11/01/2018
Thứ Năm tuần 1 thường niên
Bài Ðọc I: (năm
II) 1 Sm 4, 1-11
"Israel thất
trận và hòm bia Thiên Chúa bị chiếm đoạt".
Trích sách Samuel quyển
thứ nhất.
Trong những ngày ấy,
những người Philitinh kéo đến gây chiến, và Israel phải xuất quân chống lại và
đóng binh tại gần nơi gọi là Tảng Ðá Phù Hộ, còn người Philitinh đóng quân tại
Aphê và giàn trận đánh dân Israel. Vừa giáp trận, dân Israel đã phải rút lui trốn
khỏi quân Philitinh; và trong trận đó có khoảng bốn ngàn binh sĩ bị giết rải
rác khắp đồng ruộng. Khi tàn quân trở về trại, các kỳ lão Israel nói rằng:
"Tại sao hôm nay Thiên Chúa sát hại chúng ta trước mặt quân Philitinh?
Chúng ta hãy đem hòm bia Thiên Chúa từ Silô đến giữa chúng ta, để cứu chúng ta
khỏi tay quân thù".
Rồi dân chúng phái người
đến Silô đem hòm bia Thiên Chúa các đạo binh ngự trên các vệ binh thần (tới).
Hai con Hêli là Ophni và Phinê cùng đi theo hòm bia Thiên Chúa. Và khi hòm bia
Thiên Chúa đến trại, toàn dân Israel lớn tiếng hoan hô vang trời dậy đất. Quân
Philitinh nghe tiếng hoan hô, liền hỏi nhau rằng: "Tại sao trong trại quân
Do-thái có tiếng hò la vang dậy?" Khi biết là hòm bia Thiên Chúa đã đến giữa
trại, quân Philitinh sợ hãi và nói: "Thiên Chúa đã ngự đến trại quân địch".
Rồi chúng kêu than rằng: "Vô phúc cho chúng ta, mấy bữa nay đâu có tiếng
hò la như vậy. Thật vô phúc cho chúng ta. Ai sẽ cứu chúng ta thoát khởi tay những
vị thần minh cao siêu đó? Ðây là những thần minh đã giáng biết bao tai hoạ trên
những người Ai-cập nơi hoang địa. Hỡi người Philitinh, hãy can đảm và hiên
ngang, đừng chịu làm nô lệ dân Do-thái như chúng đã làm nô lệ chúng ta. Hãy can
đảm mà chiến đấu". Vậy người Philitinh giao chiến, và dân Israel bị bại trận,
và mạnh ai nấy chạy về trại mình. Và thật là một đại hoạ, bên Israel có đến ba
mươi ngàn bộ binh tử trận. Hòm bia Thiên Chúa cũng bị chiếm đoạt. Cả hai con
Hêli là Ophni và Phinê cũng tử trận.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 43, 10-11.
14-15. 24-25
Ðáp: Lạy Chúa, xin cứu chúng con theo lòng từ bi của
Chúa (c. 27b).
Xướng: 1) Nay Chúa đã
xua đuổi và để chúng con đầy nhuốc hổ, Chúa không xuất trận với quân đội chúng
con. Chúa đã bắt chúng con phải tháo lui trước quân thù, và những kẻ thù ghét
chúng con tha hồ cướp của. - Ðáp.
2) Chúa đã để chúng
con bị lân bang chế diễu, bị những kẻ chung quanh phỉ báng chê cười. Bị các quốc
gia tha hồ chế nhạo, và bị các dân tộc trông thấy lắc đầu. - Ðáp.
3) Ôi lạy Chúa, xin
hãy tỉnh dậy, sao Chúa vẫn ngủ? Xin hãy bừng tỉnh và đừng xua đuổi chúng con
muôn đời. Sao Chúa lại ẩn giấu thiên nhan, Chúa quên lãng cảnh chúng con chịu
thống khổ và áp bức? - Ðáp.
Alleluia: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! -
Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống
đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 1, 40-45
"Bệnh cùi biến
mất và người ấy được sạch".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, có một người bệnh
cùi đến van xin Chúa Giêsu và quỳ xuống thưa Người rằng: "Nếu Ngài muốn,
Ngài có thể khiến tôi nên sạch". Ðộng lòng thương, Chúa Giêsu giơ tay đặt
trên người ấy và nói: "Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh". Tức thì bệnh cùi
biến mất và người ấy được sạch. Nhưng Người nghiêm nghị bảo anh đi ngay và dặn
rằng: "Anh hãy ý tứ đừng nói gì cho ai biết, một hãy đi trình diện cùng
trưởng tế và dâng của lễ theo luật Môsê, để minh chứng mình đã được khỏi bệnh".
Nhưng đi khỏi, người ấy liền cao rao và loan truyền tin đó, nên Chúa Giêsu
không thể công khai vào thành nào được. Người dừng lại ở ngoài thành, trong những
nơi vắng vẻ, và người ta từ khắp nơi tuôn đến cùng Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Chữa người
phong cùi
Raoul Folereau, vị đại
ân nhân của những người phong cùi đã ghi lại một chuyến đi của ông như sau: Ðến
một nơi cách thành phố 15 cây số, chúng tôi lần theo một lối đi được chỉ trước,
và sau nửa giờ đi bộ chúng tôi lạc vào một thế giới của buồn thảm, đau khổ và
thất vọng. Thật thế, tại một nơi mà không ai muốn đặt chân đến, có khoảng 60
người phong cùi đang sống bên nhau. Trước đây, người ta giam họ trong một trại
cùi chẳng khác nào một trại tù, mọi người nhìn họ như những kẻ bị chúc dữ, hoặc
tệ hơn nữa, như những con thú dữ. Không chịu nổi sự giam hãm và cách ly như thế,
một số người cùi này đã trốn thoát và đến trú ẩn giữa khu rừng này. Tại đây,
tình trạng của họ càng thêm tồi tệ hơn, xung quanh họ, trên đất đầy dẫy những vết
tích của căn bệnh quái ác này.
Tôi đến bên một người
lớn tuổi được xem như đại diện của họ và hỏi:
- Hôm nay là chiều Thứ
Bảy, cửa quán ngoài phố xá đã đóng cửa rồi; thứ hai tôi sẽ trở lại và mang theo
thức ăn thức uống; tôi cũng sẽ đưa một bác sĩ đến để chăm sóc cho bà con, chúng
tôi sẽ cất nhà và sẽ ở lại đây với bà con khi cần, vậy bác hỏi bà con có thể chờ
cho đến ngày Thứ Hai không?
Người đó đưa mắt nhìn
tôi với vẻ nghi ngờ, vì đã từ lâu họ không còn tin điều đó nữa; đối với họ, xem
ra không còn ai đáng tin trên đời này nữa. Rồi ông khẩn khoản nói:
- Ông không thể giúp
cho chúng tôi ngay được sao? Chúng tôi vừa mới có một người anh em qua đời,
chúng tôi phải dùng đôi tay cùi lở này để đào xới một cái mộ chôn người anh em.
Tôi nhìn đôi bàn tay
không nguyên vẹn vì bệnh tật, nay phải mang thương tích vì người đồng loại. Những
con người khốn khổ đó nếu không nhìn thấy, không thể tin được là có thật.
Căn bệnh phong cùi vẫn
là căn bệnh ghê sợ nhất đối với hiện tại. Người phong cùi đau đớn trên thân xác
đã đành, mà còn đau khổ gấp bội phần trong tâm hồn khi cảm thấy bị bỏ rơi.
Trong Tin Mừng hôm
nay, Chúa Giêsu đã gặp gỡ và chữa lành cho người phong cùi. Không những chữa
lành tấm thân bệnh hoạn, Ngài còn tái lập họ trong cộng đoàn nhân loại, khi bảo
bệnh nhân đi trình diện với các tư tế, nghĩa là hội nhập họ trở lại cuộc sống.
Sự tái hội nhập này luôn đòi hỏi sự cảm thông, lòng quảng đại và cởi mở đón nhận
của người khác. Vi trùng Hansen đục khoét và hủy hoại thân xác con người, thì
cũng có biết bao thứ vi trùng khác độc hại hơn đang ẩn núp trong tâm hồn con
người, tên của chúng là dửng dưng, ích kỷ, thù hận. Chúng đang giết dần giết
mòn con người mà con người không hay biết.
Xin Chúa tha thứ cho
những mù quáng, dửng dưng và ích kỷ của chúng ta trước bao nhiêu cảnh khốn cùng
của đồng loại. Xin Ngài ban cho chúng ta một trái tim biết cảm thông và đôi tay
rộng mở để san sẻ.
Veritas Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Năm Tuần I TN2
Bài đọc: I
Sam 4:1-11; Mk 1:40-45.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Bất tuân lệnh Thiên Chúa sẽ phải lãnh nhận hậu quả xấu.
Trong cuộc sống, mọi
người chúng ta đều nhận ra nguyên tắc: nếu muốn kết quả tốt đẹp, phải thi hành
những điều kiện đòi hỏi; vì nếu làm ngược lại, chúng ta sẽ phải lãnh mọi hậu quả
xấu. Ví dụ, để có thể lành bệnh, con người phải làm theo những gì bác sĩ căn dặn;
nếu không, sẽ không khỏi bệnh. Để có thể thu thập kiến thức và đạt được điểm cao,
học sinh phải lắng nghe giáo sư và viết lại những gì giáo sư nói; nếu nói ngược
lại và không có lý do chứng minh, sẽ bị điểm xấu và có thể bị ở lại lớp.
Các Bài Đọc hôm nay
xoay quanh việc con người phải vâng lời Thiên Chúa và thi hành những gì Ngài dạy,
nếu muốn được Thiên Chúa săn sóc và ban ơn. Làm ngược lại những gì Thiên Chúa dạy
là tự chuốc hậu quả xấu cho mình. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, con cái Israel
nghĩ nếu họ cứ mang Hòm Bia Thiên Chúa ra chiến trường, mà không cần biết có lệnh
Thiên Chúa hay không, là sẽ toàn thắng quân thù. Kết quả là họ đã thảm bại và
Hòm Bia Thiên Chúa rơi vào tay quân Philistines. Trong Phúc Âm, mặc dù đã được
ngăn cấm bởi Đức Kitô, người phong hủi vẫn không vâng lời. Sự bất tuân của anh
làm cho Chúa Giêsu không thể vào thành và dạy dỗ dân chúng được.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm chẵn): Sao hôm nay Đức Chúa để chúng ta bị người Philistines đánh bại?
1.1/ Đừng nghĩ Thiên Chúa
luôn bảo vệ mà dân chúng không cần ăn năn:
Trong lịch sử Cựu Ước, cứ khi nào dân chúng vâng lời làm theo những gì Thiên
Chúa dạy, họ được Ngài bảo vệ khỏi tay quân thù, và làm việc gì cũng thành
công; nhưng khi họ bất tuân lệnh Thiên Chúa, Ngài sẽ bỏ mặc họ cho quân thù tứ
bề xâu xé, và họ sẽ phải chịu mọi thảm bại cách nhục nhã. Trình thuật hôm nay
là một dẫn chứng: Các con cái của thầy cả Eli là Hophni và Phinehas và nhiều
người trong con cái của Israel càng ngày càng bất tuân lệnh Thiên Chúa. Hậu quả
khi họ giao chiến với quân đội của Philistines, họ bị thảm bại và bị thiệt hại
khoảng 4,000 người.
(1) Phản ứng của các kỳ
mục Israel: Khi dân trở về trại, các kỳ mục Israel nói: "Sao hôm nay Đức
Chúa để chúng ta bị người Philistines đánh bại? Chúng ta hãy đi Shiloh lấy Hòm
Bia Giao Ước của Đức Chúa về: Hòm Bia sẽ đến giữa chúng ta và sẽ cứu chúng ta
khỏi bàn tay quân thù." Họ chỉ nghĩ đơn giản là họ sẽ chiến thắng quân thù
nếu có sự hiện diện của Hòm Bia Thiên Chúa. Thế là họ sai người đi Shiloh; từ
đó họ mang về Hòm Bia Giao Ước của Đức Chúa các đạo binh, Đấng ngự trên các thần
hộ giá; ở đó, bên cạnh Hòm Bia Giao Ước của Thiên Chúa, có hai con ông Eli là
Hophni và Phinehas. Khi Hòm Bia Giao Ước của Đức Chúa xuống trại, toàn thể
Israel hò reo vang dội khiến đất rung chuyển.
(2) Phản ứng của người
Philistines: Khi người Philistines nghe thấy tiếng hò reo thì hỏi nhau:
"Tiếng hò reo vang dội ấy trong trại bọn Do-thái là gì vậy?" Khi
chúng biết là Hòm Bia Đức Chúa đã đến trại, chúng sợ hãi và nói với nhau:
"Một vị thần đã đến trại!" Rồi chúng bảo nhau: "Khốn thân ta, vì
trước đây không có như vậy! Khốn thân ta! Ai sẽ giải thoát ta khỏi tay những thần
hùng mạnh ấy? Đó là những thần đã dùng mọi thứ đòn mà đánh phạt người Ai-cập
trong sa mạc." Nhưng vì bị dồn vào thế phải chiến đấu, nên người lãnh đạo
quân đội Philistines phải lên tiếng động viên tinh thần các binh sĩ: "Hỡi
người Philistines, can đảm lên, hãy tỏ ra là nam nhi, kẻo phải làm nô lệ cho bọn
Do-thái như chúng đã làm nô lệ cho anh em. Hãy tỏ ra là nam nhi và chiến đấu!"
Và họ tiến lên giao chiến với quân đội của Israel.
1.2/ Kết quả của cuộc chiến:
Hôm đó là một cuộc thảm bại nhục nhã của
Israel. Họ bị quân đội Philistines đánh bại tan tành. Phía Israel có ba mươi
ngàn bộ binh tử trận. Hòm Bia Thiên Chúa bị chiếm đoạt, và hai con ông Eli là
Hophni và Phinehas bị giết. Số còn lại chạy trốn về lều của mình.
Con cái Israel học được
một bài học: Không phải cứ có Hòm Bia Thiên Chúa là tự động được Thiên Chúa bảo
vệ. Họ không thể điều khiển Thiên Chúa; nhưng bổn phận của họ là phải vâng lời
Ngài, nếu muốn được Ngài bảo vệ.
2/ Phúc Âm: Người phong cùi được chữa lành, nhưng không nghe lời Thiên
Chúa.
2.1/ Chúa Giêsu chữa lành
người phong cùi: Có người bị phong hủi đến gặp
Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho
tôi được sạch." Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: "Tôi
muốn, anh sạch đi!" Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch.
2.2/ Lệnh truyền của Chúa
Giêsu: Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay,
và bảo anh: "Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư
tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Moses đã truyền, để
làm chứng cho người ta biết." Mục đích tại sao Chúa Giêsu làm phép lạ là
vì thương bệnh nhân và muốn cho họ nhận ra Ngài là Thiên Chúa, chứ không phải để
được tán dương ca tụng. Nếu sau khi lãnh nhận phép lạ, mà vẫn không tin vào
Ngài, phép lạ đó coi như đã không đạt được mục đích.
2.3/ Anh được chữa lành
phong hủi không nghe lời Chúa Giêsu: Trình
thuật kể: “Nhưng vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin ấy khắp
nơi, đến nỗi Người không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những
nơi hoang vắng ngoài thành.” Chúng ta cứ thử tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra cho
anh phong cùi này, nếu Chúa Giêsu là một ông vua hay nhà lãnh đạo quân sự?
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Bổn phận của chúng
ta là phải tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa và tuân giữ những gì Ngài truyền
dạy.
- Vâng lời Thiên Chúa
và các nhà lãnh đạo đại diện cho Ngài không phải là hèn kém hay nô lệ, nhưng chứng
tỏ sự khôn ngoan của chúng ta; vì chúng ta biết họ khôn ngoan và yêu thương chúng
ta.
- Chúng ta được Thiên
Chúa bảo vệ và gìn giữ không phải vì danh xưng là những người Kitô hữu; nhưng
vì chúng ta vâng lời và thực hành những gì Ngài truyền dạy chúng ta.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN,OP.
11/01/2018
THỨ NĂM TUẦN 1 TN
Mc 1,40-45
Mc 1,40-45
Người chạnh lòng thương, giơ tay đụng vào anh. (Mc 1,41)
Suy niệm: Những người phong, cư dân trên đảo Molokai, xôn xao khi
thấy cha Đa-miêng đến chung sống với mình. Họ càng cảm động hơn khi biết vị
linh mục trẻ này hoàn toàn lành lặn, chỉ vì yêu thương họ quá, nên tình nguyện
đến chia sẻ và phục vụ họ ngay trên mảnh đất khốn khổ này. Ngài đã phá đổ hàng
rào ngăn cách vô hình giữa người lành/người phong, da trắng/da mầu, Ki-tô hữu/ngoại
đạo. Qua cử chỉ giơ tay đụng vào người phong, Đức Giê-su cũng xóa tan hố sâu
ngăn cách xã hội thời đó đặt ra. Thật vậy, ngoài những đau đớn khủng khiếp nơi
thân xác, người phong thời ấy còn phải chịu nỗi đau buồn cùng cực trong tinh thần
khi bị cộng đồng ruồng bỏ. Đức Giê-su đã đụng đến người phong không chỉ bằng
bàn tay, nhưng còn bằng lòng thương xót trước nỗi khổ của con người.
Mời Bạn: Nhìn ngắm mẫu gương của Đức
Giê-su khi Ngài kết hợp tài tình giữa trái tim chạnh lòng thương và bàn tay giơ
ra, đụng đến chữa lành, cũng như giữa lòng thương xót và quyền năng. Bạn được mời
gọi vận dụng mọi nguồn lực để bày tỏ lòng thương xót.
Chia sẻ: Sống trong một thế giới đầy những hố sâu phân cách:
giàu-nghèo, hạnh phúc-bất hạnh... bạn làm gì để vượt qua những hố sâu này ngõ hầu
diễn tả lòng thương xót?
Sống Lời Chúa: Tập mở rộng vòng tay nhân
ái đón nhận nhiều người, hơn là chỉ trong nhóm người quen thuộc.
Cầu nguyện: Lạy Chúa
Giê-su, xin cho trái tim chúng con nên giống trái tim Chúa, để biết chạnh lòng
thương trước đau khổ của người lân cận. Xin cho bàn tay chúng con cũng biết giơ
ra đụng đến và làm vơi nhẹ nỗi đau của người khác.
(5 phút Lời Chúa)
Chạnh lòng thương (11.1.2018 – Thứ năm Tuần 1 Thường niên)
Giáo hội Công Giáo sung sướng được phục vụ người phong ở khắp nơi, và coi đây như một nét đặc trưng của khuôn mặt Giáo hội.
Suy niệm:
Đây là quy chế người mắc
bệnh phong theo sách Lêvi (13, 45-46).
Người ấy phải mặc quần áo
rách, để tóc bù xù, che môi trên,
phải vừa đi vừa kêu lên:
“Ô uế ! ô uế !” để người ta biết mà tránh xa.
Người phong phải ở một
mình, phải ở một chỗ bên ngoài trại…
Như thế từ xa xưa, người
ta đã biết đến sự dễ lây lan của bệnh phong
và ảnh hưởng nguy hiểm
trên thân xác do chứng bệnh này.
Để được chứng nhận là đã
khỏi bệnh, người phong phải trình tư tế,
phải qua một quá trình
phức tạp để thanh tẩy trong tám ngày,
và phải dâng những con
vật bị sát tế để làm lễ xá tội (Lêvi 14).
Người phong trong bài Tin
Mừng hôm nay đã không giữ Luật Môsê.
Anh dám lại gần Đức
Giêsu, dám tin ngài có khả năng làm anh được sạch,
mặc dù theo truyền thống
Kinh Thánh,
chỉ Thiên Chúa mới làm được
chuyện đó.
Đức Giêsu vì thương anh,
nên cũng đã làm điều không được phép.
Ngài dám đưa bàn tay ra
và đụng đến anh,
đụng đến da thịt nhơ uế
của anh, đến chính phận người hẩm hiu của anh,
dù chỉ một lời của ngài
thôi cũng đủ làm anh khỏi bệnh.
Cái đụng của bàn tay Đức
Giêsu đã không làm ngài bị ô uế.
Trái lại, nó đã đem lại
sự thanh sạch cho anh bị phong.
Để làm phép lạ chữa bệnh
rất lừng lẫy này, Đức Giêsu đã phải trả giá.
Người phong khi được
khỏi, đã không tránh được chuyện rêu rao.
Vì thế người ta đổ xô
nhau tới khiến ngài phải ở ngoài thành.
Khi người khỏi bệnh vào
được thành thì Đức Giêsu lại phải ở hoang địa!
Thái độ chạnh lòng thương
và đụng đến người phong của Đức Giêsu
đã gợi hứng cho nhiều tâm
hồn noi gương bắt chước.
Tại nhiều trại phong ở
Việt Nam, ta thấy bóng dáng của các nữ tu.
Họ ở trại phong Bến Sắn,
Di Linh, Quy Hòa, Văn Môn…
Nhiều nữ tu đã hiến dâng
tuổi trẻ của mình để phục vụ người phong,
đụng đến những vết thương
tàn phế nơi thân xác họ.
Các chủng sinh Miền Bắc
cũng đã quen tiếp xúc với người phong,
ở lại với họ, săn sóc và
chia sẻ thân phận của họ.
Giáo hội Công Giáo sung
sướng được phục vụ người phong ở khắp nơi,
và coi đây như một nét
đặc trưng của khuôn mặt Giáo hội.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu thương
mến,
xin ban cho chúng con
tỏa lan hương thơm của
Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập
tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống
của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm
toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa
sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng
qua chúng con,
để những người chúng con
tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang
hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết
rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói
suông,
nhưng bằng cuộc sống
chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy
tình yêu của Chúa.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
HÃY NẦN TÂM HỒN LÊN
11 THÁNG GIÊNG
Thế Giới Khát Khao
Hòa Bình
Chất lượng đời sống
trong một quốc gia hay trong bất cứ cộng đồng nào khác đều tùy thuộc ở chỗ có
hay không có sự hòa bình và tình huynh đệ. Một khi thực sự có bầu khí hòa bình,
những năng lực hướng thiện phi thường sẽ được giải phóng, đem lại niềm vui,
thúc đẩy sáng tạo, giúp người ta đạt đến mức trưởng thành đầy đủ và làm việc với
nhau trong tinh thần con cái của Thiên Chúa Tình Yêu. Ở đâu có hiện diện tinh
thần huynh đệ đích thực, ở đó quyền lợi của kẻ yếu và của người cô thế cô thân
sẽ không bị chà đạp. Phẩm giá và thiện ích của mọi người sẽ được trân trọng bảo
vệ và tăng triển. Và chỉ có hòa hình khi người ta biết gìn giữ và củng cố công
bằng, tự do và lòng tôn trọng đích thực đối với bản tính con người.
Nhưng thế giới hiện
nay lại quen với tình trạng thiếu vắng tình huynh đệ, quen với sự kích động bạo
lực, sự phân biệt đối xử và sự bất công. Một thế giới như vậy quả đang thách đố
chúng ta biểu lộ tình người. Chất lượng của các cộng đồng và các quốc gia đang
bị đe dọa. Và mọi quốc gia trên thế giới đều phải đối mặt với thách đố này.
Cả nhân loại là một
gia đình – một đại gia đình với tất cả những nét đa dạng của nó. Cổ võ cho hòa
bình, cho công bằng giữa các quốc gia và cho sự đoàn kết thực sự giữa các dân tộc;
đó là tôn chỉ ngày càng thôi thúc chúng ta hôm nay. Các vị lãnh đạo của các quốc
gia và các tổ chức quốc tế vẫn thường xuyên nói lên điều đó. Các kế hoạch hòa
bình được hậu thuẫn bằng nhiều cách thế khác nhau bởi hầu như tất cả các đảng
phái chính trị trên thế giới. Các phong trào quần chúng và công luận cũng đề
cao cùng một tôn chỉ ấy. Ở bất cứ nước nào, người ta cũng ngán ngẩm những xung
đột và chia rẽ. Cả thế giới chúng ta đang khao khát hòa điệu và hòa bình.
Hạnh Các Thánh
11 Tháng Giêng
Chân Phước William Carter
(c. 1584)
Sinh ở Luân Ðôn, William Carter bước vào nghề in ngay từ khi còn nhỏ. Trong nhiều
năm, ông phụ việc cho một người thợ in Công Giáo nổi tiếng, người này bị cầm tù
vì kiên trì với đức tin Công Giáo. Chính ông William cũng bị tù vì "in những
tài liệu bị cấm [Công Giáo]" cũng như cất giữ các sách vở có liên can đến
đạo Công Giáo.
Hơn
thế nữa, ông còn chống đối nhà cầm quyền bằng cách phát hành các truyền đơn nhằm
duy trì đức tin của người Công Giáo. Nhà chức trách lục soát nhà ông còn tìm thấy
các áo lễ và sách lễ, ngay cả họ còn tra tấn vợ ông để tra khảo. Trong 18 tháng
tiếp đó ông bị cầm tù, bị tra tấn và thật đau khổ khi được biết vợ ông từ trần.
Hiển
nhiên ông bị buộc tội in ấn và phát hành tập Luận Án về Ly Giáo mà chính quyền
cho là do một người "phản quốc" viết để thúc giục người Công Giáo nổi
loạn. Trong khi ông William bình thản phó thác vào Thiên Chúa, bồi thẩm đoàn chỉ
họp có 15 phút trước khi kết luận là ông "có tội." Sau khi xưng tội với
vị linh mục cùng bị bắt, ông William đã bị treo cổ và phân thây vào ngày
11-1-1584.
Ông
được phong chân phước năm 1987.
11 Tháng Giêng
Kho Tàng Ẩn Dấu
Chúng ta có biết rằng trong cơ thể của con người chúng ta, những yếu tố nhỏ nhất
lại đóng vai trò quan trọng nhất không?
Lá
lách của chúng ta chỉ tiết ra một lượng men rất nhỏ, nhưng rất cần thiết để
giúp tiêu hóa chất Protin, chất béo trong thức ăn của chúng ta. Lượng dưỡng khí
kết hợp với hồng huyết cầu để làm cho máu thành đỏ chỉ là một số lượng nhỏ. Tuyến
não thùy nằm ở trong bộ não của chúng ta chỉ là một tuyến nhỏ nhưng vô cùng cần
thiết bởi vì nó tiết ra một kích thích tố cần thiết cho sự tăng trưởng của con
người. Những âm ba được truyền đến màn nhĩ trong lỗ tai là nhờ ở ba đốt xương
nhỏ li ti nằm giữa lỗ tai của chúng ta. Những tế bào hình nón nằm trong võng mô
của đôi mắt là những trạm tiếp nhận ánh sáng nhờ đó chúng ta mới thấy được. Mỗi
một tế bào trong cơ thể chúng ta chứa đựng những nhiễm thể mà chức năng chính
là quyết định về sự di truyền hay phái tính của mỗi bào thai. Tất cả những cơ cấu
nhỏ bé và ẩn tàng ấy đóng vai trò xem ra quan trọng nhất trong sự sống và hoạt
động của cơ thể con người.
Lại
nữa, những tác nhân gây ra không biết bao nhiêu bệnh tật giết người cũng là những
sinh vật nhỏ li ti mà mắt thường không thể nào trông thấy được. Phải chăng những
cái nhỏ li ti nhất lại không là những cái chứa đựng nhiều sức mạnh nhất? Và phải
chăng những công việc tầm thường vô danh nhất lại không là những công việc có
giá trị nhất trong cuộc sống con người?
Có
lẽ không phải do ngẫu nhiên hoặc vì chờ thời mà Con Thiên Chúa làm người, đã sống
âm thầm ẩn dật trong 30 năm trước khi công khai đi rao giảng Tin Mừng cứu độ.
30 năm âm thầm ấy cũng có giá trị cứu rỗi như chính cái chết và sự Phục Sinh của
Ngài. Với 30 năm âm thầm ấy, Chúa Giêsu muốn nói với con người rằng tất cả mọi
sinh hoạt trong cuộc sống con người, từ cái ăn, cái uống, cái ngủ nghỉ, tất cả
đều được mặc cho một giá trị cao cả và trường cửu.
Sống
một cách trọn vẹn, sống với tất cả niềm tin - tất cả những sinh hoạt tầàm thường
và nhỏ nhặt nhất trong cuộc sống âm thầm, có khi độc điệu, buồn chán: đó chính
là bí quyết để được hạnh phúc và bình an. Tất cả các vị thánh đều đi qua con đường
nên thánh ấy.
Trích
sách Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét