Thứ Năm sau Chúa Nhật 32 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm
II) Plm 7-20
"Xin anh tiếp nhận nó
không phải như một người nô lệ, nhưng như một người anh em rất thân mến".
Trích thư Thánh Phaolô Tông
đồ gửi cho Philêmon.
Anh thân mến, tôi rất đỗi vui
mừng và an ủi, vì lòng bác ái của anh, vì hỡi anh, nhờ anh mà tâm hồn các thánh
được hài lòng.
Bởi đó, dầu trong Ðức Giêsu
Kitô, tôi có đủ quyền để truyền cho anh điều phải lẽ, nhưng tôi thà nại vào đức
bác ái mà nài xin anh thì hơn, vì anh cũng như tôi. Phaolô già nua, và hiện
đang bị cầm tù vì Ðức Giêsu Kitô, tôi nài xin anh cho Ônêsimô, đứa con tôi đã
sinh ra trong xiềng xích. Xưa kia nó là người vô ích cho anh, nhưng hiện nay,
nó lại hữu ích cho cả anh và tôi nữa, tôi trao lại cho anh. Phần anh, anh hãy
đón nhận nó như ruột thịt của tôi.
Tôi cũng muốn giữ nó lại để
thay anh mà giúp đỡ tôi trong lúc tôi bị xiềng xích vì Tin Mừng. Nhưng vì chưa
biết ý anh, nên tôi không muốn làm gì, để việc nghĩa anh làm là một việc tự ý,
chứ không vì ép buộc. Vì biết đâu nó xa anh một thời gian để rồi anh sẽ tiếp
nhận nó muôn đời, không phải như một người nô lệ, nhưng thay vì nô lệ, thì như
một người anh em rất thân mến, đặc biệt đối với tôi, huống chi là đối với anh,
về phần xác cũng như trong Chúa.
Vậy nếu anh nhận tôi là bạn
hữu, thì xin anh hãy đón nhận nó như chính mình tôi vậy. Nếu nó đã làm thiệt
hại cho anh điều gì, hay mắc nợ anh, xin anh hãy tính vào sổ của tôi. Chính tôi
là Phaolô đây, tôi tự tay viết là tôi sẽ thanh toán, trừ phi tôi kể ra cho anh
hay rằng chính anh mắc món nợ với tôi. Hỡi anh, thật thế. Nhờ anh tôi sẽ được
hân hoan trong Chúa: anh hãy làm cho tôi được thoả lòng trong Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 145, 7. 8-9a.
9bc-10
Ðáp: Phúc thay con người được Thiên Chúa nhà Giacóp phù trợ (c.
5a).
Xướng: 1) Thiên Chúa trả lại
quyền lợi cho người bị áp bức, và ban cho những kẻ đói được cơm ăn. Thiên Chúa
cứu gỡ những người tù tội. - Ðáp.
2) Thiên Chúa mở mắt những kẻ
đui mù, Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu
quý các bậc hiền nhân, Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. - Ðáp.
3) Thiên Chúa nâng đỡ những
người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm
vua tới muôn đời. Sion hỡi, Ðức Thiên Chúa của người sẽ làm vua tự đời này sang
đời khác. - Ðáp.
*
* *
Alleluia: 2 Tx 2, 14
Alleluia, alleluia! - Thiên
Chúa đã dùng Tin Mừng mà kêu gọi chúng ta, để chúng ta được chiếm lấy vinh
quang của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 17, 20-25
"Nước Thiên Chúa ở
giữa các ông".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Khi ấy, những người biệt phái
hỏi Chúa Giêsu "Khi nào nước Thiên Chúa đến", thì Người đáp lại rằng:
"Nước Thiên Chúa không đến để cho người ta quan sát, và người ta sẽ không
nói được: "Này nước trời ở đây hay ở kia". Vì nước Thiên Chúa ở giữa
các ông". Chúa lại phán cùng các môn đệ rằng: "Sẽ có ngày các con ước
ao thấy được một ngày của Con Người mà không được thấy. Người ta sẽ bảo các
con: "Này Người ở đây và này Người ở kia", các con chớ đi đến và đừng
tìm kiếm. Vì như chớp sáng loè từ chân trời này đến phương trời kia thế nào, thì
Con Người cũng sẽ đến trong ngày của Người như vậy. Nhưng tiên vàn Người phải
chịu đau khổ nhiều, và bị dòng dõi này xua đuổi".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Ðức Giêsu nói với người Do
Thái "Triều Ðại Thiên Chúa đang ở giữa các ông". Ngài muốn nói tới triều
đại Thiên Chúa chính là sự hiện diện của Ngài.
Ðể nhận ra Nước Thiên Chúa,
nhận ra sự hiện diện của Ðức Giêsu, chúng ta không thể dùng giác quan tự nhiên,
mà phải nhìn với con mắt đức tin. Chúng ta tin rằng Nước Trời hiện diện ngay
trong cuộc sống trần gian này, ngay trong tâm hồn chúng ta. Vì thế cuộc sống
trần gian này, ngay trong tâm hồn chúng ta. Vì thế cuộc sống của chúng ta sẽ là
bằng chứng sống động cho sự hiện diện của Nước Trời.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa luôn
hướng dẫn chúng con. Xin cho chúng con biết nhìn ra Chúa hiện diện và đồng hành
với chúng con trên đường đời. Dù có gặp khó khăn trở ngại, chúng con không sợ,
vì có sức mạnh của Chúa. Ðể cuộc sống của chúng là lời loan báo Tin Mừng Nước
Chúa cho anh em. Amen.
(Lời Chúa trong giờ
kinh gia đình)
Sống Sung Mãn Giây Phút Hiện Tại
(Lc 17,20-25)
Suy Niệm:
Sống Sung Mãn Giây Phút
Hiện Tại
Hiện nay, con số các nhóm
khủng bố có mầu sắc tôn giáo đang gia tăng đáng kể. Năm 1968, không có hoạt
động khủng bố nào liên hệ đến tôn giáo, nhưng ngày nay có rất nhiều nhóm tự
xưng là Kitô giáo, Do thái giáo, Ấn giáo, Hồi giáo. Mẫu số chung của các nhóm
này là niềm tin vào một ngày thế mạt, họ chủ trương bạo động, vì tin rằng nhờ
cuộc chiến tranh ở qui mô thế giới, hay nhờ một thiên tai nào đó, họ sẽ được
đưa vào Thiên Ðàng. Các giáo phái mong mỏi ngày thế mạt đã khởi sắc tại Hoa Kỳ
từ thế kỷ 19 và hiện nay vẫn còn thu hút nhiều tín đồ. Tuy nhiên mới đây một số
đã cáo chung vì bạo động: cách đây vài năm, một giáo phái tại Nam Hàn đã lôi
kéo nhiều tín đồ đến chỗ tự vẫn và đã tự giải tán, vì ngày thế mạt họ chờ đợi
đã không đến. Vụ phun hơi ngạt do giáo phái "Chân Lý Tối Thượng" chủ
trương tại Nhật Bản dạo tháng 3/1995 cũng cho thấy sự khởi sắc bất ngờ của niềm
tin vào ngày thế mạt nơi người Nhật bản.
Tin vào ngày thế mạt, tức
ngày Chúa lại đến trong vinh quang cũng là một trong những điểm nòng cốt của
Kitô giáo. Hàng ngày, trong Thánh Lễ, Giáo Hội không ngừng nhắc nhở các tín hữu
khi tuyên xưng: "Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên
xưng việc Chúa sống lại, cho tới khi Chúa lại đến". "Chúa lại
đến", đó là niềm xác tín của người Kitô hữu. Tuy nhiên, ngày đó có phải là
năm 2000, năm 3000 hay một thời điểm nhất định nào không? Cái bí ẩn ấy không
bao giờ được vén mở. Chúa Giêsu loan báo Ngài sẽ trở lại, nhưng không cho biết
ngày giờ nào.
Chính vì tính cách bất ngờ
của Ngày Chúa Ðến, các tín hữu phải luôn tỉnh thức. Tỉnh thức có nghĩa là dấn
thân tích cực trong giây phút hiện tại, chứ không phải là ăn không ngồi rồi mà
chờ đợi. Ðó cũng là giáo huấn của Chúa Giêsu mỗi khi Ngài nói đến Nước Thiên
Chúa thời cánh chung: Nước Thiên Chúa sẽ thành tựu ở một thời điểm mà không ai
biết trước được vào ngày Con Người sẽ quang lâm. Một trong những nét cao cả của
con người chính là khả năng vượt qua thời gian, chỉ con người mới có thể hồi
tưởng quá khứ và dự phóng tương lai, chỉ con người mới có khát vọng được trường
sinh bất tử. Thiên Chúa quả thực đã đặt để trong lòng con người hạt giống của
sự sống vĩnh cửu, hạt giống ấy chỉ có thể nẩy mầm trên thửa đất của hiện tại mà
thôi: không thể đi vào vĩnh cửu mà không bước qua hiện tại, không thể yêu mến
vĩnh cửu mà lại khước từ hiện tại.
Qua cuộc sống của Ngài, Chúa
Giêsu đã vạch ra cho con người đường đi vào vĩnh cửu, đó là sống sung mãn trong
từng giây phút hiện tại. Chính trong cuộc sống mỗi ngày mà con người phải tìm
kiếm và xây dựng những giá trị vĩnh cửu. Sống như thế là sống tỉnh thức theo
tinh thần mà Chúa Giêsu hằng nhắc nhở trong Tin Mừng của Ngài; sống như thế,
con người mới có thể nhận ra ý nghĩa của cuộc sống. Một cuộc sống có đáng sống
và có ý nghĩa hay không, là tùy ở thái độ trân trọng và tích cực của con người
đối với mỗi giây phút hiện tại.
Nguyện xin Chúa ban thêm niềm
tin để chúng ta không ngừng đón nhận Chúa qua từng biến cố và gặp gỡ mỗi ngày.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 32 TN2
Bài đọc: Phm
7-20; Lk 17:20-25.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Những
dấu chỉ để nhận ra Triều Đại của Thiên Chúa trong tâm hồn.
Con người thường phán xét theo những gì
họ xem thấy bên ngòai. Họ muốn dùng những tiêu chuẩn bên ngòai để xác định khi
nào Đấng Thiên Sai và khi nào Ngày Phán Xét tới. Khác với con người, Thiên Chúa
phán xét theo những gì Ngài thấy bên trong. Ngài mời gọi con người nhìn sâu vào
tâm hồn bên trong, để nhận ra những tiêu chuẩn của Nước Trời. Trong Bài đọc I,
Thánh Phaolô cố gắng thuyết phục Philemon nhận lại người nô lệ của ông đã lỡ
dại trốn đi. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cho biết để nhận ra triều đại của Thiên
Chúa đến hay chưa, con người không thể dựa vào những sự kiện bên ngòai, nhưng
phải dựa vào những thay đổi trong tâm hồn.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phải
lấy tình bác ái mà đối xử với nhau.
Thư Thánh Phaolô gởi cho Philemon, cộng
sự viên của ngài, chỉ vỏn vẹn trong hai trang và liên quan chỉ một vấn đề
chính: Ngài xin ông nhận lại người nô lệ, Oneximo, đã trót dại bỏ trốn qua Roma
tìm tự do. Nhiều người đã so sánh việc Phaolô bầu cử cho Oneximo như việc Chúa
Giêsu bầu cử cho con người trước tòa Thiên Chúa. Đức bác ái của Kitô Giáo được
nhấn mạnh trong tòan thể thư này:
(1) Thánh Phaolô khen đức bác ái của
Philemon:
Ngay từ đầu thư, Phaolô đã đề cao đức bác ái của Philemon: “Thật thế, tôi rất
vui mừng và lấy làm an ủi, khi thấy đức bác ái của anh, bởi vì, thưa anh, anh
đã làm cho lòng trí các người trong dân thánh được phấn khởi.”
(2) Ngài nhân danh đức bác ái xin Philemon
làm cho Ngài một chuyện: nhận lại Oneximo. Theo luật của Roma thời đó, người chủ có tòan
quyền trên nô lệ của mình. Nếu người nô lệ trốn đi và bị chủ bắt lại, anh có
thể bị chủ giết chết. Thánh Phaolô rất hiểu tâm lý: Con người không thích bị
bắt buộc phải làm, nhưng muốn có tự do để quyết định, nên Ngài nói với
Philemon: “Mặc dầu nhờ kết hợp với Đức Kitô, tôi có đủ mạnh dạn để truyền cho
anh làm điều anh phải làm; nhưng tôi thích kêu gọi lòng bác ái của anh hơn, để
xin anh làm điều đó. Tôi, Phaolô, một người đã già và hơn nữa, một người đang
bị tù vì Đức Kitô Giêsu.”
(3) Thánh Phaolô đối xử bác ái với
Oneximo:
Ngài không coi anh như một người nô lệ nhưng như một người con ruột thịt. Ngài
nói với Philemon: “Tôi van xin anh cho đứa con của tôi, đứa con tôi đã sinh ra
trong cảnh xiềng xích, đó là Oneximo, kẻ xưa kia đối với anh là vô dụng, thì
nay đã thành người hữu ích cho cả anh lẫn tôi, tôi xin gửi nó về cho anh; xin
anh hãy đón nhận nó như người ruột thịt của tôi.”
(4) Thánh Phaolô quan tâm đến người khác
nhiều hơn mình: Mặc dù ngài muốn giữ Oneximo ở lại để giúp đỡ ngài trong lúc già
yếu và tù đày, nhưng Oneximo thuộc về Philemon; vì thế chỉ Philemon mới có
quyền quyết định: “Phần tôi, tôi cũng muốn giữ nó ở lại với tôi, để nó thay anh
mà phục vụ tôi trong khi tôi bị xiềng xích vì Tin Mừng. Nhưng tôi chẳng muốn
làm gì mà không có sự chấp thuận của anh, kẻo việc nghĩa anh làm có vẻ miễn
cưỡng, chứ không phải tự nguyện.”
(5) Thánh Phaolô khuyên Philemon nên đối
xử tốt với Oneximo: không phải như một người nô lệ nữa, mà như một người anh em trong
gia đình và trong Chúa: “Nó đã xa anh một thời gian, có lẽ chính là để anh được
lại nó vĩnh viễn, không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người
nô lệ, thì được một người anh em rất thân mến; đối với tôi đã vậy, phương chi
đối với anh lại càng thân mến hơn biết mấy, cả về tình người cũng như về tình
anh em trong Chúa.”
(6) Thánh Phaolô coi việc tiếp nhận
Oneximo là tiếp nhận chính ngài: “Vậy, nếu anh coi tôi là bạn đồng đạo, thì xin
anh hãy đón nhận nó như đón nhận chính tôi.” Và Ngài xin Philemon cho ngài được
hưởng ân huệ này nhờ Đức Kitô: “Xin anh cho tôi được hưởng niềm vui đó trong
Chúa. Anh hãy làm cho lòng trí tôi được phấn khởi trong Đức Kitô.”
2/ Phúc Âm: Triều
Đại của Thiên Chúa đang ở giữa các ông.
2.1/ Khi nào triều đại của Thiên Chúa đến? Các động từ chính liên
quan đến “triều đại của Thiên Chúa” trong câu 21 và 22 đều được dùng ở thời
hiện tại. Điều này chứng tỏ Thánh Luca muốn phân biệt triều đại của Thiên Chúa
đến trong trần gian với Ngày Đức Kitô sẽ đến lần thứ hai trong 4 câu kế tiếp.
Triều đại của Thiên Chúa đã đến trong trần gian, nhưng để nhận ra con người
không thể:
- dựa vào những dấu chỉ bên ngòai như
lời Chúa Giêsu tuyên bố: “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát
được. Và người ta sẽ không nói: Ở đây này! hay Ở kia kìa!” nhưng phải nhận ra
nhờ những dấu chỉ bên trong như đức tin vào Thiên Chúa, sống bác ái với mọi
người.
- triều đại của Thiên Chúa đang ở giữa
(hiện tại) các ông: Chúa Kitô là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa. Nhận ra Đức Kitô và
tin vào Ngài là dấu hiệu Triều Đại của Thiên Chúa đã đến trong lòng mỗi tín
hữu.
2.2/ Khi nào Đức Kitô sẽ đến lần thứ hai? Các động từ chính của
cả 3 câu 22, 23, 24 đều được dùng ở thời tương lai. Câu 25 là lời tiên tri:
Chúa Giêsu báo trước những gì sắp xảy ra cho Ngài trong tương lai gần. Về Ngày
Chúa Giêsu sẽ đến lần thứ hai:
- Không ai biết được thời gian: “Vì thế, khi người ta
sẽ bảo anh em: Người ở kia kìa! hay Người ở đây này! Anh em đừng đi, đừng chạy
theo.”
- Không ai biết được nơi chốn: “Vì như ánh chớp chói
loà chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người
cũng sẽ như vậy trong Ngày của Người.”
- Các môn đệ biết những gì sắp xảy ra cho
Chúa Giêsu trong tương lai gần: “Nhưng trước đó, Người phải chịu đau khổ nhiều và bị thế hệ
này loại bỏ.” Khi chứng kiến những sự kiện này, các môn đệ sẽ biết triều đại
của Thiên Chúa đã đến trong thế gian. Sau đó, Chúa Giêsu sẽ được cất đi khỏi
các ông. Lúc đó, các ông sẽ mong sống lại những ngày với Chúa Giêsu, nhưng
không còn nữa: “Sẽ đến thời anh em mong ước được thấy một trong những ngày của
Con Người thôi, mà cũng không được thấy.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG:
- Chúng ta có thể nhận ra Triều Đại của
Thiên Chúa đã đến với chúng ta bằng niềm tin của chúng ta vào Đức Kitô, biểu lộ
qua việc bác ái chúng ta đối xử với những người chung quanh, nhất là những
người kém may mắn, như Phaolô khuyên Philemon đối xử với Onesimo, người nô lệ.
- Triều đại của Thiên Chúa đến không từ
bên ngòai để chúng ta có thể nhận ra như những vương quốc của trần gian; nhưng
chúng ta có thể nhận ra triều đại của Thiên Chúa đã đến trong tâm hồn nhờ vào
những dấu chỉ bên trong như ăn năn xám hối, tin vào Đức Kitô, và sống bác ái
với mọi người.
- Về Ngày Chúa đến lần hai, Chúa Giêsu đã
nói rõ: Chắc chắn Ngày đó sẽ xảy ra, nhưng không ai biết được thời gian và nơi
chốn. Vì thế, đừng tiên đóan hay tin ai cho biết về Ngày đó. Tốt hơn, chúng ta
nên chuẩn bị và sẵn sàng chờ đợi.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
Thứ Năm tuần 32 thường
niên
Sứ điệp: Triều đại Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta. Chỉ
cần đón nhận Chúa Giêsu là gặp thấy triều đại Thiên Chúa. Ta hãy sống trọn giây
phút hiện tại để đón chờ Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, tuy con đang sống ở quê hương
dưới đất này, nhưng quê trời mới là quê thật của con. Cuộc sống con hôm nay,
với những sinh hoạt hàng ngày để xây dựng cho quê hương trần thế, đều là những
nỗ lực để chuẩn bị cho cuộc sống mai sau trên quê trời.
Thế nhưng, có những lúc con để công việc cuốn
hút mình như một cơn lốc. Tâm trí con quên mất Chúa, cõi lòng con khô khan
nguội lạnh. Nhìn lại quá khứ, con thấy mình trắng tay, chẳng có công nghiệp gì
ngoài tội lỗi. Con chưa sẵn sàng để đón chờ ngày của Chúa.
Lạy Chúa, quá khứ lầm lỗi đã qua rồi. Tương lai
sắp tới còn nằm trong vòng tay yêu thương của Chúa. Chỉ còn hiện tại, từng giây
từng phút của cuộc sống hôm nay, là thuộc quyền sở hữu của con. Con sẽ được
hạnh phúc vĩnh viễn hay con sẽ bị đau khổ đời đời là tùy cách sử dụng những
giây phút hiện tại của con.
Lạy Chúa, Chúa là Đấng vĩnh cửu đã sống trọn
thân phận làm người, là triều đại của Thiên Chúa đang hiện diện giữa chúng con.
Mỗi ngày sống hôm nay đều mang tính chất đời đời nếu con biết sống liên kết với
Chúa. Xin cho con biết đón nhận Chúa vào cuộc sống và kết hiệp với Chúa trong
mọi công việc. Xin giúp con trong từng giây phút hiện tại biết sống trọn vẹn
cho Chúa, để con được thực sự sống trong Nước Trời ngay từ hôm nay, và cho đến
mai sau muôn đời. Amen.
Ghi nhớ : "Nước Thiên Chúa ở giữa các ông".
www.phatdiem.org
15/11/12 THỨ NĂM TUẦN 32 TN
Th. Anbetô Cả, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh
Lc 17,20-25
Th. Anbetô Cả, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh
Lc 17,20-25
CHO NGÀY CHÚA QUANG LÂM
Đức Giêsu nói: “Vì, ánh chớp chói loà chiếu
sáng từ phương trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ như
vậy trong ngày của Người. Nhưng trước đó, Người phải chịu đau khổ nhiều và bị
loại bỏ.” (Lc
17,24-25)
Suy niệm: Cha Teilhard de Chardin gồm tóm suy
tư của mình trong ba tiếng: “Đăng giả hội” (những gì vươn lên cao
thì sẽ tụ hội với nhau). Trong tiến trình đó, đỉnh cao nhất của nhân loại là
được Kitô hoá, nghĩa là lúc mọi con người tụ hội nơi Chúa Kitô, vua
vũ trụ và sống với Cha trong tâm tình con thảo của Đức Kitô. Thế nhưng, trước
khi đến ngày quang lâm với ánh chớp chói loà còn hơn cả ánh sáng của triệu
triệu đèn pha hay bom nguyên tử ấy, thì Đức Kitô phải chấp nhận bị dìm trong
tăm tối: tăm tối của Vườn Dầu, tăm tối của khổ hình thập giá, tăm tối của mồ
đá… và hôm nay tăm tối nơi những người nghèo đói, đau khổ, bị bách hại vì sống
cho niềm tin, cho chân lý…
Mời Bạn: Ghi nhớ chân lý ngàn đời này là: có
qua đau khổ mới đạt được vinh quang, có qua thập giá vì Nước Trời mới đạt được
phục sinh vinh hiển. Bạn có sẵn sàng chấp nhận không?
Chia sẻ: Tôi cùng với cả nhóm làm một công tác phục vụ cộng
đồng với ý hướng cho Nước Chúa được thể hiện.
Sống Lời Chúa: Tôi vui lòng đón nhận những hy sinh,
vất vả do bổn phận mỗi ngày của mình để được hạnh phúc Nước Trời với Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin cảm tạ Chúa đã
chọn chúng con làm môn đệ Chúa. Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa xây
dựng một thế giới yêu thương và công bằng, vui tươi và hạnh phúc, để ngày Chúa
đến thực là một ngày vui trọn vẹn cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Amen.
(Rabbouni)
www.5phutloichua.net
Nước
Thiên Chúa
Nơi nào
công lý và hòa bình, khoan dung và nhân hậu, chi phối trái tim và cách hành xử
giữa người với người, nơi đó Nước Thiên Chúa đã đến gần hơn.
Suy niệm:
Từ sau khi dân Israel định cư
ở đất Canaan,
Thiên Chúa được họ coi như một
vị Vua cai trị mọi dân tộc.
Đặc biệt Ngài là Vua ngự giữa
dân Israel để lãnh đạo và chăm sóc họ.
Các vị vua trần thế đã xuất
hiện trong dòng lịch sử của Israel
như những người phục vụ cho
Đức Vua, cho Nước Thiên Chúa.
Tiếc thay có những vị vua đã
không làm tròn sứ mạng.
Trải qua bao triều vua của
nước Israel, bao thịnh suy của đất nước,
từ sau khi lưu đầy trở về, dân
chúng chỉ còn biết chờ một Đấng Mêsia.
Họ tin Đấng ấy sẽ khai mở Nước
Thiên Chúa.
“Nước Thiên Chúa đang ở giữa
các ông” (c. 21).
Đức Giêsu đã nói với các ông
Pharisêu như vậy
khi họ hỏi Ngài khi nào Nước
Thiên Chúa đến.
Nước ấy không đến một cách lộ
liễu ở đây hay ở kia để kiểm tra (c. 20).
Người Pharisêu không nhận ra
Nước ấy đang ở giữa họ.
Chỉ ai biết nhìn, mới nhận ra
Nước ấy đang hiện diện và hoạt động
nơi lời giảng và các phép lạ
của Đức Giêsu.
Khi bệnh được khỏi, khi quỷ bị
trừ, khi tội được tha,
khi con người biết hoán cải để
sống những đòi hỏi của Đức Giêsu,
khi ấy Nước Thiên Chúa có mặt
và tăng trưởng.
Đức Giêsu đã khai mở Nước
Thiên Chúa.
Và Nước đó vẫn lớn lên từ từ
qua dòng thời gian.
Như hạt giống được gieo trong
đất, đêm hay ngày cũng cứ lớn lên,
như chút men làm dậy khối bột,
như hạt cải thành cây cao rợp bóng,
Nước Thiên Chúa cũng cần thời
gian để đạt đến chỗ viên mãn.
Hai ngàn năm trôi qua, Nước
Thiên Chúa đã lớn lên về mọi mặt.
Nhưng Kitô hữu chúng ta vẫn
thấy còn nhiều điều phải làm
để Nước đó được nhìn nhận bởi
hơn 7 tỷ người trên trái đất.
Ngày nào thế giới còn chiến
tranh, bạo động, còn áp bức, bất công,
ngày nào nhân loại còn bệnh
tật đói nghèo, còn nô lệ cho vật chất,
ngày ấy Nước Thiên Chúa chưa
ngự trị trên địa cầu.
Nơi nào công lý và hòa bình,
khoan dung và nhân hậu,
chi phối trái tim và cách hành
xử giữa người với người,
nơi đó Nước Thiên Chúa đã đến
gần hơn.
Chúng ta không chỉ cầu xin cho
Nước Cha trị đến (Mt 6, 10).
Chúng ta biết mình được mời
gọi để xây dựng Nước đó trên trần gian.
Để chuẩn bị cho Ngày Chúa
Giêsu trở lại trong vinh quang,
chúng ta còn bề bộn công việc
phải làm.
Ngài phải có chỗ trong lòng
dân tộc, giữa thế kỷ hai mươi mốt.
Nhưng trước hết Ngài phải có
chỗ trong lòng chúng ta.
Xin được đón lấy Nước Thiên
Chúa như trẻ thơ, như người nghèo tay trắng.
Xin được quảng đại bán tất cả
để mua viên ngọc quý là Nước Trời.
Xin được chia sẻ cho Giêsu nơi
những người anh em bé nhỏ nhất.
Vì Nước Thiên Chúa là một tiệc
vui quy tụ mọi người từ bốn phương,
xin được mở rộng vòng tay từ
bây giờ để ôm lấy cả thế giới.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, đây là ước mơ của
con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của
cả trái đất này
là thuộc về mọi người, mọi
dân tộc.
Con mơ ước
không còn những Ladarô đói
ngồi ngoài cổng,
bên trong là người giàu yến
tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có
việc làm tốt đẹp,
không còn những cô gái đứng
đường
hay những người ăn xin.
Con mơ ước
những ngưòi thợ được hưởng
lương xứng đáng,
các ông chủ coi công nhân
như anh em.
Con mơ ước
tiếng cười trẻ thơ đầy ắp
các gia đình,
các công viên và bãi biển
đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con,
con ước mơ một thế giới đầy
màu xanh,
xanh của rừng, xanh của
trời, xanh của biển,
và xanh của bao niềm hy
vọng
nơi lòng những ai ham sống
và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng
con những ước mơ,
thì xin giúp con thực hiện
những ước mơ đó.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
"Nước
Thiên Chúa ở giữa các ông".
Mầu nhiệm Nước Chúa
Tìm
kiếm Thiên Chúa vẫn luôn là thao thức của con người. Nhiều người Do Thái nôn
nao chờ đợi Nước Thiên Chúa nhưng dù có thao thức, có chờ đợi họ cũng không gặp
dẫu rằng Nước Thiên Chúa đang hiện diện giữa họ. Chúa Giêsu đã giải thích lý
do: "Nước Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được".
Tìm kiếm Thiên Chúa chỉ để thỏa mãn hay để biện minh cho hành động của mình thì
chẳng bao giờ có thể gặp được Ngài.
Trọng
tâm của bài giảng của Chúa Giêsu là mầu nhiệm nước Chúa. Mầu nhiệm ấy không thể
nắm bắt được bằng mắt trần hay bằng lý luận của con người. Chúa Giêsu mời gọi
mọi người đi vào mầu nhiệm Nước Chúa. Nước Chúa không ở chỗ này hay chỗ kia.
Nước Chúa chỉ đến bằng cái chết của Chúa Giêsu mà thôi. Chúa Giêsu đã hé mở cho
các môn đệ thấy cuộc khổ nạn của Ngài và các cuộc bách hại mà Giáo Hội sẽ trải
qua. Chính qua các cuộc bách hại mà hạt giống đức tin được gieo vãi, Giáo Hội
được thanh luyện, củng cố và lớn lên. Do đó, không phải cái vẻ hào nhoáng với
các cơ cấu tổ chức và biểu dương bên ngoài rầm rộ của Giáo Hội thể hiện mầu
nhiệm Nước Chúa, nhưng là chính ở sức mạnh tinh thần của niềm tin, một niềm tin
sẵn sàng mất tất cả, ngay cả sự sống của mình để được trung thành với những giá
trị của Tin Mừng. Chính niềm tin ấy mới thể hiện được mầu nhiệm thâm sâu của
Nước Chúa.
Nguyện
xin Chúa cho chúng ta biết cởi bỏ cái nhìn hẹp hòi ích kỷ để nhận ra Nước Thiên
Chúa đang hiện diện giữa chúng ta. Xin cho chúng ta luôn tâm niệm rằng chúng ta
chỉ gặp được Thiên Chúa trong yêu thương và phục vụ mà thôi.
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Tin dổm về tận thế
Người
Pha-ri-sêu hỏi Đức Giêsu bao giờ Triều Đại Thiên Chúa đến. Người trả lời:
“Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được”. (Lc. 17,
20-21)
Ngay
thời ngôn sứ Đa-ni-en, dân Do thái đã bàn tán về ngày nước Thiên Chúa đến và sự
chờ đợi cuồng nhiệt lan tràn khắp nước Ít-ra-en. Người ta khảo sát các điềm
trời và các tai họa xảy ra. Họ tính toán khá thông thái để tiên báo về ngày giờ
tận thế. Đức Giêsu loan báo nước Thiên Chúa đã đến ngoài sức tính toán tự nhiên
của con người, nên biệt phái muốn hỏi Đức Giêsu bao giờ triều đại Thiên Chúa
đến.
Triều đại Thiên Chúa đã đến rất êm ái
Câu
trả lời của Đức Giêsu làm sửng sốt: Nước Thiên Chúa đến không ai có thể quan
sát được. Tất cả mọi dấu chỉ loan báo và tính toán đều vô giá trị. Nước ấy đã
đến và biệt phái không nhận ra vì con tim và lỗ tai của họ đóng kín, câm lặng,
chính hành động của Đức Giêsu cho thấy và cho hiểu về nước Chúa đã đến vì Người
nhờ ngón tay Thiên Chúa để trừ quỷ, và lời Người đang sưởi nóng con tim của
những kẻ khốn cùng. Thời cứu độ đã bắt đầu, nhưng ai không đón tiếp Đức Giêsu,
không thể nhận biết được nước Thiên Chúa.
Khi
trả lời những kẻ không tin, Đức Giêsu quay lại phía các môn đệ, các ông biết
Đức Giêsu đã đến phục hưng lại nước Thiên Chúa và Người phải trở lại để hoàn
tất mọi sự. Người đã tiên báo cho các ông rằng trước ngày quang lâm xảy ra
những khốn khổ, những ngày khủng khiếp làm mọi người xao xuyến lo âu. Lúc đó,
họ không còn kiên nhẫn chờ đợi ngày Con Người trở lại và họ sẽ bị thôi thúc tìm
dấu chỉ và tin những tiên tri giả. Họ sống giữa những cảnh buồn sầu khổ sở lớn
lao rồi lại để mình bị loại bỏ.
Người đến như ánh chớp chói lòa chiếu sáng.
Con
Người đến trong vinh quang sáng chói hơn cả tia sáng bom nguyên tử, bom khinh
khí và chiếu sáng khắp nơi không gì che lấp được. Con Người đến thình lình đột
ngột như các tai họa đổ xuống loài người và luôn luôn sẵn sàng đến bất cứ lúc
nào.
Trước
khi biến cố này xảy đến, Đức Giêsu phải chịu xỉ vả, hạ nhục, phản bội bởi thế
hệ này và các thế hệ kế tiếp. Tình yêu chắc chắn chiến thắng. Nhưng trước khi
chiến thắng hận thù và chia rẽ, Người phải hành động để thuyết phục chứ không
dùng bạo lực. Giáo hội cũng phải chịu khổ nhục một thời và các Kitô hữu phải
biết kiên trì giữ vững đức tin luôn luôn sẵn sàng đón tiếp Con Người đến.
RC.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 11
15 THÁNG MƯỜI MỘT
Đức Giêsu Trân Trọng
Những Thực Tại Đời Thường
Tiệc cưới Cana trong Tin Mừng Gioan là một câu chuyện hùng hồn
nổi bật trên bối cảnh giáo lý mạc khải. Ở đầu sứ vụ mêsia của Người, Đức Giêsu
Na-da-rét xuất hiện ở Cana, xứ Galilê, để dự một đám cưới. Người không đến đó
một mình. Mẹ Người và các môn đệ Người cùng có mặt với Người ở đó.
Điều ấy cho thấy tầm quan trọng mà Đức Giêsu gán cho biến cố
này. Tuy nhiên, thoạt nhìn, chúng ta không khỏi ngạc nhiên. Cả bốn Sách Tin
Mừng đều trình bày Đức Giêsu như một người dốc hết tâm lực để phụng sự Cha trên
trời (Lc 2,49). Chính Người nói rằng sứ mạng của Người qui hướng vào việc thiết
lập Nước Thiên Chúa, không phải một vương quốc trên cõi đời này.
Vì thế, việc Người tham dự một đám cưới có thể thoạt thấy như
chẳng ăn nhập gì với tiếng gọi và với lối sống của Người. Nhưng sự thật không
phải thế. Thầy Chí Thánh muốn dạy chúng ta biết cách định hướng các thực tại
trần gian này qui hướng về Vương Quốc của Thiên Chúa. Đám cưới ở Cana là một
biến cố nêu bật giáo huấn này. Đức Giêsu liên đới với các thực tại đời thường
của cuộc sống con người để giúp chúng ta hiểu rằng những giá trị đích thực của
con người có thể và phải phục vụ cho một định mệnh siêu vượt trên cuộc sống
trần gian này.
+++++++++++++++++
Lời
Chúa Trong Gia Đình
Thánh Albertô Cả, giám mục, tiến sĩ;
Plm 7, 20; Lc 17, 20-25.
LỜI SUY NIỆM: Người
Pharisêu hỏi Đức Giêsu bao giờ Triều Đại Thiên Chúa đến. Người trả lời: “Triều
Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. Và người ta sẽ
không nói: “Ừ đây này!” hay “Ở kia kìa”, vì Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa
các ông.”(Lc 17,20-21).
Câu hỏi này
không chỉ có ở những người Pharisêu vào thời
của Chúa Giêsu; nhưng nó vẫn đang còn có trong tâm tưởng của rất nhiều
người. Kể cả những người Ki-tô hữu không chịu học hỏi Lời Chúa. Không chịu sống
với Tin Mừng mà mình đã đón nhận, đang thả mình trôi nổi theo nhịp sóng của
dòng chảy trần gian. Đối với Chúa Giêsu Triều Đại Thiên Chúa không đến với
những hiện tượng, hình dáng mà con người có thể nhìn thấy bằng mắt hay sờ mó
bằng tay, hay nghe rõ bằng tiếng mẹ đẻ của mình. Nhưng Triều Đại Thiên Chúa
thuộc về lãnh vực của Đức Tin, là một thực tại đang hoạt động để cứu độ loài
người. Và những ai tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ trần gian do chính Thiên
Chúa sai đến mà đón nhận Ngài là tìm thấy Triều Đại Thiên Chúa.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương
Thánh Nhân
Ngày 15/11
THÁNH ALBERTÔ CẢ, Gíam mục, Tiến Sĩ Hội Thánh (1206 - 1280)
Thánh Albertô là một người thuộc thế hệ đầu của dòng Đaminh, Dòng
được thành lập năm 1216. Ngài góp phần lớn trong những tiến triển quan trọng về
trí thức trong thế kỷ XIII và Đức giáo hoàng Piô XII năm1941 đã đặt Ngài làm
thánh bảo trợ cho những ai say mê nghiên cứu các khoa học tự nhiên.
Ngài sinh ra tại Swabia có lẽ vào năm 1206, là con trưởng thuộc
một gia đình quí phái trong binh nghiệp. Điều người ta biết rõ về người thiếu
niên Đức này là lòng yêu thích nghiên cứu học hành và thiên nhiên. Khi thì Ngài
học với các thầy dòng Benedictô, khi thì Ngài lạc lõng trong miền quê, say mê
quan sát cây cỏ khám phá các loại cây và để cho năng khiếu chín mùi trước cảnh
sắc của tạo hóa.
Cuối cùng Albertô đã bỏ rơi truyền thống hiệp sĩ của gia đình. Một
người cậu đã dẫn Albertô tới Bologne để hoàn tất việc học hành. Ngài nghe một
bài giảng của chân phước Giocdano (Jordain) miền Saxe thuộc dòng Đaminh và cảm
thấy được Chúa gọi, Nhưng lại ngập ngừng vì mới 16 tuổi. Ông cậu muốn Albertô
quên đi ý tưởng này. Nhưng ở Padua, Albertô gặp lại chân phước Giocđanô và sau
một cuộc đàm thoại đã nói với Ngài :- Thưa thày ai đã tỏ lộ lòng con cho Ngài ?
Từ đây không ai ngăn cản nổi ơn kêu gọi của Albertô nữa. Ngài vào
nhà tập dòng anh em giảng thuyết. Lời cầu nguyện của Ngài diễn tả một ước muốn
sống tự thoát: - "Lạy Chúa Giêsu Kitô, con kêu lên Chúa, xin Chúa đừng để
con bị quyến rũ bởi những lời hão huyền về danh giá gia đình, về uy thế của
dòng tu, về sự lôi cuốn của khoa học".
Dưới ánh sáng chân lý Ngài đã tuân theo, Albertô nhiệt thành
nghiên cứu khoa học và trở thành tu sĩ thánh thiện, nhà tư tưởng lớn, giáo sư
siêu việt, nhà sưu tầm bách khoa tài ba. Ngài có sự hiểu biết uyên bác đặc biệt
như một số những nhà trí thức lớn thời Trung cổ.
Luôn luôn tìm gia tăng những hiểu biết, Albertô rảo qua khắp nước
Đức, thu thập những ý niệm về các loại súc vật cây cỏ, trước tác những tác phẩm
về khoa học tự nhiên. Ngài quan tâm tới các thuyết của Aristote và tìm cách
Kitô hóa các lý thuyết đó. Ngài lần lượt dạy học tại Cvologne, Pribourg,
Ratisbonne, Strasbourg, Ngài sẽ ảnh hửơng trọng yếu tới người học trò thiên phú
này là "bò câm", Ngài tiên báo rằng: tiếng rống của con bò này sẽ
vang dội khắp nơi.
Khoảng năm 1240, Ngài tới Paris giữ ghế giáo sư tại đây. Các lớp
học quá nhỏ không đủ để dung nạp hết các thính giả của Ngài, Ngài phải dạy họ
tại công trường nay vẫn còn giữ tên Ngài: công trường Maubert hay Albertô cả.
Lời Ngài có uy tín đến nỗi để chấm dứt cuộc tranh luận chỉ cần nói: "Thày
Albertô đã nói vậy".
Tài năng Ngài lan rộng tại đại học Paris, đạihọc danh tiếng nhất
thế giới. Ngài trú ngụ tại nhà dòng thánh Giacobê, viết nhiều tác phẩm về nhiều
đề tài khác nhau: thần học, toán học, luân lý, chính trị, triết học, hình học,
điạ chất học. Người ta kể rằng: ngày kia một thày dòng Đaminh vô danh đến trước
mặt thánh Albertô, tội nghiệp cho sự lao lực của Ngài và khuyên Ngài nghỉ ngơi
lo lắng tới sức khỏe. Đây lại chẳng phải là một thần dữ mặc lốt thày dòng sao ?
Để trả lời, thánh làm dấu thánh giá. Thế là hết các cám dỗ, satan trốn mất.
Vua thánh Luy (Louis) tỏ tình nghĩa với thày dòng thời danh này và
trao cho Ngài nhiều kỷ vật quí báu trước khi nghe về Đức, bởi vì thánh Albertô
được đặt làm giám tỉnh. Vâng lệnh đức giáo hoàng , Ngài giã từ căn phòng sách
vở và học trò, suốt ba năm Ngài đi bộ, không tiền của, ăn xin để thăm các nhà
dòng và lập nhiều nhà mới. Roma kêu mời Ngài để làm sáng tỏ cuộc tranh cãi giữa
các giáo sĩ. Albertô được một thời an bình trong dòng để dạy học và viết lại
những quan sát và suy tư của mình. Nhưng Đức giáo hoàng buộc Ngài nhậm chức Đức
giám mục Ratisbonne, một trách vụ năng nề.
Trong trung tâm giàu có phồn thịnh này, người ta kể lại rằng: Đức
giám mục không có lấy "một đồng tiền trong két, một giọt rượu trong hầm,
một nhúm bột trong vựa". Dầy vậy, thánh ALBERTO vẫn trả hết nợ và xây dựng
một nhà thương. Khi đã hoàn thành công cuộc hết sưc có thể, Ngài xin từ chức để
trở lại đời sống một tu sĩ đơn giản. Năm 1623 theo lệnh Đức giáo hoàng, Ngài đi
kêu gọi nghĩa binh trong các làng quê nước Đức.
Một năm sau Đức giáo hoàng qua đời và Ngài ngừng công việc lại.
Thánh Albertô thấy cần được hồi tâm. Ngài lui về tu viện Surtzbourg và đắm mình
vào cuộc nghiên cứu và chỉ đi sửa lại những cuộc tranh luận cãi. Một lần nữa
lại được rảo gọi qua các đô thị lớn nước Đức, Ngài thánh hiến các thánh đường,
truyền chứa cho các giáo sĩ. Năm 1270 Ngài đến dạy tại Cologne. Ơ Công đồng
Lyon, Ngài bênh vực Rodolphe I miền Habbsourg. Bảy năm sau, tức năm 1277, dầu
đã già Ngài buộc phải đi Paris để bênh vực cho giáo thuyết học trò mình là Tôma
Aqunô.
Albertô hoàn toàn già nua, Ngài chọn cho mình một phần mộ trong
dòng và mỗi ngày đến đọc kinh nhật tụng cầu cho kẻ chết, để cầu cho chính mình.
Dần dần Ngài đâm ra lú lẫn. Một lần có du khách hỏi thăm Ngài trả lời chắc
nịch: - "Albertô không còn ở đây nữa, ông ta ..."
Ngài qua đời êm ái tại phòng riêng giữa các anh em đầy chung
quanh, Ngài được phong làm tiến sĩ Hội Thánh năm 1931.
(Daminhvn.net)
++++++++++++++++++
15 Tháng Mười Một
Xuống Núi
Có hai vị thiền sư vừa
xuống núi. Họ đi vào trong một con đường lầy lội. Cơn mưa nặng hạt đã khiến một
thiếu nữ xinh đẹp không thể băng qua ngã tư lầy lội được... Lập tức, một trong
hai vị thiền sư đến bồng người thiếu nữ trên tay và đưa qua đường. Vị sư khác
lấy làm khó chịu nên không mở miệng nói với bạn mình một lời. Mãi một lúc sau,
không còn nhịn được nữa, ông ta mới lên tiếng: "Chúng ta là người tu hành,
không được phép gần đàn bà, nhất là những cô gái đẹp. Sao anh lại bồng đàn bà
trên tay?".
Vị sư đã bồng người
thiếu nữ trên tay mỉm cười đáp: "Tôi đã bỏ cô ta tại chỗ rồi. Còn anh sao
cứ mãi mang cô ta tới đây".
Chúa Giêsu đã nói: "Chính từ lòng người mới xuất phát mọi
tội ác... Sự hoán cải đích thực chính là hoán cải nội tâm. Tất cả những thực
hành đạo đức bên ngoài, nếu không đi cùng một ý hướng ngay lành và một tâm hồn
sám hối thực sự, chỉ là trò giả hình...
(Lẽ Sống)
Ngày 15
Thánh Anbetô Cả, giám mục, tiến sĩ Hội
Thánh
Khi Thiên Chúa nhận ra tấm bánh, thì Người nhận ra Đức Giêsu. Khi dâng bánh và
rượu, tất cả chúng ta đều có gương mặt của Đức Giêsu. Khi nói với Thiên Chúa về
những người nam, người nữ và các trẻ em, thì việc dâng bánh và rượu nói với
Thiên Chúa về Đức Giêsu.
Jean Debruynne
Để đi tới
Thiên Chúa là Thầy chúng ta, không vật cản, cách dễ dàng, chắc chắn, tự do và
thanh bình, để kết hợp và gắn
bó với Người bằng một sự hoà hợp không phân ly và bình an, trong thịnh vượng và
trong nghịch cảnh, khi sống cũng như
khi chết, chúng ta phải tuyệt đôì đặt mọi sự với lòng tin cậy và yên tâm, trong
tay quan phòng vững vàng và chắc chắn của Chúa.
Có phải ngạc nhiên về điều đó không? bởi vì chỉ mình
Thiên Chúa ban cho mọi tạo vật, trước hết sự tồn tại, khả năng và hành động, nghĩa là bản thể, tính năng
và hoạt động, sau đó chủng loại, phương thức và thứ tự, với số lượng, trọng lượng và kích thước Cũng
như tác phẩm nghệ thuật giả định là tác phẩm của thiên nhiên, cũng vậy tác phẩm
thiên nhiên giả định là tác phẩm của Thiên Chúa, Đấng tạo thành, bảo quản, điều
hành và quản lý. Thật vậy, quyền lực, khôn ngoan và lòng tốt của Thiên Chúa thì vô cùng, lòng nhân
hậu, công minh, chân lý thì không thay đổi, với vĩnh cửu và bao la, ấ't cả đều thuộc vể một mình Thiên Chúa.
Thánh Anbetô Cả
www.tinmung.net
Thứ Năm 15-11
Thánh Albert Cả
(1206-1280)
Thánh Albert Cả là linh mục Ða Minh người Ðức có ảnh hưởng đến lập
trường dứt khoát của Giáo Hội đối với triết lý của Aristotle được du nhập vào
Âu Châu do sự phát triển của Hồi Giáo.
Các sinh viên triết biết đến ngài như vị thầy của Thánh Tôma
Aquinas. Sự hiểu biết về triết Aristotle của Thánh Albert tạo môi trường thích
hợp cho Thánh Tôma Aquinas phát triển quan niệm tổng hợp của ngài về văn hóa Hy
Lạp và thần học Kitô Giáo. Nhưng Thánh Albert vẫn xứng đáng là một học giả am
tường, trung thực và cần cù.
Ngài là con cả của một lãnh chúa quyền thế và giầu có ở Ðức. Ngay
từ nhỏ ngài đã nổi tiếng thông minh. Lớn lên, ngài vào trường đại học ở Padua,
nước Ý, và chính ở đây ngài gia nhập dòng Ða Minh khiến gia đình thật khó chịu.
Sự lưu tâm vô bờ của ngài đến các lãnh vực khác nhau đã thúc giục
ngài viết các tổng lược về: khoa học tự nhiên, hùng biện, toán học, thiên văn,
luân lý, kinh tế, chính trị và siêu hình học. Công trình này phải mất 20 năm
mới hoàn tất. Ngài nói, "Mục đích của chúng tôi là đưa ra tất cả những
học thuật trước đây để Giáo Hội Tây Phương có thể lĩnh hội được."
Ngài đạt được mục đích ấy trong khi vừa giảng dạy tại Paris và
Cologne, vừa làm bề trên dòng Ða Minh và ngay cả khi là giám mục của
Regensburg. Ngài bảo vệ các dòng Ða Minh và Phanxicô chống với sự tấn công của
William ở St. Amour, và giúp Thánh Tôma chống với tà thuyết Averroist.
Ngài từ trần ở Cologne ngày 15-11-1280. Ngài được Ðức Giáo Hoàng
Piô XI phong thánh và được tuyên xưng là Tiến Sĩ Hội Thánh năm 1931.
Lời Bàn
Kitô Hữu ngày nay phải đối diện với sự tràn ngập kiến thức trong
mọi lãnh vực. Họ cần đọc báo chí Công Giáo ngày nay để biết được phản ứng của
Giáo Hội trước những khám phá mới về khoa học xã hội, về lối sống người Kitô
Hữu cũng như thần học Kitô Giáo. Khi phong thánh cho Thánh Albert, Giáo Hội đã coi
sự quý trọng chân lý, bất cứ tìm thấy ở đâu, như đặc tính thánh thiện của ngài.
Tính hiếu kỳ của thánh nhân đã khiến ngài đào xới trong kho tàng khôn ngoan của
triết học mà Giáo Hội thời ấy đang sôi nổi với những khó khăn.
Lời Trích
"Có những người muốn hiểu biết chỉ để hiểu biết; đó là sự
tò mò đáng hổ thẹn. Có những người muốn hiểu biết để nhờ đó họ được nổi tiếng;
đó cũng là sự phù hoa và nhục nhã. Những người khác lại muốn hiểu biết để kiếm
tiền hay thăng quan tiến chức; đó cũng là điều mất thể diện. Nhưng cũng có
những người muốn hiểu biết để họ có thể sinh lợi cho chính linh hồn họ và linh
hồn người khác; đó là lòng bác ái. Trong những loại hiểu biết kể trên, chỉ có
loại sau cùng là biết sử dụng kiến thức cách xứng hợp" (Thánh Bernard,
Bài Giảng Về Diễm Ca)
www.nguoitinhuu.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét