thánh ngày 19-6-1988.
Tuy
nhiên "máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra người công giáo".
Gương các thánh tử đạo không chỉ là niềm hãnh diện của chúng ta, mà còn là công
ơn mà chúng ta, các tín hữu Việt Nam, phải ghi nhớ và đáp đền. Mừng kính trong
một ngày lễ, chúng ta khơi dậy cuộc đời các vị tử đạo, nhất là các vị đã được
tôn phong lên bàn thánh để kính nhớ. Chúng ta ghi nhớ ngày các Ngài hiến thân
vì đức tin :
8 VỊ THÁNH GIÁM MỤC :
1.
Thánh An (Giuse Diaz Sanjurjô) tử đạo ngày 20.7. 1857
2.
Thánh Cao (Phêrô Dumoulin Borie) tử đạo ngày 24. 11.1838
3.
Thánh Hy (Ignatiô Delgađô Y. Cebrian) tử đạo ngày 21.7.1838.
4.
Thánh Liêm (Hiêrônimô Hermozilla) tử đạo ngày 1.11.1861
5.
Thánh Minh ( Đaminh Henares) tử đạo ngày 26.6.1838
6.
Thánh Thể (Stêphanô Theođônô Cuénot) tử đạo ngày 14.11.1861
7.
Thánh Vinh (Valentinô Berriô Ochou) tử đạo ngày 1.11.1861
8.
Thánh Xuyên (Giuse Melkior Garcia Sampedre) tử đạo ngày 28.7.1858
50 VỊ THÁNH LINH MỤC :
1.
Thánh Bắc (Phêrô Phanxicô Néron) tử đạo ngày 3.11.1860
2.
Thánh Bình (Phêrô Almatô) tử đạo ngày 1.11.1861
3.
Thánh Đaminh Cẩm) tử đạo ngày 11.3.1859
4.
Thánh Dụ (Giuse Marchand) tử đạo ngày 30.11.1835
5.
Thánh Dụ (Toma Đinh viết Dụ) tử đạo ngày 26.11.1839
6.
Thánh Duệ (Bênađô Võ Văn Duệ) tử đạo ngày 01.8.1838
7.
Thánh Dũng (Anrê Trần an Dũng hay Lạc) tử đạo ngày 21.12.1839
8.
Thánh Đạt (Gioan Đạt) tử đạo ngày 28.10.1798
9.
Thánh Đậu (Matthêu Leziniana) tử đạo ngày 21.01.1745
10.
Thánh Điểm (Vinh Sơn Nguyễn thế Điểm) tử đạo ngày 24.11.1838
11.
Thánh Đông (Augustinô Schoeffler) tử đạo ngày 01.5.1851
12.
Thánh Gia (Hyaxintha Gastaneda) tử đạo ngày 7.11.1773
13.
Thánh Hạnh (Đaminh Nguyễn Văn Hạnh) tử đạo ngày 01.8.1838
14.
Thánh Hiền (Giuse Fernandez) tử đạo ngày 24.7.1838
15.
Thánh Hiển (Giuse Hiển) tử đạo ngày 9.5.18400
16.
Thánh Hoan (Gioan Đoàn Trinh Hoan) tử đạo ngày 26.5.1861
17.
Thánh Hương (Augustinô Aloisiô Bonnard) tử đạo ngày 01.5.1852
18.
Thánh Hương (Laurensô Hương) tử đạo ngày 13.02.1856
19.
Thánh Kính (Phanxicô Isiđôrê Gazelin) tử đạo ngày 17.10.1833
20.
Thánh Khanh (Phêrô Khanh) tử đạo ngày 12.7.1842
21.
Thánh Khoa (Phêrô Võ Đăng Khoa) tử đạo ngày 24.11.1838
22.
Thánh Khoan (Phêrô Phạm Khắc Khoan) tử đạo ngày 28.4.1840
23.
Thánh Khuông (Tôma Khuông) tử đạo ngày 30.01.1860
24.
Thánh Liêm (Vin Sơn Liêm) tử đạo ngày 07.11.1773
25.
Thánh Loan (Luca Vũ Bá Loan) tử đạo ngày 05.6.1840
26.
Thánh Lộc (Phêrô Lê Văn Lộc) tử đạo ngày 13.02.1859
27.
Thánh Lựu (Phêrô Lựu) tử đạo ngày 07.4.1861
28.
Thánh Mậu (Đaminh Mậu) tử đạo ngày 05.11.1858
29.
Thánh Minh (Philipphe Phan Văn Minh) tử đạo ngày 03.7.1853
30.
Thánh Năm (Giacôbê Mai Năm) tử đạo ngày 12.3.1838
31.
Thánh Ngân (Phaolô Nguyễn Ngân) 08.11.1840
32.
Thánh Nghi (Giuse Nguyễn Đình Nghi) tử đạo ngày 08.11.1840
33.
Thánh Phan (Phanxicô Jaccards) tử đạo ngày 21.9.1838
34.
Thánh Quí (Phêrô Đoàn Công Quý) tử đạo ngày 31.7.1859
35.
Thánh Tân (Gioan Charler Cormay) tử đạo ngày 20.9.1837
36.
Thánh Tế (Phanxicô Gil de Federich) tử đạo ngày 22.01.1745
37.
Thánh Tịnh (Phaolô Lê Bảo Tịnh) tử đạo ngày 06.4.1857
38.
Thánh Tuân (Giuse Tuân) tử đạo ngày 30.4.1861
39.
Thánh Tuần ( Phêrô Nguyễn Bá Tuần) tử đạo ngày 15.7.1838
40.
Thánh Tùy (Phêrô Lê Tùy) tử đạo ngày 11.10.1838
41.
Thánh Tự (Phêrô Nguyyễn Văn Tự) tử đạo ngày 05.9.1838
42.
Thánh Tước (Đaminh Tước) tử đạo ngày 02.4.1839
43.
Thánh Trạch (Đaminh Trạch hay Đoài) tử đạo ngày 18.9.1840
44.
Thánh Triệu (Emanuel Nguyễn Văn Triệu) tử đạo ngày 17.9.1798
45.
Thánh Thi (Phêrô Trương Văn Thi) tử đạo ngày 21.12.1839
46.
Thánh Thịnh (Martinô Tạ Đức Thịnh) tử đạo ngày 08.11.1840
47.
Thánh Ven (Thêophan Vénard) tử đạo ngày 02.02.1861
48.
Thánh Giuse Đặng Đình Viên tử đạo ngày 21.8.1838
49.
Thánh Xuyên (Đaminh Nguyễn Văn Xuyên) 26.11.1839
50.
Thánh Yến (Vinh Sơn Yến) tử đạo ngày 30.6.1838
14 THÁNH THÀY GIẢNG
1.
Thánh Cần (Phanxicô Xavie Cần) tử đạo ngày 20.11.1837
2.
Thánh Chiểu (Phanxicô Đỗ Văn Chiểu) tử đạo ngày 26.6.1838
3.
Thánh Đường (Phêrô Trương Văn Đường) tử đạo ngày 20.11.1837
4.
Thánh Hiếu (Pherô Nguyễn văn Hiếu) tử đạo ngày tử đạo ngày 28.4.1840
5.
Thánh Khang (Giuse Nguyễn Duy Khang) tử đạo ngày 01.11.1861
6.
Thánh Mậu (Phanxicô Xavie Hoàng Trọng Mậu) tử đạo ngày 19.12.1839
7.
Thánh Mỹ (Phaolô Nguyễn Văn Mỹ) tử đạo ngày 18.12.1838
8.
Thánh Toán (Tôma Toán) tử đạo ngày 27.6.1840
9.
Thánh Tự (Phêrô Nguyễn Khắc Tự) tử đạo ngày 10.7.1840
10.
Thánh Truật (Phêrô NguyễnVăn Truật) tử đạo ngày 18.10.1838
11.
Thánh Thành (J.B.Đinh Văn Thành ) tử đạo ngày 28.4.1840
12.
Thánh Úy (Đaminh Bùi Văn Úy) tử đạo ngày 19.10.1839
13.
Thánh Uyển (Giuse Nguyễn Đình Yuển) tử đạo ngày 4.7.1838
14.
Thánh Vân (Phêrô Đoàn Văn Vân) tử đạo ngày 25.5.1857
1 THÁNH CHỦNG SINH
Thánh
Thiện (Tôma Trần Văn Thiện) tử đạo ngày 21.9.1838
44. THÁNH GIÁO DÂN
1.
Thánh Đaminh Án Khảm, lý trưởng, tử đạo ngày 13.01.1859
2.
Thánh Phaolô Tống Viết Bường, quan thị vệ, tử đạo ngày 23.10.1888
3.
Thánh Giuse Hoàng Vương Cảnh, y sĩ, trùm họ. tử đạo ngày 05.9.1838
4.
Thánh J.B. Cỏn, Lý Trưởng, tử đạo ngày 08.11.1840
5.
Thánh Phêrô Dũng, ngư phủ, tử đạo ngày 06.6.1862
6.
Thánh Vinh Sơn Dương. Nông dân, tử đạo ngày 06.6.1862
7.
Thánh Phêrô Đa, tử đạo ngày 17.6.1862
8.
Thánh Đaminh Đinh Đạt, quân nhân, tử đạo ngày 18.7.1839
9.
Thánh Tôma Nguyễn văn Đệ, thợ may, tử đạo ngày 19.12.1839
10.
Thánh Antôn Nguyễn Đích, trùm họ, tử đạo ngày 12.8.1838
11.
Thánh Phaolô Đổng, tử đạo ngày 03.6.1862
12.
Matthêu Lê Văn Cẩm, thương gia 11.5.1847
13.
Thánh Phaolô Hạnh, tử đạo ngày 28.5.1859
14
. Thánh Simon Phạm Đắc Hòa, y sĩ , tử đạo ngày 12.12.1840
15.
Thánh Augustinô Phan Viết Huy, quân nhân, tử đạo ngày 12.6.1839
16
. Thánh Đaminh Huyện, ngư phủ , tử đạo ngày 05.6.1842
17.
Thánh Micae Hồ Đình Huy, quan thái bộc, tử đạo ngày 22.5.1857
18.
Thánh Giuse Nguyễn Văn Lựu, tử đạo ngày 02.5.1854
19.
Thánh Đaminh Mạo, nông dân, tử đạo ngày 16.6.1862
20.
Thánh Augustinô Nguyễn Văn Mới, nông dân , tử đạo ngày 19.12.1839
21.
Thánh Micae Nguyẽn Huy Mỹ, lý trưởng, tử đạo ngày 12.8.1838
22.
Thánh Laurensô Ngôn, tử đạo ngày 22.5.1862
23.
Thánh Đaminh Nguyên, nông dân, tử đạo ngày 16.6.1862
24.
Thánh Đaminh Nhi, nông dân, tử đạo ngày 16.6.1862
25.
Thánh Đaminh Ninh, nông dân, tử đạo ngày 02.6.1862
26.
Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng, trùm họ, tử đạo ngày 31.7.1859
27.
Thánh Mathêô Nguyyễn Văn Phương, trùm ho, tử đạo ngày 26.5.1861
28.
Thánh Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh trùm họ, tử đạo ngày 10.7.1840
29.
Thánh Giuse Tả, tử đạo ngày 13.10.1859
30.
Thánh Đaminh Toại, ngư phủ, tử đạo ngày 05.6.1862
31.
Thánh Giuse Tuân, tử đạo ngày 07.01.1862
32.
Thánh Giuse Túc, tử đạo ngày 01.6.1862
33.
Thánh Anrê Tường. Nông dân, tử đạo ngày 16.6.1862
34.
Thánh Vinh Sơn Tương, nông dân , tử đạo ngày 16.6.1862
35.
Thánh Andrê Trần văn Trông, quân nhân, tử đạo ngày 28.11.1835
36.
Thánh Phanxicô Trần Văn Trung, cai đội, tử đạo ngày 06.10.1858
37.
Thánh Anê Lê Thị Thành (bà Đê ) tử đạo ngày 12.7.1841
38.
Thánh Nicôla Bùi Đức Thể, quan nhân, tử đạo ngày 13.6.1839
39.
Thánh Giuse Lê Đăng Thị, cai đội, tử đạo ngày 24.10.1860
40.
Thánh Thông (Anrê Nguyễn Kim Thông hay Năm Thuông) tử đạo 15.7.1855
41.
Thánh Luca Thìn, tử đạo ngày 13.01.1859
42.
Thánh Martinô Thọ, thuế, lý trưởng , tử đạo ngày 08.11.1840
43.
Thánh Phêrô Thuần, ngư phủ, tử đạo ngày 06.6.1862
44.
Thánh Stêphanô Nguyễn Văn Vinh, nông dân, tử đạo ngày 19.12.1839
(Daminhvn.net)
++++++++++++++++++
24
Tháng Mười Một
Ðây
Bài Ca Nghìn Trùng
Ðây bài ca nghìn
trùng! Vâng, đúng thế, từ dạo Ðức Giêsu gục đầu tắt thở trên thập giá, cuộc
sống và cái chết của Ngài đã trở nên một bài ca nghìn trùng, một bản tình ca
muôn thuở nói lên mối tình Thiên Chúa yêu thương nhân loại, được thể hiện qua
cái chết tự ý thực tình của Ngài để sống trọn từng chữ lời mình tuyên bố:
"Không có Tình
Yêu nào lớn hơn mối tình của người chết cho bạn hữu mình".
Ðây bài ca nghìn
trùng! Vâng, đúng thế, bài ca nghìn trùng, bài ca muôn thuở của một cuộc đời
sống cho tình yêu và một cái chết, chết cho cuộc tình. Vì thế, cuộc sống khó
nghèo, khiêm tốn, lam lũ để dấn thân rao giảng Tin Mừng và cứu nhân độ thế của
Ðức Giêsu phải kết thúc bằng cái chết tang thương, tất tưởi, cái chết đầy đau
đớn, tủi nhục trên thập giá, để ngàn đời hai bàn tay bị đinh đâm thâu qua không
thể nào nắm lại được nữa, nhưng muôn thuở một bàn tay luôn xòe ra như muốn nói:
"Vâng, Con hoàn toàn yêu mến và vâng phục thánh ý Cha", và bàn tay
kia luôn mở rộng như muốn nói: "Vâng, Ta chọn tình thương yêu và sẵn sàng
phục vụ mọi người cho đến khi đổ giọt máu cuối cùng".
Ðây bài ca nghìn
trùng! Vâng, đúng thế, bài ca nghìn trùng của cuộc sống dấn thân phục vụ được
kết thúc trên thập giá để từ dạo ấy thập giá là biểu tượng cho một quy luật
muôn thuở của Tin Mừng do Ðức Giêsu rao giảng: "Nếu hạt lúa gieo xuống đất
không mục nát đi, nó cứ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó mục nát đi, nó sinh ra
được nhiều hạt khác".
Ðây bài ca nghìn
trùng! Vâng, đúng thế, đây bài ca tình thương muôn thuở được sướng lên để chờ
đợi những câu đáp trả. Ngày hôm nay, nhân ngày lễ mừng thánh Andrê Dũng Lạc và
các bạn tử đạo, chúng ta hãy hân hoan dâng lên Thiên Chúa cuộc sống và cái chết
vì đức tin, vì tình yêu của các bậc đàn anh, đàn chị, của chúng ta như những
câu đáp lại điệp khúc bản tình ca của Chúa Giêsu: "Không có tình yêu nào
lớn hơn mối tình của người chết cho bạn hữu mình".
Một điểm son nổi bật nhất trong những thành
tích vẻ vang chứng tỏ niềm tin sắt đá được các thánh tử đạo Việt Nam ghi vào
những trang sử của Giáo Hội là: Lòng tôn kính thập giá.
Không hiểu vì lý do gì mà các vua quan Việt
Nam thời đó đã dùng thập giá làm phương tiện để thách đố niềm tin của các vị tử
đạo. Họ gọi đó là "Quá khóa" để dùng thập giá vạch ranh giới giữa cái
sống và cái chết. Nhưng trăm ngàn hình khổ đã không làm cho các vị anh hùng đức
tin Việt Nam tự ý bước qua thập giá, dấu hiệu của Ðấng đã rao giảng và đã thực
hiện lời mình xác quyết: "Không có tình yêu nào lớn hơn mối tình của người
chết cho bạn hữu mình".
Không bước qua thập giá để chứng tỏ mình không
chối bỏ đạo, không chối bỏ niềm tin vào Thiên Chúa, không chối bỏ tình yêu của
Thiên Chúa đối với mình dù phải chịu tan xương nát thịt, dù phải chịu kìm kẹp,
giam cầm, dù phải chịu voi dày ngựa xéo, dù phải chịu đầu rơi máu đổ, các vị tử
đạo Việt nam đã nêu gương đáp lại tình yêu của Ðấng chết treo trên thập giá để:
- Nợ máu, các ngài đã trả bằng máu.
- Nợ tình, các ngài đã trả bằng tình.
- Nợ mạng sống, các ngài đã trả bằng những cái
đứnng lặng im, không qua khóa, nhưng cái đứng bất động này là những cử chỉ hùng
hồn dẫn các ngài đến cái chết vì một niềm tin, chết cho một cuộc tình như Ðức
Giêsu đã nêu gương.
(Lẽ Sống)
Ngày 24
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
BỔN MẠNG HỘI THÁNH VIẸT NAM
Không biết có nên kết hợp với sự thinh lặng của Đức Maria, hơn là cắt nghĩa
bằng lời, giá trị của sự thinh lặng đó. Bởi vì sau những điều đã được thiên
thần báo tin, sau những gì đã xẩy ra nơi chính Mẹ, có gì đáng phục hơn là nghe
mọi người nói, còn mình vẫn ngậm miệng ngồi yên? Mẹ đã mang thai Con Đấng Tối
Cao: Mẹ đã thấy Con xuất hiện như một tia nắng từ một đám mây trong sáng. Có gì mà Mẹ không cảm
thấy qua sự hiện diện của Con? Nếu Gioan trong lòng mẹ mình đã cảm thấy
một sự rung động kỳ diệu, "đã nhẩy lên vui sướng", thì Đức Trinh Nữ,
khi thụ thai Ngôi Lời mà Chúa Thánh Thần đã hình thành nơi Mẹ, lại không cảm
thấy bình an và niềm vui thần thiêng sao!
Mẹ lại không thể nói gì về Con yêu dấu của mình sao? Tuy nhiên Mẹ để cho
mọi người khen Con: Mẹ nghe các mục đổng; Mẹ không nói câu nào với các đạo sĩ đến
thờ lạy Con mình; Mẹ lắng nghe ông Simêon và bà nữ ngôn sứ Anna; Mẹ chỉ tâm tình với bà
Elisabét, mà cuộc viếng thăm của Mẹ đã làm cho bà thành nữ ngôn sứ; Mẹ chỉ tâm
tình với bà Elisabét, mà cuộc viếng thăm của Mẹ đã làm cho bà thành nữ ngôn sứ;
và rồi không mở miệng ra với tất cả những người khác, Mẹ làm ra vẻ ngạc nhiên
và không biết gì.
Jacques-Bénigne Bossuet
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét