16/11/2017
Thứ năm tuần 32 thường niên
Bài Ðọc I: (Năm I) Kn
7, 22 - 8, 1
"Sự khôn ngoan
là phản ảnh của ánh sáng vĩnh cửu, là tấm gương vẹn tuyền của uy quyền Thiên
Chúa".
Trích sách Khôn Ngoan.
Trong sự khôn ngoan có
tinh thần sáng suốt, thánh thiện, duy nhất, đa diện, tinh vi, lợi khẩu, linh động,
tinh tuyền, chắc chắn, dịu dàng, phục thiện, sâu sắc, bất khuất, hào hiệp, nhân
đạo, đại lượng, vững tâm, bền chí, vững chắc, bình thản, làm được mọi sự, kiểm
soát hết thảy, thấu suốt mọi thần trí, những kẻ thông minh, những người thanh sạch
và những người tế nhị. Sự khôn ngoan linh hoạt hơn mọi chuyển động, và vì trong
sạch, nên thấu nhập mọi nơi.
Sự khôn ngoan là hơi
thở của quyền năng Thiên Chúa, và là sự phát xuất tinh tuyền của vinh quang
Thiên Chúa toàn năng; bởi thế không vật ô uế nào đụng tới được; sự khôn ngoan
là phản ảnh của ánh sáng vĩnh cửu, là tấm gương vẹn tuyền của Uy quyền Thiên
Chúa, và là hình ảnh lòng từ nhân của Người.
Tuy duy nhất, nhưng sự
khôn ngoan có thể làm mọi sự, và dù bất biến, nhưng có thể canh tân mọi loài.
Qua các thế hệ, sự khôn ngoan lan tràn trên các tâm hồn thánh thiện, làm cho
các tâm hồn trở nên bạn hữu và tiên tri của Thiên Chúa.
Vì Chúa không yêu mến
ai nếu không phải là kẻ ở với sự khôn ngoan. Khôn ngoan xinh đẹp hơn mặt trời,
trổi vượt mọi tinh tú, và so với ánh sáng, nó còn trổi vượt hơn, vì ánh sáng có
lúc phải nhường chỗ cho bóng tối, nhưng ngay cả gian ác cũng không thắng nổi sự
khôn ngoan.
Vậy sự khôn ngoan đã
lan tràn mạnh mẽ từ bờ cõi này đến bờ cõi kia, và hướng dẫn mọi loài cách khôn
khéo.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 118, 89. 90.
91. 130. 135. 175
Ðáp: Thân lạy Chúa, cho tới đời đời, lời Chúa vẫn còn đó
(c. 89a).
Xướng: 1) Thân lạy
Chúa, cho tới đời đời kiếp kiếp, lời Chúa vẫn còn đó như cõi trời cao. - Ðáp.
2) Ðời nọ sang đời
kia, còn mãi lòng trung thành của Chúa, Ngài đã kiến tạo địa cầu, nó còn đứng vững
trơ trơ. - Ðáp.
3) Theo chỉ dụ Chúa,
vũ trụ luôn luôn tồn tại, vì hết thảy vạn vật đều phải phục vụ Ngài. - Ðáp.
4) Sự mạc khải lời
Ngài soi sáng, và dạy bảo những người chưa kinh nghiệm. - Ðáp.
5) Xin tỏ cho tôi tớ
Ngài thấy long nhan hiền hậu, và dạy bảo con những thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.
6) Nguyện cho hồn con
được sống để khen ngợi Chúa, và xin các sắc dụ của Chúa phù trợ cho con. - Ðáp.
Alleluia: 2 Tx 2, 14
Alleluia, alleluia! -
Thiên Chúa đã dùng Tin Mừng mà kêu gọi chúng ta, để chúng ta được chiếm lấy
vinh quang của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 17, 20-25
"Nước Thiên Chúa
ở giữa các ông".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, những người biệt
phái hỏi Chúa Giêsu "Khi nào nước Thiên Chúa đến", thì Người đáp lại
rằng: "Nước Thiên Chúa không đến để cho người ta quan sát, và người ta sẽ
không nói được: "Này nước trời ở đây hay ở kia". Vì nước Thiên Chúa ở
giữa các ông". Chúa lại phán cùng các môn đệ rằng: "Sẽ có ngày các
con ước ao thấy được một ngày của Con Người mà không được thấy. Người ta sẽ bảo
các con: "Này Người ở đây và này Người ở kia", các con chớ đi đến và
đừng tìm kiếm. Vì như chớp sáng loè từ chân trời này đến phương trời kia thế
nào, thì Con Người cũng sẽ đến trong ngày của Người như vậy. Nhưng tiên vàn Người
phải chịu đau khổ nhiều, và bị dòng dõi này xua đuổi".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Mầu nhiệm
Nước Chúa
Tìm kiếm Thiên Chúa vẫn
luôn là thao thức của con người. Nhiều người Do Thái nôn nao chờ đợi Nước Thiên
Chúa nhưng dù có thao thức, có chờ đợi họ cũng không gặp dẫu rằng Nước Thiên
Chúa đang hiện diện giữa họ. Chúa Giêsu đã giải thích lý do: "Nước Thiên
Chúa không đến như một điều có thể quan sát được". Tìm kiếm Thiên Chúa chỉ
để thỏa mãn hay để biện minh cho hành động của mình thì chẳng bao giờ có thể gặp
được Ngài.
Trọng tâm của bài giảng
của Chúa Giêsu là mầu nhiệm nước Chúa. Mầu nhiệm ấy không thể nắm bắt được bằng
mắt trần hay bằng lý luận của con người. Chúa Giêsu mời gọi mọi người đi vào mầu
nhiệm Nước Chúa. Nước Chúa không ở chỗ này hay chỗ kia. Nước Chúa chỉ đến bằng
cái chết của Chúa Giêsu mà thôi. Chúa Giêsu đã hé mở cho các môn đệ thấy cuộc
khổ nạn của Ngài và các cuộc bách hại mà Giáo Hội sẽ trải qua. Chính qua các cuộc
bách hại mà hạt giống đức tin được gieo vãi, Giáo Hội được thanh luyện, củng cố
và lớn lên. Do đó, không phải cái vẻ hào nhoáng với các cơ cấu tổ chức và biểu
dương bên ngoài rầm rộ của Giáo Hội thể hiện mầu nhiệm Nước Chúa, nhưng là
chính ở sức mạnh tinh thần của niềm tin, một niềm tin sẵn sàng mất tất cả, ngay
cả sự sống của mình để được trung thành với những giá trị của Tin Mừng. Chính
niềm tin ấy mới thể hiện được mầu nhiệm thâm sâu của Nước Chúa.
Nguyện xin Chúa cho
chúng ta biết cởi bỏ cái nhìn hẹp hòi ích kỷ để nhận ra Nước Thiên Chúa đang hiện
diện giữa chúng ta. Xin cho chúng ta luôn tâm niệm rằng chúng ta chỉ gặp được
Thiên Chúa trong yêu thương và phục vụ mà thôi.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Năm Tuần 32 TN1
Bài đọc: Wis
7:22b-8:1; Lk 17:20-25
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa
Trong cuộc sống, chúng
ta dễ dàng nhận ra hai loại người hoàn toàn khác nhau: Những người chỉ biết sống
cách hời hợt bên ngoài, đánh giá theo những tiêu chuẩn của thế gian, và chỉ biết
quí trọng những kết quả tạm thời. Những người ngây thơ nhẹ dạ này dễ bị đánh lừa
bởi ma quỉ và thế gian. Ngược lại, có những người luôn sống theo chiều sâu bên
trong tâm hồn, đánh giá theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa, và quí trọng những giá
trị vĩnh cửu. Những tâm hồn khôn ngoan này không dễ bị mắc bẫy bởi thế gian và
ma quỉ.
Các Bài Đọc hôm nay
nêu bật sự cần thiết của Đức Khôn Ngoan để giúp con người biết sống và đánh giá
trị đúng đắn của mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời. Trong Bài Đọc I, tác giả
Sách Khôn Ngoan nêu lên 21 đặc tính đáng yêu chuộng của khôn ngoan. Có khôn
ngoan là có mọi sự: khôn ngoan làm cho con người trở nên bạn hữu của Thiên
Chúa, người khôn ngoan có thể làm mọi sự, và không ai có thể đánh lừa được họ.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đề phòng các môn đệ của Ngài đừng dễ bị đánh lừa bởi
những lời đồn đãi về Triều Đại của Thiên Chúa và sự xuất hiện của Đấng Thiên Sai
lần thứ hai; vì Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được
từ bên ngoài, và như ánh chớp chói loà chiếu sáng từ phương trời này đến phương
trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ như vậy trong ngày của Người. Nhưng các
ông có thể dùng khôn ngoan nhìn sâu trong tâm hồn mình để biết Đấng Thiên Sai
có hoàn toàn ngự trị trong tâm hồn mình hay chưa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa chỉ yêu chuộng những người chung sống với Đức
Khôn Ngoan.
1.1/ Các đặc tính của Đức
Khôn Ngoan: Tác giả nêu lên 21 đặc tính của
Đức Khôn Ngoan. Tại sao 21? Con số 21 là hiệu quả của gia tăng cách hoàn hảo của
con số 7 và con số 3 tượng trưng cho bản tính của Ba Ngôi Thiên Chúa. Tác giả
liệt kê các đặc tính đó như sau: "Quả vậy, nơi Đức Khôn Ngoan, có một thần
khí tinh tường, thánh thiện, duy nhất, đa năng, tinh tế, mau lẹ, minh mẫn, tinh
tuyền, trong sáng, thản nhiên, lanh lợi, chuộng điều lành, bất khuất, từ bi,
nhân ái, cương quyết, vững vàng, điềm tĩnh, làm được mọi sự, quan tâm đến mọi
điều, thấu suốt mọi tâm can, kể cả tâm can của những người trong sạch, thông
minh, tinh tế nhất."
Rất nhiều tác giả đã
nhân cách hóa và đồng nhất Đức Khôn Ngoan với Đức Kitô, Lời của Thiên Chúa. Ba
câu kế tiếp củng cố niềm tin này:
- Theo Gioan, nhờ Lời
mà muôn vật được tạo thành; và không có Lời, chẳng có gì được tạo thành (Jn
1:3). Tác giả Sách Khôn Ngoan mô tả: "Vì chuyển động của Đức Khôn Ngoan
thì mau lẹ hơn tất cả các chuyển động. Do tính thuần khiết, Đức Khôn Ngoan thâm
nhập và xuyên thấu mọi vật mọi loài."
- Thánh Phaolô gọi Đức
Kitô là Con Chiên không tì ố của Thiên Chúa, và nhờ Máu Người đổ ra, Người rửa
sạch chúng ta khỏi mọi vết nhơ tội lỗi (Eph 1:4). Tác giả Sách Khôn Ngoan mô tả:
"Đức Khôn Ngoan toả ra từ quyền năng Thiên Chúa và rực lên trong ngần từ
vinh hiển Đấng Toàn Năng, nên không thể vương một tì ố."
- Thánh Phaolô mô tả Đức
Kitô: Người là phản ánh của Thiên Chúa vô hình, là Trưởng Tử sinh ra trước mọi
loài thọ tạo (Col 1:15). Tác giả Sách Khôn Ngoan mô tả: "Đức Khôn Ngoan phản
chiếu ánh sáng vĩnh cửu, là tấm gương trong phản ánh hoạt động của Thiên Chúa,
là hình ảnh lòng nhân hậu của Người." Trong Gioan, chính Đức Kitô cũng xác
nhận: "Ai đã thấy Thầy là đã thấy Cha" (Jn 14:9).
1.2/ Hiệu quả của Đức
Khôn Ngoan: Với tất cả những đặc tính nêu
trên, không có một điều gì là không thể với Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa.
(1) Ngài làm được mọi
sự: "Dầu chỉ một mình, Đức Khôn Ngoan vẫn có thể làm được mọi sự; luôn
luôn bất biến, Đức Khôn Ngoan đổi mới được muôn loài. Từ thế hệ này qua thế hệ
khác, Đức Khôn Ngoan ngự vào những tâm hồn thánh thiện, biến họ nên bạn hữu của
Thiên Chúa, nên ngôn sứ của Người. Thiên Chúa chỉ yêu chuộng những người chung
sống với Đức Khôn Ngoan."
(2) Đức Khôn Ngoan thấm
nhập và đẩy xa mọi tăm tối của cuộc đời, không gian tà nào thắng nổi: "Đức
Khôn Ngoan rực rỡ hơn mặt trời, trổi vượt muôn tinh tú. So với Đức Khôn Ngoan,
ánh sáng còn kém xa. Bởi trước màn đêm, ánh sáng đành phải lui bước. Còn Đức
Khôn Ngoan, chẳng gian tà nào thắng nổi."
(3) Đức Khôn Ngoan cai
trị mọi sự tốt đẹp: "Từ chân trời này, Đức Khôn Ngoan vươn mạnh tới chân
trời kia, cai quản mọi loài thật tốt đẹp. Đức Khôn Ngoan, hiền thê lý tưởng."
2/ Phúc Âm: Triều Đại của Thiên Chúa đang ở giữa các ông.
2.1/ Khi nào triều đại của
Thiên Chúa đến? Các động từ chính liên quan
đến “triều đại của Thiên Chúa” trong câu 20 và 21 đều được dùng ở thời hiện tại.
Điều này chứng tỏ Thánh Luca muốn phân biệt triều đại của Thiên Chúa đến trong
trần gian với Ngày Đức Kitô sẽ đến lần thứ hai trong 4 câu kế tiếp. Triều đại của
Thiên Chúa đã đến trong trần gian, nhưng để nhận ra con người không thể:
- dựa vào những dấu chỉ
bên ngòai, như lời Chúa Giêsu tuyên bố: “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một
điều có thể quan sát được. Và người ta sẽ không nói: Ở đây này! hay Ở kia kìa!”
nhưng phải nhận ra nhờ những dấu chỉ bên trong như đức tin vào Thiên Chúa, sống
bác ái với mọi người.
- triều đại của Thiên
Chúa đang ở giữa (hiện tại) các ông: Chúa Kitô là Đấng Thiên Sai của Thiên
Chúa. Nhận ra Đức Kitô và tin vào Ngài là dấu hiệu Triều Đại của Thiên Chúa đã
đến trong lòng mỗi tín hữu.
2.2/ Khi nào Đức Kitô sẽ
đến lần thứ hai? Các động từ chính của cả 3
câu 22, 23, 24 đều được dùng ở thời tương lai. Câu 25 là lời tiên tri: Chúa
Giêsu báo trước những gì sắp xảy ra cho Ngài trong tương lai gần. Về Ngày Chúa
Giêsu sẽ đến lần thứ hai:
- Không ai biết được
thời gian: “Vì thế, khi người ta sẽ bảo anh em: Người ở kia kìa! hay Người ở
đây này! Anh em đừng đi, đừng chạy theo.”
- Không ai biết được
nơi chốn: “Vì như ánh chớp chói loà chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời
kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ như vậy trong Ngày của Người.”
- Các môn đệ biết những
gì sắp xảy ra cho Chúa Giêsu trong tương lai gần: “Nhưng trước đó, Người phải
chịu đau khổ nhiều và bị thế hệ này loại bỏ.” Khi chứng kiến những sự kiện này,
các môn đệ sẽ biết triều đại của Thiên Chúa đã đến trong thế gian. Sau đó, Chúa
Giêsu sẽ được cất đi khỏi các ông. Lúc đó, các ông sẽ mong sống lại những ngày
với Chúa Giêsu, nhưng không còn nữa: “Sẽ đến thời anh em mong ước được thấy một
trong những ngày của Con Người thôi, mà cũng không được thấy.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Trên hết mọi sự,
chúng ta hãy học hỏi và cầu xin cho có được sự khôn ngoan của Thiên Chúa là Đức
Kitô ngự trong tâm hồn. Khi đã có Đức Kitô, chúng ta có thể làm được mọi sự, và
vượt qua được mọi cám dỗ của cuộc đời.
- Triều đại của Thiên
Chúa đến không từ bên ngòai để chúng ta có thể nhận ra như những vương quốc của
trần gian; nhưng chúng ta có thể nhận ra triều đại của Thiên Chúa đã đến trong
tâm hồn nhờ vào những dấu chỉ bên trong như ăn năn sám hối, tin vào Đức Kitô,
và sống bác ái với mọi người.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
16/11/17 THỨ
NĂM TUẦN 32 TN
Th. Ma-ga-ri-ta
Tô-cách-lan, trinh nữ
Lc 17,20-25
NƯỚC THIÊN CHÚA TRONG
TA
“Triều đại Thiên
Chúa không đến như một điều có thể quan sát được… vì triều đại Thiên Chúa đang ở
giữa các ông.” (Lc 17,20-21)
Suy niệm: Nước Thiên Chúa không thuộc về thế gian này nên cũng
không thể xác định nó ở nơi này hay nơi khác giới hạn trong không gian và thời
gian. Dù vậy, cũng có thể tìm thấy Nước Thiên Chúa ở một số “nơi”: - nơi tâm hồn
con người, khi họ có Chúa Ki-tô ngự trị, đặc biệt khi họ kết hiệp với Thánh Thể Ngài; - trong cuộc
sống của họ khi họ thực thi Lời Chúa, khi họ sống tinh thần “Tám Mối Phúc Thật”;
- như thế Nước Thiên Chúa còn ngự trị trong tâm hồn những người nghèo khó,
khiêm tốn, nhỏ bé và trong sạch: “Vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3). Những lúc
đó, và ở những “nơi” đó, người ta cảm nghiệm được sự hiện diện của Nước Thiên
Chúa ngay ở thế gian này.
Mời Bạn: Mỗi khi đọc kinh Lạy Cha, bạn xin cho “Nước Cha trị đến,
ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6,10). Nước Ngài chỉ có thể đến
với sự đồng ý của bạn: “Này Ta đứng trước cửa và gõ, ai nghe tiếng Ta và mở cửa,
thì Ta sẽ vào nhà người ấy.” (Kh 3,20). Hãy mở cửa tâm hồn bạn để Chúa ngự vào,
lúc đó, dù bạn đến bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì theo ý Ngài muốn, Nước
Chúa sẽ luôn ngự trị trong thế gian này. Như thế bạn sẽ cảm nghiệm trước sự hạnh
phúc bình an và niềm vui viên mãn của thiên đàng.
Sống Lời Chúa: Đọc và suy niệm Kinh Lạy Cha.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, con xin dâng chính mình làm của lễ sống
động, đẹp lòng Chúa, xin ngự trị trong tâm hồn con và hướng dẫn con sống theo
thánh ý Chúa, hầu Nước Chúa được lan rộng đến cho mọi người. Amen.
(5 phút Lời Chúa)
Nước Thiên Chúa (16.11.2017 – Thứ năm Tuần 32 Thường niên)
Chúng ta không chỉ cầu xin cho Nước Cha trị đến (Mt 6, 10). Chúng ta biết mình được mời gọi để xây dựng Nước đó trên trần gian
Suy niệm:
Từ sau khi dân Israel
định cư ở đất Canaan,
Thiên Chúa được họ coi
như một vị Vua cai trị mọi dân tộc.
Đặc biệt Ngài là Vua ngự
giữa dân Israel để lãnh đạo và chăm sóc họ.
Các vị vua trần thế đã
xuất hiện trong dòng lịch sử của Israel
như những người phục vụ
cho Đức Vua, cho Nước Thiên Chúa.
Tiếc thay có những vị vua
đã không làm tròn sứ mạng.
Trải qua bao triều vua
của nước Israel, bao thịnh suy của đất nước,
từ sau khi lưu đầy trở
về, dân chúng chỉ còn biết chờ một Đấng Mêsia.
Họ tin Đấng ấy sẽ khai mở
Nước Thiên Chúa.
“Nước Thiên Chúa đang ở
giữa các ông” (c. 21).
Đức Giêsu đã nói với các
ông Pharisêu như vậy
khi họ hỏi Ngài khi nào
Nước Thiên Chúa đến.
Nước ấy không đến một
cách lộ liễu ở đây hay ở kia để kiểm tra (c. 20).
Người Pharisêu không nhận
ra Nước ấy đang ở giữa họ.
Chỉ ai biết nhìn, mới
nhận ra Nước ấy đang hiện diện và hoạt động
nơi lời giảng và các phép
lạ của Đức Giêsu.
Khi bệnh được khỏi, khi
quỷ bị trừ, khi tội được tha,
khi con người biết hoán
cải để sống những đòi hỏi của Đức Giêsu,
khi ấy Nước Thiên Chúa có
mặt và tăng trưởng.
Đức Giêsu đã khai mở Nước
Thiên Chúa.
Và Nước đó vẫn lớn lên từ
từ qua dòng thời gian.
Như hạt giống được gieo
trong đất, đêm hay ngày cũng cứ lớn lên,
như chút men làm dậy khối
bột, như hạt cải thành cây cao rợp bóng,
Nước Thiên Chúa cũng cần
thời gian để đạt đến chỗ viên mãn.
Hai ngàn năm trôi qua,
Nước Thiên Chúa đã lớn lên về mọi mặt.
Nhưng Kitô hữu chúng ta
vẫn thấy còn nhiều điều phải làm
để Nước đó được nhìn nhận
bởi gần 7 tỷ người trên trái đất.
Ngày nào thế giới còn
chiến tranh, bạo động, còn áp bức, bất công,
ngày nào nhân loại còn
bệnh tật đói nghèo, còn nô lệ cho vật chất,
ngày ấy Nước Thiên Chúa
chưa ngự trị trên địa cầu.
Nơi nào công lý và hòa
bình, khoan dung và nhân hậu,
chi phối trái tim và cách
hành xử giữa người với người,
nơi đó Nước Thiên Chúa đã
đến gần hơn.
Chúng ta không chỉ cầu
xin cho Nước Cha trị đến (Mt 6, 10).
Chúng ta biết mình được
mời gọi để xây dựng Nước đó trên trần gian.
Để chuẩn bị cho Ngày Chúa
Giêsu trở lại trong vinh quang,
chúng ta còn bề bộn công
việc phải làm.
Ngài phải có chỗ trong
lòng dân tộc, giữa thế kỷ hai mươi mốt.
Nhưng trước hết Ngài phải
có chỗ trong lòng chúng ta.
Xin được đón lấy Nước
Thiên Chúa như trẻ thơ, như người nghèo tay trắng.
Xin được quảng đại bán
tất cả để mua viên ngọc quý là Nước Trời.
Xin được chia sẻ cho
Giêsu nơi những người anh em bé nhỏ nhất.
Vì Nước Thiên Chúa là một
tiệc vui quy tụ mọi người từ bốn phương,
xin được mở rộng vòng tay
từ bây giờ để ôm lấy cả thế giới.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, đây là ước mơ
của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của
cả trái đất này
là thuộc về mọi người,
mọi dân tộc.
Con mơ ước
không còn những Ladarô
đói ngồi ngoài cổng,
bên trong là người giàu
yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều
có việc làm tốt đẹp,
không còn những cô gái
đứng đường
hay những người ăn xin.
Con mơ ước
những ngưòi thợ được
hưởng lương xứng đáng,
các ông chủ coi công nhân
như anh em.
Con mơ ước
tiếng cười trẻ thơ đầy ắp
các gia đình,
các công viên và bãi biển
đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con,
con ước mơ một thế giới
đầy màu xanh,
xanh của rừng, xanh của
trời, xanh của biển,
và xanh của bao niềm hy
vọng
nơi lòng những ai ham
sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng
con những ước mơ,
thì xin giúp con thực
hiện những ước mơ đó.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
16 THÁNG MƯỜI MỘT
Bí Tích Hôn Nhân Phản
Ảnh
Tình Yêu Của Đức
Kitô
Sự hiện diện của Chúa
Giêsu tại tiệc cưới Cana – nếu chúng ta muốn nhận hiểu một cách đầy đủ – cũng
nhằm làm một động thái nhắc chúng ta nghĩ đến những gì thuộc thượng giới (Cl
3,2). Ở đây, Chúa muốn nhắc chúng ta về ý nghĩa thiêng liêng sâu xa của tình yêu
vợ chồng. Tình yêu này là một dấu hiệu và một sự thông dự trong chính tình yêu
vốn tồn tại giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Tình yêu ấy không thể chịu sự chi phối
của những thay đổi thất thường và bất định của cuộc sống. Không, nó có thể và
phải là một sự dấn thân vĩnh viễn không thể phân ly và không thể phá hủy. Như vậy,
tình yêu vợ chồng mở ra tới những viễn tượng vô hạn của Vương Quốc Thiên Chúa
và của cuộc sống bất diệt.
Mẫu thức tối thượng và
siêu việt này của tình yêu vợ chồng được minh họa cho chúng ta trong Thư
Eâphêsô. Trong Thư này, chúng ta khám phá nền tảng cho việc chọn lựa hôn nhân để
chúng ta thực sự hạnh phúc và sống theo thánh ý Thiên Chúa. Sự dấn thân và chọn
lựa đời sống hôn nhân Kitô giáo nâng đỡ và đào sâu tình yêu của chúng ta trong
những lúc gặp khó khăn thử thách, giúp làm cho tình yêu của chúng ta tinh tuyền
hơn và sinh hoa trái nhiều hơn.
Chúng ta cần đánh giá
tình cảm của mình trong ánh sáng của nhận thức nói trên về tình yêu vợ chồng.
Nhờ đó chúng ta có thể đảm bảo rằng một tình yêu đích thực và một cuộc hôn nhân
Kitô giáo đích thực sẽ được bộc lộ rõ rệt trong đời sống vợ chồng. Hôn nhân quả
là một bí tích. Chúng ta bắt đầu thoáng thấy các lý tưởng của tình yêu và khả
năng sinh hoa trái mà mỗi người vợ người chồng Kitôhữu đều được mời gọi đạt đến
với sự hỗ trợ của ân sủng.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John
Paul II
Hạnh Các Thánh
16 Tháng Mười Một
Thánh Margaret ở Tô
Cách Lan
(1045-1093)
(1045-1093)
Thánh Margaret ở Tô
Cách Lan quả thật là một phụ nữ tự do--trong ý nghĩa tự do để trở nên con người
đích thực. Ðối với ngài, điều đó có nghĩa được tự do để yêu mến Thiên Chúa và
phục vụ tha nhân.
Margaret không
phải là người Tô Cách Lan. Ngài là con gái của Công Chúa Agatha Hung Gia Lợi và
Thái Tử Edward Atheling của Anglo-Saxon. Thời niên thiếu, ngài sống trong triều
đình của người bác là Edward, vua nước Anh, người bảo vệ đức tin. Khi bị
William xâm chiếm, trên đường chạy trốn, gia tộc ngài bị đắm tầu ở bờ biển Tô
Cách Lan. Vua Malcolm của Tô Cách Lan làm quen với hoàng tộc này và ông đã say
mê sự duyên dáng cũng như vẻ đẹp của Margaret. Và họ đã kết hôn ở lâu đài
Dunfermline năm 1070.
Vua Malcolm là người tốt
bụng, nhưng cộc cằn và không có học thức, cũng giống như quê hương của ông. Vì
tình yêu của Malcolm dành cho Margaret mà bà có thể thay đổi tính tình nóng nẩy
của ông, cũng như chỉ bảo cách đối xử và giúp ông trở nên một vị vua nhân đức.
Bà đã biến triều đình thành một nơi lịch thiệp và mỹ miều. Ông đã để mọi việc
trong nước cho bà quản trị và thường hỏi ý của bà khi có vấn đề quốc sự.
Margaret là một ơn huệ
Chúa ban cho người dân Tô Cách Lan. Trước khi bà đến đây, có rất nhiều người dốt
nát và nhiều hủ tục trong nước. Bà tìm cách cải tiến quê hương chồng bằng cách
cổ võ việc giáo dục và nghệ thuật. Về cải cách tôn giáo, bà khích lệ tổ chức
các thượng hội đồng và đích thân tham dự các buổi thảo luận nhằm chấn chỉnh những
tệ đoan tôn giáo rất phổ thông thời ấy của tu sĩ cũng như giáo dân, tỉ như vấn
đề buôn thần bán thánh, cho vay lời cắt cổ và loạn luân. Cùng với đức lang
quân, bà xây dựng nhiều nhà thờ trong nước và chính tay bà thêu áo lễ cho các
linh mục.
Margaret không chỉ là
một hoàng hậu mà còn là một người mẹ gương mẫu. Thiên Chúa đã ban cho ông bà
sáu con trai và hai con gái. Ðích thân bà trông coi việc giáo dục cũng như dạy
giáo lý cho con. Người con út của bà sau này là Thánh David.
Mặc dù rất bận rộn với
công việc nhà cũng như việc nước, bà cố giữ mình khỏi bị ảnh hưởng của thế
gian. Ðời sống riêng tư của bà rất khắc khổ. Bà dành thời giờ để cầu nguyện và
đọc Kinh Thánh. Bà ăn uống thanh cảnh và ngủ rất ít để có thời giờ suy niệm.
Hàng năm, hai ông bà tuân giữ hai mùa Chay, một lần trước Phục sinh và một lần
trước Giáng Sinh. Trong thời gian này bà thường thức giấc vào nửa đêm để đi dự
Thánh Lễ. Trên đường về, bà rửa chân cho sáu người nghèo và bố thí cho họ. Mỗi
khi bà xuất hiện nơi công cộng là bị những người ăn xin vây quanh và không bao
giờ bà từ chối họ. Người ta kể rằng, trước khi bà ngồi xuống dùng bữa tối, bà
thường dọn thức ăn cho chín trẻ mồ côi và 24 người nghèo.
Năm 1093, Vua William
Rufus bất ngờ tấn công vào thành Alnwick. Vua Malcolm và người con cả là Edward
bị giết chết. Bà Margaret, cũng bị thương nặng, và bốn ngày sau khi chồng bà từ
trần thì bà cũng trút hơi thở cuối cùng.
Lời Bàn
Có hai cách thi hành
việc bác ái: cách "sạch sẽ" và cách "bẩn thỉu." Cách
"sạch sẽ" là tặng tiền bạc, quần áo cho các tổ chức phục vụ người
nghèo. Cách "bẩn thỉu" là dùng chính bàn tay của mình để phục vụ mà
không sợ dơ bẩn. Nhân đức trổi vượt của Thánh Margaret là lòng thương người
nghèo. Mặc dù rất giầu sang, nhưng ngài đã đích thân thăm viếng người bệnh hoạn
và chăm sóc họ với chính đôi tay của mình. Trong mùa Vọng và mùa Chay, hai ông
bà đã quỳ xuống để phục vụ các trẻ em mồ côi và người nghèo hèn. Giống như Ðức
Kitô, bà đã thi hành bác ái trong phương cách "bẩn thỉu."
Lời Trích
"Khi bà lên tiếng,
trong lời nói đầy sự khôn ngoan ấy có sức thay đổi lòng người. Khi bà im lặng,
sự thinh lặng đầy suy tư. Toàn thể bề ngoài của bà phù hợp với tính tình trầm lặng
mà dường như bà được sinh ra với một cuộc đời nhân đức" (Turgot, cha giải tội của Thánh Margaret).
Trích từ NguoiTinHuu.com
16 Tháng Mười Một
Vui Ðể Ðợi Chết
Theo giai thoại của người Trung Hoa thì ngày xưa có một
người tên là Vinh Khải Kỳ tỏ ra là một bậc tiên ông đạo cốt, mình mặc áo lông cừu,
lưng thắt dây, ngày ngày giao du ở sơn thủy, vui thú cầm ca chậm rãi rảo bước,
tay đánh đàn miệng ca hát không ngừng. Một hôm, đức Khổng Tử đi dạo gặp Vinh Khải
Kỳ, ngài mới hỏi ông: "Tiên sinh làm thế nào mà thường vui vẻ ca hát như
thế?".
Khải Kỳ thưa: "Trời sanh muôn vật, loài người cao
quý nhất. Ta đã được làm người, đó là điều đáng vui. Người ta sinh ra có người
đui què, có người non yếu... mà ta thì khỏe mạnh sống lâu, thế là hai điều đáng
vui. Còn cái nghèo là sự thường của thế gian, cái chết là hết sự đời. Ta nay biết
vui với cảnh đời để đợi cái chết thì còn gì lo buồn nữa?".
Lạc quan, vui sống là
đức tính cơ bản nhất của người Kitô. Người Kitô nhận ra phẩm giá cao cả của
mình và tiếp nhận mọi sự xảy đến như một hồng ân của Chúa. Cây cỏ đồng nội,
muôn thú trên rừng không nhọc công tích trữ mà còn được Chúa che chở nuôi nấng,
huống chi con người là hình ảnh của Người... Mỗi ngày có niềm vui nỗi khổ của
nó. Hãy quẳng gánh lo đi và vui sống từng phút giây như một ân ban của Chúa, đó
là bí quyết để giúp ta được hạnh phúc ở đời này.
Trích sách Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét