10/01/2018
Thứ Tư tuần 1 thường niên.
Bài Ðọc I: (năm
II) Sm 3, 1-10. 19-20
"Lạy Chúa, xin
hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe".
Trích sách Samuel quyển
thứ nhất.
Trong những ngày ấy,
trẻ Samuel phục vụ trước mặt Hêli. Thời ấy, ít khi Chúa phán và hiện ra. Ngày nọ,
Hêli đang nằm tại chỗ mình, mắt ông đã loà và không còn thấy được: Ðèn chầu
chưa tắt, Samuel ngủ trong đền thờ Chúa, nơi đặt hòm bia Thiên Chúa. Chúa đã gọi
Samuel; cậu trả lời: "Này con đây", rồi chạy đến Hêli và nói:
"Này con đây, vì thầy gọi con". Hêli trả lời: "Ta đâu có gọi,
hãy trở về ngủ đi". Samuel đi ngủ lại. Nhưng Chúa gọi Samuel lần nữa, và
Samuel chỗi dậy, chạy đến Hêli và nói: "Này con đây, vì thầy gọi
con". Hêli trả lời: "Này con, ta đâu có gọi, hãy trở về ngủ đi".
Samuel chưa nhận ra Chúa, và lời Chúa chưa mạc khải cho cậu. Chúa lại gọi
Samuel lần thứ ba. Cậu chỗi dậy, chạy đến Hêli và nói: "Này con đây, vì thầy
gọi con". Hêli biết Chúa đã gọi Samuel, nên nói với Samuel: "Hãy đi
ngủ, và nếu Người còn gọi con, thì con nói rằng: "Lạy Chúa, xin hãy nói,
vì tôi tớ Chúa đang nghe". Samuel trở về chỗ mình và ngủ lại. Chúa đến gần
và gọi Samuel như những lần trước: "Samuel! Samuel!" Và Samuel thưa:
"Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe".
Phần Samuel ngày càng
lớn lên. Chúa hằng ở cùng cậu, và cậu không để rơi mất lời nào của Chúa. Toàn
dân Israel, từ Ðan tới Bersabê, đều nhận biết Samuel là tiên tri trung thực của
Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 39, 2 và 5.
7-8a. 8b-9. 10
Ðáp: Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa (c. 8a
và 9a).
Xướng: 1) Con đã cậy
trông, con đã cậy trông ở Chúa, Ngài đã nghiêng mình về bên con, và Ngài đã
nghe tiếng con kêu cầu. Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa, không theo kẻ
thờ thần tượng, không hướng về chuyện gian tà. - Ðáp.
2) Hy sinh và lễ vật
thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở rộng tai con. Chúa không đòi hỏi hy lễ
toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến". -
Ðáp.
3) Như trong quyển
vàng đã chép về con: lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật của
Chúa ghi tận đáy lòng con. - Ðáp.
4) Con đã loan truyền
đức công minh Chúa trong đại hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết
rồi. - Ðáp.
Alleluia: Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia! -
Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 1, 29-39
"Ngài chữa nhiều
người đau ốm những chứng bệnh khác nhau".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy Chúa Giêsu ra
khỏi hội đường. Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê. Lúc ấy
bà nhạc gia của Simon cảm sốt nằm trên giường, lập tức người ta nói cho Người
biết bệnh tình của bà. Tiến lại gần, Người cầm tay bà, và nâng đỡ dậy. Bà liền khỏi
cảm sốt và đi tiếp đãi các Ngài.
Chiều đến, lúc mặt trời
đã lặn, người ta dẫn đến Người tất cả những bệnh nhân, tất cả những người bị quỷ
ám; và cả thành tụ họp trước cửa nhà. Người chữa nhiều người đau ốm những chứng
bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng biết Người.
Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và
cầu nguyện tại đó. Simon và các bạn chạy đi tìm Người. Khi tìm được Người, các
ông nói cùng Người rằng: "Mọi người đều đi tìm Thầy". Nhưng Người
đáp: "Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để Ta cũng rao
giảng ở đó nữa". Và Người đi rao giảng trong các hội đường, trong khắp xứ
Galilêa và xua trừ ma quỷ.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Ðộng lực của
việc tông đồ
Tin Mừng rất nhiều lần
nhắc đến Chúa Giêsu cầu nguyện với Cha Ngài, đó là những giây phút gặp gỡ thân
tình với Chúa Cha mà Ngài không bao giờ bỏ. Về phương diện thiên tính, Chúa
Giêsu là Chúa Con, đồng bản tính với Chúa Cha, cho nên Ngài luôn kết hiệp với
Chúa Cha. Nhưng như một con người, Chúa Giêsu đã nêu bật thái độ sống của Ngài,
đó là sống mối tương quan thân tình với Chúa Cha qua lời cầu nguyện.
Trong Tin Mừng hôm
nay, thánh Marcô ghi nhận: "Sáng sớm, lúc trời còn tối, Chúa Giêsu đã chỗi
dậy, đi đến một nơi vắng vẻ để cầu nguyện". Mặc dù bận rộn với rất nhiều
công việc trong ngày, Chúa Giêsu vẫn không quên cầu nguyện. Nhưng đây không phải
là lần duy nhất, Tin Mừng còn cho thấy rất nhiều lần Chúa Giêsu cầu nguyện với
Chúa Cha, và chính Ngài đã dạy các Tông đồ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha. Ngài lấy
hình ảnh cây nho và cành nho để nói lên tầm quan trọng của cầu nguyện: "Thầy
là cây nho, các con là cành nho; ai lưu lại trong Thầy và Thầy trong người ấy,
thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được
gì".
Chúng ta hãy noi gương
Chúa, dành thời giờ để tiếp xúc, đối thoại, chiêm ngưỡng Thiên Chúa, như Ngài
đang hiện diện trước mặt chúng ta. Muốn đạt tới việc cầu nguyện như thế, chúng
ta cần phải có đức tin mạnh mẽ và lòng yêu mến Thiên Chúa như người con đối với
người cha. Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói: "Cầu nguyện là việc tiếp xúc với
Thiên Chúa. Hãy bắt đầu và kết thúc mỗi ngày bằng cầu nguyện. Hãy đến với Chúa
như đứa con đến với cha mình".
Chúng ta hãy cảm tạ
Chúa đã cho chúng ta có những giờ phút thuận lợi để bắt đầu một ngày sống tốt đẹp
hơn. Xin cho chúng ta biết sống kết hiệp mật thiết với Chúa trong cầu nguyện,
nhờ đó chúng ta có thể chu toàn thánh ý Chúa và phục vụ tha nhân một cách hữu
hiệu hơn.
Veritas Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Tư Tuần I TN2
Bài đọc: I
Sam 3:1-10, 19-20; Mk 1:29-39.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Giêsu là Thượng-tế nhân-từ và trung-tín.
Tục ngữ Việt Nam có
câu: “Có đau mắt mới biết thương người mù.” Có là cha mẹ mới biết nỗi khổ của
việc cưu mang và dưỡng nuôi con cái. Có trải qua đau khổ và cám dỗ, một người mới
có thể giúp ai trong hoàn cảnh đó. Các Bài đọc hôm nay xoay quanh vấn nạn tại
sao Chúa Giêsu phải nhập thể và trở nên hoàn toàn giống như con người về mọi
phương diện, trừ tội lỗi.
Trong Bài Đọc I, năm
chẵn, thầy cả Eli dùng kinh nghiệm để dạy cho con trẻ Samuel biết lắng nghe và
nhận ra tiếng Thiên Chúa trong đêm trường tỉnh thức và cầu nguyện. Trong Phúc
Âm, Chúa Giêsu đồng cảm với số phận con người: Ngài chữa lành cho mẹ vợ Phêrô
và tất cả mọi người trong Thành Capernaum kéo đến kêu xin. Ngài cũng dạy cho
các tông-đồ biết thăng bằng giữa các họat động tông-đồ với đời sống cầu nguyện.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm chẵn): "Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng
nghe."
1.1/ Những đức tính cần
thiết của người ngôn sứ: Để có thể lắng nghe
tiếng Thiên Chúa, con người phải tập để có những đức tính sau:
(1) Tĩnh lặng: Đền thờ
là một trong những nơi Thiên Chúa nói với con người, Samuel ngủ trong Đền Thờ với
Thiên Chúa. Ngoài ra, sa mạc hay đỉnh núi cũng là chỗ Thiên Chúa tỏ mình cho
con người. Khi không có cơ hội, phòng riêng cũng là nơi tốt để cầu nguyện. Ngược
lại, ồn ào làm con người chia trí và tâm hồn không thể lắng đọng để nghe tiếng
Thiên Chúa.
(2) Tỉnh thức: Chúa
Giêsu khuyên các môn đệ luôn phải tỉnh thức và cầu nguyện luôn để có thể đứng vững.
Cậu bé Samuel trong trình thuật hôm nay rất bén nhạy với tiếng gọi, ba lần cậu
giật mình tỉnh thức trong đêm trường. Các thánh có thói quen cầu nguyện trong
đêm tối; vì là thời gian Thiên Chúa tỏ mình cho con người. Ngôn sứ cần có tỉnh
thức để nhận ra nhu cầu của con người chung quanh trước khi có thể đáp ứng nhu
cầu của họ. Những ai mê ngủ khó có thể nghe được tiếng Chúa và tiếng kêu cứu của
tha nhân.
(3) Mau mắn vâng lời:
Ba lần nghe tiếng gọi trong đêm, ba lần Samuel mau mắn chạy tới với thầy cả Eli
để xem Thầy cần gì. Samuel không nản chí khi Thầy truyền về ngủ lại cả ba lần.
Nếu Samuel nản chí, cậu sẽ không có cơ hội được Thiên Chúa tỏ mình. Ngôn sứ
không chỉ lắng nghe tiếng gọi của Thiên Chúa, nhưng còn phải mau mắn vâng lời
và làm theo ý của Ngài. Trong trình thuật hôm nay, Thiên Chúa đang thử luyện cậu
bé Samuel trước khi trao sứ vụ ngôn sứ cho cậu. Làm sao Thiên Chúa có thể trao
sứ vụ cho những người ù lỳ không thi hành những gì Ngài mong muốn.
1.2/ Kinh nghiệm của thầy
cả Eli: Con người cần lắng nghe để học hỏi
kinh nghiệm và vâng lời sự chỉ dẫn của những người hữu trách, vì đó là một trong
những cách thức Thiên Chúa dùng để huấn luyện con người. Một người không chịu lắng
nghe và học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước thường sẽ bị trả giá nặng
nề. Trong trình thuật hôm nay, thầy cả Eli truyền kinh nghiệm của mình cho
Samuel để cậu có thể lắng nghe tiếng của Ngài: "Con về ngủ đi, và hễ có ai
gọi con thì con thưa: "Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng
nghe."
Sau khi nhận được cách
thức đáp lại tiếng Thiên Chúa của Thầy, Samuel về ngủ ở chỗ của mình. Đức Chúa
đến, đứng đó và gọi như những lần trước: "Samuel! Samuel!" Samuel
thưa: "Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe."
Kể từ đó, Thiên Chúa
thường xuyên nói chuyện với Samuel. Đức Chúa ở với ông và ông không để cho một
lời nào của Ngài ra vô hiệu. Toàn thể Israel, từ Dan tới Beer-Sheba, đều biết rằng
ông Samuel được Đức Chúa tín nhiệm cho làm ngôn sứ của Người.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu đồng cảm với con người. Ngài chữa lành mọi bệnh
hoạn, tật nguyền.
2.1/ Chúa Giêsu chữa bệnh
cho bà nhạc của Phêrô: “Vừa ra khỏi hội đường
Capernaum, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simon và Anrê. Có ông Giacôbê và ông
Gioan cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt, nằm trên giường.
Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà
mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.”
Trong hành trình của
Chúa trên dương gian, Ngài luôn đồng cảm với con người, nhất là những bệnh nhân
và những người lâm cảnh khốn khó. Ngài luôn chữa lành khi họ kêu xin; và nhiều
khi họ chưa kêu xin nữa.
2.2/ Chúa Giêsu chữa bệnh
cho rất nhiều người trong thành: “Chiều đến,
khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho
Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh
tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai.” Sở
dĩ họ phải chờ chiều đến, là Luật Do-Thái không cho chữa bệnh trong ngày
Sabbath.
2.3/ Chúa Giêsu cầu nguyện
với Thiên Chúa: “Sáng sớm, lúc trời còn tối
mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó.”
(1) Sự cần thiết của đời
sống cầu nguyện: Khi Ngài còn đang cầu nguyện, ông Simon và các bạn kéo nhau đi
tìm. Khi gặp Người, các ông thưa: "Mọi người đang tìm Thầy đấy!" Cả một
ngày vất vả dạy dỗ và chữa bệnh, Chúa Giêsu vẫn tìm được thời gian để cầu nguyện
với Thiên Chúa. Ngài muốn dạy các môn đệ: cần phải thăng bằng giữa đời sống kết
hợp với Thiên Chúa để
nuôi dưỡng các họat động
tông-đồ.
(2) Nước Chúa cần được
mở rộng khắp nơi: Người bảo các ông: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các
làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm
việc đó." Rồi Người đi khắp miền Galilee, rao giảng trong các hội đường của
họ, và trừ quỷ.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Người tông-đồ của
Chúa Giêsu phải biết cảm thương với số phận của con người: ngây thơ, yếu đuối,
bệnh tật, đau khổ, và tội lỗi, trước khi có thể giúp đỡ đem họ về cho Chúa.
- Chúng ta cần phải giữ
thăng bằng cho đời sống: có thời giờ cho các họat động tông đồ và có thời giờ để
cầu nguyện kết hợp với Thiên Chúa.
- Để có thể lắng nghe
tiếng Thiên Chúa, chúng ta cần tìm nơi yên tĩnh để cầu nguyện và tránh xa mọi
chia trí của cuộc sống.
- Chúng ta cần trưởng
thành trong đời sống để tự giúp mình, và để lãnh trách nhiệm trong việc mở mang
Nước Chúa, chứ không được hoàn toàn sống ỷ lại vào người khác.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN,OP.
10/01/2018
THỨ TƯ TUẦN 1 TN
Mc 1,29-39
Mc 1,29-39
Sáng sớm lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi
hoang vắng và cầu nguyện ở đó. (Mc
1,35)
Suy niệm: Tin Mừng Mác-cô hôm nay mô tả cuộc sống thường nhật của
Chúa Giê-su gồm hai nhịp: hoạt động truyền giáo và cầu nguyện. Dù bận rộn với đủ
mọi hạng người đến với mình, nhưng Chúa Giê-su vẫn ưu tiên dành những giây phút
quý giá nhất trong ngày để cầu nguyện với Cha. Chính trong tương giao với Cha
qua cầu nguyện, Ngài đã nhận ra và chọn sống theo ý Cha. Nhờ chọn lựa này, Ngài
không lưu lại một chỗ để “thưởng thức” lòng ham mộ, sự thành công, nhưng rong
ruổi nay đây mai đó để nhiều người hơn được biết Tin Mừng Nước Trời. Ngày sống
của Ngài được đan dệt bằng hai chất liệu quý giá: tâm tình hiếu thảo với Cha và
tấm lòng yêu thương con người.
Mời Bạn: Trong xã hội hiện nay, học
sinh bù đầu lo chuyện học, người lớn đầu tắt mặt tối với việc làm ăn, giáo xứ với
tổ chức lễ lạc… Dường như “chủ nghĩa duy hoạt động” thắng thế: người ta đặt hiệu
quả việc loan báo Tin Mừng nơi hoạt động, qua công việc, chứ không nơi đời sống
cầu nguyện. Hậu quả tất yếu là xem nhẹ sức mạnh của việc cầu nguyện. Trong khi
đó, cầu nguyện là “hơi thở” của đời sống Ki-tô hữu, “là tiếng kêu của
linh hồn” (A. Belden). Qua cầu nguyện, ta gặp gỡ Chúa, nhìn ngắm, xin
Ngài tư vấn, để rồi nhờ lắng nghe, ta biết được và chọn làm theo Ý Ngài.
Chia sẻ: Bạn thường cầu nguyện do nhu cầu cần gặp gỡ Chúa hay do
muốn xin ơn, cầu lợi?
Sống Lời Chúa: Dành riêng 5 phút mỗi ngày
để cầu nguyện với Chúa.
Cầu nguyện: Chúa ơi, xin cho con biết dành thời gian tâm sự với Chúa
mỗi ngày. Amen.
(5 phút Lời Chúa)
Bà phục vụ các ngài (10.1.2018 – Thứ tư Tuần 1 Thường niên)
Chúng ta cần nhìn nhận vai trò
quý báu của người vợ, người mẹ trong nhà, và vai trò của người phụ nữ trong giáo xứ cũng như ngoài xã hội.
Suy niệm:
Sau khi chữa người bị quỷ
ám tại hội đường Caphácnaum,
Đức Giê su trở về một căn
nhà của một gia đình quen biết,
gia đình của hai anh
Simon và Anrê, những người mới bỏ nhà để theo ngài.
Không may bà mẹ vợ của
Simon lại đang lên cơn sốt.
Đức Giêsu đã lại gần
giường bà nằm, cầm lấy tay bà và nâng bà dậy.
Lập tức cơn sốt lui khỏi
bà và bà phục vụ các ngài.
Đây là phép lạ chữa bệnh
đầu tiên của Đức Giêsu
cho một phụ nữ, tại một
ngôi nhà.
Sốt chẳng phải là một
bệnh quá nặng và nguy hiểm,
nhưng cũng đủ để làm
người bệnh không hoạt động được,
gây cản trở những sinh
hoạt bình thường trong gia đình.
Đức Giêsu đến đem lại sự
chữa lành, niềm vui và sức sống.
Khi người phụ nữ được
khỏi bệnh, mọi sự như sống lại.
Bếp lại có lửa, bàn lại
có thức ăn, và người ta ngồi quanh cười nói rôm rả.
Hạnh phúc gia đình có khi
chỉ tùy thuộc vào những điều be bé.
Hạnh phúc bị sứt mẻ lắm
khi chỉ vì những chuyện không đâu.
Hãy nhìn cách Đức Giêsu
chữa bệnh cho người phụ nữ này.
Thật gần gũi và thân
tình, ngài chẳng nói lời nào để đuổi cơn sốt.
Khi nắm tay người bệnh
nặng, ngài chấp nhận nguy cơ bị nhiễm nhơ uế.
Nhưng Đức Giêsu chẳng hề
bị nhiễm gì, trái lại ngài đem đến bình an.
Ngài đã nâng bà dậy
(êgeiren), có nghĩa là ngài làm bà phục sinh.
Sau khi được phục sinh
thì bà đi phục vụ các vị khách.
Phục vụ hiểu theo nghĩa
đơn sơ nhất là đi chuẩn bị bữa ăn.
Các thiên thần cũng
đã phục vụ Đức Giê su
sau khi ngài thắng các
cơn cám dỗ (Mc 1, 13).
Tuy nhiên có thể hiểu
phục vụ theo nghĩa rộng hơn nhiều.
Sau khi Đức Giêsu chết
trên thập giá, chỉ còn các phụ nữ ở lại đến cùng.
“Họ đã đi theo ngài
và phục vụ ngài từ hồi ngài còn ở Galilê
và họ đã cùng ngài lên
Giêrusalem” (Mc 15, 40-41).
Như vậy không phải chỉ
các ông môn đệ mới là người phục vụ (Mc 10, 43).
Các bà cũng đã trung tín
phục vụ đến cùng,
phục vụ như Thầy Giêsu,
Đấng đã đến để phục vụ” (Mc 10, 45).
Chúng ta cần nhìn nhận
vai trò quý báu của người
vợ, người mẹ trong nhà,
và vai trò của người phụ
nữ trong giáo xứ cũng như ngoài xã hội.
Cầu nguyện:
Giữa một thế giới đề cao
quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ
âm thầm.
Giữa một thế giới say mê
thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu
thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe
phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác
và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy
hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi
người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình
yêu tinh ròng,
xin cho các kitô hữu
chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của
thế giới.
Xin dạy chúng con biết
yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho
tha nhân,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận
lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào
sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng
con,
và trong lòng từng con
người bé nhỏ.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
HÃY NÂNG TÂM HỒN LÊN
10 THÁNG GIÊNG
Ánh Sáng Cho Các
Dân Tộc
Lời Chúa giới thiệu
cho chúng ta hình ảnh Đức Giê-su Na-da-rét như là “người tôi tớ của Thiên Chúa”
đã được báo trước trong Sách Ngôn sứ Isaia, như là người được Thiên Chúa tuyển
chọn và hài lòng. Trong tư cách là người tôi tớ của Thiên Chúa, Đức Giêsu đã chu
toàn sứ mạng của Người với sự dấn thân trọn vẹn cho Thánh Ý Thiên Chúa; và Người
nêu mẫu gương khiêm nhường trong quan hệ với mọi người. Như vậy, Thiên Chúa đã
đặt Người “như một giao ước với con người”, “như một ánh sáng cho các dân tộc”,
để đem lại ánh sáng cho người mù và trả lại tự do cho các tù nhân.
Người tôi tớ kỳ diệu ấy
của Thiên Chúa là Đức Kitô, Đấng đã đến để đem ơn cứu độ cho nhân loại – như được
mạc khải trong nước của phép Rửa. Trong Tin Mừng của Luca, Đức Giêsu được
Gio-an làm phép Rửa. Bấy giờ trời mở ra, và Chúa Thánh Thần hiện xuống trên Đức
Kitô trong hình một chim bồ câu. Rồi tiếng Chúa Cha phán: “Đây là Con Yêu Dấu của
Ta; Ta hài lòng về Người.” (Mt 3, 17).
Giờ đây sấm ngôn xưa
đã được ứng nghiệm. Thiên Chúa vui thỏa đối với tôi tớ của Ngài; Cha hài lòng về
Con đời đời của mình. Bởi người Con ấy đã đảm nhận bản tính nhân loại. Với lòng
khiêm nhường sâu thẳm, Người đã xin Gio-an làm phép rửa cho Người trong nước.
Tuy nhiên, Gio-an Tẩy Giả chỉ là một vị tiền hô của Đức Kitô, và phép rửa của
Gio-an trong nước chỉ là một chuẩn bị cho cuộc xuất hiện của Đấng Mêsia – một
chuẩn bị để đón nhận ân sủng. Đức Giêsu, người tôi tớ khiêm nhường của Thiên
Chúa, mới là người mang ân sủng đến và làm phép Rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa.
Hạnh Các Thánh
10 Tháng Giêng
Thánh Grêgôriô ở Nyssa
(330 - 395)
Thánh Grêgôgiô là con út của một gia đình đã góp phần rất lớn cho Giáo Hội và
gia đình ấy có ít nhất năm vị thánh.
Sinh trưởng trong thành phố bây giờ là Thổ Nhĩ Kỳ, Grêgôriô là con của hai vị
thánh Basil và Emmilia, và lớn lên trong sự dẫn dắt của người anh là Thánh
Basil Cả, và người chị Macrina. Sự thành công trong việc học của Grêgôriô tiên
đoán một tương lai rạng rỡ. Sau khi là giáo sư hùng biện, ngài được khuyến
khích dâng hiến tài năng và hoạt động cho Giáo Hội, và ngài đã gia nhập đan viện
của người anh là Basil Cả. Sau khi lập gia đình, Grêgôriô tiếp tục học làm linh
mục và được phong chức (vấn đề độc thân thời bấy giờ không phải là điều kiện để
làm linh mục).
Ngài được chọn làm Giám Mục của Nyssa năm 372, là giai đoạn nhiều căng thẳng về
bè rối Arian, họ từ chối thiên tính của Ðức Kitô. Sau một thời gian giam cầm vì
bị bè rối Arian vu oan là biển thủ ngân quỹ Giáo Hội, Ðức Grêgôgiô được phục hồi
quyền bính năm 378.
Chính sau cái chết của người anh yêu quý là Thánh Basil mà Ðức Grêgôgiô mới thực
sự chứng tỏ khả năng của ngài. Các học thuyết của ngài chống với Arian và các
sai lầm khác lừng danh đến nỗi ngài được xưng tụng là người bảo vệ chính giáo.
Ngài được sai đi trong
các sứ vụ chống trả các bè rối, và giữ một vị thế quan trọng trong Công Ðồng
Constantinople.
Danh tiếng của ngài kéo dài cho đến khi từ trần, nhưng qua nhiều thế kỷ, danh
tiếng ấy lu mờ dần khi người ta không rõ ngài có phải là tác giả của các học
thuyết ấy hay không. Tuy nhiên, chúng ta phải cám ơn công trình của các học giả
trong thế kỷ 20, vì nhờ đó mà tầm vóc của Thánh Grêgôriô lại được phục hồi. Thật
vậy, Thánh Grêgôriô ở Nyssa không chỉ được coi là một trụ cột của chính giáo,
nhưng còn là người đóng góp quan trọng cho các truyền thống bí nhiệm trong linh
đạo Kitô Giáo và cho hệ thống đan viện.
Trích từ NguoiTinHuu.com
10/01/2018
10 Tháng Giêng
Hạt Giống Của Hy Vọng
Văn hào Shakespeare của nước Anh đã nói rằng: liều thuốc
duy nhất còn lại cho những người khốn khổ chính là niềm Hy Vọng. Bao lâu còn hy
vọng, bấy lâu con người muốn tiếp tục sống.
Những người Mỹ tại một thành phố nọ thường truyền tụng
cho nhau nghe câu chuyện nuôi niềm hy vọng của một gia đình nọ như sau: Có một
đôi vợ chồng nọ vừa yêu người cũng lại vừa yêu thiên nhiên. Ngoài năm đứa con
ruột thịt ra, họ còn nhận thêm năm đứa con nuôi. Niềm vui chung của mọi người
trong nhà là được săn sóc vườn hoa và những thứ cây cảnh trong nhà. Người vợ tưởng
chừng như không biết thế nào là đau khổ. Nhưng cả bầu trời như sụp xuống, vườn
hoa trở thành hoang tàn, khi người chồng ngộ nạn, qua đời. Kể từ đó, người đàn
bà không còn muốn ra khỏi nhà nữa. Thiếu bàn tay săn sóc của bà, ngôi vườn cũng
mỗi lúc một tàn lụi.
Mùa đông đến càng làm cho ngày tháng càng thêm ảm đạm
hơn. Thế nhưng, một bữa sáng nọ, người đàn bà bỗng nghe tiếng cười nói và cào xới
trong ngôi vườn. Kéo tấm màn cửa sổ phòng ngủ lên, bà thấy các con của bà đang
hì hục xới đất. Trước sự ngạc nhiên của bà, người con cả trong gia đình chỉ mỉm
cười đáp: "Má sẽ biết khi mùa xuân đến". Và nguyên một mùa đông, ngày
nào các con của bà cũng ra vườn để xới đất.
Thế rồi khi mùa xuân đến, bao nhiêu hoa đẹp đều nở rộ
trong vườn. Những hạt giống mà những người con đã âm thầm gieo vãi trong mùa
đông nay thức giấc bừng dậy làm cho ngôi vườn trở thành tươi mát, sặc sỡ.
Cùng với hạt giống của các thứ hoa, những người con đã
gieo vào lòng người mẹ một thứ hạt giống khác: đó là hạt giống của Hy Vọng.
Chính niềm hy vọng đó đã đem người đàn bà trở lại cuộc sống và đánh tan mọi buồn
phiền trong tâm hồn bà.
Câu chuyện trên đây có
lẽ cũng chính là bức tranh của không biết bao nhiêu thăng trầm trong cuộc sống
hiện tại của chúng ta. Có những ngày tháng, mọi sự xem chừng như vô vọng. Có những
lúc mây mù của khổ đau bao phủ kín khiến chúng ta không còn thấy đâu là lối
thoát. Chính trong những lúc đó, chúng ta hãy nhớ đến hạt giống của niềm Hy Vọng.
Thánh Phaolô đã viết trong thư gửi cho các tín hữu Rôma như sau: "Chính
trong niềm Hy Vọng mà chúng ta được cứu thoát. Chính trong niềm Hy Vọng đó,
chúng hãy nhìn thấy Sức Sống đang chờ đợi chúng ta. Chính trong niềm Hy Vọng
đó, chúng ta hãy nhìn thấy những hoa trái của những hạt giống mà chúng ta đã vất
vả gieo vãi.
Một người Hòa Lan và một
người Mỹ bàn về ý nghĩa của hai lá cờ quốc gia. Người hòa Lan phát biểu một
cách mỉa mai như sau: lá cờ của chúng tôi có ba màu: đỏ, trắng, xanh. Chúng tôi
tức giận đỏ cả người lên, mỗi khi chúng tôi bàn đến thuế má. Chúng tôi run sợ đến
trắng bệch cả người mỗi khi chúng tôi nhận được giấy thuế má. Và chúng tôi xanh
như tàu lá sau khi đã trả hết các thứ thuế. Người Mỹ cũng nói lên một cảm tưởng
tương tự mỗi khi nhận được các thứ giấy đòi nợ, nhưng lại bảo rằng: bù lại,
chúng tôi chỉ thấy toàn các thứ sao.
Sao trên bầu trời là
biểu hiện của chính niềm Hy Vọng. Bên kia những vất vả thử thách, bên kia những
mất mát, bên kia những thất bại khổ đau, phải chăng người Kitô chúng ta không
được mời gọi để thấy được các ngôi sao của niềm Hy Vọng.
Trích sách Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét