Trang

Thứ Năm, 15 tháng 11, 2012

16-11-2012 : THỨ SÁU TUẦN XXXII MÙA THƯỜNG NIÊN


Thứ Sáu sau Chúa Nhật 32 Quanh Năm

Bài Ðọc I: (Năm II) 2 Ga 4-9
"Kẻ nào giữ vững đạo lý này, sẽ được Chúa Cha và Chúa Con".
Trích thư thứ hai của Thánh Gioan Tông đồ.
Thưa Bà đáng kính, tôi rất đỗi vui mừng vì đã gặp thấy trong hàng con cái Bà có những kẻ sống trong chân lý, theo mệnh lệnh chúng ta đã nhận từ nơi Chúa Cha. Và thưa Bà, bây giờ tôi xin Bà, không phải như thể tôi viết cho Bà một mệnh lệnh gì mới, nhưng là mệnh lệnh chúng ta có từ ban đầu: là chúng ta phải thương yêu nhau. Và lòng mến này là chúng ta hãy sống theo mệnh lệnh của Người, vì đây là mệnh lệnh, là anh em hãy sống theo luật yêu mến, như anh em đã học biết từ ban đầu.
[Ấy là vì đã có lắm kẻ lừa gạt xuất hiện trong thế gian, những kẻ không tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô đến trong xác thịt. Ðó là kẻ lừa gạt, và là Phản-Kitô. Hãy coi chừng chính mình anh em, để khỏi làm hư hỏng mất các công khó của chúng tôi, nhưng mà để được lĩnh một phần thưởng sung mãn. Phàm ai xông tới trước mà không lưu lại trong giáo huấn của Ðức Kitô, tất không có Thiên Chúa. Kẻ nào lưu lại trong giáo huấn, kẻ ấy được có Cha và Con.]
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 118, 1. 2. 10. 11. 17. 18
Ðáp: Phúc đức những ai tiến thân trong luật pháp của Chúa (c. 1b).
Xướng: 1) Phúc đức những ai theo đường lối tinh toàn, họ tiến thân trong luật pháp của Chúa. - Ðáp.
2) Phúc đức những ai giữ lời Ngài nghiêm huấn, những người đó tận tâm kiếm tìm Ngài. - Ðáp.
3) Với tất cả tâm can con tìm Chúa, xin chớ để con lạc xa chỉ thị Ngài. - Ðáp.
4) Con chôn cất trong lòng lời răn của Chúa, để con không phạm tội phản nghịch Ngài. - Ðáp.
5) Xin gia ân cho tôi tớ Ngài được sống, để tuân giữ những lời Ngài răn. - Ðáp.
6) Xin mở rộng tầm con mắt của con, để quan chiêm những điều kỳ diệu trong luật Chúa. - Ðáp.

* * *

Alleluia: 1 Ga 2, 5
Alleluia, alleluia! - Ai giữ lời Chúa Kitô, thì quả thật tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 17, 26-37
"Cũng xảy ra như thế trong ngày Con Người xuất hiện".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như sự kiện đã xảy ra thời Noe thế nào, thì trong ngày Con Người cũng xảy đến như vậy. Thiên hạ cứ ăn uống, cưới vợ gả chồng, mãi cho tới ngày Noe vào tầu, rồi nước lụt đến tiêu diệt mọi người.
"Lại cũng như đã xảy ra thời ông Lót: người ta ăn uống, mua bán, trồng tỉa, xây cất, nhưng ngày ông Lót ra khỏi thành Sôđôma, thì trời liền mưa lửa và sinh diêm, tiêu diệt mọi người. Cũng sẽ xảy như thế trong ngày Con Người xuất hiện.
"Trong ngày đó, ai ở trên mái nhà có đồ vật trong nhà, thì chớ xuống lấy đi; và ai ở ngoài đồng cũng đừng trở về. Các con hãy nhớ trường hợp vợ ông Lót. Ai lo cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất sự sống mình thì giữ được nó.
"Thầy bảo các con: Trong đêm ấy sẽ có hai người trên một giường, thì một người bị đem đi, và người kia sẽ được để lại. Hai phụ nữ xay cùng một cối, thì một người sẽ bị đem đi, còn người kia sẽ được để lại. Hai người ở ngoài đồng, thì một người bị đem đi, và người kia được để lại".
Các môn đệ thưa Chúa rằng: "Lạy Thầy, chuyện đó ở đâu vậy?" Người phán bảo các ông: "Xác ở đâu thì diều hâu tựu lại đó".
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Ðức Giêsu cho thấy trước viễn cảnh của ngày phán xét, ngày Thiên Chúa thanh lọc để phân chia kẻ dữ ra khỏi ngươì lành. Lời cảnh cáo của Ðức Giêsu cho thấy đó là ngày đáng sợ, không ai có thể thoát được. Nhưng đó cũng là ngày hân hoan và hạnh phúc cho những ai ở đời này đã sống hết mình với Chúa, với tha nhân: dám hy sinh tất cả dù phải mất cả mạng sống mình. Như chính Ðức Giêsu đã nói: "Ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng sống ấy".
Mỗi Kitô hữu chúng ta hãy nhìn lại cuộc sống của chúng ta để xem chúng ta sẽ lo sợ hay hân hoan đón chờ ngày Ðức Giêsu quang lâm? Ðó là thái độ mà chúng ta cần phải chuẩn bị ngay từ bây giờ, trong từng giây phút hiện tại.

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tin và tuyên xưng Chúa sẽ đến trong ngày tận thế để phán xét nhân loại. Như thế, chắc chắn một là chúng con được hạnh phúc vĩnh cửu, hai là phải bị phạt đời đời. Ðó là hậu quả mỗi người chúng con tự chọn lựa, tự chuẩn bị cho mình qua cuộc sống hiện tại của chúng con. Xin giúp chúng con biết tỉnh thức và sáng suốt sống theo giới răn của Chúa: mến Chúa yêu người, để chúng con không sợ hãi khi Chúa đến, nhưng được hân hoan đón rước Chúa. Amen.
 (Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)

Thực Tại Cánh Chung
(Lc 17,26-37)
Suy Niệm:
Thực Tại Cánh Chung
Trong những cuốn phim giả tưởng do trung tâm điện ảnh Holywood sản xuất trong thời gian gần đây, gây nhiều ấn tượng nhất có lẽ là cuốn phim: "Ngày Tận Cùng Của Trái Ðất". Cũng giống như thời Noê, chỉ có 50 người chuẩn bị kịp, họ đã đi vào trong một phi thuyền đặc biệt và tránh được thiên tai xẩy ra cho trái đất, họ đã đi đến một hành tinh khác, và như vậy bảo đảm cho sự trường tồn của nhân loại. Với những xảo thuật tân tiến, cuốn phim đã có thể tạo ra những ấn tượng mạnh trên người xem.
Tuy nhiên, cũng như tất cả những lời đe dọa do nhiều giáo phái tung ra, những hình ảnh của cuốn phim dù khủng khiếp đến đâu, cũng chỉ là những hình ảnh, nghĩa là mời gọi người xem, suy nghĩ về một thực tại khác sâu xa hơn, thường được gọi là thực tại cánh chung. Kinh Thánh là Lời của Thiên Chúa nói với con người. Thiên Chúa không những nói về con người, mà còn nói với con người về chính con người. Kinh Thánh nói với con người: nó từ đâu đến? sẽ đi về đâu? Cứu cánh hay cùng đích của con người là một trong những mạc khải nền tảng của Kinh Thánh. Do đó, bằng một lối văn đặc biệt, Kinh Thánh thường dùng rất nhiều hình ảnh để nói về những thực tại cánh chung ấy.
Cũng theo truyền thống ấy, khi nói về những thực tại cánh chung, Chúa Giêsu đã dùng rất nhiều hình ảnh vốn quen thuộc với người Do thái, nhưng tựu trung chính cái bất ngờ vượt khỏi mọi phạm trù và trí tưởng tượng của con người vẫn là những nét chính của thực tại cánh chung ấy. Tất cả những hình ảnh và thí dụ được Chúa Giêsu sử dụng trong Tin Mừng hôm nay cho thấy rằng thực tại cánh chung, ngày tận thế, ngày của Chúa, vốn là một thực tại mà không ai biết trước được. Bằng nhiều hình ảnh và cách diễn tả khác nhau, Kinh Thánh luôn khẳng định tính bất ngờ của ngày thế mạt; do tính bất ngờ này, các Kitô hữu luôn được mời gọi để sống tỉnh thức.
Thật ra, ngày của Chúa hay thời cánh chung đã thực sự khởi đầu với chính cuộc Phục sinh của Chúa Giêsu. Chúng ta đang thực sự đi vào trong ngày ấy, nếu chúng ta sống kết hiệp với Ngài và trở thành nhân chứng của Ngài trong lịch sử. Chúa Giêsu đã đến để đổi mới mọi sự như thánh Gioan Tông đồ đã viết trong sách Khải huyền, hoặc như thánh Phaolô đã viết trong thư 2Cor: "Ai ở trong Chúa Kitô cũng đều trở thành một tạo vật mới, cái cũ đã qua và cái mới đã có đây rồi". Chúa Kitô Phục sinh đang có mặt và tác động trong lịch sử loài người; chính Ngài đang phơi bày sức mạnh của tội lỗi là hận thù, ích kỷ, bạo động, và khơi dậy cũng như nâng đỡ những sức mạnh của chân lý, công bằng, liên đới, yêu thương. Bất cứ ai sống theo Ngài, người đó sẽ cảm thấy mình là tạo vật mới có sức thắng vượt quyền lực của sự dữ và tăm tối.
Giáo Hội đang làm chứng cho thế giới thấy rằng Giáo Hội đang làm chứng cho thời cánh chung, nghĩa là sống trong ngày của Chúa. Dấu chứng ấy khả tín hay không là tùy ở cuộc sống có khả tín hay không của các Kitô hữu. Cuộc sống lương thiện, công bằng, yêu thương, phục vụ, quảng đại của các Kitô hữu chắc chắn sẽ tạo một dấu cho mọi người thấy rằng họ là những tạo vật mới, rằng Chúa Kitô Phục sinh đang sống trong họ.
Nguyện xin Chúa Kitô Phục sinh sống trong chúng ta và hướng dẫn mọi tâm tư hành động của chúng ta.
(Veritas Asia)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 32 TN2
Bài đọc: 2 Jn 4-6; Lk 17:26-37.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: 
Phải yêu mến Thiên Chúa hơn yêu những gì Ngài tạo dựng. 
Con người thường có khuynh hướng yêu thích những gì đẹp trước mắt hơn những giá trị cao quí ẩn dấu bên trong. Chẳng hạn, yêu thích những món ăn ngon mà quên đi tình thương của người đã bỏ thời giờ, tiền của để chuẩn bị bữa ăn đó; đến nỗi nhiều khi một tiếng cám ơn cũng quên không nói. Đối với Thiên Chúa cũng vậy, con người nhiều khi quá yêu thích những tạo vật do Thiên Chúa tạo dựng mà quên đi tình thương của Ngài; đến nỗi nhiều khi quên luôn đích điểm của cuộc đời là về sống với Chúa muôn đời. Các Bài đọc hôm nay nhắc nhở con người phải biết quí trọng những gì có giá trị vĩnh cửu hơn là những hào nhóang chóng qua. Trong Bài đọc I, Thánh Gioan nhắc nhở cho tín hữu của ngài biết giá trị cao quí của tình yêu. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tiếp tục nhắc nhở cho con người phải luôn biết chuẩn bị cho Ngày Chúa đến lần hai; để đừng bị tiêu diệt như Nạn Hồng Thủy thời ông Noe và Mưa Diêm Sinh thời ông Lot.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC: 
1/ Bài đọc I: Yêu thương là sống theo các điều răn của Thiên Chúa.
1.1/ Yêu thương là điều răn đã có từ lúc khởi đầu: Đối với Thánh Gioan, điều quan trọng hơn hết mọi sự là tình yêu dành cho Thiên Chúa và cho tha nhân. Chỉ có một tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa, lan tràn qua Đức Kitô, và chảy xuống tất cả mọi người. Ngài nói điều răn này đã có từ ban đầu, được khắc trong Thập Giới và ban cho con người qua ông Mose: 3 điều liên quan đến Thiên Chúa và 7 điều liên quan đến tha nhân. Chúa Giêsu đã tóm gọn mọi Lề Luật trong 2 giới răn: mến Chúa yêu người. Thánh Phaolô đẩy xa hơn khi ngài nói, cả 3 nhân đức tin, cậy, mến đều quan trọng trong cuộc đời, nhưng chỉ có một nhân đức tồn tại muôn đời khi con người về với Thiên Chúa là đức mến. Đó là lý do tại sao Thánh Gioan viết cho tín hữu của người: “Tôi rất vui mừng vì đã gặp thấy trong số con cái của Bà, những người sống trong sự thật, đúng như điều răn chúng ta đã nhận được từ Chúa Cha. Thưa Bà, bây giờ tôi xin Bà điều này - đây không phải là một điều răn mới tôi viết ra, nhưng là điều răn chúng ta đã có từ lúc khởi đầu - đó là: chúng ta phải yêu thương nhau.”
1.2/ Yêu thương là sống theo các điều răn của Thiên Chúa: Con người dễ bị lẫn lộn khi đứng trước quá nhiều Luật Lệ của Cựu Ước. Đó là lý do tại sao một Kinh-sư đã hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy trong các giới răn, giới răn nào quan trọng nhất.” Chúa Giêsu đã trả lời: “Yêu mến Chúa hết lòng và yêu tha nhân như chính mình.” Rất nhiều các thánh đã nhận ra chân lý khi tìm hiểu hai giới răn này. Thánh Phaolô nói: “Yêu thương là chu tòan mọi Lề Luật.” Thánh Thomas Aquinô: yêu thương là động lực thúc đẩy con người mong muốn mọi sự tốt lành cho tha nhân và không bao giờ muốn làm hại họ. Lề Luật chỉ có thể cầm giữ hai tay; nhưng yêu thương có thể cầm giữ cả trí khôn và con tim. Thánh Gioan trong đọan văn hôm nay cũng nhận ra điều đó: “Yêu thương là sống theo các điều răn của Thiên Chúa. Như anh em đã được nghe từ lúc khởi đầu, điều răn này là: anh em phải sống trong tình thương.”

2/ Phúc Âm: Ngày Chúa đến lần thứ hai 
2.1/ Con người không chuẩn bị: Mặc dù đã được báo trước về tai họa sắp xảy ra, nhưng con người vẫn ngoan cố không chịu chuẩn bị. Tại sao con người không chịu chuẩn bị? Họ có thể nghĩ chuyện đó không bao giờ có thể xảy ra: Kinh nghiệm dạy con người: không ai học được chữ ngờ; chẳng hạn: vụ không tặc khủng bố 9/11 hay cơn bão Katrina. Hay chuyện đó còn lâu mới tới: cứ việc vui chơi ăn uống cho tới khi nhận ra những tín hiệu báo trước rồi ăn năn cũng không muộn. Nhưng một lý do có lẽ chính đáng hơn cả là vì con người quí trọng vật chất hơn Đấng đã tạo dựng ra chúng. Chúa Giêsu gợi lại 2 biến cố đã xảy ra và được ghi lại trong Sách Sáng Thế Ký để dẫn chứng sự khờ dại của những người không chịu chuẩn bị:
(1) Nạn lụt Hồng Thủy: “Cũng như thời ông Nôê, sự việc đã xảy ra cách nào, thì trong những ngày của Con Người, sự việc cũng sẽ xảy ra như vậy. Thiên hạ ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nôê vào tàu, và nạn hồng thủy ập tới, tiêu diệt tất cả.”
(2) Mưa lửa diêm sinh từ trời: “Sự việc cũng xảy ra giống như vậy trong thời ông Lót: thiên hạ ăn uống, mua bán, trồng trọt, xây cất. Nhưng ngày ông Lot ra khỏi Sođom, thì Thiên Chúa khiến mưa lửa và diêm sinh từ trời đổ xuống tiêu diệt tất cả.”
Và Chúa kết luận: “Sự việc cũng sẽ xảy ra như thế, Ngày Con Người được mặc khải.” 
2.2/ Những gì sẽ xảy ra và việc cần làm trong Ngày Tận Thế.
(1) Sự việc sẽ xảy ra nhanh chóng, con người sẽ không có thời giờ chuẩn bị. Khi sự việc đó xảy ra, con người cần ý thức:
- Không phải là lúc để bảo vệ của cải: “Ngày ấy, ai ở trên mái nhà mà đồ đạc ở dưới nhà, thì đừng xuống lấy.”
- Không phải là lúc quay trở về nhà: Cũng vậy, ai ở ngoài đồng thì đừng quay trở lại. Hãy nhớ chuyện vợ ông Lót: vì không nghe lời sứ thần Thiên Chúa dạy nên tiếc của ngóai đầu trở lại, đã bị hóa thành cột muối.
- Phải can đảm để trốn thóat: “Ai tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng sống.” 
(2) Không có sự lẫn lộn giữa người lành và kẻ dữ trong ngày đó: Sứ thần của Thiên Chúa biết phân biệt rõ người lành ra khỏi kẻ dữ; các ngài sẽ đóng ấn trên các tôi tớ của Thiên Chúa trước khi các sứ thần khác ra tay tàn sát. Chúa Giêsu trưng dẫn 3 ví dụ cho sự chính xác này: “Thầy nói cho anh em biết: đêm ấy, hai người đang nằm chung một giường, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. Hai người đàn bà đang cùng nhau xay bột, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. Hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại.” 
(3) Đâu là chỗ người lành được đem đi và kẻ dữ bị bỏ lại? Các môn đệ lên tiếng hỏi Đức Giêsu: "Thưa Thầy, ở đâu vậy?"
- Nơi của kẻ dữ: Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp nhưng nói với các ông câu châm ngôn: "Xác nằm đâu, diều hâu tụ đó." Tất cả những người khinh thường không chịu chuẩn bị sẽ bị tiêu diệt; và xác của họ sẽ bị diều hâu bâu tới rúc rỉa.
- Chỗ của người lành: Chúa Giêsu không cho biết ở đây; nhưng như gia đình của Noe và của Lot, họ sẽ thóat mọi nguy hiểm và được sống muôn đời.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Hai điều kiện cần để chuẩn bị cho Ngày Chúa đến là vững tin nơi Đức Kitô và sống yêu thương mọi người.
- Chúa đã cảnh cáo con người nhiều lần và khuyên con người phải tỉnh thức sẵn sàng trong khi chờ đợi Ngày Chúa đến lần thứ hai. Dẫu vậy, sẽ có rất nhiều kẻ khinh thường không chịu chuẩn bị cho đến giây phút cuối và bị hư đi. 
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP

16/11/12 THỨ SÁU TUẦN 32 TN
Th. Magarita Xcốtlen
Lc 17,26-37 

TÌNH TRẠNG KHẨN CẤP
“Và cũng như thời ông Nôê, sự việc đã xảy ra cách nào, thì trong ngày của Con Người cũng sẽ xảy ra như vậy.” (Lc 17,26)
Suy niệm: Cuộc tấn công khủng bố 11/9/2001 vào toà Tháp Đôi đã đặt cả nước Mỹ vào tình trạng khẩn cấp. Mối đe doạ không biết sẽ từ đâu đến, đến vào lúc nào, và sẽ xảy ra như thế nào. Chỉ có một điều có thể biết được là nó chắc chắn sẽ đến. Người ta phải động viện toàn lực để có thể đối phó với bất cứ tình huống nào có thể xảy ra vào bất cứ lúc nào. Điều đó có nghĩa là nó có thể xảy ra ngay lúc này và trong tình huống xấu nhất. Tình trạng “khẩn cấp” trong Ngày của Con Người cũng đòi hỏi người ta phải sẵn sàng như thể ngày ấy sắp xảy ra trong thời gian hiện tại, ngay giữa nhịp sống bình thường của cuộc đời hiện tại này.
Mời Bạn: Chúa không đòi hỏi bạn phải từ bỏ những công việc đời thường của bạn như một kẻ vô công rỗi nghề để ngồi chờ “ngày của Con Người ập tới.” Sống trong tình trạng “khẩn cấp” như thế, một mặt bạn vẫn phải duy trì những công việc đời thường, một mặt phải luôn ở trong tư thế sẵn sàng để có thể “phản ứng nhanh”: Ai đang ở trên mái thì đừng tiếc rẻ xuống thu nhặt của cải trong nhà, trái lại từ bỏ tất cả để chỉ gắn bó với những gì là thiết yếu nhất.
Chia sẻ: Phải chăng việc tin vào cuộc sống mai sau làm bạn lơ là việc xây dựng thế giới này tốt đẹp như ý Chúa?
Sống Lời Chúa: Mỗi khi bắt đầu công việc gì, bạn hãy tâm niệm lời nguyện dưới đây, hoặc một lời nguyện tương tự.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con sắp bắt tay làm công việc (kể tên việc mình sắp làm). Xin Chúa giúp con làm thật tốt việc này thật tốt đẹp, như thể đây là lần cuối cùng trong đời con có thể làm việc để phục vụ anh chị em con. Amen.
www.5phutloichua.net

Được đem đi, bị bỏ lại
Người Kitô hữu sống đời thường như mọi người một cách tỉnh táo. Tận tụy nhưng lại không bị mất hút, hết mình nhưng lại còn chút e dè. Sống tưng bừng giây phút hiện tại nhưng vẫn nhớ đến điểm tới. 
Suy nim:
Trong y học, có một hội chứng gọi là Brugada.
Hội chứng này thường gặp ở nơi nam giới vùng Đông Nam Á.
Nó có thể gây tử vong bất thình lình và nhanh chóng,
cho một người khi ngủ vào ban đêm, dù trước đó anh vẫn khỏe mạnh.
Số người mắc hội chứng có tính di truyền này hiện đang gia tăng.
Đến nay người ta vẫn chưa giải thích được nguyên nhân gây bệnh.
Sống làm người ở đời, con người phải đương đầu với bao bất ngờ.
Những điều tưởng như không thể nào xảy ra được, lại xảy ra.
Những điều đã tính toán rất cẩn thận, lại xảy ra không như ý.
Bệnh tật, rủi ro, tai nạn, và sau cùng là cái chết.
Những cái bất ngờ đến nhanh quá khiến con người không kịp trở tay.
Làm sao ta có đủ bình tĩnh để đón lấy mọi cái bất ngờ trong cuộc sống?
Kitô giáo chờ đợi một bất ngờ,
vì biết bất ngờ đó thế nào cũng đến, chỉ không biết rõ khi nào thôi.
Đó là Ngày Chúa Giêsu trở lại trái đất này
trong tư cách là Vua xét xử cả nhân loại.
Vào buổi đầu, nhiều Kitô hữu tưởng là Ngài sẽ trở lại ngay lập tức.
Nhưng dần dần họ thấy rằng Giáo Hội phải kiên nhẫn chờ đợi.
Chỉ khi chờ đợi điều chắc chắn sẽ xảy ra, tuy không rõ khi nào,
người ta mới không bị hụt hẫng khi biến cố xảy đến.
Giáo Hội đã chờ hai ngàn năm và hôm nay vẫn đang chờ.
Chờ và chuẩn bị cho Ngày Quang Lâm làm nên sức sống của Giáo Hội.
Nhưng chờ đợi lâu dài cũng có thể làm người ta mỏi mòn.
Cuộc sống hàng ngày với nhịp điệu bình thường, đều đặn, êm ả,
có thể cuốn hút ta vào một vòng xoáy khó có lối ra.
Cơn hồng thủy đã bất ngờ ập xuống vào thời ông Nôê,
khi “họ đang ăn, họ đang uống, họ đang cưới vợ, họ đang lấy chồng.”
Dòng chảy tự nhiên ấy bị cắt đứt đột ngột bởi cơn hồng thủy.
Khi Thiên Chúa tiêu diệt thành Xơđôm bằng lửa bởi trời,
thì “họ đang ăn, họ đang uống, họ đang mua, họ đang bán,
họ đang trồng, họ đang xây” (c. 28).
Cuộc sống tưởng như cứ trôi đều, ai ngờ nó phải dừng lại.
Chuyện ăn uống, mua bán, lập gia đình, trồng trọt, xây cất
chẳng phải là điều xấu, cần phải tránh xa hay coi thường.
Nhưng chúng ta không để mình bị ru ngủ
bởi cái nhịp tự nhiên và quyến rũ của chúng.
Người Kitô hữu sống đời thường như mọi người một cách tỉnh táo.
Tận tụy nhưng lại không bị mất hút, hết mình nhưng lại còn chút e dè.
Sống tưng bừng giây phút hiện tại nhưng vẫn nhớ đến điểm tới.
Hai người nằm một giường, hai phụ nữ xay một cối (cc. 34-35),
nhưng số phận chung cuộc của họ lại khác nhau.
Có người được đem đi, có người bị bỏ lại.
Làm sao tôi đừng tiếc đồ đạc mà xuống lấy hay quay trở lại nhà (c. 31)?
Làm sao tôi đừng như vợ ông Lót quay nhìn lại và hóa thành cột muối?
Cầu nguyn:
Cột muối hình bà Lót

Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này,
và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết
nỗi khổ đau và hạnh phúc,
sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng con biết đường lên trời,
nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.
Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,
chúng con thấy mình được thêm sức mạnh
để xây dựng trái đất này,
và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,
xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời
không làm chúng con quên trời cao;
và những vẻ đẹp của trần gian
không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa.
Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,
mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
"Cũng xảy ra như thế trong ngày Con Người xuất hiện".
Ngày của Con Người
Ngay từ lúc chiếc phi cơ của hãng hàng không Singapore bắt đầu lăn bánh từ phi đạo của phi trường Tưởng Giới Thạch, Ðài Loan, vào một buổi tối thứ Ba trong tháng 11 năm 2000, bà Sally Walker đã có một cảm giác không ổn. Hai tay nắm chặt vào chỗ dựa tay của ghế ngồi trong phần đuôi của chiếc phi cơ chỉ có phân nữa hành khách, người phụ nữ Hoa Kỳ bốn mươi sáu tuổi này lo lắng nhìn giông tố đang thổi ào ào bên ngoài cửa sổ phi cơ. Vào lúc 11h48' tối, chiếc phi cơ di chuyển ra phi đạo để bay về Los Angeles, Hoa Kỳ, bà Walker, một giáo sư tại đại học Giorgie đã lầm thầm cầu nguyện khi nhìn thấy hai cánh phi cơ bị nghiêng ngả và thân phi cơ bị lắc mạnh. Khi chiếc phi cơ di chuyển ở vận tốc cất cánh với một cú sốc thật mạnh và rồi thêm một lần nữa, chiếc phi cơ bị giật dữ dội sang bên trái và nổ tung. Các quả cầu lửa bắn ra khi chiếc phi cơ bị bể làm ba phần, bay rít trên mặt đường nhựa của sân bay. Sau này, ngồi trên chiếc xe lăn bà Walker kể lại sự thoát chết từ chiếc phi cơ ngập lửa rằng: "Mọi thứ đều bị đốt cháy. Thật là một cơn ác mộng khủng khiếp". Bà Walker bị thương nhẹ ở chân là một trong những người rất may mắn. Hơn tám mươi người trong số một trăm bảy mươi chín hành khách của chuyến bay định mệnh đã chết trong tai nạn này. Một số người bị đốt cháy đến độ không còn có thể nhận diện được.
Tai nạn thảm khốc này xảy ra đúng một năm sau khi chiếc phi cơ của hãng hàng không Ai Cập bị rớt trên đường bay từ thủ đô Cairô đến New York, Hoa Kỳ, gây thiệt mạng cho hai trăm bảy mươi người. Nó xảy ra tại một trong những phi trường được xem là an toàn nhất thế giới, và được hoạt động bởi một trong những công ty an toàn nhất thế giới.
Dĩ nhiên, sau bất cứ một tai nạn nào, người ta cũng cố gắng tìm ra cho bằng được nguyên nhân, bởi vì không có tai nạn nào mà không có nguyên nhân, dù nguyên nhân ấy vẫn còn nằm trong vòng bí ẩn. Tựu trung, nguyên nhân nào cũng gắn liền với những giới hạn của con người. Khoa học, kỹ thuật dù có tiến bộ đến đâu cũng không thể xóa bỏ được những hàng rào dựng lên bởi chính thân phận bất toàn của con người. Ðây hẳn phải là chân lý có thể nuôi dưỡng những suy tư và cầu nguyện của các tín hữu Kitô chúng ta trong tháng cầu cho các đẳng linh hồn này.
Tin Mừng được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe trong những ngày cuối năm phụng vụ dường như cũng hướng tâm tư chúng ta về ý tưởng ấy và trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói đến ngày của Con Người. Ngày ấy có thể là ngày tận thế khi Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang. Ngày ấy có thể là ngày từ giã cõi đời của mỗi người chúng ta. Nhớ đến những người quá cố, suy tưởng về sự chết không hề là một thái độ bệnh hoạn hay bi quan mà là tư thế tỉnh thức tích cực của người môn đệ Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nói đến tính cách bất ngờ của ngày của Con Người để kêu gọi các môn đệ mặc lấy thái độ tỉnh thức. Thời ông Nôê, người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng mà không màng đến lời cảnh cáo của ông, đến khi đại nạn hồng thủy đến thì đã quá muộn.
Ý nghĩ về sự chết hướng con người đến cùng đích của mình để tìm kiếm ý nghĩa cho cuộc sống. Ý nghĩa ấy luôn gợi lên cho con người ý thức về thân phận mong manh bất toàn của kiếp người và mời gọi con người tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời. Với ý thức ấy, con người hướng về cùng đích của cuộc sống và tỉnh thức không những để chờ đợi Chúa đến vào ngày sau hết, hay để được đợi mong Ngài mau đến trong những khoảnh khắc của cuộc sống.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta lẽ khôn ngoan và tinh thần tỉnh thức đích thực ấy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)


Luôn xảy ra như tàu Titanic
Và cũng như thời ông Nô-ê, sự việc đã xảy ra cách nào, thì trong những ngày của Con Người, sự việc cũng xảy ra như vậy, thiên hạ ăn uống cưới vợ lấy chồng, mãi cho đên ngày ông Nô-ê vào tàu, và nạn hồng thủy ập tới, tiêu diệt tất cả. (Lc. 17, 26-27)
Biết chắc phải chết, nhưng người ta vẫn thích ăn chơi cho đã đời. Ăn uống, cưới hỏi, mua bán, gieo gặt, xây cất … cuồng nhiệt hoạt động đến mức sống tràn trề thỏa mãn trước khi tận diệt.
Phải lo tiên liệu
Ngày Con Người đến không chỉ là ngày ân thưởng, mà còn là ngày đe dọa xao xuyến sợ hãi. Người ta không thấy hạn kỳ ấn định, không ai biết được mình còn sống, không biết được đời sống tương lai. Nó hoàn toàn tùy thuộc vào sự ăn năn sám hối và mong đợi Chúa đến hàng ngày của mình.
Vậy phải coi chừng lo chuẩn bị trước: lịch sử cứu độ để lại cho chúng ta ít nhất là hai biến cố đầy ấn tượng mạnh mẽ. Đại hồng thủy thời ông No-e và lửa sinh diêm đốt thành Sô-đô-ma. Nước và lửa ai cũng biết là sức mạnh tàn phá kinh khủng. Biết bao lần nước và lửa tiêu hủy một cách tàn bạo bất ngờ. Vậy phải luôn luôn tỉnh thức phòng cháy, thoát lụt.
Ai có thể được cứu thoát?
Ngày ấy, phải bỏ lại tất cả bất cứ cái gì dù cần thiết cho đời sống. Vợ ông Lót miễn cưỡng đi theo chồng, nhưng lòng luôn luyến tiếc những cái phải bỏ lại. Bà là thứ tâm hồn không có lòng tin. Bất cứ lúc nào, ai không có thể từ bỏ của cải vật chất đời này, chắc chắn hư mất đời đời.
Chỉ có một điều cần thiết cho ngày ấy để có thể đứng trước mặt Chúa trong ngày phán xét là những ai làm việc hàng ngày với con mắt hướng nhìn lên Chúa, “không nhìn lại đàng sau” như vợ ông Lót, mới “thích hợp với nước Thiên Chúa”. Kẻ ru ngủ mình trong chè chén say sưa, chỉ nghĩ tìm những điều theo dục vọng “thì sẽ mất”. Cũng vậy, người đàn bà xay bột chỉ nghĩ đến tấm bánh ngon, thì sẽ bị thiêu đốt.
Các môn đệ hỏi: “Lạy Chúa, ở đâu vậy?”, cũng giống như câu hỏi của biệt phái hỏi bao giờ triều đại nước Thiên Chúa đến. Đức Giêsu cũng trả lời các môn đệ tương tự như trả lời biệt phái.
Ngày đó sẽ là ngày phán xét tất cả. Tất cả vũ trụ sẽ bị phán xét và người ta không thể trốn đi bất cứ đâu được. Không còn phao, xuồng cấp cứu nữa!
RC.

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 11
16 THÁNG MƯỜI MỘT
Bí Tích Hôn Nhân Phản Ảnh Tình Yêu Của Đức Kitô
Sự hiện diện của Chúa Giêsu tại tiệc cưới Cana – nếu chúng ta muốn nhận hiểu một cách đầy đủ – cũng nhằm làm một động thái nhắc chúng ta nghĩ đến những gì thuộc thượng giới (Cl 3,2). Ở đây, Chúa muốn nhắc chúng ta về ý nghĩa thiêng liêng sâu xa của tình yêu vợ chồng. Tình yêu này là một dấu hiệu và một sự thông dự trong chính tình yêu vốn tồn tại giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Tình yêu ấy không thể chịu sự chi phối của những thay đổi thất thường và bất định của cuộc sống. Không, nó có thể và phải là một sự dấn thân vĩnh viễn không thể phân ly và không thể phá hủy. Như vậy, tình yêu vợ chồng mở ra tới những viễn tượng vô hạn của Vương Quốc Thiên Chúa và của cuộc sống bất diệt.
Mẫu thức tối thượng và siêu việt này của tình yêu vợ chồng được minh họa cho chúng ta trong Thư Eâphêsô. Trong Thư này, chúng ta khám phá nền tảng cho việc chọn lựa hôn nhân để chúng ta thực sự hạnh phúc và sống theo thánh ý Thiên Chúa. Sự dấn thân và chọn lựa đời sống hôn nhân Kitô giáo nâng đỡ và đào sâu tình yêu của chúng ta trong những lúc gặp khó khăn thử thách, giúp làm cho tình yêu của chúng ta tinh tuyền hơn và sinh hoa trái nhiều hơn.
Chúng ta cần đánh giá tình cảm của mình trong ánh sáng của nhận thức nói trên về tình yêu vợ chồng. Nhờ đó chúng ta có thể đảm bảo rằng một tình yêu đích thực và một cuộc hôn nhân Kitô giáo đích thực sẽ được bộc lộ rõ rệt trong đời sống vợ chồng. Hôn nhân quả là một bí tích. Chúng ta bắt đầu thoáng thấy các lý tưởng của tình yêu và khả năng sinh hoa trái mà mỗi người vợ người chồng Kitôhữu đều được mời gọi đạt đến với sự hỗ trợ của ân sủng.
+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình
(Thánh nữ Margarita Scotland); 2Ga 4,9; Lc 17, 26-37.
Noe đóng tàu

LỜI SUY NIỆM: Trong câu chuyện ngày của Con Người. Chúa Giêsu cho chúng ta biết nó cũng giống như câu chuyện thời ông Noe. Trong khi ông Noe, đóng một chiếc thuyền trên một ngọn núi cao, mọi người có nhìn thấy, nhưng nhìn thấy để chê cười ông mà thôi, trong câu chuyện, không thấy có một ai thắc mắc, về việc ông đóng tàu để làm gì. Một dấu hiệu trước mắt của mọi con người, họ có thể thấy lúc nào họ muốn thấy. Nhưng họ vẫn không quan tâm đến cái dấu hiệu đóng con tàu lớn trên núi cao, họ vẫn vô tư ăn uống, cưới vợ gả chồng, buôn bán vui chơi vô độ. Cho đến ngày Đại Hồng Thủy đến, cuốn trôi và tiêu diệt tất cả. Chúa Giêsu cũng cảnh báo cho mỗi chúng ta biết: Hai người đang nằm chung một giường, thì một người được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. Hai người đàn bà đang cùng nhau xay bột, thì một người được đem đi và một người bị bỏ lại, Hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, thì một người được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. Cho chúng ta thấy trong những hai hạng người này bất cứ đang làm công việc gì, đang ở vị trí nghĩ ngơi hay đang làm việc, Chúng ta không thấy sự khác biệt giữa họ. Nhưng tại sao lại thế? Mỗi người phải ý thức mình là ai một trong hai hạng người đó; trong ngày Chúa lại đến,
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân


Ngày 16-11: Thánh MAGARITA SCOTIA (1045 - 1093)
Thánh Magarita sinh ra khoảng năm 1045. Cha Ngài là hoàng tử Edward người Anh, bị lưu đày và cưới một nữ công chúa người Đức, có lẽ là cháu của hoàng hậu vua thánh Stephanô nước Hungaria. Magarita lớn lên trong triều đình Hungari và đã gặp được sự công chính và thánh thiện để làm nên dấu thánh thiện của chính mình. Khoảng 12 tuổi trở lại nước Anh, thánh nữ sống trong triều đình của vua thánh Edward.
Trong cuộc chinh phục Norman năm 1066, Magarita cùng với mẹ và anh chị em Ngài bị lưu đày một lần nưã. Họ trốn sang Scotia, dầu lúc ấy đang có chiến tranh giữa hai nước, vua Scotia là Malcola Cannore cũng đã nhân ái tiếp nhận những kẻ lưu đày.
Malcolm Cannore mà tên gọi có nghĩa là "nhà cai trị vĩ đại" là một vị vua uy quyền có khả năng. Ông yêu Magarita, còn Magarita thì có ý định đi tu dòng. Nhưng ông đã khuyên Magarita lập gia đình với ông. Cuộc sống chung của họ được mô tả với vài chi tiết trong một tập hồi ký có lẽ do cha giải tội của Ngài là Turgot, sau là giám mục viết. Đây là một câu chuyện thích thú về sự gặp gỡ giữa một người đàn bà trẻ khôn ngoan và thánh thiện với người chồng hung hăng ít được giáo dục nhưng hứơng chiều về sự thánh thiện của vợ mình.
Cuộc hoà hợp nhân duyên này mang lại cho họ sáu người con trai và hai người con gái. Hoàng hậu chỉ chấp nhận cho những gương lành tới gần các tâm hồn trẻ thơ này và không một người xấu nào dám tới triều đình. Những hoàng tử công chúa này lớn lên và tham gia vào các công cuộc của người mẹ thánh thiện và của người cha đã trở thành vị vua gương mẫu.
Thánh Magarita dùng nhiều thì giờ và tiền của cho các công cuộc bác ái, chính Ngài hầu hạ người nghèo khó, già cả, côi cút và yếu đau. Ngài khám phá ra mọi hình thức khổ cực, giúp đỡ các gia đình phá sản phục hồi, chuộc lại các tù nhân, xây dựng nhà thương, nhà vãng lai cho du khách. Người lạ biết rằng: họ có thể luôn tìm được chỗ trú ngụ nơi Ngài khi ra khỏi nhà. Cả đoàn người bất hạnh vây quanh Ngài và đây mới là triều đình thật của Ngài. Khi trở về nhà, Ngài chỉ muốn ngồi vào bàn ăn sau khi đã hầu bàn cho 300 người nghèo ngồi đầy một phòng ăn lớn.
Scotia đã được cải hoá từ lâu, nhưng sự man rợ còn tồn tại ở đó trở thành mẹ của một vương quốc, thánh Magarita biến nó thành một gia đình rộng lớn và dẫn tới Thiên Chúa, Ngài trao cho những quan liêm chính tái lập trật tự, sai các nhà giảng thuyết đi loan báo Tin Mừng để Chúa Giêsu được yêu mến khắp nơi. Ngài giải quyết vấn đề Giáo hội ở Scotia thời Ngài gặp phải. Bị cắt đứt liên lạc do cuộc xâm lăng của người ngoại, Giáo hội Celt đã khác biệt nhiều điểm với Roma và chính thánh Magarita đã hoà giải những yếu tố tranh chấp và đưa Giáo hội Celt ở Scotia về qui phục. Ngài làm việc này mà vẫn tránh được sự phân ly đau đớn.
Cũng thế những cố gắng đưa văn hóa Âu Châu vào Scotia của Ngài rất thành công. Trong khi bên Anh, cuộc chinh phục Norman đã để lại một di sản cay đắng thì ở Scotia dưới ảnh hưởng của Magarita và các con của Ngài, việc lan tràn văn hóa Trung Cổ đã mang lại cho Scotia một thời đại hoàng kim kéo dài cả 2000 năm sau khi thánh nữ qua đời.
Thánh Magarita qua đời năm 1093 tại lâu đài Ediburgh như rất nhiều vị thánh, vào lúc mà mọi công trình xem ra tiêu tan hết. Vua nước Anh xâm chiếm một pháo đài. Malcoln và hai người con cả đi tái chiếm. Thánh nữ cảm thấy âu lo. Ngày kia Edgar con Ngài trở về, thánh nữ hiểu ngay thực tế khủng khiếp là vua và người con kia đã chết. Đau đớn, thánh nữ chỉ biết nói: - Lạy Chúa toàn năng, Chúa đã gửi cho con sự đau đớn lớn lao này để thanh tẩy tâm hồn con, con xin chúc tung Chúa .
Ngài không than trách, đức tin và lòng dũng cảm không rung chuyển, nhưng sáu tháng sau Ngài đã qua đời.
Ba người con của Ngài tiếp tục cai trị trên ngai vàng, công cuộc của người mẹ được tăng cường và đi tới hoàn thành. Thánh Magarita được phong thánh năm 1250.

 (Daminhvn.net)
++++++++++++++++++
16 Tháng Mười Một
Vui Ðể Ðợi Chết

 Theo giai thoại của người Trung Hoa thì ngày xưa có một người tên là Vinh Khải Kỳ tỏ ra là một bậc tiên ông đạo cốt, mình mặc áo lông cừu, lưng thắt dây, ngày ngày giao du ở sơn thủy, vui thú cầm ca chậm rãi rảo bước, tay đánh đàn miệng ca hát không ngừng. Một hôm, đức Khổng Tử đi dạo gặp Vinh Khải Kỳ, ngài mới hỏi ông: "Tiên sinh làm thế nào mà thường vui vẻ ca hát như thế?".
Khải Kỳ thưa: "Trời sanh muôn vật, loài người cao quý nhất. Ta đã được làm người, đó là điều đáng vui. Người ta sinh ra có người đui què, có người non yếu... mà ta thì khỏe mạnh sống lâu, thế là hai điều đáng vui. Còn cái nghèo là sự thường của thế gian, cái chết là hết sự đời. Ta nay biết vui với cảnh đời để đợi cái chết thì còn gì lo buồn nữa?".
Lạc quan, vui sống là đức tính cơ bản nhất của người Kitô. Người Kitô nhận ra phẩm giá cao cả của mình và tiếp nhận mọi sự xảy đến như một hồng ân của Chúa. Cây cỏ đồng nội, muôn thú trên rừng không nhọc công tích trữ mà còn được Chúa che chở nuôi nấng, huống chi con người là hình ảnh của Người... Mỗi ngày có niềm vui nỗi khổ của nó. Hãy quẳng gánh lo đi và vui sống từng phút giây như một ân ban của Chúa, đó là bí quyết để giúp ta được hạnh phúc ở đời này.
(Lẽ Sống)

Ngày 16
Thánh nữ Magarita Scotland ,Thánh Gertruđê, trinh nữ

Lạy Cha, thời gian đang trôi qua, con thêm tuổi, sức khỏe con kém đi, con đang đi tới cái chết. - Con có nên buồn không? Thưa không! Vì mỗi lúc qua đi đều đưa con đến gần Cha...

     Cho dù con người bên ngoài đi tới suy sụp, nhưng Cha đổi mới con ngưòi nội tâm từng ngày bằng tình yêu của Cha. Tình yêu này không bị lão hoá và không sa sút, mà là tuổi trẻ vĩnh cu, là vẻ đẹp, là sức mạnh và là sự tươi mát. Vì thế, con có thể tiếp tục con đường của con với một tâm hổn vui sướng và tin tưởng. Con không sợ gì, vì con được tình yêu Cha bảo đảm. Cả Cha nữa, con không có gì phải sợ
 
Đức công chính không cản trở lòng tt của Cha. Không phải là một sự công bằng hay thù hằn, như sự công bằng của chúng con, nhưng là một sự chính trực làm cho nên công chính.
 
Đức công chứih của Cha không lên án, nhưng un nắn lại và dẫn dắt trên con đường trở về với Cha. Công chính của Cha là thánh thiện của Cha. Và thánh thiện là ở trong tình yêu.
 
Lạy Cha, xin giúp con đừng bám ly ai, ngoài Cha, và đừng cho gì là quan trọng, ngoại trừ tình yêu.
 
Xin cho con luôn đơn sơ, quảng đại, biết ơn, thanh thản hơn, cho tới giờ cuối cùng của cuộc đời con, là lúc con có thể dâng cho Cha hoàn toàn tất cả, và trở về với Cha.
 
Beda Ackermann
Thứ Sáu 16-11

Thánh Margaret ở Tô Cách Lan

(1045-1093)

Thánh Margaret ở Tô Cách Lan quả thật là một phụ nữ tự do--trong ý nghĩa tự do để trở nên con người đích thực. Ðối với ngài, điều đó có nghĩa được tự do để yêu mến Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.
Margaret không phải là người Tô Cách Lan. Ngài là con gái của Công Chúa Agatha Hung Gia Lợi và Thái Tử Edward Atheling của Anglo-Saxon. Thời niên thiếu, ngài sống trong triều đình của người bác là Edward, vua nước Anh, người bảo vệ đức tin. Khi bị William xâm chiếm, trên đường chạy trốn, gia tộc ngài bị đắm tầu ở bờ biển Tô Cách Lan. Vua Malcolm của Tô Cách Lan làm quen với hoàng tộc này và ông đã say mê sự duyên dáng cũng như vẻ đẹp của Margaret. Và họ đã kết hôn ở lâu đài Dunfermline năm 1070.
Vua Malcolm là người tốt bụng, nhưng cộc cằn và không có học thức, cũng giống như quê hương của ông. Vì tình yêu của Malcolm dành cho Margaret mà bà có thể thay đổi tính tình nóng nẩy của ông, cũng như chỉ bảo cách đối xử và giúp ông trở nên một vị vua nhân đức. Bà đã biến triều đình thành một nơi lịch thiệp và mỹ miều. Ông đã để mọi việc trong nước cho bà quản trị và thường hỏi ý của bà khi có vấn đề quốc sự.
Margaret là một ơn huệ Chúa ban cho người dân Tô Cách Lan. Trước khi bà đến đây, có rất nhiều người dốt nát và nhiều hủ tục trong nước. Bà tìm cách cải tiến quê hương chồng bằng cách cổ võ việc giáo dục và nghệ thuật. Về cải cách tôn giáo, bà khích lệ tổ chức các thượng hội đồng và đích thân tham dự các buổi thảo luận nhằm chấn chỉnh những tệ đoan tôn giáo rất phổ thông thời ấy của tu sĩ cũng như giáo dân, tỉ như vấn đề buôn thần bán thánh, cho vay lời cắt cổ và loạn luân. Cùng với đức lang quân, bà xây dựng nhiều nhà thờ trong nước và chính tay bà thêu áo lễ cho các linh mục.
Margaret không chỉ là một hoàng hậu mà còn là một người mẹ gương mẫu. Thiên Chúa đã ban cho ông bà sáu con trai và hai con gái. Ðích thân bà trông coi việc giáo dục cũng như dạy giáo lý cho con. Người con út của bà sau này là Thánh David.
Mặc dù rất bận rộn với công việc nhà cũng như việc nước, bà cố giữ mình khỏi bị ảnh hưởng của thế gian. Ðời sống riêng tư của bà rất khắc khổ. Bà dành thời giờ để cầu nguyện và đọc Kinh Thánh. Bà ăn uống thanh cảnh và ngủ rất ít để có thời giờ suy niệm. Hàng năm, hai ông bà tuân giữ hai mùa Chay, một lần trước Phục sinh và một lần trước Giáng Sinh. Trong thời gian này bà thường thức giấc vào nửa đêm để đi dự Thánh Lễ. Trên đường về, bà rửa chân cho sáu người nghèo và bố thí cho họ. Mỗi khi bà xuất hiện nơi công cộng là bị những người ăn xin vây quanh và không bao giờ bà từ chối họ. Người ta kể rằng, trước khi bà ngồi xuống dùng bữa tối, bà thường dọn thức ăn cho chín trẻ mồ côi và 24 người nghèo.
Năm 1093, Vua William Rufus bất ngờ tấn công vào thành Alnwick. Vua Malcolm và người con cả là Edward bị giết chết. Bà Margaret, cũng bị thương nặng, và bốn ngày sau khi chồng bà từ trần thì bà cũng trút hơi thở cuối cùng.

Lời Bàn

Có hai cách thi hành việc bác ái: cách "sạch sẽ" và cách "bẩn thỉu." Cách "sạch sẽ" là tặng tiền bạc, quần áo cho các tổ chức phục vụ người nghèo. Cách "bẩn thỉu" là dùng chính bàn tay của mình để phục vụ mà không sợ dơ bẩn. Nhân đức trổi vượt của Thánh Margaret là lòng thương người nghèo. Mặc dù rất giầu sang, nhưng ngài đã đích thân thăm viếng người bệnh hoạn và chăm sóc họ với chính đôi tay của mình. Trong mùa Vọng và mùa Chay, hai ông bà đã quỳ xuống để phục vụ các trẻ em mồ côi và người nghèo hèn. Giống như Ðức Kitô, bà đã thi hành bác ái trong phương cách "bẩn thỉu."

Lời Trích

"Khi bà lên tiếng, trong lời nói đầy sự khôn ngoan ấy có sức thay đổi lòng người. Khi bà im lặng, sự thinh lặng đầy suy tư. Toàn thể bề ngoài của bà phù hợp với tính tình trầm lặng mà dường như bà được sinh ra với một cuộc đời nhân đức" (Turgot, cha giải tội của Thánh Margaret).
www.nguoitinhuu.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét