Trang

Thứ Hai, 12 tháng 11, 2012

13-11-2012 : THỨ BA TUẦN XXXII MÙA THƯỜNG NIÊN


Thứ Ba sau Chúa Nhật 32 Quanh Năm

Bài Ðọc I: (Năm II) Tt 2, 1-8. 11-14
"Chúng ta hãy sống đạo đức, khi trông đợi niềm hy vọng hạnh phúc và cuộc xuất hiện của Ðức Giêsu Kitô là Thiên Chúa và là Ðấng cứu độ chúng ta".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Titô.
Con thân mến, con hãy giảng dạy những gì hợp với đạo lý lành mạnh. Những ông cao niên hãy sống tiết độ, đoan trang, khôn ngoan, lành mạnh trong đức tin, đức mến, đức kiên nhẫn. Các bà cao niên cũng thế, phải ăn ở thánh thiện, chớ nói hành nói xấu, chớ mê say rượu chè, nhưng biết dạy đường lành, để dạy cho các thiếu phụ biết mến chồng thương con, khôn ngoan, thanh khiết, tiết độ, chăm lo việc nhà, hiền hậu, tùng phục chồng, để lời Thiên Chúa khỏi bị xúc phạm.
Các thanh niên cũng thế, con hãy khuyên dạy cho chúng biết tiết độ. Trong mọi sự, con hãy nên gương mẫu về các việc lành, tinh tuyền trong giáo huấn, trang nghiêm, lời lẽ lành mạnh không ai bắt bẻ được, để đối phương phải xấu hổ, vì không thể nói xấu chúng ta điều gì.
Vì chưng, ân sủng của Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ chúng ta, đã xuất hiện cho mọi người, dạy chúng ta từ bỏ gian tà và những dục vọng trần tục, để sống tiết độ, công minh và đạo đức ở đời này, khi trông đợi niềm hy vọng hạnh phúc và cuộc xuất hiện sự vinh quang của Ðức Giêsu Kitô là Thiên Chúa cao cả và là Ðấng Cứu Ðộ chúng ta. Người đã hiến thân cho chúng ta để cứu chuộc chúng ta khỏi mọi điều gian ác, luyện sạch chúng ta thành một dân tộc xứng đáng của Người, một dân tộc nhiệt tâm làm việc thiện.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 36, 3-4. 18 và 23. 27 và 29
Ðáp: Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ (c. 39a).
Xướng: 1) Hãy trông cậy Chúa và hãy làm lành, để được cư ngụ trong đất nước, thọ hưởng an ninh. Hãy hân hoan tin tưởng vào Chúa, Người sẽ ban cho sự lòng bạn thỉnh cầu. - Ðáp.
2) Chúa chăm lo cho mạng sống người nhân đức, và phần gia nghiệp họ còn mãi muôn đời. Nhờ ơn Chúa mà hiền nhân vững bước, và Người yểm hộ đường lối người đi. - Ðáp.
3) Hãy tránh ác và hãy làm lành, hầu được an cư tới ngàn thu. Những người hiền sẽ được đất nước, và cư ngụ ở đó tới ngàn thu. - Ðáp.

* * *

Alleluia: Cl 3, 16a và 17c
Alleluia, alleluia! - Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em; anh em hãy nhờ Ðức Kitô mà tạ ơn Chúa Cha. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 17, 7-10
"Chúng tôi là đầy tớ vô dụng: vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán: "Ai trong các con có người đầy tớ cày bừa hay chăn súc vật ngoài đồng trở về liền bảo nó rằng: "Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa", mà trái lại không bảo nó rằng: "Hãy lo dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống đã, sau đó ngươi mới ăn uống"? Chớ thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo lệnh ông dạy không? Thầy nghĩ rằng không.
"Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: "Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm".
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Thiên Chúa dựng nên chúng ta để chúng ta phục vụ Ngài, qua đời sống thờ phựơng, kính mến và qua những anh em chúng ta. Chúa muốn chúng ta khiêm tốn phục vụ Chúa bằng sự chu toàn bổn phận: cha mẹ đối với con cái, con cái đối với cha mẹ, tình bác ái huynh đệ với tha nhân, một tín hữu trong Giáo Hội, một người công dân đối với tổ quốc... Chúng ta cũng không huyênh hoang tự đắc vì những gì mình làm được. Vì tất cả mọi sự đều là Chúa ban. Chúng ta chỉ là dụng cụ của Chúa, nên ta phải có thái độ khiêm tốn khi phục vụ.

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa, xin biến chúng con thành những khí cụ đắc lực trong bàn tay của Chúa, để chúng con biết khiêm tốn phụng sự Chúa trong tâm tình hiếu thảo, tin yêu và phục vụ anh chị em trong tình yêu thương của Chúa. Amen.
 (Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)

Tinh Thần Phục Vụ Ðích Thực
(Lc 17,7-10)
Suy Niệm:
Tinh Thần Phục Vụ Ðích Thực
Nhân vật nổi tiếng trong Giáo Hội hiện nay được thế giới nhắc nhớ và thương mến nhất, hẳn phải là Mẹ Terêsa Calcutta, một người đã được nhiều giải thưởng nhất: giải Magsaysay do chính phủ Phi Luật Tân dạo thập niên 60; đầu năm 1971, Mẹ lại được Ðức Phaolô VI trao giải Gioan XXIII vì hòa bình; giải thưởng Kenedy do chính phủ Hoa Kỳ tặng, tất cả số tiền nhận được, Mẹ đã dùng để xây dựng trung tâm Kenedy tại một khu ổ chuột ở ngoại ô Calcutta; tháng 12/1972 chính phủ Ấn nhìn nhận sự đóng góp của Mẹ và trao tặng Mẹ giải Nêru; nhưng đáng kể hơn nữa là giải Nobel Hoà bình năm 1979, đây là giải thưởng đã làm cho tên tuổi Mẹ Têrêsa được cả thế giới biết đến, cũng như những lần khác, khi một viên chức chính phủ Ấn gọi điện thoại để chúc mừng, Mẹ đã trả lời: "Tất cả vì vinh quang Chúa".
"Tất cả vì vinh quang Chúa", đó là động lực đã thúc đẩy Mẹ Têrêsa dấn thân phục vụ người nghèo trên khắp thế giới. Với bao nhiêu danh vọng và tiền bạc do các giải thưởng mang lại, Mẹ vẫn tiếp tục là một nữ tu khiêm tốn, nghèo khó, làm việc âm thầm giữa những người nghèo khổ nhất. Thông thường, các giải thưởng cho một người nào đó như một sự nhìn nhận vào cuối một cuộc đời phục vụ làm việc hay một công trình nghiên cứu; nhưng đối với Mẹ Têrêsa, mỗi giải thưởng là một bàn đạp mới, một khởi đầu cho một công trình phục vụ to lớn hơn và làm cho nhiều người biết đến và ngợi khen Thiên Chúa nhiều hơn.
Qua cuộc đời của Mẹ Têrêsa, chắc chắn thế giới sẽ hiểu hơn thế nào là tinh thần phục vụ đích thực trong Giáo Hội. Một Giáo Hội càng phục vụ thì bộ mặt của Chúa Kitô phục vụ càng sáng tỏ hơn; trái lại, khuôn mặt Chúa Kitô sẽ lu mờ đi, nếu Giáo Hội chưa thể hiện được tinh thần phục vụ đích thực của Ngài.
Tin Mừng mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay mời gọi chúng ta nhìn nhận những thiếu sót của chúng ta: có lẽ dung mạo của một Chúa Kitô phục vụ và phục vụ cho đến chết chưa được phản ảnh trên gương mặt của các Kitô hữu; tinh thần phục vụ đích thực của Kitô giáo vẫn chưa được sáng tỏ và thể hiện qua cách sống của các Kitô hữu. Chúa Giêsu đã khẳng định: "Khi làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm những việc bổn phận mà thôi". Ðầy tớ là người làm tất cả những mọi sự vì chủ, đầy tớ là người hoàn toàn sống cho chủ. Dĩ nhiên, ở đây, Chúa Giêsu không có ý đề cao quan hệ chủ tớ trong xã hội. Ngài đã xem quan hệ trong xã hội con người và Thiên Chúa như một quan hệ chủ tớ; Ngài đã chẳng mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa như một người Cha và mời gọi chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha đó sao?
Như vậy, ở đây, Chúa Giêsu chỉ muốn dùng hình ảnh người đầy tớ vốn có trước mắt người Do thái, để nói lên tương quan đích thực giữa con người và Thiên Chúa, đó là con người chỉ sống thực sự khi nó sống cho Thiên Chúa mà thôi. Cái nghịch lý lớn nhất mà Kitô giáo đề ra là càng tìm kiếm bản thân, càng sống cho riêng mình, con người càng đánh mất chính mình; trái lại, càng sống cho Thiên Chúa, càng tìm kiếm vinh danh Thiên Chúa, nghĩa là càng phục vụ vô vị lợi, con người càng lớn lên và càng tìm lại được bản thân; giá trị đích thực của con người như Chúa Giêsu đã dạy và đã sống chính là phục vụ một cách vô vị lợi. Công Ðồng Vaticanô II trong Hiến Chế "Vui Mừng và Hy Vọng" đã để lại một châm ngôn đáng được chúng ta suy niệm và đem ra thực hành: "Con người chỉ tìm gặp lại bản thân bằng sự hiến thân vô vị lợi mà thôi".
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại định hướng cơ bản trong cuộc sống chúng ta: đâu là mục đích và ý nghĩa cuộc sống chúng ta? đâu là giá trị đích thực mà chúng ta đang tìm kiếm và xây dựng trong cuộc sống hiện tại.
 (Veritas Asia)

Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần 32 TN2
Bài đọc: Tit 2:1-8, 11-14; Lk 17:7-10.

   GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Con người có bổn phận phục vụ Thiên Chúa.

Trong lãnh vực thương mại, khi một người ra ngân hàng mượn tiền, họ có bổn phận phải trả lại cho ngân hàng cả vốn lẫn lời. Cùng một cách như vậy đối với Thiên Chúa, Ngài đã cho con người vay tất cả mọi sự: tình yêu, ơn thánh, sự sống, khôn ngoan, tài năng, thời gian, của cải vật chất. Con người phải trả lại tương xứng tất cả những gì Thiên Chúa đã cho vay, và còn phải hơn thế nữa cho phân lời. Khi hòan tất cả vốn lẫn lời, con người mới chỉ chu tòan bổn phận mà thôi. Trong Bài đọc I, Thánh Phaolô nhắc nhở Titô bổn phận phải trau dồi kiến thức cũng như đức hạnh trước khi có thể gíao dục mọi thành phần Dân Chúa trong giáo đòan. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chỉ dạy các môn đệ: Thiên Chúa không cần phải biết ơn con người; vì nếu con người hết lòng phục vụ Thiên Chúa, họ mới chỉ chu tòan bổn phận của họ mà thôi.

                                                                                KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Phải giáo dục mọi thành phần của Dân Chúa biết sống tốt lành.
Thư gởi Titô là một trong các Thư Mục Vụ. Gọi là các Thư Mục Vụ vì nội dung liên quan đến đời sống các tín hữu. Bổn phận người lãnh đạo là phải giáo dục và chăm sóc mọi thành phần trong giáo đòan, không được lơ là bất cứ một thành phần nào. Đọan văn hôm nay nói tới:
1.1/ Bổn phận giáo dục mọi thành phần trong Giáo-đòan của Titô:
(1) Bản thân người lãnh đạo: Không ai có thể cho cái mình không có nên Phaolô khuyên Titô phải biết trau dồi bản thân về cả 2 phương diện tri thức và đức hạnh:
- về phương diện tri thức: Lãnh đạo phải khôn ngoan sáng suốt. Điều quan trọng trước tiên là phải rành rẽ đạo lý mình tin tưởng: “Khi anh giảng dạy thì đạo lý phải tinh tuyền, thái độ phải đàng hoàng, lời lẽ phải lành mạnh, không ai bắt bẻ được, khiến đối phương phải bẽ mặt, vì không thể nói xấu chúng ta được điều gì… Hãy dạy những gì phù hợp với giáo lý lành mạnh.”
- về phương diện đức hạnh: Không phải chỉ dạy đạo lý thôi, mà “chính anh hãy làm gương về mặt đức hạnh.”
(2) Các thành phần trong cộng đòan: Người lãnh đạo không được chỉ chú trọng đến một hay vài giới trong dân, nhưng phải giáo dục mọi thành phần của Dân Chúa. Lý do đơn gỉan: tất cả đều là các chi thể của một thân thể; và nếu một chi thể đau, tòan thân sẽ phải chịu cùng hậu quả. Thánh Phaolô khuyên Titô nên dạy:
- Các cụ ông: Là những người chủ trong gia đình, họ có bổn phận làm gương và hướng dẫn gia đình của họ: “Hãy khuyên các cụ ông phải tiết độ, đàng hoàng, chừng mực, vững mạnh trong đức tin, đức mến, và đức nhẫn nại.”
- Các cụ bà: Phúc đức tại mẫu. Các bà có bổn phận dạy dỗ con: “Phải ăn ở sao cho xứng là người thánh, không nói xấu, không rượu chè say sưa, nhưng biết dạy bảo điều lành.”
- Các thiếu nữ: Các bà mẹ phải dạy cho những bà mẹ tương lai: “biết yêu chồng, thương con, biết sống chừng mực, trong sạch, chăm lo việc nhà, phục tùng chồng, để lời Thiên Chúa khỏi bị người ta xúc phạm.”
- Các thanh niên: Anh cũng hãy khuyên các thanh niên phải giữ chừng mực trong mọi sự.

1.2/ Lý do tại sao phải sống tốt lành: Thánh Phaolô đưa ra 3 lý do:
(1) Ân sủng của Thiên Chúa ban: là để sống tốt lành. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính, và đạo đức ở thế gian này.
(2) Niềm hy vọng vào cuộc sống đời sau: Mọi tín hữu phải sống tốt lành vì “chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang.” Trong ngày đó, con người sẽ phải lãnh nhận hậu quả cho các việc mình đã làm.
(3) Là Dân Riêng của Thiên Chúa: Các tín hữu đã được rửa sạch bằng Máu Thánh của Đức Kitô, nên họ phải sống cuộc đời thanh sạch: “Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân Riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện.”

2/ Phúc Âm: Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.

2.1/ Bổn phận và việc thiện nguyện: Để hiểu ý nghĩa đọan văn ngắn này, chúng ta cần phân biệt 2 hành động:
(1) Bổn phận phải làm: Bổn phận của đầy tớ là phải phục vụ chủ, không cần biết việc phải làm nhiều đến đâu: "Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: "Mau vào ăn cơm đi!" chứ không bảo: "Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau!” Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao?”
(2) Việc thiện nguyện: Nếu một người không phải là đầy tớ, mà tình nguyện phục vụ người khác; đó mới là việc thiện nguyện. Người lãnh nhận phải biết ơn người tình nguyện phục vụ.
2.2/ Thiên Chúa có cần phải biết ơn con người? Cũng vậy, con người có bổn phận phục vụ Thiên Chúa, vì Ngài đã dựng nên con người; đồng thời Ngài đầu tư vào con người tất cả những gì cần thiết để làm việc sinh lời cho Ngài: ơn thánh, thời gian, sức khỏe, tài năng… Khi con người ra sức làm việc để sinh lời tương xứng cho Chúa, đó mới chỉ là hòan tất bổn phận hay công bằng, vì mượn vốn thì phải trả cả lời lẫn vốn. Vì mọi sự trên đời là của Thiên Chúa, nên Ngài không cần phải biết ơn con người như Chúa Giêsu nói hôm nay: “Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”
Tuy nhiên, nếu Thiên Chúa ưu đãi và đối xử tốt với con người như trong trình thuật khác của Luca: “Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ” (Lk 12:37); đó là vì Ngài quá thương yêu con người mà thôi.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Bổn phận của người lãnh đạo cộng đòan là phải giáo dục đức tin và nhân bản cho mọi thành phần trong giáo đòan. Để có thể chu tòan bổn phận, người lãnh đạo trước tiên phải có một đức tin vững mạnh, khôn ngoan học hỏi, dạy dỗ mọi thành phần, và phải làm gương sáng cho mọi người.
- Chúng ta phải ra sức tận dụng những quà tặng Thiên Chúa ban: sự sống, ơn thánh, thời gian, khôn ngoan, tài năng, của cải vật chất, để sinh lời cho Ngài.
- Cho dẫu hòan tất tốt đẹp và trả lại tương xứng cho Thiên Chúa, con người cũng không có quyền đòi Thiên Chúa phải biết ơn họ; vì họ mới chỉ làm tròn bổn phận đã được giao phó mà thôi.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP

Thứ Ba tuần 32 thường niên
Sứ điệp: Ta chỉ là đầy tớ của Chúa. Có làm được gì cho Chúa, thì đó cũng là do bổn phận phải làm. Vì vậy hãy phục vụ Chúa cách khiêm tốn.
Cầu nguyện:Lạy Chúa Giêsu, trước tôn nhan Thiên Chúa cao cả, con chẳng là gì, dù là đầy tớ cũng chẳng xứng đáng. Hơn nữa, chính Chúa cũng đã tự nguyện chọn sống cuộc đời tôi tớ. Xin Chúa cho con hiểu được Lời Chúa hôm nay để con sống tinh thần tôi tớ theo gương Chúa.
Vì con chưa ý thức mình là đầy tớ của Chúa, nên con chưa ý thức được những bổn phận phải làm. Con cầu nguyện, dự lễ, mà tưởng như con làm ơn cho Chúa. Con làm việc tông đồ, mà như thể con làm ơn cho Giáo Hội. Vì chưa ý thức mình là đầy tớ của Chúa, nên con thường đòi hỏi quyền lợi, đòi được trả công, đòi được tôn trọng, đòi được ghi ơn.
Lạy Chúa, xin giúp con ý thức con chỉ là đầy tớ để con làm việc bổn phận phải làm. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để con làm theo Ý Chúa chứ không theo ý con. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để con làm hết sức mình như thể chỉ có mình con, nhưng đồng thời cũng khiêm tốn như thể chẳng cần đến con. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để khi thất bại hay bị chê bai, con không nản chí, và khi thành công hay được khen ngợi, con không tự mãn. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để con đừng bao giờ ganh tị với người khác, nhưng vui trong phận mình và sẵn sàng làm những công việc nhỏ bé thấp hèn nhất. Xin cho con ý thức mình là đầy tớ, để con phụng sự Chúa cho xứng đáng, phục vụ với tâm hồn quảng đại, vô vị lợi, và phần thưởng duy nhất là biết mình đã làm theo ý Chúa. Amen.
Ghi nhớ :"Chúng tôi là đầy tớ vô dụng: vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm".
www.phatdiem.org

13/11/12 THỨ BA TUẦN 32 TN
Lc 17,7-10 

THÂN PHẬN NÔ BỘC CỦA CHÚA
“Đối với anh em cũng vậy; khi đã làm tất cả những gì Thiên Chúa truyền dạy cho mình, thì phải nói: ‘Chúng tôi chỉ là những tôi tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm việc bổn phận đó thôi’.”(Lc 17,10)
Suy niệm: Ta thường quan niệm một Thiên Chúa sòng phẳng, một Thiên Chúa tiền trao cháo múc: Khi ta sốt sắng đọc kinh, đi lễ, tham gia hội đoàn, sống tốt với người khác… dường như Chúa mang ơn ta, và phải trả công cho ta sòng phẳng ngay ở đời này, nhiều lúc phải ngay lập tức. Đức Giêsu nhắc cho ta nhớ đến thân phận thụ tạo của mình: ta không có quyền gì đòi hỏi Chúa, cũng chẳng có tư cách gì để bắt Chúa phải mắc nợ ta. Hình ảnh người đầy tớ đi cầy ruộng hay chăn chiên về không có quyền kể công hay bắt chủ phải mang ơn, phải phục vụ mình nhắc ta nhớ đến thân phận thụ tạo ấy. Mỗi người chúng ta chỉ là nô bộc của Chúa, không hơn không kém. Nếu Chúa đổ tràn trề hồng ân trên ta là do lòng yêu thương của Ngài, chứ không do chút công trạng cỏn con của ta.
Mời Bạn: Nhớ rằng bạn là nô bộc của Chúa và phải sống đúng thân phận đó. Nếu có được chút địa vị, tư cách nào, bạn đừng tự hào tự phụ, mà hãy nhớ mình là tôi tớ vô dụng, sở dĩ hữu dụng là nhờ hồng ân Chúa.
Sống Lời Chúa: Trước khi đi ngủ, quỳ gối tạ ơn Chúa đã nâng bạn từ hàng tôi tớ vô dụng lên hàng bạn hữu, và hứa sẽ sống đúng địa vị ưu đãi ấy.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, chúng con thường quên thân phận thụ tạo, thân phận tôi tớ của mình. Chúa là chủ đời chúng con, còn chúng con chỉ là nô bộc trong tay Chúa. Xin cho chúng con ý thức thân phận ấy, để luôn sống khiêm tốn như người tôi trung của Chúa. Amen.
www.5phutloichua.net
ĐẦY TỚ VÔ DỤNG
Ta không được phép nghĩ Thiên Chúa như một ông chủ tàn nhẫn. Đức Giêsu đã mang lấy thân phận một nô lệ để cứu chúng ta. Ngài đã sống như người hầu bàn cho các môn đệ 
Suy nim:
Vào thời xưa, những tù binh bại trận phải làm nô lệ cho phe thắng.
Khi nhân phẩm của từng con người chưa được nhận ra
thì chuyện mua bán nô lệ là chuyện dễ hiểu (Xh 21, 21).
Dân Ítraen cũng có kinh nghiệm về việc bị bắt làm nô lệ ở Ai-cập,
và kinh nghiệm được Thiên Chúa giải phóng để trả lại tự do.
Những kinh nghiệm này khiến cho chế độ nô lệ ở Ítraen bớt tàn nhẫn.
Người chủ không có quyền bạc đãi nô lệ của mình (Xh 21, 26-27).
Có những nô lệ còn được trao trách nhiệm quản trị thay cho chủ.
Nếu nô lệ là người Do thái thì sau sáu năm phục vụ,
năm thứ bảy anh phải được trả tự do (Xh 21, 2).
Hơn nữa, sách Lêvi còn nói đến việc chuyển đổi biên chế
để một nô lệ Do thái trở thành người làm công trong nhà (25, 39-55).
Tin Mừng hôm nay là một dụ ngôn nói về chuyện một ông chủ.
Ông có một đầy tớ, hay đúng hơn ông sở hữu một anh nô lệ (doulos).
Có một sự khác biệt lớn giữa nô lệ và người làm công.
Anh nô lệ được mua về, và anh phải hoàn toàn lệ thuộc vào chủ.
Khác với người làm công, anh nô lệ không được đòi hỏi gì.
Người nô lệ phải làm mọi việc chủ bảo làm
mà không được đòi lương hay bất cứ ân huệ nào khác.
Đức Giêsu mời các môn đệ đặt mình vào hoàn cảnh của ông chủ.
Có thể ông chỉ có một anh nô lệ thôi,
nên anh vừa phải lo việc đồng áng, vừa phải lo việc cơm nước.
Khi anh từ ngoài đồng về, sau cả ngày làm việc,
sau khi đã vất vả đi cày hay đi chăn chiên (c. 7),
liệu ông chủ có mời anh ngồi vào bàn, ăn cơm tối với mình không?
Câu trả lời vào thời đó dĩ nhiên là không.
Anh sẽ phải tiếp tục phục vụ chủ bằng cách vào bếp, dọn bữa tối.
Khi bữa tối được dọn xong, khi ông chủ ngồi ăn uống thảnh thơi,
thì anh nô lệ phải đứng hầu bàn,
thắt lưng gọn gàng trong tư thế của người đang làm việc (c. 8).
Chỉ khi ông chủ ăn uống xong, bấy giờ mới đến lúc anh ăn uống.
“Ông chủ có biết ơn anh nô lệ, vì anh đã làm theo lệnh truyền không?”
Câu trả lời vào thời đó dĩ nhiên là không.
Ông chủ chẳng phải trả công cho anh nô lệ.
Và anh cũng không chờ bất cứ một lời khen hay ân huệ nào từ ông chủ.
Anh hồn nhiên làm điều anh phải làm mỗi ngày, thế thôi.
Dụ ngôn này của Đức Giêsu gây sốc cho chúng ta ngày nay,
những người vất vả lo việc Chúa, những người ít khi được nghỉ.
Chúng ta cũng thuộc về Chúa tương tự như một nô lệ (Cv 4, 29).
Chúng ta làm điều phải làm (c. 10),
nhưng không như người làm công chờ lương,
cũng không đòi tiếng khen, quyền lợi, hay đặc ân nào khác từ chủ.
Người tông đồ giống như người đi cày (Lc 9, 62),
chăn chiên (Cv 20, 28), hay hầu bàn (Lc 22, 27).
Khi chu toàn mọi việc được giao, vẫn nhận mình là đầy tớ vô dụng,
không một chút kiêu hãnh, đòi hỏi công lao hay tự hào về thành quả.
Thanh thoát với chính những công việc lớn lao mình đã làm,
siêu thoát khỏi cái tôi muốn phình to bằng công đức,
đó là điều mà Đức Giêsu muốn nhắn nhủ cho những ai làm việc cho Chúa.
Dù sao ta không được phép nghĩ Thiên Chúa như một ông chủ tàn nhẫn.
Đức Giêsu đã mang lấy thân phận một nô lệ để cứu chúng ta (Ph 2, 7).
Ngài đã sống như người hầu bàn cho các môn đệ (Lc 22, 27).
Và Ngài sẽ cư xử như một người hầu bàn ăn cho ta
khi Ngài đến mà thấy ta vẫn tỉnh thức đợi chờ (Lc 12, 37).
Cầu nguyn:
Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến,
xin dạy con biết sống quảng đại,
biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài,
biết cho đi mà không tính toán,
biết chiến đấu không ngại thương tích,
biết làm việc không tìm an nghỉ,
biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào
ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

"Chúng tôi là đầy tớ vô dụng: vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm".

Nô lệ không đòi gì.
“Đối với anh em cũng vậy: Khi đã làm tất cả theo lênh phải làm, thì hãy nói: Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm những việc bổn phận đấy thôi.” (Lc. 17, 10)
Đức Giêsu dùng nhiều thí dụ cụ thể trong đời sống thường ngày để loan báo sứ điệp của Người. Hôm nay Người tiếp tục giáo huấn về đức hạnh của các phần tử của Hội thánh.
Chỉ lo phục vụ chủ mình:
Biệt phái quan niệm giao ước như là một bản hợp đồng về những luật lệ của Thiên Chúa đối với con người. Khi người ta hoàn tất những giới răn như luật dạy, Thiên Chúa mắc nợ với con người: người ta có quyền đòi con nợ của mình. Quan niệm này là nền tảng cho kiêu ngạo và tự mãn của họ.
Trong khi dạy các phần tử của Hội thánh sống khiêm tốn và nương tựa hoàn toàn vào Thiên Chúa, Đức Giêsu đối lập lại với thái độ của biệt phái. Người kể gương người nông phu đã nêu cao tinh thần phục vụ lên hàng đầu, vừa đi cày về, còn mau mau dọn cơm cho chủ ăn. Ở đây, Đức Giêsu không muốn dạy bài học luân lý. Người muốn hơn nữa: không những vô vị lợi mà còn chỉ cho con người phải sống như đầy tớ của Thiên Chúa. Đấng sáng tạo vũ trụ vạn vật.
Người đầy tớ làm ruộng như một nông nô không có quyền gì với ông chủ của nó. Nó phải làm điều chủ đòi nó làm. Nó không được chờ đợi bất cứ điểm tốt nào hay bất cứ một lời cảm ơn gì. Cũng thế, con người ta là một đầy tớ cùng khốn đối với Thiên Chúa. Nó không được quyền gì để cho mình có giá trị. Thiên Chúa không phải trả công hay tưởng thưởng nó. Nó chẳng đáng gì, ngoài ra phải làm phận sự đầy tớ của mình, vì chính Thiên Chúa đã ban đời sống cho nó, gìn giữ nó sống và nâng cao đời sống nó lên.
Không một phần thưởng
Các tông đồ bỏ tất cả theo Đức Giêsu và chấp nhận mọi yêu sách cốt yếu nhất của Chúa. Như Phê-rô đã hỏi: “Vậy chúng con sẽ được gì?”. Cả các ông cũng chỉ là những đầy tớ vô dụng ư? Câu đáp của Đức Giêsu là các anh đã chỉ làm việc bổn phận mình thôi. Các anh không có quyền đòi cung cấp chi hết. Do lòng thương yêu của Chúa, Chúa đã tặng không mọi sự cho con người, con người phải làm vinh danh và nhớ ơn Thiên Chúa.
Giáo huấn của Đức Giêsu muốn duy trì sự bình an trong Giáo hội. Mỗi người là một đầy tớ vô dụng, được kêu gọi làm theo lệnh Chúa, với tinh thần hoàn toàn khiêm tốn. Không ai có thể dành riêng cho mình một địa vị ưu tiên nào, vì Thiên Chúa là chủ mọi ân huệ và phân phát cho ai tùy Ngài muốn.
RC.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 11
13 THÁNG MƯỜI MỘT
Bảo Vệ Quyền Của Phụ Nữ Tại Môi Trường Lao Động
Trong thời đại chúng ta, vấn đề bình đẳng nam nữ đang được giải quyết, ít nhất về mặt pháp lý, bằng những đạo luật nhìn nhận sự bình đẳng nam nữ tại môi trường làm việc. Tuy nhiên, như Thông Điệp Pacem in terris ghi nhận, chúng ta phải đảm bảo cho phụ nữ “quyền có các điều kiện làm việc phù hợp với các yêu cầu và các bổn phận của họ trong tư cách là vợ và là mẹ”. Chúng ta phải xây dựng một xã hội trong đó phụ nữ có thời giờ để nuôi dạy con cái mình – là những nhà xây dựng và những nhà kiến thiết tương lai. Giáo Hội rất ý thức nhu cầu này, như tôi đã nói tại một hội nghị Thượng Hội Đồng giám mục trước đây: “Gia đình phải được sống cách xứng đáng ngay cả khi người mẹ không thể cống hiến hoàn toàn cho gia đình.” Điều này không có nghĩa rằng phải khai trừ phụ nữ ra khỏi thế giới lao động làm ăn hay ra khỏi những hoạt động công cộng ngoài xã hội.
‘Sự thăng tiến đích thực của phụ nữ đòi hỏi rằng công việc làm phải được tổ chức sao cho họ không bị bắt buộc phải trả giá cho sự tiến thân bằng việc bỏ mất ơn gọi chuyên biệt của họ trong gia đình. Bởi vì phụ nữ có một vai trò không thể thay thế được, đó là vai trò làm mẹ” (LE 19).
Đó là giáo huấn của Giáo Hội. Trong một xã hội mong muốn có sự công bằng và nhân đạo, thì những nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân vị con người phải chiếm chỗ nhất trong bậc thang các giá trị. Chúng ta phải bảo vệ những nhu cầu này và nêu cao tầm quan trọng của nhân vị con người trong các gia đình chúng ta. Chúng ta không được phép quên phẩm giá của vai trò làm mẹ và tầm quan trọng của công việc nuôi dạy con cái.
+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình
Tl 2, 1-8.11-14; Lc 17, 7-10.
LỜI SUY NIỆM: “Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: ‘Mau vào ăn cơm đi’, chứ không bảo: ‘Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau!”(Lc 17,-7-8)
Trong vai trò người tôi tớ của mỗi người khác hẳn với vai trò là người phục vụ. Đối với tất cả người Ki-tô hữu, dù là đấng bậc nào cũng phải phải nhận ra mình là người tôi tớ của Thiên Chúa và của Giáo Hội; hay là những người phục vụ Thiên Chúa và Giáo Hội; Bởi giữ hai cương vị này hoàn toàn khác hẳn nhau. Nếu là vai trò người phục vụ, thì chỉ cần chu toàn công việc được giao, là đã làm tròn trách nhiệm, và có quyền đòi hỏi quyền lợi tương xứng với công việc mà mình hoàn thành theo đúng hợi đồng; và nếu có làm thêm công việc khác, thì tùy vào ý muốn của mình chứ không bị bắt buộc. Còn đối với người tôi tớ thì không giới hạn công việc và thời gian. Cứ khi nào chủ cần, chủ muốn sai bảo làm việc gì  vào bất cứ lúc nào cũng phải chu toàn, không có quyền đòi hỏi, nếu không chu toàn sẽ bị đánh đòn hoặc bị loại bỏ ra ngoài. Hãy nhìn vào vai trò tôi tớ của Đức Mẹ Maria đối với Thiên Chúa; để chúng ta sống với Thiên Chúa và sống với tha nhân.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
13 Tháng Mười Một
Ánh Mắt Mẹ Tôi

Paul Nagai, một bác sĩ người Nhật, từ sau quả bom nguyên tử ném xuống Nagasaki, đã trở thành con người bất hủ, vì sự tận tụy và tấm lòng hy sinh vô bờ bến của ông. Từ vô thần, ông đã trở thành người có niềm tin. Ông đã giải thích như sau:
"Trong kỳ nghỉ mùa xuân, lúc đó tôi học hết năm thứ hai y khoa, mẹ tôi trúng phong. Tôi hối hả chạy đến đầu giường của người. Trong cơn hấp hối, người nhìn tôi và thở ra. Cái nhìn cuối cùng của cặp mắt người mẹ đã sinh ra, đã giáo dục và đã thương tôi đến cùng, cặp mắt này đã nói với tôi một cách rõ rệt rằng: cho dù khuất núi, người vẫn ở bên tôi luôn mãi... Tôi không tin gì ở sự hiện hữu của linh hồn. Bỗng nhiên, trong ánh mắt của mẹ tôi, tôi đã nhìn thấy linh hồn của người... Từ đó, con người tôi đổi hẳn, tôi tin rằng mẹ tôi, người đã sinh ra tôi, đã yêu thương tôi, không thể bị tiêu diệt hoàn toàn sau cái chết".
Chúng ta có một linh hồn bất tử. Ðó là nền tảng của phẩm giá con người. Nếu sinh ra, sớm nở tối tàn như bông hoa đồng nội và cuối cùng trở về với cái không vô tận, thì đâu là giá trị của con người?...
Chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, chúng ta mang trong mình ánh lửa của Vĩnh Cửu, cho dù thân xác này có hư nát đi, chúng ta vẫn tiếp tục cuộc sống mai hậu. Ðó là cùng đích của chúng ta.
(Lẽ Sống)
Ngày 13



Thánh Gioan Thánh Giá nói một cách hài hước: "Đừng quá bắt chước các thánh, bởi vì ma quỉ ch
cho các bạn chép lại những khuyết điểm của các ngài thôi!" Những người bạn của Đức Giêsu, dù là ai, chỉ ở bên cạnh chúng ta để lôi kéo chúng ta về với Người, làm cho tình bạn của chúng ta với Người mạnh mẽ hơn. Các thánh là những người định hướng trên trời, giúp chúng ta thoát khỏi những hành động máy móc của cuộc sống không triển vọng của chúng ta.
 
Tin Mừng là một cuốn sách được mỗi người viết với dấu ấn bằng lửa và máu. Và thánh thiện là thế, chỉ là thế: coi Tin Mừng, tất cả Tin Mừng là quan trọng. Đơn giản là trở thành điều chúng ta đã là, qua bí tích Rửa tội. Xa mọi quan niệm quý phái, đó là nhận ra rằng tất cả chúng ta đều được mời gọi nên thánh Nhưng cũng là nhận biết rằng chúng ta không thể nên thánh, ngoài Đức Kitô.
 
Trong một xã hội càng ngày càng trở thành cái chợ, nơi người ta mua bán theo những ham thích, có ích hay vô nghĩa, của mỗi người. Vâng, chúng ta được khích động giữ điều chủ yếu cho Giáo Hội, là giữ vững Lời Chúa trong tiếng n ào của lời con người.. Giữ điều chủ yếu và giữ cho đến cùng.
Hồng Y Roger Etctiegaray

Hạnh Các Thánh
Ngày 13 tháng 11
THÁNH SIMPHÔRIANÔ TỬ ĐẠO

Gia đình Simphôrianô được liệt vào bậc vị vọng nhất trong thành phố Autun, vì có những bậc tổ tiên anh hùng, lại giầu sang và quyền thế. Nhưng điều mà gia đình ấy lấy làm vinh dự và hạnh phúc hơn cả chính là đã được nhận biết và tin theo chân lý. Vào thế kỷ II, hai linh mục thừa sai Bêninha và Anđôkia tới giảng đạo tại Autun đã được gia đình này tiếp đãi nồng hậu. Hai nhà truyền giáo đã rửa tội cho con cái họ và những người bà con bạn hữu của gia đình ân nhân này.
Trong khung cảnh gia đình tốt phúc ấy, Simphôrianô lớn lên với nhiều đức tính tốt. Trí óc của cậu mỗi ngày thêm mở mang, lịch lãm vì học vấn, còn tâm hồn cậu được rèn đúc kỹ càng bởi giáo lý tinh tuyền của Phúc âm. Vì thế, dù giữa tuổi hoa niên mà Simphôrianô đã tỏ ra khôn ngoan chín chắn trước tuổi, khiến các bậc lão thành cũng nhiều phen kính nể. Lúc này cậu thực là bông hoa tô điểm cho Autun, nhưng mai ngày cậu sẽ là đấng bảo trợ của thành phố đó. Giữa bao quyến rũ và nguy hiểm của tuổi thanh niên, Simphôrianô vẫn giữ được tâm hồn trong trắng. Những gương xấu và tội lỗi của một thế giới ngoại giáo vây quanh không làm nhơ bẩn được tâm hồn thanh sạch của người thanh niên ấy. Được như vậy cùng là nhờ ở kết quả của một nền giáo dục công giáo mà Simphôrianô đã lĩnh nhận nơi bà hiền mẫu Augusta.
Người mẹ hiền đó mỗi ngày đều dạy con đọc một vài trang Sách Thánh và bắt con chú ý đến những đoạn có thể giúp ích cho việc đào tạo trí tuệ và tâm hồn của con. Bà vui mừng thấy con ngày một tiến tới trong tình yêu Chúa, và vững mạnh đủ để lướt thắng những thử thách và quyến rũ chờ đợi con mai ngày. Phải chăng bà đã tiên cảm thấy môi trường con bà sống là một môi trường nguy hiểm?
Thực vậy, Autun tuy là thành phố có một giòng lịch sử vẻ vang và cố cựu, nhưng lại là nơi ngự trị của quỷ thần. Vì nơi đây dân chúng sống theo mê tín, dị đoan và rất sùng bái thần Cybel, Apôllô và Điana.
Vậy tới ngày lễ mừng thần Cybel, dân chúng sau khi đã ăn uống say sưa và chơi bời thoả thích, họ đổ xô tới khấn vái và sụp lạy trước tượng thần được mệnh danh là mẹ các thần. Sau đó tượng nữ thần được kiệu qua các phố, và bất cứ ai đi qua đều phải cúi mình thờ lạy thần tượng.
Tuy nhiên, có một chàng thanh niên tuổi chừng đôi mươi gặp đám rước đó, chàng rất tức bực và nhất định không chịu bái kính. Chàng thanh niên đó chính là Simphôrianô. Dân chúng thấy vậy liền la hét om sòm:
- Hãy tôn thờ thần Cybel đi !
- Tôi tôn thờ Thiên Chúa hằng sống chứ không thờ một tượng gỗ câm. Một vài người nói:
- Nó có đạo !
Rồi người ta bắt và giải nộp Simphôrianô cho Hêracliô, một pháp quan Rôma biệt phái với nhiệm vụ thanh trừng các người công giáo. Lòng đầy tin tưởng vào Đấng đã hứa trợ giúp ai tuyên xưng danh Người trước mặt các vua quan, Simphôrianô hiên ngang và vui vẻ đi đến pháp đình.
Người giáo hữu trẻ tuổi đó được dẫn đến trước mặt Hêracliô, ông này lên giọng hách dịch hỏi Simphôrianô:
- Anh kia, tên gì, con nhà nào ?
- Tôi tên là Simphôrianô, tôi là người công giáo.
- Có đạo à ? Ngươi làm thế nào mà có thể trốn thoát cho đến bây giờ ? Vì lâu nay ta có thấy ai xưng đạo nữa đâu. Nhưng thôi, hãy cứ trả lời cho ta hay, tại sao anh lại không tôn thờ tượng mẫu thần ?
- Thưa ông, tôi đã nói là tôi theo đạo công giáo. Tôi chỉ thờ lạy một vị Thiên Chúa hằng sống, Đấng ngự trị trên trời cao thẳm, chứ không bao giờ chịu cúi mình trước một hư tượng của quỷ thần. Trái lại, tôi chỉ muốn cho tượng đó một nhát búa để đập nó vỡ ra tan tành.
Nghe lời nói cương quyết và ngạo mạn như thế, quan án quay ra nói với viên võ quan ngồi cạnh ông:
- Thằng này không những đã xúc phạm đến thần minh, mà còn tỏ ra lếu láo và bất trị nữa. Nó có ở thành phố này không?
- Vâng, hắn là người ở đây, và gia đình hắn vào bậc vị vọng và thế giá nhất trong thành.
Sau đó, Hêracliô lại quay ra nói với Simphôrianô:
- Ừ, anh lấy đó làm vinh dự lắm phải không ? Nhưng anh không biết sắc lệnh của Hoàng đế sao ? Hãy đọc cho nó nghe.
Bấy giờ một viên lục sự đọc sắc lệnh của Hoàng đế. Vừa đọc xong, quan án lại quay ra nói với thánh tử đạo:
- Anh nghĩ sao ? Tôi chỉ có thể khép anh về hai tội: bất kính các thần minh và bất tuân pháp luật. Vậy nếu anh không nghĩ lại, tôi không thể nào tha chết cho anh được, nhưng sẽ trị tội anh để làm gương cho người khác.
Trước lời đe dọa đó, thánh tử đạo không hề nao núng, nhưng được ơn trên nâng đỡ, ngài lớn tiếng tuyên xưng đức công chính và lòng từ bi nhân lành của Chúa.
Thấy những cố gắng của mình vô hiệu, đối lại người chiến sĩ của Chúa Kitô vẫn một niềm cương quyết giữ vững lập trường, nên Hêracliô truyền đánh roi ngài như đánh một tên nô lệ. Đánh xong, ông truyền giam Simphôrianô vào ngục thất, hy vọng rằng những ngược đãi và cực nhọc của lao tù sẽ làm cho ngài sờn lòng thối chí chăng. Sự thực lại xảy ra khác hẳn điều ông đã nghĩ, vì Chúa hằng nâng đỡ con cái Người.
Hết hạn giam tù, Hêracliô lại truyền điệu tù nhân đến. Lúc này thân xác của thánh tử đạo suy nhược và gầy còm vì bị đánh đòn và giam tù, khiến ai trông thấy ngài cũng phải mủi lòng! Trong khi đó thì tinh thần ngài lại rất vững mạnh và sáng suốt đủ để khinh chê những lời dụ dỗ và hứa hẹn của vị pháp quan Rôma.
Vừa thấy Simphôrianô, Hêracliô làm bộ xót thương, một tình thương còn ngàn lần nguy hiểm hơn những lời đe dọa. Ông nói:
- Này Simphôrianô, hãy nghĩ xem, anh sẽ phải thiệt thòi biết bao nếu anh không tôn thờ các thần minh bất tử ? Anh hãy vâng lời đi và ta hứa cho anh một chức vụ và địa vị quan trọng trong hàng ngũ quân đội của nhà vua. Lại nữa, anh sẽ được trọng thưởng cân xứng với chức vụ của anh. Anh hãy nghĩ đến những nguy hiểm phải chịu, nếu như hôm nay anh không chịu uốn gối trước tượng mẫu thần và các thần minh cao cả của chúng ta.
Simphôrianô đáp lại:
- Quan lớn không nên mất giờ để nói những lời phù phiếm huyền hoặc như thế. Nếu mỗi ngày không cố gắng để tập lấy một đức tính tốt mới mà lại tập một điều nguy hại, thì người ta càng phải kinh hãi biết bao, nếu mỗi ngày cứ lạc xa đường công chính để vô tình sống buông theo nết hư thói xấu!
Vị pháp quan Rôma vẫn cố gắng gặng Simphôrianô nói một lời chối đạo! Một lần nữa, ông lại nhắc đến những lời hứa hẹn phỉnh phờ, và hào hứng kể lại những danh vọng đang chờ đón thánh tử đạo ở triều đình.
Trước những lời tâng bốc, phỉnh phờ đó, Simphôrianô chỉ dửng dưng đáp lại:
- Quan toà dùng quyền thế mình mà dương bẫy cho kẻ vô tội, tức là tỏ ra thiếu liêm khiết. Những của cải và danh vọng mà chúng tôi trông đợi nơi Đức Giêsu Kitô, chúng tôi biết rằng thời gian sẽ không làm hư hỏng. Trái lại, những của cải mà ma quỷ hứa hẹn cho các ông, sẽ giam giữ các ông trong lưới dò của chúng, và làm cho các ông phải lo âu xao xuyến đêm ngày. Của cải của chúng tôi không thuộc về trần gian này và thù địch cũng không hề cướp mất được. Niềm hoan lạc của các ông ngắn ngủi và giống như một cục đá lạnh sớm biến tan khi vừa có một tia sáng mặt trời. Lạc thú của các ông cũng mau qua, chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban cho chúng tôi một hạnh phúc vô tận.
Xấu hổ vì thất bại, Hêracliô hét lên giận dữ:
- Thôi đủ rồi, ta không đủ kiên nhẫn để nghe thêm những lời ba hoa của ngươi nữa. Hãy vâng lời ta mà tôn thờ mẹ của các thần minh, nếu không ta buộc lòng phải tuyên bố xử trảm ngươi.
Nghe lệnh đó, mặt thánh tử đạo liền sáng hẳn lên. Ngài khẳng khái đáp lại và một lần nữa tuyên xưng Danh Chúa:
- Tôi chỉ kính sợ một Thiên Chúa toàn năng và độc nhất, và tôi chỉ phụng sự một mình Người. Quan chỉ có quyền trên thân xác tôi, chứ không có quyền gì đối với linh hồn tôi.
Nhưng hồn chai đá của Hêracliô vẫn không hề lay chuyển. Bừng bừng sát khí và giận dữ, ông đọc lời tuyên án sau đây:
- Tên Simphôrianô phạm tội bất tuân thượng lệnh, vì đã từ chối thờ phượng chư thần, lại còn dùng lời ngạo mạn bất xứng xúc phạm đến bàn thờ; vậy ta tuyên bố kết án xử trảm nó để rửa hận cho các thần minh và bênh vực cho pháp luật.
Đó là án lệnh sẽ chấm dứt cuộc đời trần gian của chiến sĩ Chúa Kitô, nhưng lại mở ra cho ngài cánh cửa của thiên đàng lạc uyển.
Sau khi tuyên án, lý hình liền dẫn thánh nhân ra ngoài thành để nhận ngành vạn tuế mà Chúa Giêsu Kitô sẽ dành để cho những ai tuyên xưng Danh Người. Trên đường đi đến pháp trường, không ngờ Simphôrianô lại gặp bà thân mẫu Augusta, hai mẹ con gặp nhau, lúc ấy đã diễn ra một tấm tuồng vô cùng cảm động.
Chắc hẳn bà Augusta đã theo dõi cuộc tra khảo, và lòng người mẹ hiền đó đã bao phen se lại khi thấy người con yêu dấu của mình phải đánh đòn và giam trong ngục thất u ám. Dầu sao, tâm tình đạo đức của bà vẫn được để lên trên hết, bà đã tham dự vào cuộc chiến đấu của con, thì bà cũng được nhìn con thắng trận. Người mẹ can đảm đó đã trèo lên tường thành, gần cửa mà Simphôrianô sẽ phải đi qua để nói với con mấy lời vĩnh biệt. Người ta kể rằng: bấy giờ bà mẹ khả kính vì mái tóc bạc phơ cũng như vì nhân đức cao vời đó, đã tỏ ra xứng đáng với bà mẹ của các anh em Macabêô. Bà không khóc lóc làm mềm lòng con mình, nhưng từ trên tường thành cao, bà đã nhắn nhủ con những lời đầy can đảm và đượm tình mẫu tử:
- Simphôrianô! Con yêu dấu, con hãy nhớ đến Thiên Chúa hằng sống. Con hãy can đảm lên, đừng sợ cái chết dẫn đưa con tới sự sống. Con hãy nâng lòng lên, hãy nhìn Đấng ngự trị trên trời cao. Không, con sẽ không mất mạng sống đâu, nhưng con đã đổi nó để lấy một cuộc đời tốt đẹp hơn. Lát nữa con sẽ qua khỏi đời này để tiến vào nơi vinh quang vô tận.
Được khích lệ, người giáo hữu trẻ tuổi đã hiên ngang và sung sướng giơ đầu cho lý hình chém.
Gần nơi thánh Simphôrianô chịu hành hình, có một giếng nước, tại đây, những giáo hữu đạo đức đã an táng thi hài con bà Augusta ở nơi đó, đợi ngày xây cho đấng thánh một đài kỷ niệm xứng đáng.
Vào quãng thế kỷ IV, thánh Sympliciô Giám mục Autun đã xây trên mộ thánh tử đạo Simphôrianô một nhà thờ mà chính ngài đã xức dầu cung hiến.
Tới đầu thế kỷ V, thánh Êuphrôniô lại dựng ở gần đó một nhà dòng và một đại giáo đường, trong đó có đặt hài cốt thánh Simphôrianô. Đến thế kỷ VII, thánh Lêgêrô còn xây trong chính ngôi đại giáo đường đó một ngôi mộ mới, rồi chuyển tất cả di hài của thánh tử đạo và của song thân ngài để ở đó.
Thánh Simphôrianô được đặt làm bổn mạng thành Autun, và lễ kính ngài luôn luôn được mừng cách rất trọng thể. Trong những thời kỳ rộng đạo, rất nhiều giáo hữu đã đến kính viếng nơi mộ ngài. Thánh Cassianô đã từ miền nam Ai cập cũng đến kính viếng; thánh Martinô cũng quỳ đây cầu nguyện khi ngài tới đó gieo rắc Lời Chúa và các phép lạ để mời gọi những anh em bên lương dân còn lại từ bỏ tà thần mà trở về với đạo thánh.
Hợp với lòng sùng kính của giáo hữu và các thánh trên trời, chúng ta cũng hãy dâng lời cầu xin và thầm nguyện noi gương anh dũng của ngài để sống xứng đáng cuộc đời của một giáo hữu liêm khiết và thánh thiện, và nếu cần phải đổ máu để minh chứng đức tin, tuyên xưng Danh Chúa, chúng ta cũng sẽ sẵn sàng dâng hiến mạng sống.
www.tinmung.net
Thứ Ba 13-11

Thánh Frances Xavier Cabrini

(1850-1917)


Thánh Frances Xavier Cabrini là công dân Hoa Kỳ đầu tiên được phong thánh. Chính lòng tin tưởng mãnh liệt vào sự chăm sóc yêu thương của Thiên Chúa đã ban cho thánh nữ sức mạnh để trở nên một phụ nữ dũng cảm làm việc cho Ðức Kitô.
Thánh Frances sinh ở Lombardi, nước Ý vào năm 1850, trong một gia đình có đến 13 người con. Khi 18 tuổi, ngài ao ước trở thành một nữ tu nơi ngài theo học sư phạm, nhưng vì sức khỏe yếu kém nên bị từ chối. Sau đó thánh nữ làm việc bác ái ở Cô Nhi Viện Ðấng Quan Phòng ở Cadogne, nước Ý. Vào tháng Chín 1877, ngài tuyên khấn và mặc áo dòng.
Khi đức giám mục đóng cửa cô nhi viện vào năm 1880, ngài đặt sơ Frances làm tu viện trưởng tu hội Nữ Tu Thánh Tâm Truyền Giáo và bảy phụ nữ khác làm việc ở cô nhi viện cũng đã gia nhập tu hội này.
Ngay từ khi còn nhỏ, Thánh Frances đã có ý định đi truyền giáo ở Trung Cộng, nhưng theo sự khuyên bảo của Ðức Giáo Hoàng Lêo XIII, cùng với sáu nữ tu khác, ngài đến thành phố Nữu Ước để phục vụ hàng ngàn người Ý di dân đang sinh sống ở đây.
Ngài gặp nhiều chán nản và khó khăn trên bước hành trình. Khi đến thành phố Nữu Ước, căn nhà được hứa để làm cô nhi viện đầu tiên ở Hoa Kỳ thì lại không có. Ðức tổng giám mục khuyên ngài trở về Ý. Nhưng Frances, một phụ nữ can đảm có thừa, đã rời bỏ tư dinh của đức tổng và tự tay gầy dựng cô nhi viện. Và ngài đã thành công.
Trong 35 năm, Thánh Frances Xavier Cabrini đã thành lập 67 trung tâm để chăm sóc người nghèo, trẻ mồ côi, người ít học và bệnh nhân. Nhận thấy nhu cầu cần thiết của người di dân Ý trước viễn ảnh bị mất đức tin, ngài mở trường học và các lớp dạy giáo lý cho người lớn.
Cho đến ngày ngài qua đời ở Chicago, tiểu bang Illinois ngày 22-12-1917, tu hội của ngài đã có mặt tại các nước Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Hoa Kỳ và Nam Mỹ.
Vào năm 1946, ngài được Ðức Giáo Hoàng Piô XII tuyên phong hiển thánh và đặt làm quan thầy của người di dân.
Lời Bàn
Lòng thương người và sự tận tụy của Mẹ Cabrini vẫn còn được nhận thấy qua hàng trăm ngàn nữ tu của ngài, họ chăm sóc bệnh nhân ở bệnh viện, viện dưỡng lão và các trung tâm quốc gia. Chúng ta than phiền về sự tốn kém y tế trong một xã hội giầu có, nhưng tin tức hàng ngày cho thấy hàng triệu người khác trên thế giới không có một chút gì được gọi là y tế, và họ đang mời gọi những người noi gương Mẹ Cabrini đến để phục vụ người dân trên đất nước của họ.
Lời Trích
Trong nghi lễ phong thánh cho Mẹ Cabrini ngày 7-7-1946, Ðức Giáo Hoàng Piô XII tuyên bố: "Mặc dù hiến pháp của tu hội ngài rất đơn sơ, nhưng ngài được ban cho một tinh thần phi thường đến nỗi, một khi tin rằng đó là ý Chúa, ngài không để bất cứ điều gì cản trở việc thực hiện mà những công trình ấy vượt quá sức lực của một phụ nữ."

www.nguoitinhuu.com


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét