13/11/2018
Thứ ba tuần 32 thường niên
BÀI ĐỌC I: Tt 2, 1-8.
11-14
“Chúng ta hãy sống đạo đức, khi
trông đợi niềm hy vọng hạnh phúc và cuộc xuất hiện của Đức Giêsu Kitô là Thiên
Chúa và là Đấng cứu độ chúng ta”.
Trích thư Thánh
Phaolô Tông đồ gửi cho Titô.
Con thân mến, con hãy
giảng dạy những gì hợp với đạo lý lành mạnh. Những ông cao niên hãy sống tiết độ,
đoan trang, khôn ngoan, lành mạnh trong đức tin, đức mến, đức kiên nhẫn. Các bà
cao niên cũng thế, phải ăn ở thánh thiện, chớ nói hành nói xấu, chớ mê say rượu
chè, nhưng biết dạy đường lành, để dạy cho các thiếu phụ biết mến chồng thương
con, khôn ngoan, thanh khiết, tiết độ, chăm lo việc nhà, hiền hậu, tùng phục chồng,
để lời Thiên Chúa khỏi bị xúc phạm.
Các thanh niên cũng thế,
con hãy khuyên dạy cho chúng biết tiết độ. Trong mọi sự, con hãy nên gương mẫu
về các việc lành, tinh tuyền trong giáo huấn, trang nghiêm, lời lẽ lành mạnh
không ai bắt bẻ được, để đối phương phải xấu hổ, vì không thể nói xấu chúng ta
điều gì.
Vì chưng, ân sủng của
Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta, đã xuất hiện cho mọi người, dạy chúng ta từ bỏ
gian tà và những dục vọng trần tục, để sống tiết độ, công minh và đạo đức ở đời
này, khi trông đợi niềm hy vọng hạnh phúc và cuộc xuất hiện sự vinh quang của Đức
Giêsu Kitô là Thiên Chúa cao cả và là Đấng Cứu Độ chúng ta. Người đã hiến thân
cho chúng ta để cứu chuộc chúng ta khỏi mọi điều gian ác, luyện sạch chúng ta
thành một dân tộc xứng đáng của Người, một dân tộc nhiệt tâm làm việc thiện. Đó
là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 36, 3-4. 18
và 23. 27 và 29
Đáp: Người hiền được
Chúa ban ơn cứu độ (c. 39a).
Xướng: 1) Hãy trông cậy
Chúa và hãy làm lành, để được cư ngụ trong đất nước, thọ hưởng an ninh. Hãy hân
hoan tin tưởng vào Chúa, Người sẽ ban cho sự lòng bạn thỉnh cầu. – Đáp.
2) Chúa chăm lo cho mạng
sống người nhân đức, và phần gia nghiệp họ còn mãi muôn đời. Nhờ ơn Chúa mà hiền
nhân vững bước, và Người yểm hộ đường lối người đi. – Đáp.
3) Hãy tránh ác và hãy
làm lành, hầu được an cư tới ngàn thu. Những người hiền sẽ được đất nước, và cư
ngụ ở đó tới ngàn thu. – Đáp.
ALLELUIA: Cl 3, 16a và
17c
Alleluia, alleluia!
– Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em; anh em hãy nhờ Đức Kitô
mà tạ ơn Chúa Cha. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 17, 7-10
“Chúng tôi là đầy tớ vô dụng:
vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán: “Ai trong các con có người đầy tớ cày bừa hay chăn súc vật ngoài đồng trở
về liền bảo nó rằng: ‘Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa’, mà trái lại không bảo nó
rằng: ‘Hãy lo dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn
uống đã, sau đó ngươi mới ăn uống’? Chớ thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ,
vì nó đã làm theo lệnh ông dạy không? Thầy nghĩ rằng không.
“Phần các con cũng vậy,
khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng:
‘Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm’ “.
Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Tinh Thần Phục
Vụ Ðích Thực
Nhân vật nổi tiếng
trong Giáo Hội hiện nay được thế giới nhắc nhớ và thương mến nhất, hẳn phải là
Mẹ Terêsa Calcutta, một người đã được nhiều giải thưởng nhất: giải Magsaysay do
chính phủ Phi Luật Tân dạo thập niên 60; đầu năm 1971, Mẹ lại được Ðức Phaolô
VI trao giải Gioan XXIII vì hòa bình; giải thưởng Kenedy do chính phủ Hoa Kỳ tặng,
tất cả số tiền nhận được, Mẹ đã dùng để xây dựng trung tâm Kenedy tại một khu ổ
chuột ở ngoại ô Calcutta; tháng 12/1972 chính phủ Ấn nhìn nhận sự đóng góp của
Mẹ và trao tặng Mẹ giải Nêru; nhưng đáng kể hơn nữa là giải Nobel Hoà bình năm
1979, đây là giải thưởng đã làm cho tên tuổi Mẹ Têrêsa được cả thế giới biết đến,
cũng như những lần khác, khi một viên chức chính phủ Ấn gọi điện thoại để chúc
mừng, Mẹ đã trả lời: "Tất cả vì vinh quang Chúa".
"Tất cả vì vinh
quang Chúa", đó là động lực đã thúc đẩy Mẹ Têrêsa dấn thân phục vụ người
nghèo trên khắp thế giới. Với bao nhiêu danh vọng và tiền bạc do các giải thưởng
mang lại, Mẹ vẫn tiếp tục là một nữ tu khiêm tốn, nghèo khó, làm việc âm thầm
giữa những người nghèo khổ nhất. Thông thường, các giải thưởng cho một người
nào đó như một sự nhìn nhận vào cuối một cuộc đời phục vụ làm việc hay một công
trình nghiên cứu; nhưng đối với Mẹ Têrêsa, mỗi giải thưởng là một bàn đạp mới,
một khởi đầu cho một công trình phục vụ to lớn hơn và làm cho nhiều người biết
đến và ngợi khen Thiên Chúa nhiều hơn.
Qua cuộc đời của Mẹ
Têrêsa, chắc chắn thế giới sẽ hiểu hơn thế nào là tinh thần phục vụ đích thực
trong Giáo Hội. Một Giáo Hội càng phục vụ thì bộ mặt của Chúa Kitô phục vụ càng
sáng tỏ hơn; trái lại, khuôn mặt Chúa Kitô sẽ lu mờ đi, nếu Giáo Hội chưa thể
hiện được tinh thần phục vụ đích thực của Ngài.
Tin Mừng mà Giáo Hội
cho chúng ta lắng nghe hôm nay mời gọi chúng ta nhìn nhận những thiếu sót của
chúng ta: có lẽ dung mạo của một Chúa Kitô phục vụ và phục vụ cho đến chết chưa
được phản ảnh trên gương mặt của các Kitô hữu; tinh thần phục vụ đích thực của
Kitô giáo vẫn chưa được sáng tỏ và thể hiện qua cách sống của các Kitô hữu.
Chúa Giêsu đã khẳng định: "Khi làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì
hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm những việc bổn phận
mà thôi". Ðầy tớ là người làm tất cả những mọi sự vì chủ, đầy tớ là người
hoàn toàn sống cho chủ. Dĩ nhiên, ở đây, Chúa Giêsu không có ý đề cao quan hệ
chủ tớ trong xã hội. Ngài đã xem quan hệ trong xã hội con người và Thiên Chúa
như một quan hệ chủ tớ; Ngài đã chẳng mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa như một
người Cha và mời gọi chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha đó sao?
Như vậy, ở đây, Chúa Giêsu
chỉ muốn dùng hình ảnh người đầy tớ vốn có trước mắt người Do thái, để nói lên
tương quan đích thực giữa con người và Thiên Chúa, đó là con người chỉ sống thực
sự khi nó sống cho Thiên Chúa mà thôi. Cái nghịch lý lớn nhất mà Kitô giáo đề
ra là càng tìm kiếm bản thân, càng sống cho riêng mình, con người càng đánh mất
chính mình; trái lại, càng sống cho Thiên Chúa, càng tìm kiếm vinh danh Thiên
Chúa, nghĩa là càng phục vụ vô vị lợi, con người càng lớn lên và càng tìm lại
được bản thân; giá trị đích thực của con người như Chúa Giêsu đã dạy và đã sống
chính là phục vụ một cách vô vị lợi. Công Ðồng Vaticanô II trong Hiến Chế
"Vui Mừng và Hy Vọng" đã để lại một châm ngôn đáng được chúng ta suy
niệm và đem ra thực hành: "Con người chỉ tìm gặp lại bản thân bằng sự hiến
thân vô vị lợi mà thôi".
Lời Chúa hôm nay mời gọi
chúng ta nhìn lại định hướng cơ bản trong cuộc sống chúng ta: đâu là mục đích
và ý nghĩa cuộc sống chúng ta? đâu là giá trị đích thực mà chúng ta đang tìm kiếm
và xây dựng trong cuộc sống hiện tại.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần 32 TN2
Bài đọc: Tit
2:1-8, 11-14; Lk 17:7-10.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người có
bổn phận phục vụ Thiên Chúa.
Trong lãnh vực thương
mại, khi một người ra ngân hàng mượn tiền, họ có bổn phận phải trả lại cho ngân
hàng cả vốn lẫn lời. Cùng một cách như vậy đối với Thiên Chúa, Ngài đã cho con
người vay tất cả mọi sự: tình yêu, ơn thánh, sự sống, khôn ngoan, tài năng, thời
gian, của cải vật chất. Con người phải trả lại tương xứng tất cả những gì Thiên
Chúa đã cho vay, và còn phải hơn thế nữa cho phân lời. Khi hòan tất cả vốn lẫn
lời, con người mới chỉ chu tòan bổn phận mà thôi. Trong Bài đọc I, Thánh Phaolô
nhắc nhở Titô bổn phận phải trau dồi kiến thức cũng như đức hạnh trước khi có
thể gíao dục mọi thành phần Dân Chúa trong giáo đòan. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu
chỉ dạy các môn đệ: Thiên Chúa không cần phải biết ơn con người; vì nếu con người
hết lòng phục vụ Thiên Chúa, họ mới chỉ chu tòan bổn phận của họ mà thôi.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phải giáo dục mọi thành phần của Dân Chúa biết sống tốt
lành.
Thư gởi Titô là một
trong các Thư Mục Vụ. Gọi là các Thư Mục Vụ vì nội dung liên quan đến đời sống
các tín hữu. Bổn phận người lãnh đạo là phải giáo dục và chăm sóc mọi thành phần
trong giáo đòan, không được lơ là bất cứ một thành phần nào. Đọan văn hôm nay
nói tới:
1.1/ Bổn phận giáo dục mọi
thành phần trong Giáo-đòan của Titô:
(1) Bản thân người
lãnh đạo: Không ai có thể cho cái mình không có nên Phaolô khuyên Titô phải biết
trau dồi bản thân về cả 2 phương diện tri thức và đức hạnh:
– về phương diện tri thức:
Lãnh đạo phải khôn ngoan sáng suốt. Điều quan trọng trước tiên là phải rành rẽ
đạo lý mình tin tưởng: “Khi anh giảng dạy thì đạo lý phải tinh tuyền, thái độ
phải đàng hoàng, lời lẽ phải lành mạnh, không ai bắt bẻ được, khiến đối phương
phải bẽ mặt, vì không thể nói xấu chúng ta được điều gì… Hãy dạy những gì phù hợp
với giáo lý lành mạnh.”
– về phương diện đức hạnh:
Không phải chỉ dạy đạo lý thôi, mà “chính anh hãy làm gương về mặt đức hạnh.”
(2) Các thành phần
trong cộng đòan: Người lãnh đạo không được chỉ chú trọng đến một hay vài giới
trong dân, nhưng phải giáo dục mọi thành phần của Dân Chúa. Lý do đơn gỉan: tất
cả đều là các chi thể của một thân thể; và nếu một chi thể đau, tòan thân sẽ phải
chịu cùng hậu quả. Thánh Phaolô khuyên Titô nên dạy:
– Các cụ ông: Là những
người chủ trong gia đình, họ có bổn phận làm gương và hướng dẫn gia đình của họ:
“Hãy khuyên các cụ ông phải tiết độ, đàng hoàng, chừng mực, vững mạnh trong đức
tin, đức mến, và đức nhẫn nại.”
– Các cụ bà: Phúc đức
tại mẫu. Các bà có bổn phận dạy dỗ con: “Phải ăn ở sao cho xứng là người thánh,
không nói xấu, không rượu chè say sưa, nhưng biết dạy bảo điều lành.”
– Các thiếu nữ: Các bà
mẹ phải dạy cho những bà mẹ tương lai: “biết yêu chồng, thương con, biết sống
chừng mực, trong sạch, chăm lo việc nhà, phục tùng chồng, để lời Thiên Chúa khỏi
bị người ta xúc phạm.”
– Các thanh niên: Anh
cũng hãy khuyên các thanh niên phải giữ chừng mực trong mọi sự.
1.2/ Lý do tại sao phải sống
tốt lành: Thánh Phaolô đưa ra 3 lý do:
(1) Ân sủng của Thiên
Chúa ban: là để sống tốt lành. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô
luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính, và đạo đức ở thế
gian này.
(2) Niềm hy vọng vào
cuộc sống đời sau: Mọi tín hữu phải sống tốt lành vì “chúng ta trông chờ ngày hồng
phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu
độ chúng ta, xuất hiện vinh quang.” Trong ngày đó, con người sẽ phải lãnh nhận
hậu quả cho các việc mình đã làm.
(3) Là Dân Riêng của
Thiên Chúa: Các tín hữu đã được rửa sạch bằng Máu Thánh của Đức Kitô, nên họ phải
sống cuộc đời thanh sạch: “Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta
cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta
thành Dân Riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện.”
2/ Phúc Âm: Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.
2.1/ Bổn phận và việc thiện
nguyện: Để hiểu ý nghĩa đọan văn ngắn này,
chúng ta cần phân biệt 2 hành động:
(1) Bổn phận phải làm:
Bổn phận của đầy tớ là phải phục vụ chủ, không cần biết việc phải làm nhiều đến
đâu: “Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở
ngoài đồng về, lại bảo nó: “Mau vào ăn cơm đi!” chứ không bảo: “Hãy dọn cơm cho
ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau!” Chẳng
lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao?”
(2) Việc thiện nguyện:
Nếu một người không phải là đầy tớ, mà tình nguyện phục vụ người khác; đó mới
là việc thiện nguyện. Người lãnh nhận phải biết ơn người tình nguyện phục vụ.
2.2/ Thiên Chúa có cần phải
biết ơn con người? Cũng vậy, con người có bổn
phận phục vụ Thiên Chúa, vì Ngài đã dựng nên con người; đồng thời Ngài đầu tư
vào con người tất cả những gì cần thiết để làm việc sinh lời cho Ngài: ơn
thánh, thời gian, sức khỏe, tài năng… Khi con người ra sức làm việc để sinh lời
tương xứng cho Chúa, đó mới chỉ là hòan tất bổn phận hay công bằng, vì mượn vốn
thì phải trả cả lời lẫn vốn. Vì mọi sự trên đời là của Thiên Chúa, nên Ngài
không cần phải biết ơn con người như Chúa Giêsu nói hôm nay: “Đối với anh em
cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi
là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”
Tuy nhiên, nếu Thiên
Chúa ưu đãi và đối xử tốt với con người như trong trình thuật khác của Luca:
“Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy
bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà
phục vụ” (Lk 12:37); đó là vì Ngài quá thương yêu con người mà thôi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Bổn phận của người
lãnh đạo cộng đòan là phải giáo dục đức tin và nhân bản cho mọi thành phần
trong giáo đòan. Để có thể chu tòan bổn phận, người lãnh đạo trước tiên phải có
một đức tin vững mạnh, khôn ngoan học hỏi, dạy dỗ mọi thành phần, và phải làm
gương sáng cho mọi người.
– Chúng ta phải ra sức
tận dụng những quà tặng Thiên Chúa ban: sự sống, ơn thánh, thời gian, khôn
ngoan, tài năng, của cải vật chất, để sinh lời cho Ngài.
– Cho dẫu hòan tất tốt
đẹp và trả lại tương xứng cho Thiên Chúa, con người cũng không có quyền đòi
Thiên Chúa phải biết ơn họ; vì họ mới chỉ làm tròn bổn phận đã được giao phó mà
thôi.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
13/11/2018 – THỨ BA TUẦN 32 TN
Lc 17,6-10
HỮU DỤNG VÀ VÔ DỤNG
“Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc
bổn phận đấy thôi.” (Lc 17,10)
Suy niệm: Người đầy tớ của ông chủ
trong câu chuyện cũng hữu dụng đấy chứ. Vì hữu dụng, ông chủ mới nuôi đầy tớ
trong nhà. Quả thật, hàng ngày người ấy làm việc đủ thứ việc nào là đồng áng,
nào là chăn chiên; lại còn phục vụ bàn ăn cho chủ. Nhưng người đầy tớ của Chúa
thì vừa vô dụng vừa hữu dụng. Vô dụng bởi vì Chúa là Đấng hoàn hảo vô cùng.
Chúng ta có làm công kia việc nọ gọi là làm cho Chúa thì cũng không vì thế mà
Chúa được hoàn hảo hơn. Nhưng hữu dụng ở chỗ Ngài muốn chúng ta công tác vào
công trình cứu độ của Chúa ngõ hầu “làm vinh danh Chúa và mưu ích cho các linh
hồn,” trong đó mưu ích cho chính chúng ta nữa.
Mời Bạn: Trong ngày truyền tin, Đức
Ma-ri-a đã khiêm tốn nhìn nhận mình là đầy tớ của Chúa, nên Đức Ma-ri-a mới
thưa với sứ thần Gáp-ri-en: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi
như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Đối với Thiên Chúa, Đức Ma-ri-a là nữ tỳ vô dụng
vì Ma-ri-a cũng chỉ là một thụ tạo so với Chúa là Đấng Tạo Thành. Nhưng đồng thời
Đức Ma-ri-a lại rất hữu dụng nhờ ngoan ngoãn thi hành trọn vẹn ý của Chúa trên
mình. Chúng ta cũng sẽ trở thành đầy tớ hữu dụng của Chúa khi khiêm nhường làm
bổn phận Chúa giao.
Sống Lời Chúa: Suy gẫm lời thưa “xin
vâng” và hành động từ lời xin vâng ấy của Đức Maria.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, chúng
con cảm tạ Chúa đã cho chúng con được tham gia vào công trình của Chúa. Xin
giúp chúng con ý thức hơn thân phận tôi tớ của mình và nhiệt tâm làm việc để
công trình của Chúa mang lại nhiều ơn ích cho tha nhân.
(5 Phút Lời Chúa)
Đầy tớ vô dụng (13.11.2018 – Thứ
ba Tuần 32 Thường niên)
Suy niệm:
Vào thời xưa, những tù binh bại trận phải làm nô lệ cho phe thắng.
Khi nhân phẩm của từng con người chưa được nhận ra
thì chuyện mua bán nô lệ là chuyện dễ hiểu (Xh 21, 21).
Dân Ítraen cũng có kinh nghiệm về việc bị bắt làm nô lệ ở Ai-cập,
và kinh nghiệm được Thiên Chúa giải phóng để trả lại tự do.
Những kinh nghiệm này khiến cho chế độ nô lệ ở Ítraen bớt tàn nhẫn.
Người chủ không có quyền bạc đãi nô lệ của mình (Xh 21, 26-27).
Có những nô lệ còn được trao trách nhiệm quản trị thay cho chủ.
Nếu nô lệ là người Do thái thì sau sáu năm phục vụ,
năm thứ bảy anh phải được trả tự do (Xh 21, 2).
Hơn nữa, sách Lêvi còn nói đến việc chuyển đổi biên chế
để một nô lệ Do thái trở thành người làm công trong nhà (25, 39-55).
Khi nhân phẩm của từng con người chưa được nhận ra
thì chuyện mua bán nô lệ là chuyện dễ hiểu (Xh 21, 21).
Dân Ítraen cũng có kinh nghiệm về việc bị bắt làm nô lệ ở Ai-cập,
và kinh nghiệm được Thiên Chúa giải phóng để trả lại tự do.
Những kinh nghiệm này khiến cho chế độ nô lệ ở Ítraen bớt tàn nhẫn.
Người chủ không có quyền bạc đãi nô lệ của mình (Xh 21, 26-27).
Có những nô lệ còn được trao trách nhiệm quản trị thay cho chủ.
Nếu nô lệ là người Do thái thì sau sáu năm phục vụ,
năm thứ bảy anh phải được trả tự do (Xh 21, 2).
Hơn nữa, sách Lêvi còn nói đến việc chuyển đổi biên chế
để một nô lệ Do thái trở thành người làm công trong nhà (25, 39-55).
Tin Mừng hôm nay là một dụ ngôn nói về chuyện một ông chủ.
Ông có một đầy tớ, hay đúng hơn ông sở hữu một anh nô lệ (doulos).
Có một sự khác biệt lớn giữa nô lệ và người làm công.
Anh nô lệ được mua về, và anh phải hoàn toàn lệ thuộc vào chủ.
Khác với người làm công, anh nô lệ không được đòi hỏi gì.
Người nô lệ phải làm mọi việc chủ bảo làm
mà không được đòi lương hay bất cứ ân huệ nào khác.
Ông có một đầy tớ, hay đúng hơn ông sở hữu một anh nô lệ (doulos).
Có một sự khác biệt lớn giữa nô lệ và người làm công.
Anh nô lệ được mua về, và anh phải hoàn toàn lệ thuộc vào chủ.
Khác với người làm công, anh nô lệ không được đòi hỏi gì.
Người nô lệ phải làm mọi việc chủ bảo làm
mà không được đòi lương hay bất cứ ân huệ nào khác.
Đức Giêsu mời các môn đệ đặt mình vào hoàn cảnh của ông chủ.
Có thể ông chỉ có một anh nô lệ thôi,
nên anh vừa phải lo việc đồng áng, vừa phải lo việc cơm nước.
Khi anh từ ngoài đồng về, sau cả ngày làm việc,
sau khi đã vất vả đi cày hay đi chăn chiên (c. 7),
liệu ông chủ có mời anh ngồi vào bàn, ăn cơm tối với mình không?
Câu trả lời vào thời đó dĩ nhiên là không.
Anh sẽ phải tiếp tục phục vụ chủ bằng cách vào bếp, dọn bữa tối.
Khi bữa tối được dọn xong, khi ông chủ ngồi ăn uống thảnh thơi,
thì anh nô lệ phải đứng hầu bàn,
thắt lưng gọn gàng trong tư thế của người đang làm việc (c. 8).
Chỉ khi ông chủ ăn uống xong, bấy giờ mới đến lúc anh ăn uống.
“Ông chủ có biết ơn anh nô lệ, vì anh đã làm theo lệnh truyền không?”
Câu trả lời vào thời đó dĩ nhiên là không.
Ông chủ chẳng phải trả công cho anh nô lệ.
Và anh cũng không chờ bất cứ một lời khen hay ân huệ nào từ ông chủ.
Anh hồn nhiên làm điều anh phải làm mỗi ngày, thế thôi.
Có thể ông chỉ có một anh nô lệ thôi,
nên anh vừa phải lo việc đồng áng, vừa phải lo việc cơm nước.
Khi anh từ ngoài đồng về, sau cả ngày làm việc,
sau khi đã vất vả đi cày hay đi chăn chiên (c. 7),
liệu ông chủ có mời anh ngồi vào bàn, ăn cơm tối với mình không?
Câu trả lời vào thời đó dĩ nhiên là không.
Anh sẽ phải tiếp tục phục vụ chủ bằng cách vào bếp, dọn bữa tối.
Khi bữa tối được dọn xong, khi ông chủ ngồi ăn uống thảnh thơi,
thì anh nô lệ phải đứng hầu bàn,
thắt lưng gọn gàng trong tư thế của người đang làm việc (c. 8).
Chỉ khi ông chủ ăn uống xong, bấy giờ mới đến lúc anh ăn uống.
“Ông chủ có biết ơn anh nô lệ, vì anh đã làm theo lệnh truyền không?”
Câu trả lời vào thời đó dĩ nhiên là không.
Ông chủ chẳng phải trả công cho anh nô lệ.
Và anh cũng không chờ bất cứ một lời khen hay ân huệ nào từ ông chủ.
Anh hồn nhiên làm điều anh phải làm mỗi ngày, thế thôi.
Dụ ngôn này của Đức Giêsu gây sốc cho chúng ta ngày nay,
những người vất vả lo việc Chúa, những người ít khi được nghỉ.
Chúng ta cũng thuộc về Chúa tương tự như một nô lệ (Cv 4, 29).
Chúng ta làm điều phải làm (c. 10),
nhưng không như người làm công chờ lương,
cũng không đòi tiếng khen, quyền lợi, hay đặc ân nào khác từ chủ.
Người tông đồ giống như người đi cày (Lc 9, 62),
chăn chiên (Cv 20, 28), hay hầu bàn (Lc 22, 27).
Khi chu toàn mọi việc được giao, vẫn nhận mình là đầy tớ vô dụng,
không một chút kiêu hãnh, đòi hỏi công lao hay tự hào về thành quả.
Thanh thoát với chính những công việc lớn lao mình đã làm,
siêu thoát khỏi cái tôi muốn phình to bằng công đức,
đó là điều mà Đức Giêsu muốn nhắn nhủ cho những ai làm việc cho Chúa.
những người vất vả lo việc Chúa, những người ít khi được nghỉ.
Chúng ta cũng thuộc về Chúa tương tự như một nô lệ (Cv 4, 29).
Chúng ta làm điều phải làm (c. 10),
nhưng không như người làm công chờ lương,
cũng không đòi tiếng khen, quyền lợi, hay đặc ân nào khác từ chủ.
Người tông đồ giống như người đi cày (Lc 9, 62),
chăn chiên (Cv 20, 28), hay hầu bàn (Lc 22, 27).
Khi chu toàn mọi việc được giao, vẫn nhận mình là đầy tớ vô dụng,
không một chút kiêu hãnh, đòi hỏi công lao hay tự hào về thành quả.
Thanh thoát với chính những công việc lớn lao mình đã làm,
siêu thoát khỏi cái tôi muốn phình to bằng công đức,
đó là điều mà Đức Giêsu muốn nhắn nhủ cho những ai làm việc cho Chúa.
Dù sao ta không được phép nghĩ Thiên Chúa như một ông chủ tàn nhẫn.
Đức Giêsu đã mang lấy thân phận một nô lệ để cứu chúng ta (Ph 2, 7).
Ngài đã sống như người hầu bàn cho các môn đệ (Lc 22, 27).
Và Ngài sẽ cư xử như một người hầu bàn ăn cho ta
khi Ngài đến mà thấy ta vẫn tỉnh thức đợi chờ (Lc 12, 37).
Đức Giêsu đã mang lấy thân phận một nô lệ để cứu chúng ta (Ph 2, 7).
Ngài đã sống như người hầu bàn cho các môn đệ (Lc 22, 27).
Và Ngài sẽ cư xử như một người hầu bàn ăn cho ta
khi Ngài đến mà thấy ta vẫn tỉnh thức đợi chờ (Lc 12, 37).
Cầu nguyện:
Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến,
xin dạy con biết sống quảng đại,
biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài,
biết cho đi mà không tính toán,
biết chiến đấu không ngại thương tích,
biết làm việc không tìm an nghỉ,
biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào
ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen.
xin dạy con biết sống quảng đại,
biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài,
biết cho đi mà không tính toán,
biết chiến đấu không ngại thương tích,
biết làm việc không tìm an nghỉ,
biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào
ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
13 THÁNG MƯỜI MỘT
Bảo Vệ Quyền Của Phụ
Nữ Tại Môi Trường Lao Động
Trong thời đại chúng
ta, vấn đề bình đẳng nam nữ đang được giải quyết, ít nhất về mặt pháp lý, bằng
những đạo luật nhìn nhận sự bình đẳng nam nữ tại môi trường làm việc. Tuy
nhiên, như Thông Điệp Pacem in terris ghi nhận, chúng ta phải đảm bảo cho phụ nữ
“quyền có các điều kiện làm việc phù hợp với các yêu cầu và các bổn phận của họ
trong tư cách là vợ và là mẹ”. Chúng ta phải xây dựng một xã hội trong đó phụ nữ
có thời giờ để nuôi dạy con cái mình – là những nhà xây dựng và những nhà kiến
thiết tương lai. Giáo Hội rất ý thức nhu cầu này, như tôi đã nói tại một hội
nghị Thượng Hội Đồng giám mục trước đây: “Gia đình phải được sống cách xứng
đáng ngay cả khi người mẹ không thể cống hiến hoàn toàn cho gia đình.” Điều này
không có nghĩa rằng phải khai trừ phụ nữ ra khỏi thế giới lao động làm ăn hay
ra khỏi những hoạt động công cộng ngoài xã hội.
‘Sự thăng tiến đích thực
của phụ nữ đòi hỏi rằng công việc làm phải được tổ chức sao cho họ không bị bắt
buộc phải trả giá cho sự tiến thân bằng việc bỏ mất ơn gọi chuyên biệt của họ
trong gia đình. Bởi vì phụ nữ có một vai trò không thể thay thế được, đó là vai
trò làm mẹ” (LE 19).
Đó là giáo huấn của
Giáo Hội. Trong một xã hội mong muốn có sự công bằng và nhân đạo, thì những nhu
cầu vật chất và tinh thần của nhân vị con người phải chiếm chỗ nhất trong bậc
thang các giá trị. Chúng ta phải bảo vệ những nhu cầu này và nêu cao tầm quan
trọng của nhân vị con người trong các gia đình chúng ta. Chúng ta không được
phép quên phẩm giá của vai trò làm mẹ và tầm quan trọng của công việc nuôi dạy
con cái.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 13-11
Tt 2, 1-8.11-14; Lc
17, 7-10.
LỜI SUY NIỆM: “Chẳng lẽ ông
chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao? Đối với anh em cũng vậy:
khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những
đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”
Chúa Giêsu đang giúp cho mỗi người trong chúng ta nhận ra tất cả những gì chúng
ta làm cho Chúa, cho người anh em, là hồng phúc mà Chúa ban cho chúng ta, để
chúng ta chu toàn bổn phận sống của mình, trong vai trò con hiếu thảo đối với
Chúa. Nên chúng ta không bao giờ có thể nói mình đã làm quá nhiều cho Chúa, cho
Giáo Hội để về sau đòi hỏi Chúa ban lại cho mình điều này điều nọ. Khi chúng ta
đã làm hết sức mình, đó chỉ là bổn phận chúng ta phải làm, phải chu toàn với
trách nhiệm của một tôi tớ.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong chúng con luôn chu toàn bổn phận làm
tôi Chúa trong tình yêu, với tâm tình tạ ơn.
Mạnh Phương
13 Tháng Mười Một
Ánh Mắt Mẹ Tôi
Paul Nagai, một
bác sĩ người Nhật, từ sau quả bom nguyên tử ném xuống Nagasaki, đã trở thành
con người bất hủ, vì sự tận tụy và tấm lòng hy sinh vô bờ bến của ông. Từ vô thần,
ông đã trở thành người có niềm tin. Ông đã giải thích như sau:
“Trong kỳ nghỉ mùa
xuân, lúc đó tôi học hết năm thứ hai y khoa, mẹ tôi trúng phong. Tôi hối hả chạy
đến đầu giường của người. Trong cơn hấp hối, người nhìn tôi và thở ra. Cái nhìn
cuối cùng của cặp mắt người mẹ đã sinh ra, đã giáo dục và đã thương tôi đến
cùng, cặp mắt này đã nói với tôi một cách rõ rệt rằng: cho dù khuất núi, người
vẫn ở bên tôi luôn mãi… Tôi không tin gì ở sự hiện hữu của linh hồn. Bỗng
nhiên, trong ánh mắt của mẹ tôi, tôi đã nhìn thấy linh hồn của người… Từ đó,
con người tôi đổi hẳn, tôi tin rằng mẹ tôi, người đã sinh ra tôi, đã yêu thương
tôi, không thể bị tiêu diệt hoàn toàn sau cái chết”.
Chúng ta có một linh hồn
bất tử. Ðó là nền tảng của phẩm giá con người. Nếu sinh ra, sớm nở tối tàn như
bông hoa đồng nội và cuối cùng trở về với cái không vô tận, thì đâu là giá trị
của con người?…
Chúng ta được tạo dựng
giống hình ảnh Thiên Chúa, chúng ta mang trong mình ánh lửa của Vĩnh Cửu, cho
dù thân xác này có hư nát đi, chúng ta vẫn tiếp tục cuộc sống mai hậu. Ðó là
cùng đích của tất cả mọi bôn ba lao nhọc của chúng ta trên cõi đời này. Bạn sẽ
chuẩn bị gì cho mảnh hình hài còn lại ấy?
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét