11/11/2018
Chúa Nhật tuần 32 Thường Niên năm B
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật 32 thường
niên- năm B
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN
(1 V 17,10-16; Dt 9,24-28; Mc 12,38-44)
THIÊN CHÚA THẤU TỎ MỌI SỰ
“Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết” (Mc 12,43)
I.
CÁC BÀI ĐỌC:
1. Bài
đọc 1:
Bối cảnh đoạn sách Các Vua là lời loan báo của ngôn
sứ Êlia về án phạt của Thiên Chúa đối với vua Akháp vì vua đã tôn thờ thần Baan
(1 V 16,29-33). Theo đó, trong đất nước của vua sẽ chẳng có mưa trong một thời
gian dài. Trong hoàn cảnh hạn hán và đói kém, Thiên Chúa có cách để lo liệu cho
vị ngôn sứ của Người (x. 1 V 17,1-9). Nhưng điều gây ngạc nhiên hơn cả là việc
Thiên Chúa biểu lộ sự quan phòng của Người qua hình ảnh tín thác của một bà góa
nghèo (1 V 17,10-16).
Các bà góa trong Kinh Thánh luôn là những người chịu
nhiều thiệt thòi. Họ đa phần là những người nghèo, bị xã hội coi thường và lãng
quên. Bà góa trong đoạn sách Các Vua cũng không phải là ngoại lệ. Ngôn sứ Êlia
gặp bà lúc bà đang đi lượm củi để lo cho bữa ăn cuối cùng, một hình ảnh cho cho
thấy cái nghèo đến cùng cực của bà trong hoàn cảnh hạn hán và đói kém, đến nỗi
bà có thể thấy trước cái chết của mình và con trai.
Bà góa này không những nhận ra Thiên Chúa là Chúa của
vị ngôn sứ, mà bà con thề trước Người (1 V 17,12), nghĩa là, cách nào đó, bà
cũng thừa nhận Người là Chúa của bà. Không loại trừ khả năng bà là người gốc
Israel, nhưng được gả chồng ở Xarépta, thuộc Xiđôn, vùng đất thuộc dân ngoại.
Dù thế nào, bà góa này xác tín rằng Thiên Chúa là Đấng vượt lên trên và hiểu biết
tất cả; bà ý thức rằng Thiên Chúa thấu suốt hoàn cảnh nghèo đói của bà.
Do vậy, trong hoàn cảnh bi đát của nạn hạn hán, bà vẫn
sẵn sàng cho nước theo lời yêu cầu của vị ngôn sứ; đồng thời trong lúc nạn đói
đang hoành hành dữ dội, lúc thức ăn đã cạn kiệt, lúc bà và con trai đang đối diện
với cái chết cận kề, bà vẫn sẵn sàng chia sẻ phần ăn với vị ngôn sứ. Sự sẵn
sàng trao ban của bà theo yêu cầu của vị ngôn sứ thể hiện một lòng tin mạnh mẽ
vào lời hứa của Êlia, và trên hết là niềm tin vào Thiên Chúa của vị ngôn sứ.
Phép lạ về bình dầu không cạn và hũ bột không vơi là
một minh chứng cho sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa, Đấng lo liệu khéo léo
cho vị ngôn sứ của Người. Đồng thời, phép lạ còn là lời xác tín vững chắc rằng
Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi những con người, dù nghèo khó, hèn kém và bị bỏ
quên trong xã hội, nhưng vẫn một lòng tin tưởng và phó thác vào Người.
2. Bài
đọc 2:
Thư Do-thái phác họa hình ảnh Đức Kitô Thượng Tế như
là vị trung gian hoàn hảo, là cầu nối hữu hiệu giữa con người với Thiên Chúa.
Những lý do sau đây chứng minh cho điều đó.
Một là, trong khi các thượng tế Do Thái chỉ có thể
vào trong nơi cực thánh một năm một lần, nơi mà họ tin rằng có sự hiện diện thật
sự của Thiên Chúa, để dâng lễ đền tội cho mình và cho dân, thì Đức Kitô Thượng
Tế lại vào chính cõi trời, diện đối diện với chính Thiên Chúa mà chuyển cầu cho
dân (Dt 9,24). Đức Kitô phục sinh là vị Thượng Tế được siêu thăng cõi trời, hằng
ngự bên hữu Thiên Chúa để chuyển cầu hiệu quả cho dân mỗi khi cần chứ không phải
chờ đợi mỗi năm một lần như trong định chế tư tế Lêvi.
Hai là, các thượng tế Do Thái mỗi năm đều phải mang
máu con vật vào nơi cực thánh để xin Thiên Chúa tha tội cho mình và cho dân là
vì máu đó không hoàn toàn xóa bỏ được tội lỗi. Đức Kitô Thượng Tế chỉ dâng hiến
tế là chính máu của mình một lần, nhưng hoàn toàn tiêu diệt mầm mống tội lỗi và
xóa bỏ tội muôn người (Dt 9,26.28). Theo quan niệm Do Thái, không có máu đổ ra
thì không có ơn tha thứ (x. Dt 9,22), nhưng chỉ có máu của Đức Kitô Thượng Tế,
Đấng “thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng
cao vượt các tầng trời” (Dt 7,26) mới đem lại ơn tha thứ một lần cho tất cả.
Ba là, Đức Kitô Thượng Tế sẽ trở lại lần thứ hai,
nhưng không phải để tiếp tục dâng lễ đền tội, nhưng là để đem lại ơn cứu độ cho
những ai trông đợi Người (Dt 9,28). Giá trị cứu độ của hy tế Đức Kitô mang tính
trường tồn. Ơn cứu độ này chỉ dành cho những ai biết “trông đợi Người”, trông đợi
bằng thái độ sống “tùng phục Người” (Dt 5,9). Như Đức Kitô đã “học vâng phục”
qua đau khổ để trở nên nguồn ơn cứu độ thế nào, thì những ai chờ đợi Đức Kitô bằng
thái độ vâng phục thánh ý Thiên Chúa đều xứng đáng đón nhận nguồn ơn cứu độ
vĩnh cửu do hiến tế cứu độ của Người mang lại (x. Dt 5,8-9).
Đức Kitô Thượng Tế vào chính cõi trời, trước nhan
Thiên Chúa, để dâng chính máu của mình, tiêu diệt hoàn toàn tội lỗi, hầu mang lại
ơn cứu độ vĩnh cửu cho những ai đợi trông Người. Người thật là vị Thượng Tế
hoàn hảo, là trung gian hữu hiệu giữa Thiên Chúa và con người.
3. Bài
Tin Mừng:
Bài Tin Mừng mô tả hai hoàn cảnh không những khác
nhau mà còn trái ngược nhau. Một bên là hình ảnh của các ông kinh sư bị Chúa
Giêsu phê phán vì cách sống nặng tính phô trương vẻ bề ngoài. Bên kia là hình ảnh
của bà góa nghèo được Chúa Giêsu khen ngợi vì đã âm thầm, kín đáo cho đi những
gì quý giá nhất với cả tấm lòng.
Các kinh sư là những người có vai trò quan trọng
trong việc giúp dân hiểu và giữ Lề Luật. Với vị thế, vai trò và lối sống đạo hạnh
của mình, họ thường nhận được sự kính trọng của dân. Tuy nhiên, có lẽ thời Chúa
Giêsu vẫn có những vị kinh sư chỉ chăm chú đến lối sống nặng tính hình thức bên
ngoài như: khoe khoang mũ áo, thích được chào hỏi, ưa chuộng lời khen và ghế
danh dự nơi công cộng, cầu nguyện hình thức… nhưng bên trong che đậy sự gian
trá và lọc lừa ngay cả tiền bạc của các bà góa là đối tượng thường chịu nhiều
thiệt thòi nhất trong xã hội. Chúa Giêsu mạnh mẽ lên án lối sống giả tạo, vụ
hình thức của họ, rằng họ sẽ bị Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can con người, kết
án nghiêm khắc.
Trái lại, hình ảnh bà góa nghèo dâng cúng một số tiền
rất nhỏ lại được Chúa Giêsu khen ngợi. So với những người giàu bỏ thật nhiều tiền,
thì hai đồng tiền kẽm của bà góa chẳng đáng là gì. Chúa Giêsu khen bà góa đã
dâng cúng số tiền nhiều hơn ai hết chắc chắn không phải dựa trên giá trị số tiền
bà dâng mà dựa trên tấm lòng sẵn sàng cho đi “tất cả tài sản, tất cả những gì
bà có để nuôi sống mình” (Lc 12,44). Lòng quảng đại của bà góa khi dám cho đi tất
cả thì đáng quý hơn rất nhiều so với những người giàu chỉ cho đi những gì là dư
thừa.
Hai hình ảnh trái ngược trong bài Tin Mừng gợi lên
nhiều điều đáng để suy gẫm:
Một là, Thiên Chúa không nhìn vào dáng vẻ bên ngoài
để đánh giá. Ngài là Đấng thấu suốt lòng dạ con người từ bên trong. Những gì thể
hiện ra bên ngoài chỉ có giá trị thực sự khi phát xuất từ tấm lòng bên trong.
Người ta có thể đánh lừa nhau vì cái mã bên ngoài, nhưng những gì phát xuất từ
tấm lòng mới là điều Thiên Chúa trông đợi nơi con người.
Hai là, tất cả mọi hành động và của cải trao ban, dù
nhỏ mọn, tầm thường, nhưng nếu xuất phát tự tâm hồn tốt lành, trung thực và quảng
đại đều có giá trị lớn lao trước mặt Thiên Chúa. Của cho, dù ít hay nhiều, chắc
chắc đều đáng quý, nhưng cách cho còn đáng quý hơn gấp bội.
Ba là, mọi người đều có giá trị như nhau trước mặt
Thiên Chúa, dù họ là ai, ở địa vị nào. Người không bỏ qua hành động sai trái của
kẻ mạnh, cũng không bỏ quên nghĩa cử cao đẹp của người thấp bé. Người đặc biệt
quan tâm và dành tình thương cách đặc biệt cho những người nghèo, những người
đang sống trong cô đơn, bị quên lãng hay bỏ rơi.
II. GỢI
Ý ÁP DỤNG:
1/ Phép lạ về bình dầu không cạn và hũ bột không vơi
là một minh chứng sống động cho sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa, Đấng khéo
léo lo liệu cho vị ngôn sứ của Người, và là Đấng không bỏ rơi những con người
nghèo hèn, bé nhỏ nhưng một lòng tin tưởng và phó thác vào Người. Tôi có tin rằng
Thiên Chúa vẫn hằng yêu thương, quan phòng, ngay cả khi tôi gặp những hoàn cảnh
cô đơn, nghèo hèn, khốn khổ, bi đát?
2/ Đức Kitô thật là vị Thượng Tế hoàn hảo, là trung
gian hữu hiệu giữa Thiên Chúa và con người, Đấng vào chính cõi trời để dâng máu
mình làm của lễ đem lại ơn cứu độ vĩnh cửu cho con người. Người đã học vâng phục
thánh ý Thiên Chúa ngay cả trong những lúc đau khổ nhất nên không có nỗi khổ
đau nhân loại nào mà Người không thể cảm thấu. Tôi có xác tín mạnh mẽ rằng Đức
Giêsu là trung gian hữu hiệu nhất dẫn tôi đến với Thiên Chúa, và là nguồn ơn cứu
độ duy nhất của đời tôi?
3/ Chúa Giêsu nhìn thấu và lên án lòng dạ xấu xa bên
trong của các ông kinh sư dù bên ngoài họ tỏ ra đạo đức, nhưng Người lại khen
ngợi lòng quảng đại của bà góa nghèo, dù nhìn bên ngoài số tiền dâng cúng của
bà chẳng là gì so với những người giàu dâng nhiều tiền. Tôi có thường sống với
chiếc mặt nạ? Cách tôi sống, những việc tôi làm có xuất phát từ tấm lòng chân
thành và trung thực?
III.
LỜI NGUYỆN CHUNG:
Chủ
tế: Anh chị em
thân mến! Thiên Chúa thấu suốt cõi lòng của con người, Người luôn quan tâm chăm
sóc những ai có tâm hồn nghèo hèn nhỏ bé và ưu ái chúc phúc cho họ. Với lòng
tin tưởng phó thác mọi sự nơi Chúa quan phòng, chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện:
1. Chúa Giêsu đã phê phán thái độ giả hình của các
kinh sư, biệt phái. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Hội Thánh
biết tránh xa thói giả hình, luôn trung thành sống tinh thần nghèo khó Phúc Âm,
và tận tâm phục vụ vì phần rỗi của mọi người.
2. Lối sống ích kỷ vô cảm là điều đáng cảnh báo
trong cuộc sống hôm nay. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo quốc gia
biết đề cao và khuyến khích mọi người sống tinh thần quảng đại hy sinh, nâng đỡ
chia sẻ, nhằm xây dựng một xã hội văn minh liên đới.
3. Đức Kitô chỉ hiến tế một lần là đủ đem lại ơn cứu
độ vĩnh cửu cho con người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi kitô hữu luôn xác
tín vai trò trung gian duy nhất của Đức Kitô và biết tích cực tham dự vào hy lễ
cứu độ của Người bằng một đời sống quên mình phục vụ.
4. Chúa Giêsu đánh giá cao tấm lòng của bà góa
nghèo. Xin cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta biết theo gương bà góa trong
Tin Mừng, luôn sống tín thác vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa, sẵn lòng
chia sẻ với mọi người và đóng góp cho việc chung.
Chủ
tế: Lạy Chúa,
chúng con ca ngợi và tôn vinh lòng thương xót hải hà của Chúa, xin nhậm lời
chúng con cầu nguyện và rộng ban muôn ơn lành giúp chúng con luôn sống đẹp lòng
Chúa theo gương Đức Giêsu Kitô. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
SCĐ CHÚA NHỰT XXXII. B
Chủ đề :
Tấm gương Bà góa
“Bà góa này rút từ cái túng thiếu của mình
mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để sống”
(Mc 12,44)
mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để sống”
(Mc 12,44)
Sợi chỉ
đỏ :
– Bài đọc I (1 V 17,10-16) : Bà góa nghèo xứ
Sarépta ân cần tiếp rước ngôn sứ Êlia.
– Tin Mừng (Mc 12,38-44) : Một bà góa nghèo lấy
hết những gì bà có để bỏ vào thùng tiền quyên góp của Đền thờ.
I.Dẫn
vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Người đời thường đánh giá theo bề ngoài, còn Thiên
Chúa thì đánh giá theo tấm lòng. Hôm nay chúng ta đến nhà thờ này. Chúa không để
ý tới quần áo, vẻ mặt hay phong cách bề ngoài của chúng ta, nhưng Ngài nhìn thấu
tấm lòng của chúng ta. Vậy chúng ta hãy rất chân thành với Chúa, bày tỏ hết những
gì nghèo nàn, yếu đuối, tội lỗi của chúng ta để được Ngài thứ tha, nâng đỡ và bồi
dưỡng thêm cho chúng ta.
II.Gợi
ý sám hối
– Chúng ta thường sống giả hình
– Chúng ta thường ích kỷ, không sẵn sàng chia xẻ với
người khác.
– Chúng ta ham nhận hơn là cho.
III.
Lời Chúa
1. Bài đọc I (1 V 17,10-16)
Câu chuyện bà goá xứ Sarépta giúp đỡ ngôn sứ Êlia có
nhiều điểm rất đáng suy gẫm : (1) Bà là người ngoại nhưng tấm lòng lại quảng
đại hơn rất nhiều tín hữu do thái ; (2) Bà đã cho ngôn sứ Êlia không phải
những cái bà dư thừa, mà chính chiếc bánh cuối cùng của mẹ con bà ; (3) Sở
dĩ bà dám cho đi như thế là vì bà có lòng tin tưởng phó thác vào lời hứa của
Thiên Chúa.
2.
Đáp
ca (Tv 145)
Thánh vịnh này triển khai một nét cao quý của bà goá
xứ Sarepta, đó là niềm tin tưởng phó thác vào Chúa, Đấng yêu chuộng người công
chính và phù trì nâng đỡ những kẻ yếu đuối nghèo nàn.
3.
Tin
Mừng (Mc 12,38-44)
Có hai hình ảnh rất đối chọi nhau trong đoạn Tin Mừng
này :
– Hình ảnh của các luật sĩ : rất cao sang, vinh
dự với áo thụng, chức quyền, được người ta bái chào, được ngồi những chỗ nhất.
Thế nhưng đó chỉ là cái vỏ, che đậy bên trong là một tâm hồn kiêu căng, tham
lam, ức hiếp kẻ yếu đuối.
– Hình ảnh một bà góa : nghèo tiền nhưng rất
giàu lòng. Đức Giêsu coi đây là hình ảnh đẹp nên “gọi các môn đệ đến” chỉ cho họ
thấy và bảo họ noi gương.
4.
Bài
đọc II (Dt 9,24-28) (Chủ đề phụ)
Tác giả thư do thái nhắc tới việc vị Thượng Tế do
thái mỗi năm vào gian cực thánh của Đền thờ Giêrusalem một lần, và so sánh với
Đức Giêsu Thượng Tế : (1) Vị thượng tế do thái vào gian cực thánh của Đền
thờ Giêrusalem ; còn Đức Giêsu thì vào chính cõi trời ; (2) Vị thượng
tế do thái vào đó để dâng của lễ ; còn Đức Giêsu Thượng tế thì dâng chính
bản thân mình ; (3) Mỗi năm vị thượng tế do thái phải vào lại gian cực thánh
ấy ; còn Đức Giêsu Thượng tế chỉ hiến tế một lần là đủ.
IV. Gợi ý giảng
*
1. Hình thức và tâm tình
Trong bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy 2 mẫu người :
. Mẫu thứ nhất là các luật sĩ : bề ngoài họ rất
đạo đức : họ giữ luật chín chắn, họ đọc kinh nhiều và đọc thật dài. Vì thế
họ được người ta kính trọng : ra ngoài đường ai gặp họ cũng kính chào, khi
họ dự một buổi hội họp thì ai cũng nhường cho họ những chỗ danh dự nhất. Nhưng
thực ra bên trong họ chẳng đạo đức chút nào : họ chỉ làm ra bộ đạo đức như
thế để được người ta kính trọng và dâng cúng tiền bạc.
. Mẫu người thứ hai là người đàn bà goá : bề
ngoài bà rất nghèo nàn, hèn hạ. Không ai tôn trọng bà, thậm chí chẳng thèm để ý
tới bà. Nhưng tâm hồn bà rất cao quý : mặc dù nghèo nàn, bà cũng không tiếc
lấy ra phần tiền tuy nhỏ nhưng rất cần thiết để dâng cúng vào đền thờ.
Như thế, bài Tin Mừng này đặt ra vấn đề Hình thức và
Tâm Tình. Đó là 2 mặt của 1 thái độ. Nhưng mặt nào trọng hơn ? Theo cách
đánh giá của CG thì mặt Tâm tình trọng hơn mặt Hình Thức : Chúa đã gọi các
môn đệ đến chỉ cho họ thấy thái độ của bà goá, và nhận xét : “Thầy nói thật
với các con : trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà goá này đã bỏ nhiều
hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa. Còn bà này đang túng
thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống”.
Cách đánh giá của CG thật là đúng : bởi vì nếu
có hình thức mà không có tâm tình thì cũng giống như có một cái đèn mà không có
dầu không có điện, giống như có một chiếc xe gắn máy mà không có xăng, giống
như có một cái xác mà không có hồn… tất cả sẽ vô ích, vô dụng.
. Một người giáo dân đeo ảnh Thánh Giá thật đẹp,
ngày nào cũng dự lễ rước lễ… nhưng trong lòng không mến Chúa không yêu người…
thì cũng đáng xếp vào loại giả hình như bọn luật sĩ trong Tin Mừng mà thôi.
. Một công nhân viên giỏi nhất phát biểu hùng biện,
giỏi viết những bản báo cáo thành tích nghe rất kêu… nhưng làm việc thì lờ đờ,
biếng nhác… thì chẳng ích lợi gì cho việc phát triển xã hội.
Cho nên cái tâm tình, cái thực chất, cái bên trong
thì quan trọng và quý giá hơn cái Hình Thức, cái dáng vẻ bề ngoài,. Trong việc
sống đạo cũng vậy : đọc kinh, dự lễ… không quý giá, không quan trọng bằng
tâm tình mến Chúa yêu người.
Nhưng từ nhận định rất đúng đắn, rất căn bản trên,
có nhiều người đi đến chủ trương bất cần hình thức. Họ bảo rằng : “Đạo Tại
Tâm” : sống đạo cốt là ở tâm hồn, chẳng cần đọc kinh, dự lễ, xưng tôi gì hết.
. Một ông nọ, nhà ở sát bên nhà thờ nhưng không bao
giờ đến nhà thờ. Ông bảo “Tôi thờ Chúa trong lòng”.
. Một cặp vợ chồng kia tuy đều có đạo nhưng cưới
nhau chẳng có phép hôn phối chi hết. Họ bảo “Chẳng cần đến hình thức bên
ngoài”.
Có lẽ đôi khi chúng ta cũng có những ý nghĩ tương tự.
Bây giờ xin đặt ra một số trường hợp để chúng ta cùng suy nghĩ xem sao :
. Trường hợp thứ nhất là chuyện làm đẹp, chưng diện :
quần áo cốt yếu chỉ là để che thân, mặt mày tóc tai cốt yếu chỉ là đủ sạch sẽ
thôi. Nhưng chúng ta đâu chỉ muốn cái cốt yếu đó, mà còn muốn sao cho đẹp, cho
đúng thời trang nữa. Vì thế chúng ta chọn lựa màu áo, kiểu quần, kiểu tóc…. đó
là chưa kể đến son phấn, sơn móng tay móng chân nữa… Như thế có phải là chúng
ta bất cần hình thức bên ngoài không ?
. Trường hợp thứ hai là chuyện tình yêu : Nếu
thực sự yêu nhau chỉ cốt yêu trong lòng là đủ thì cần gì người ta phải hẹn nhau
đi chơi, cần gì phải viết thư cho nhau, cần gì phải tặng quà cho nhau, cần gì
phải âu yếm nhau ?
2 trường hợp như thế đủ cho chúng ta thấy rằng tuy
hình thức không quan trọng bằng tâm tình, nhưng nó cũng rất cần. Chính Hình Thức
biểu lộ Tâm Tình và nuôi dưỡng tâm tình. Những lời nói, những nụ cười biểu lộ
cho người ta biết rằng mình yêu thương người ta, và cũng những lời nói nụ cười
đó làm cho tình yêu giữa 2 người ngày càng lớn lên, thắm thiết hơn. Không có
hình thức thì tâm tình sẽ dần dần héo khô, chết dần mòn đi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, CG mặc dù coi trọng tâm
tình hơn hình thức nhưng cũng không chủ trương bất cần Hình Thức. Vì thế, bà
goá trong Tin Mừng này không phải chỉ có lòng đạo đức bên trong, bà còn biểu lộ
lòng đạo đức ấy qua cử chỉ dâng cúng đồng tiền nhỏ mọn của bà trong hòm tiền.
Ngày nay không ít người chủ trương “Đạo Tại Tâm” và
coi thường những hình thức đạo đức như đọc kinh cầu nguyện dự lễ, dự các Bí
tích… Những suy nghĩ của chúng ta nãy giờ dựa vào bài Tin Mừng cho thấy đó chỉ
là một thứ ngụy biện : ngụy biện của những kẻ ghét đạo và muốn phá đạo ;
ngụy biện của những người có đạo nhưng lười biếng thi hành những bổn phận đạo đức.
Chúng ta đừng để thứ ngụy biện ấy ám ảnh tâm trí chúng ta và làm hại cho lòng đạo
đức của chúng ta.
*
2. Hai bà goá – Thương là cho
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cao 2 bà goá : Một
bà trong bài Tin Mừng một bà trong bài Sách Thánh, một bà Đức Giêsu gặp trong
sân Đền Thờ Giêrusalem một bà tiên tri Êlia gặp ở xứ Serepta, một bà đã dâng
vào thùng tiền Đền thờ một đồng xu và một bà đã cho tiên tri Êlia một chiếc
bánh nhỏ.
Do đâu mà 2 bà goá này được đề cao ? Có phải vì
cái mà 2 bà đã cho không ? Hiển nhiên là không, một đồng xu thì có đáng là
bao, cũng như một chiếc bánh nhỏ thì có thấm tháp gì ! Nhưng đề cao là vì
cái của cho ấy tuy nhỏ mọn mà gói ghép cả tấm lòng người cho : đồng xu của
Bà goá bỏ vào thùng tiền Đền thờ là cả một tấm lòng của một bà già nghèo, là cả
tài sản của bà ; còn chiếc bánh nhỏ mà bà goá xứ Sarepte cho tiên tri
Êlia, là cả một cuộc sống – đúng hơn là cả hai cuộc sống – của 2 mẹ con trong
lúc chết đói đến nơi.
Đúng vậy, của cho không bằng tấm lòng người cho, bởi
vậy tục ngữ ta có câu “của ít lòng nhiều”. Và nếu chúng ta xem kỹ lại bài Sách
Thánh thì chúng ta còn thấy tấm lòng của bà goá xứ Sarepta là một tấm lòng dằn
co ray rứt vì tiếc rẻ : khi ấy cả xứ đang bị hạn hán, đồ ăn trở thành khan
hiếm. Trong hoàn cảnh đó người giàu còn khổ nữa huống chi là người nghèo như bà
goá này. Bà chỉ còn có một nhúm bột và chút dầu. Bà đi kiếm một mớ củi định về
nhà làm một chiếc bánh nhỏ cho 2 mẹ con bà ăn lần chót rồi sao đó là nằm chờ thần
chết dần dần tiến tới. Khi đó tiên tri Êlia đến và xin bà chiếc bánh ấy. Bà
thành thật nói : “Đây là chiếc bán cuối cùng”. Nhưng sau đó vì biết Êlia
là tiên tri của Chúa nên dù rất tiếc Bà cũng đem chiếc bánh cuối cùng ấy ra
cho. Thật là một tấm lòng ray rứt dằn co vì tiếc rẻ. Sự tiếc rẻ ấy có làm giảm
giá trị của tấm lòng không ? Nếu tiếc mà không cho thì chẳng còn giá trị
gì. Nhưng đàng này dù tiếc mà vẫn cho, cho nên sự tiếc rẻ ấy chẳng những không
làm giảm giá trị mà còn tăng thêm giá trị của một tấm lòng quảng đại. Cho của
mình dư thừa thì chẳng quý gì ; cho cái mình đang cần mới là quý ; và
cho cái mình vừa cần vừa tiếc thì là quý nhất.
Chúng ta có thể coi những bài đọc trong Chúa nhật hôm
nay là nối tiếp bài Tin Mừng Chúa nhật vừa qua. Tin Mừng Chúa nhật vừa qua dạy
rằng Đạo Chúa là đạo yêu thương : thương Chúa trên hết mọi sự và thương
người như chính mình. Còn Lời Chúa hôm nay giải thích rõ thêm Thương thì phải
làm sao ?
. Thương thì phải cho. Thương ít thì cho ít, thương
nhiều thì cho nhiều. Nhưng nhất thiết thương là phải cho, nếu không cho là dấu
không thương. 2 bà goá này đã thương nên đã cho, đã cho vì đã thương.
. Nhưng của cho không bằng tấm lòng người cho. Của
nhiều mà lòng ít thì không quý cho bằng của ít mà lòng nhiều. Chính vì thế mà
tuy
. Bà goá ở Giêrusalem dù chỉ cho có một xu nhưng được
Đức Giêsu coi là cho nhiều hơn tất cả những người khác đã bỏ tiền vào thùng hôm
đó.
Vì những người kia đã cho cái mà họ dư thừa, còn bà
goá này cho tất cả tài sản của bà.
. Và của cho quý nhất là cho chính cái mình đang tha
thiết, tiếc rẻ. Như bà goá xứ Sarepta rất tiếc chiếc bánh, vì đó là chiếc bánh
cuối cùng của 2 mẹ con bà, nhưng dù vậy bà cũng đem cho.
Đó là nội dung giáo huấn của những bài đọc trong
Thánh Lễ hôm nay. Có cần phải nhắc lại không ? Giáo huấn gồm 3 điểm
chính :
. Thương thì phải cho.
. Nhưng của cho không bằng tấm lòng người cho.
. Và cho chính cái mình quý nhất mới là cái cho lớn
nhất, giá trị nhất.
Chúng ta nói rằng mình thương Chúa. Nhưng có thương
thật hay không ? Hãy xét mình xem ta có cho Chúa gì không ? Mỗi ngày
vài phút buổi tối trước khi đi ngủ mà có khi ta cũng không cho. Mỗi tuần chừng
một tiếng đồng hồ ngày Chúa Nhật mà có k hi ta cũng không cho hay có cho thì
cũng cắt đầu cắt giữa cắt đuôi, nghĩa là đi lễ trễ, chia trí lo ra, về sớm. Thỉnh
thoảng Chúa xin ta một chút hay sinh, một chút cố gắng, chúng ta có cho Chúa
hay không ? Hay là chúng ta cho Chúa thì ít nhưng xin Chúa thì nhiều, cầu
nguyện thì chỉ toàn là xin, xin cho con… xin cho con… Có người xin ơn mà không
được Chúa ban thì giận, họ kể lể nào là đã đọc kinh cầu nguyện, nào là đã hy
sinh hãm mình thế này thế nọ, vậy mà Chúa không nhậm lời họ cầu xin. Như thế là
dựa vào một ít việc lành mình đã cho Chúa để làm áp lực với Chúa, bắt Chúa phải
ban ơn trả lại cho mình. Như vậy cũng chưa phải là thương Chúa thật.
Chúng ta nghĩ rằng mình thương người. Nhưng có
thương thật hay không ? Thì cũng hãy xét mình xem ta có cho người cái gì
không ? Đừng vội tự biện minh rằng tại vì tôi không có nhiều tiền. Một khi
đã thương ai thật thì người ta không thiếu gì cái để cho và cũng không thiếu gì
cách để cho. Đâu nhất thiết là phải cho tiền mới là thương. Thí dụ như cho cảm
nghĩ tốt (thương ai ta sẽ không nghĩ xấu về người đó), thí dụ như cho sự quan
tâm (thương ai ta không thể nào lơ là dửng dưng với người đó được), thí dụ như
cho sự chăm sóc, giúp đỡ, cho những lời an ủi khuyến khích chân thành, cho lời
cầu nguyện v.v.
Người không thương thì chỉ biết nhận mà không biết
cho.
Còn người thương thật thì vừa nhận mà cũng vừa
cho, và coi cho là quý hơn nhận.
Chúa dạy chúng ta yêu thương : thương Chúa và
thương người, thương bằng cách cho.
*
3. Giá trị của của cho
Giá trị của của cho không phải ở nơi số lượng được
cho mà là sự mất mát mà người cho phải chịu.
Chúng ta phải cho cái mà chúng ta quý chuộng. Vì thế
không phải chỉ cho cái mà chúng ta có thể sống mà không có nó, mà là cho cái mà
chúng ta không thể sống nếu thiếu nó. Cách cho như thế này đòi phải hy sinh,
nhưng đó mới thật là cho với cả tấm lòng.
Mẹ Têrexa kể rằng một hôm Mẹ đang đi trên đường phố
thì gặp một người ăn xin. Người này nói : “Thưa Mẹ Têrêxa, ai nấy cũng cho
Mẹ hết. Hôm nay tôi cũng xin được cho mẹ. Trọn ngày hôm nay tôi chỉ xin được 30
xu. Tôi muốn cho mẹ hết”. Mẹ Têrêxa suy nghĩ một lúc : “Nếu tôi lấy 30 xu
này thì người ăn xin này sẽ không có gì để ăn đêm nay, nhưng nếu tôi không lấy
thì ông sẽ đau lòng. Vì thế tôi đưa tay ra nhận số tiền. Quả thực tôi chưa từng
thấy một khuôn mặt nào rạng rỡ niềm vui như gương mặt người ăn xin này khi ông
nghĩ rằng anh cũng có cái gì đó cho Mẹ Têrêxa”.
Và Mẹ Têrêxa kể tiếp : “Thật là một hy sinh lớn
đối với người nghèo này. Ông đã phải ngồi ngoài nắng suốt ngày mới kiếm được 30
xu. 30 xu chẳng là bao và cũng chẳng làm được gì cho đáng. Nhưng khi ông đưa
cho tôi và tôi nhận lấy thì nó trở thành hàng ngàn bởi vì nó được cho với biết
bao tình. Thiên Chúa không nhìn đến tầm vóc lớn lao của việc ta làm, Ngài nhìn
tấm lòng của ta khi làm việc đó.”
Báo New York Times vừa đưa tin bà Oseola Mc
Carty : Biểu tượng “Lòng Từ Thiện” của nước Mỹ, vừa qua đời ngày 3-10-1999
ở tuổi 91.
Vào một ngày của tháng 7-95, ông hiệu trưởng đại học
phía Bắc Missisippi đã vô cùng ngạc nhiên, khi biết có một phụ nữ xa lạ tên
Osenola Mc Carty xin được tặng 150.000 đôla làm quỹ học bỗng cho các sinh viên
nghèo của trường, mà không cần được ghi danh tưởng niệm hay tuyên bố công khai.
Nhà trường còn sững sốt hơn khi biết người phụ nữ ấy làm nghề giặt ủi, và số tiền
kia là tiền dành dụm cả một đời người.
Ngay khi biết câu chuyện bà Mc Carty tặng tất cả tiền
bạc của mình có làm quỹ học bổng cho trường, ông tỷ phú Ted Turner, trùm ngành
kinh doanh cáp truyền hình Mỹ, đã tuyên bố góp thêm một tỷ đôla cho quỹ. Ông
nói : “Người phụ nữ nhỏ bé ấy đã dám ban tặng tất cả những gì bà có, thì
tôi thấy mình cũng phải đóng góp phần của tôi là một tỷ đôla”.
*
Tin mừng hôm nay thuật lại chuyện bà góa nghèo đã bỏ
vào thùng tiền đền thờ “tất cả những gì mình có để nuôi sống” (Mc.12,44). “Của
ít lòng nhiều”. Bà góa này tuy dâng cúng ít tiền nhưng lại hy sinh rất nhiều,
và hy sinh quí giá nhất là hy sinh chính mạng sống mình, vì bà đã dâng “tất cả
những gì mình có để nuôi sống”. Quà tặng đẹp nhất là quà tặng dốc cạn túi. Quà
tặng quý giá không phải chỉ ở giá trị món quà, mà còn ở tấm lòng của người tặng
quà nữa.
Đức Giêsu đã khen nghĩa cử cao đẹp ấy : “Thầy
nói thật với các con : Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà góa nghèo
này đã bỏ nhiều hơn hết” (Mc.12,43) Cũng vậy, bà Mc Carty chỉ dâng tặng 150.00
đôla không thể so với tỷ phú Ted Turner bỏ ra 1 tỷ đôla, nhưng đó là tất cả kết
quả chắt chiu từng đồng suốt một kiếp người. Nghĩa cử cao đẹp ấy đã mở đầu cho
gần 300 nhà từ thiện khác tham gia đóng góp cho quỹ học bổng này.
Nếu bà góa nghèo được Chúa khen ngợi, thì bà Mc
Carty cũng được chính Tổng Thống Bill Clinton bắt tay thăm hỏi, được vinh dự cầm
ngọn đuốc Olympic chạy trên đường băng qua khu vực Mississippi, được trao tặng
Huân chương người công dân danh dự Hoa Kỳ, và được cấp bằng tiến sĩ danh dự của
đại học Harvard.
Văn hào John Powell viết : “Thiên Chúa sai mỗi
người đến thế gian với một sứ điệp đặc biệt để loan báo, với một bài ca đặc biệt
để hát lên, với một nghĩa cử yêu thương để ban tặng”.
*
Hôm nay, Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta tránh xa
thói đạo đức giả của người Biệt phái và Luật sĩ : Lạm dụng việc đạo đức để
khoe khoang, mưu cầu hư danh, ham hố chức quyền, trục lợi vật chất. Người muốn
chúng ta có ý hướng ngay lành khi làm bất cứ việc gì. Đức Giêsu dạy : “Còn
anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí
được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho
anh” (Mt.6,3-4).
Người ta chỉ cho đi cái mình có. Nhưng chính vì cho
mà người ta mới có, và người ta có chính vì những gì mà họ đã cho. Cha Mark
Link viết : “Những điều duy nhất ta còn giữ lại được là những gì ta đã cho
đi”. Bàn tay tặng hoa hồng vẫn còn vương lại hương thơm.
*
Lạy Chúa, Chúa thấu suốt tận đáy lòng mỗi người chân
thực hay giả dối. Chúa khen ngợi bà góa nghèo dâng hiến tất cả những gì mình
có.
Xin dạy chúng con biết âm thầm dâng hiến cho tha
nhân, đang cần sự trợ giúp quảng đại của chúng con. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy
đã yêu”)
*
5. Cho mà không mất
Từ câu chuyện bà goá trong bài đọc I, chúng ta có thể
rút ra được ý tưởng này : có những thứ có thể cho đi mà không bị mất, ngược
lại còn được thêm. Người cho không bị nghèo đi, lại giàu thêm.
Dĩ nhiên đó không phải là những thứ vật chất.
Một thầy giáo cho đi những kiến thức của mình, học
trò được giàu thêm kiến thức nhưng kiến thức của ông thầy không hề vơi.
Một người mẹ cho con cái mình tình thương cũng vậy.
Một người vui tính mang niềm vui đến cho người khác
cũng thế.
Kiến thức, tình thương, niềm vui, hoà thuận v.v. là
những thứ có cho đi cũng không bị mất, trái lại cả người cho và người nhận đều
được giàu hơn.
V.Lời
nguyện cho mọi người
Chủ
tế : Anh chị em thân mến, Đức Giêsu là Đấng thấu suốt mọi tâm hồn, Người
không bị lừa gạt bởi những vẻ bề ngoài. Chúng ta hãy dâng lên Chúa những ý nguyện
của chúng ta :
- Hội thánh phải nêu gương về lòng mến Chúa yêu người chân thật /
Xin cho mọi thành phần trong Hội thánh luôn tránh xa những thói quen giả
hình và máy móc / đối với Chúa cũng như đối với mọi người.
- Trên thế giới còn nhiều nơi không có công lý / hoặc chỉ có công
lý giả hiệu bề ngoài / Xin cho các nhà cầm quyền biết tôn trọng sự thật
và công lý / để dân chúng được sống an ninh và hòa bình.
- Chung quanh chúng ta còn nhiều người giàu cũng như người nghèo, đang
làm nô lệ tiền bạc, danh vọng và quyền thế / Xin cho họ được ơn khôn
ngoan của Chúa để biết sống quảng đại và chia sẻ / theo gương bà góa
trong Tin mừng hôm nay.
- Bà góa trong Tin mừng hôm nay đã nêu gương quảng đại với Chúa /
Xin cho anh chị em trong họ đạo chúng ta / dù túng thiếu cũng vẫn rộng
rãi với Chúa và với mọi người.
Chủ
tế : Lạy Đức Giêsu, Chúa đánh giá mọi người theo sự thật
trong lòng họ chứ không theo hình thức bề ngoài, xin giúp chúng con biết sống
thành thật và quảng đại với Chúa cũng như với mọi người, để luôn xứng đáng là
môn đệ của Chúa. Chúa là đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI.Trong
Thánh lễ
– Trước kinh Lạy Cha : Khi chúng ta đọc “Xin
Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”, chúng ta hãy nhớ đến gương của
hai bà goá đã dám cho đi chiếc bánh và những đồng xu cuối cùng của mình. Xin
Chúa cũng dạy chúng ta biết phó thác vào Chúa như vậy.
– Sau kinh Lạy Cha : “Lạy Chúa, xin cứu chúng
con khỏi mội sự dữ, đặc biệt xin Chúa cứu chúng con khỏi sự dữ này là coi tiền
bạc của cải như chúa tể đời mình…”
VII.
Giải tán
Lời Chúa hôm nay nêu gương chia xẻ của hai bà góa
nghèo. Khi trở về với cuộc sống bình thường, anh chị em sẽ gặp biết bao người
túng thiếu cần được chia xẻ. Anh chị em hãy cố gắng noi gương hai bà góa ấy.
Lm.
Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Nhật XXXII Thường
Niên (B)
Chủ Nhật 11 Tháng Mười Một, 2018
Chúa
Giêsu, các Kinh Sư và bà góa
Cách
tính toán khác thường trong Nước Thiên Chúa
Mc 12:38-44
1.
Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp
chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên
đường Emmau. Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh
Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa
trong sự kiện đau buồn về bản án và cái chết của Chúa. Vì thế, cây thập
giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự
sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng
con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong
các sự kiện của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những
người nghèo khó và đau khổ. Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để,
giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục
sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa
chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa bình. Chúng con
cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về
Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con. Amen.
2.
Bài Đọc
a)
Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Bài Phúc Âm của Chúa Nhật tuần này trình bày cho
chúng ta hai sự kiện đối nghịch nhưng liên hệ với nhau: một mặt
chúng ta có Đức Giêsu đang phê phán các Kinh Sư là những kẻ lợi dụng tôn giáo để
khai thác các bà góa nghèo, và mặt khác, chúng ta có ví dụ của bà góa nghèo đã
cống hiến vào Đền Thờ tất cả những gì bà có để sinh sống. Thậm chí
những sự thật này còn thích hợp cho đến ngày nay!
b)
Phần phân đoạn văn bản để trợ giúp cho bài đọc:
Mc 12:38-40: Chúa Giêsu phê phán việc
khai thác của các Kinh Sư
Mc 12:41-42: Đức Giêsu quan sát dân chúng
bỏ tiền dân cúng vào hòm tiền của Đền Thờ
Mc 12:43-44: Chúa Giêsu cho thấy giá trị
hành động của bà góa nghèo
c)
Tin Mừng:
38 Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân
chúng trong khi giảng dạy rằng: “Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ. Họ thích
đi lại trong bộ áo thụng, ưa được bái chào ngoài công trường,39 chiếm
những ghế nhất trong hội đường và trong đám tiệc. 40 Họ giả
bộ đọc những kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà góa: Họ sẽ bị kết án
nghiêm ngặt hơn.”
41 Chúa Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền,
quan sát dân chúng bỏ tiền vào hòm, và có lắm người giàu bỏ nhiều tiền. 42 Chợt
có một bà góa nghèo đến bỏ hai đồng tiền là một phần tư xu. 43 Người
liền gọi các môn đệ và bảo: “Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ
tiền vào hòm, bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết. 44 Vì
tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất
cả những gì mình có để nuôi sống mình”.
3.
Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Để Lời Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống
chúng ta.
4.
Một vài câu hỏi gợi ý
Để giúp chúng ta trong phần suy gẫm cá nhân.
a) Điểm
nào trong bài Tin Mừng này làm bạn hài lòng nhất hoặc chú ý nhất? Tại
sao?
b) Chúa Giêsu chỉ
trích điều gì và khen Luật Sĩ về điều gì?
c) Chúng ta tìm
thấy trong văn bản những bất công xã hội và tôn giáo nào vào thời bấy giờ?
d) Làm thế nào mà
hai đồng tiền của bà góa lại có giá trị hơn số tiền lớn bỏ vào của người
giàu? Bạn hãy xem xét kỹ văn bản và thấy điều sau đây: “Tại
sao Chúa Giêsu lại khen ngợi bà góa nghèo?”
e) Bài Tin Mừng
này truyền đạt sứ điệp gì cho chúng ta ngày nay?
5.
Dành cho những ai muốn đào sâu vào trong chủ đề
a)
Bối cảnh xưa và nay:
- Bối cảnh vào thời Chúa Giêsu.
Đoạn Tin Mừng của Máccô 12:38-44 kể lại phần cuối
cùng các hoạt động của Chúa Giêsu ở Giêrusalem (Mc 11:1 đến
12:44). Đó là những ngày rất căng thẳng, đầy dẫy các cuộc xung đột: xua
đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Đền Thờ (Mc 11:12-26), và nhiều cuộc thảo luận với
các nhà thẩm quyền (Mc 11:27 đến 12:12), với những người Biệt Phái, với nhóm
Hêrôđê và Sađốc (Mc 1213-27) và với các luật sĩ (Mc 12:28-37). Bài
Tin Mừng Chúa Nhật tuần này (Mc 12:38-44) thuật lại những lời phê phán cuối
cùng của Chúa Giêsu liên quan đến cách cư xử xấu xa của các luật sĩ (Mc
12:38-40) và lời khen ngợi cho việc làm tốt lành của bà góa. Vào gần
khi kết thúc các hoạt động của Người tại Giêrusalem, Chúa Giêsu ngồi ở phía trước
của hòm tiền nơi mà dân chúng bỏ tiền dâng cúng của họ cho Đền Thờ. Chúa
Giêsu hướng sự chú ý của các môn đệ về hành động của bà góa nghèo và dạy cho
các ông về giá trị của sự chia sẻ (Mc 12:41-44).
- Bối cảnh vào thời Máccô.
Trong suốt bốn mươi năm đầu tiên của lịch sử Giáo Hội,
từ thập niên 30 đến thập niên 70, các cộng đoàn Kitô hữu, phần đông các giáo hữu
là những người nghèo khó (1 Cr 1:26). Sau đó một số người giàu có hoặc
những người có những vấn đề khác nhau gia nhập vào. Những căng thẳng
xã hội đã xuất hiện trong Đế Chế La Mã, cuộc sống trong các cộng đoàn cũng đã bắt
đầu cảm thấy như thế. Ví dụ, những chia rẽ đã trở nên rõ rệt khi cộng
đoàn tụ họp nhau để cùng cử hành bữa tiệc của Chúa (1Cr 11:20-22), hoặc khi họ
gặp nhau (Gc 2:1-4). Do đó, việc giảng dạy liên quan đến cử chỉ của
bà góa thì rất thực tế đối với họ. Nó giống như soi vào một tấm
gương, bởi vì Chúa Giêsu so sánh hành vi của người giàu với người nghèo.
- Bối cảnh ngày nay.
Chúa Giêsu khen ngợi bà góa nghèo bởi vì bà có thể
san sẻ nhiều hơn những người giàu có đã làm. Nhiều người nghèo ngày
nay cũng làm như vậy. Người ta nói: Người nghèo không bao
giờ để cho một người nghèo khác chết đói. Nhưng thỉnh thoảng ngay cả
điều này cũng không đúng. Donna Cicera, một phụ nữ nghèo đã đi từ miền
thôn quê lên vùng ngoại ô thành phố thường nói rằng: “Ở thôn quê,
tôi là một người rất nghèo, nhưng tôi luôn có một cái gì đó để chia sẻ với người
nghèo khác gõ cửa nhà tôi. Bây giờ tôi ở trong thành phố, khi tôi
trông thấy một người nghèo gõ cửa nhà tôi, tôi xấu hổ chạy trốn vì tôi không có
gì để san sẻ!” Như vậy, một mặt chúng ta thấy những kẻ giàu thì có tất
cả mọi thứ, và mặt khác người nghèo khó hầu như không có gì để cho đi, vậy mà lại
chia sẻ những của cải ít oi họ có được.
b)
Lời bình luận về văn bản:
Mc 12:38-40: Chúa Giêsu chê trách các
Luật Sĩ.
Chúa Giêsu tạo sự chú ý của các môn đệ về hành vi đạo
đức giả và bóc lột của một số luật sĩ. “Luật sĩ” hay Kinh sư là những
kẻ giảng dạy Lề Luật Thiên Chúa. Nhưng họ đã chỉ giảng dạy bằng lý
thuyết, bởi vì đời sống của họ thì cho thấy trái ngược lại. Họ ưa đi
lại ngoài phố phường trong bộ áo thụng, để được người ta bái chào, chiếm những
chỗ nhất trong hội đường và nơi đám tiệc. Nói cách khác, họ mong muốn
ra vẻ là những kẻ quan trọng. Họ dùng kiến thức và nghề nghiệp của
mình như là một phương tiện để leo lên những nấc thang xã hội và làm giàu cho bản
thân, chứ không phải để phục vụ. Họ thích đến thăm các bà góa và đọc
những câu kinh dài để bòn rút tiền của! Chúa Giêsu kết luận bằng câu
nói: “Họ sẽ bị kết án nghiêm nhặt hơn là những gì họ nhận được!”
Mc 12:41-42: Việc dâng cúng của bà
góa.
Chúa Giêsu và các môn đệ đang ngồi đối diện với hòm
tiền của Đền Thờ và quan sát người ta bỏ tiền dâng cúng vào hòm. Người
nghèo cho vài đồng xu, người giàu bỏ vào những món tiền lớn. Hòm tiền
đầy lên. Tất cả mọi người đều dâng cúng ít nhiều để duy trì việc phụng
tự, hỗ trợ các tư tế và bảo trì Đền Thờ. Một số tiền bạc được dùng để
giúp đỡ người nghèo, bởi vì vào thời ấy không có chương trình phúc lợi xã hội. Người
nghèo phụ thuộc vào tổ chức từ thiện công cộng. Người nghèo khốn nhất
giữa những người nghèo là các bà góa và trẻ mồ côi. Họ chẳng có gì. Họ
hoàn toàn sống nhờ vào lòng từ tâm của những người khác. Tuy nhiên,
mặc dù không có gì, họ vẫn cố gắng san sẻ với những người khác những gì ít oi
mà họ có. Như vậy, một bà góa rất nghèo đã bỏ tiền dâng cúng của
mình vào hòm tiền, dù rằng chỉ là một vài đồng xu!
Mc 12:43-44: Chúa Giêsu chỉ cho chúng
ta đâu là ý muốn của Thiên Chúa.
Cái nào có giá trị lớn hơn: vài đồng xu của
bà góa hay là ngàn quan tiền của người giàu? Đối với các môn đệ,
ngàn quan tiền của người giàu để làm các việc phúc đức thì có giá trị hơn rất
nhiều so với vài đồng xèng của bà góa. Họ nghĩ rằng các vấn nạn của
người ta thì có thể giải quyết được bằng cách dùng rất nhiều tiền. Nhân
dịp bánh hóa nhiều, các ông thưa với Chúa Giêsu: “Chúng con phải đi
mua tới hai trăm quan tiền bánh mà cho họ ăn sao?” (Mc 6:37) Thật thế,
đối với những người suy nghĩ theo cách này, hai đồng xu của bà góa thì chẳng
dùng vào được việc gì. Nhưng Chúa Giêsu lại nói rằng: “Bà
góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết trong tất cả những người đã bỏ vào”. Đức
Giêsu có một chuẩn mực khác. Kêu gọi sự chú ý của các môn đệ đến cử
chỉ của bà góa, Người dạy cho các ông và cho rằng chúng ta phải đi tìm sự biểu
lộ ý muốn của Thiên Chúa ở nơi đâu, đó là, trong việc san sẻ. Nếu
ngày nay chúng ta chia sẻ của cải mà Thiên Chúa đã ban cho trong vũ trụ cho
toàn thể nhân loại, thì sẽ không có sự nghèo khó hoặc đói rách. Sẽ
có đủ cho tất cả mọi người và sẽ còn dư lại cho những người khác.
c)
Phần phụ chú: Làm phúc bố thí, chia sẻ, giàu có
Thói quen làm
phúc bố thí thì rất quan trọng đối với người Do Thái. Nó được coi là
một “việc làm tốt lành” (Mt 6:1-4), bởi vì lề luật của Cựu Ước nói rằng: “Vì
trong đất của anh em sẽ không thiếu người nghèo, nên tôi truyền cho anh
em: hãy mở rộng tay giúp người anh em khốn khổ, nghèo khó của anh
em, trong miền đất của anh em” (Đnl 15:11). Của làm phúc bố
thí thì được bỏ vào trong hòm tiền, cho dù để dùng cho việc phụng tự hay cho việc
bảo trì Đền Thờ hoặc cho những kẻ thiếu thốn, trẻ mồ côi và các góa phụ, được
coi như là cử chỉ làm đẹp lòng Thiên Chúa. Làm phúc là cách để chia
sẻ với những người khác, cách để nhận ra rằng tất cả của cải và quà tặng đều
thuộc về Thiên Chúa và chúng ta chỉ là người cai quản những của cải này, để có
thể có một sự phong phú trong đời sống này cho tất cả mọi người.
Từ sách Xuất Hành mà dân Israel đã học được tầm quan
trọng của việc bố thí, chia sẻ. Cuộc hành trình bốn mươi năm trong
sa mạc đã cần thiết để vượt qua những mong muốn cho việc tích lũy của cải từ
vua Pharaôn của đất Ai Cập và đã được in sâu vào trong tâm trí của dân
chúng. Rất dễ để rời khỏi đất của Pharaôn. Nhưng người ta
khó mà thoát ly được trạng thái tâm lý của Pharaôn. Mộng tưởng về sự
vĩ đại là sai lầm và lừa dối. Thật là cần thiết phải trải nghiệm qua
cơn đói trong sa mạc để hiểu được rằng những gì thật là cần thiết cho cuộc sống
đối với tất cả mọi người. Đây là những gì thực phẩm Manna đã dạy: “Kẻ
có nhiều thì không dư, người có ít thì không thiếu” (Xh 16:18).
Thế nhưng khuynh hướng muốn tích lũy đã có từ lâu đời
và rất mạnh mẽ. Và nó liên tục tái xuất hiện trong trái tim loài người. Bởi
chính vì khuynh hướng muốn tích lũy này mà các đế chế lớn trong lịch sử nhân loại
đã được thành hình. Ước muốn chiếm hữu và tích lũy là trung tâm điểm
ý thức của những đế chế và vương quốc này. Chúa Giêsu cho thấy việc
hoán cải cần thiết để được vào Nước Trời. Người nói với người thanh
niên giàu có: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo” (Mc
10:21). Điều kiện này đã được lặp lại trong các sách Tin Mừng
khác: “Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy
những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời,
nơi kẻ trộm không bén bảng, mối mọt không đục phá” (Lc 12:33-34; Mt
6:9-20). Rồi Chúa Giêsu còn cho biết thêm lý do cho lời đòi hỏi
này: “Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó.”
Thực hành sự chia sẻ, bố thí và đoàn kết là một
trong những dấu hiệu Thần Khí của Chúa Giêsu, đã ban cho chúng ta vào ngày Lễ
Ngũ Tuần (Cv 2:1-13), và Người mong muốn chúng hiện diện trong các cộng
đoàn. Kết quả của sự tuôn tràn của Chúa Thánh Thần chính là điều
này: “Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những
người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông Đồ” (Cv
4:34-35a; 2:44-45). Những của dâng cúng này nhận được bởi các Tông Đồ
đã không được tích lũy mà là “Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tùy
theo nhu cầu” (Cv 4:35b; 2:45).
Một mặt, việc những người giàu có gia nhập vào các cộng
đoàn đã khiến Giáo Hội Kitô giáo có thể mở mang, bởi vì những người này đã cung
cấp những điều kiện tốt hơn cho công việc truyền giáo. Tuy nhiên, về
mặt khác, việc tích lũy tài sản đã chắn lối phong trào của tình đoàn kết và của
sự san sẻ được linh ứng bởi quyền năng của Chúa Thánh Linh. Thánh
Giacôbê đã muốn giúp những người như vậy hiểu được rằng họ đã đi sai đường: “Giờ
đây, hỡi những kẻ giàu có, các người hãy than van rên rỉ về những tai họa sắp đổ
xuống trên đầu các người. Tài sản của các người đã hư nát, quần áo của
các người đã bị mối ăn” (Gc 5:1-3). Tất cả chúng ta đều cần
phải trở thành những học trò của bà góa nghèo đó là người đã chia sẻ những gì
bà có để nuôi sống, như để tìm hiểu đường vào Nước Trời (Mc 12:41-44).
6.
Cầu Nguyện với Thánh Vịnh 62 (61)
Thiên
Chúa là dũng lực và là tình yêu
Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi,
hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn.
Ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến,
duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi,
là thành lũy chở che: tôi chẳng hề nao núng.
Tới bao giờ các ngươi còn xúm lại
để xông vào quật ngã một người?
Hắn đã như bức tường xiêu đổ,
như hàng rào đến lúc ngả nghiêng.
Con người ấy, chúng chỉ mưu hạ bệ,
chúng thoả lòng vì đã nói dối nói gian.
Miệng thì chúc phúc cầu an,
mà lòng nguyền rủa chứa chan những lời.
hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn.
Ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến,
duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi,
là thành lũy chở che: tôi chẳng hề nao núng.
Tới bao giờ các ngươi còn xúm lại
để xông vào quật ngã một người?
Hắn đã như bức tường xiêu đổ,
như hàng rào đến lúc ngả nghiêng.
Con người ấy, chúng chỉ mưu hạ bệ,
chúng thoả lòng vì đã nói dối nói gian.
Miệng thì chúc phúc cầu an,
mà lòng nguyền rủa chứa chan những lời.
Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi,
này hồn tôi hãy nghỉ ngơi yên hàn.
Vì hy vọng của tôi bởi Người mà đến,
duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi,
là thành lũy chở che: tôi chẳng hề nao núng.
Nhờ Thiên Chúa, tôi được cứu độ và vinh quang,
Người là núi đá vững vàng,
ở bên Thiên Chúa tôi hằng ẩn thân.
Hỡi dân ta, hãy tin tưởng vào Người luôn mãi,
trước mặt Người, hãy thổ lộ tâm can:
Thiên Chúa là nơi ta ẩn náu.
này hồn tôi hãy nghỉ ngơi yên hàn.
Vì hy vọng của tôi bởi Người mà đến,
duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi,
là thành lũy chở che: tôi chẳng hề nao núng.
Nhờ Thiên Chúa, tôi được cứu độ và vinh quang,
Người là núi đá vững vàng,
ở bên Thiên Chúa tôi hằng ẩn thân.
Hỡi dân ta, hãy tin tưởng vào Người luôn mãi,
trước mặt Người, hãy thổ lộ tâm can:
Thiên Chúa là nơi ta ẩn náu.
Kẻ thường dân âu chỉ là hơi thở,
người quyền quý đều ví tựa ảo huyền,
đứng cả lên cân cũng chẳng tày mây khói.
người quyền quý đều ví tựa ảo huyền,
đứng cả lên cân cũng chẳng tày mây khói.
Đừng tin tưởng ở trò áp bức nữa,
chớ hoài công cậy ngón bóc lột người!
Tiền tài dẫu sinh sôi nảy nở,
lòng chẳng nên gắn bó làm chi.
Lạy Thiên Chúa, một lần Ngài phán dạy,
con nghe được hai điều,
rằng: Ngài nắm quyền uy
và giàu lòng nhân hậu;
rằng: Ngài theo tội phúc mà thưởng phạt mỗi người.
chớ hoài công cậy ngón bóc lột người!
Tiền tài dẫu sinh sôi nảy nở,
lòng chẳng nên gắn bó làm chi.
Lạy Thiên Chúa, một lần Ngài phán dạy,
con nghe được hai điều,
rằng: Ngài nắm quyền uy
và giàu lòng nhân hậu;
rằng: Ngài theo tội phúc mà thưởng phạt mỗi người.
7.
Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời
Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha. Nguyện xin
Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh
để chúng con thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con. Nguyện xin
cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ
lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị
cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn
đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét