Trang

Thứ Tư, 1 tháng 5, 2019

02-05-2019 : THỨ NĂM - TUẦN II PHỤC SINH - THÁNH ATHANASIÔ, GIÁM MỤC, TIẾN SĨ HỘI THÁNH - Lễ Nhớ


02/05/2019
Thứ Năm đầu tháng, tuần 2 Phục Sinh
Thánh Athanasiô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh.
Lễ nhớ


* Thánh nhân sinh năm 295 tại A-lê-xan-ri-a. Người cộng tác, rồi kế vị giám mục A-lê-xan-ri-a. Thánh nhân chỉ có một mục đích: bảo vệ tín điều về thần tính của Chúa Kitô. Tín điều này đã được xác định tại công đồng Ni-xê-a. Cũng vì đó người bị công kích khắp nơi. Nhưng dù gặp những giám mục nhút nhát, dù bị săn lùng, dù năm lần bị đày ải, người vẫn giữ được tính khí khái; nhất là giữ được lòng yêu mến đối với Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người. Người đã viết nhiều tác phẩm vừa để làm sáng tỏ vừa để bảo vệ đức tin chân truyền. Người qua đời năm 373

Bài Ðọc I: Cv 5, 27-33
"Chúng tôi là nhân chứng các lời đó cùng với Thánh Thần".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Hôm ấy, khi các thủ hạ dẫn các tông đồ đi, họ đem các ngài ra trước công nghị. Vị thượng tế hỏi các ngài rằng: "Ta đã ra lệnh cấm các ngươi nhân danh ấy mà giảng dạy. Thế mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý các ngươi khắp cả Giêrusalem; các ngươi còn muốn làm cho máu người đó lại đổ trên chúng tôi ư?" Phêrô và các tông đồ trả lời rằng: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta. Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã cho Ðức Giêsu sống lại, Ðấng mà các ông đã giết khi treo Ngài trên thập giá. Thiên Chúa đã dùng quyền năng tôn Ngài làm thủ lãnh và làm Ðấng Cứu Ðộ, để ban cho Israel được ăn năn sám hối và được ơn tha tội. Chúng tôi là nhân chứng các lời đó cùng với Thánh Thần, Ðấng mà Thiên Chúa đã ban cho mọi kẻ vâng lời Người?" Khi nghe những lời đó, họ liền phẫn nộ và tìm mưu giết các ngài.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 33, 2 và 9. 17-18. 19-20
Ðáp: Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe (c. 7a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai tìm nương tựa ở nơi Người. - Ðáp.
2) Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Ngài cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. - Ðáp.
3) Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương giập nát. Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân, nhưng Chúa luôn luôn giải thoát. - Ðáp.

Alleluia: Ga 16, 7 và 13
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy sẽ sai Thần Chân Lý đến, người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật". - Alleluia.

Phúc Âm: Ga 3, 31-36
"Ðức Chúa Cha thương mến Con Ngài, nên ban toàn quyền trong tay Con Ngài".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, ông Gioan nói để làm chứng về Chúa Giêsu rằng: "Ðấng từ trên cao mà đến thì vượt trên hết mọi người. Kẻ bởi đất mà ra, thì thuộc về đất và nói những sự thuộc về đất. Ðấng từ trời mà đến thì vượt trên hết mọi người. Ðiều gì Người thấy và nghe, thì Người làm chứng về điều đó. Nhưng lời chứng của Người không ai chấp nhận. Ai chấp nhận lời chứng của Người, thì quả quyết Thiên Chúa là Ðấng chân thật. Ðấng được Thiên Chúa sai đến thì nói lời của Thiên Chúa, vì được Chúa ban cho thần linh khôn lường. Cha yêu mến Con, nên đã ban mọi sự trong tay Con. Ai tin vào Con thì có sự sống đời đời. Còn ai không tin vào Con, thì sẽ không được thấy sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên người ấy".
Ðó là lời Chúa.


SUY NIỆM : Hướng nhìn lên cao
Tạp chí Time số tháng 4/95 có ghi lại chứng từ rất cảm động của một cựu tù nhân Mỹ tại Việt Nam, ông Avares. Là một phi công Hải quân, ông đã bị bắn hạ trong một phi vụ dọc theo duyên hải Bắc Việt ngày 5/8/1964. Ông đã bị giam tại Hoả lò trong vòng 8 năm rưỡi. Năm 1993, một nhà sản xuất phim mời ông và một nhóm cựu tù binh Mỹ trở lại Việt Nam để thực hiện một cuốn phim tài liệu. Avares đã trở lại căn phòng nơi ông bị giam, điều duy nhất ông muốn nhìn lại là hình Thánh giá trên bức tường đàng sau phòng giam mà ông đã nhìn lên đó để cầu nguyện. Lời cầu nguyện đã nâng đỡ ông trong những tháng ngày dài thiếu thốn và cô đơn. Ngày nay bức tường đã được tô vôi, cây Thánh giá đã bị một lớp sơn vẽ chồng lên, và ông cho biết có một cái gì đó đã được chôn chặt trong ông, đó không phải là hối hận hay căm thù, mà là tâm tình tri ân Thiên Chúa đã cho ông về với gia đình và đã ban cho ông ơn biết tha thứ và quên đi.
Chứng từ của Avares cho thấy khi con người biết nhìn lên cao, con người sẽ cảm nhận được ơn Chúa trong cuộc sống của mình. Đó có lẽ là ý tưởng mà Tin mừng hôm nay gợi lên cho chúng ta. Thánh Gioan ghi lại hai cái nhìn về Chúa Giêsu: một của Nicôđêmô và một của Gioan Tẩy giả. Nicôđêmô nhìn vào Chúa Giêsu với những hiểu biết uyên bác nhưng hoàn toàn phàm tục của ông; ông lượng giá về Chúa Giêsu theo thước đo thông thường của loài người, đó là cái nhìn từ dưới đất. Trong khi đó, Gioan Tẩy giả mời gọi các môn đệ ông vượt qua cái nhìn từ dưới đất để có cái nhìn từ trên cao. Và thánh Phaolô đã nói: “Anh em hãy mặc lấy tâm tình của Chúa Kitô”. Với tâm tình của Chúa Kitô, nghĩa là với cái nhìn của tin yêu và hy vọng, người ta có thể đứng vững trong mọi nghịch cảnh và thử thách; với tâm tình của Chúa Kitô, người ta sẽ cảm nhận được ơn Chúa ngay những lúc như bị bỏ rơi và đánh mất tất cả; với tâm tình của Chúa Kitô, người ta sẽ cảm nhận được tình thương và tha thứ ngay giữa nơi chỉ có hận thù và chết chóc.
Nguyện xin Chúa gìn giữ chúng ta trong tâm tình ấy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)



Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần II PS
Bài đọcActs 5:27-33; Jn 3:31-36.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người cần khiêm nhường nhận ra và chấp nhận uy quyền của Thiên Chúa.
Vũ trụ quá bao la trong khi khả năng hiểu biết của con người quá hạn hẹp. Nếu con người chưa biết hết được những gì xảy ra dưới đất, làm sao có thể thông suốt những sự trên trời? Vì thế, con người cần tránh thái độ “cóc ngồi đáy giếng.” Vì cóc chỉ thấy được một bầu trời hạn hẹp bằng miệng giếng, cóc cho mình là nhất. Cóc có biết đâu bên ngoài miệng giếng là cả một vũ trụ mênh mông!
Vũ trụ tiềm tàng bao sức mạnh kinh hồn trong khi con người lại quá yếu đuối. Nếu con người chưa có sức mạnh đủ để đương đầu với những sức mạnh của thiên nhiên (gió bão, núi lửa, động đất), làm sao con người có thể chống lại uy quyền của Thiên Chúa? Nếu con người vẫn ngoan cố chống chọi uy quyền của Thiên Chúa, khác nào như con người lấy trứng chọi vào đá!
Các Bài Đọc hôm nay nhắc nhở cho con người biết khả năng hạn hẹp của mình. Trong Bài Đọc I, khi Thượng Hội Đồng cấm các tông đồ không được rao giảng đạo lý Đức Kitô; các tông đồ cương quyết bảo vệ lập trường của mình: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.” Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhắc nhở cho mọi người về nguồn gốc của Ngài: “Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người; kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất. Đấng từ trời mà đến thì ở trên mọi người.”

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.
Trong Cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Đức Kitô, tất cả các Tông-đồ và Thượng Hội Đồng đều chối từ và chống lại Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa không kết tội con người, nhưng Ngài muốn con người phải chịu trách nhiệm về những việc mình làm: Nếu họ đã làm sai, hãy có can đảm chấp nhận và tìm cách sửa sai; chứ không thể cứ nhắm mắt và đổ lỗi cho người khác.
1.1/ Các Tông-đồ trình bày niềm tin của mình: Mặc dù các ông đã chối từ và bỏ chạy trong Cuộc Thương Khó, nhưng khi được Chúa Giêsu hiện ra, các ông đã nhận ra tội của mình; và sau khi được củng cố bởi quyền lực của Thánh Thần, các ông mạnh dạn ra đi và làm chứng cho Đức Kitô trước mặt mọi người: Trước tiên, các Tông-đồ tố cáo Thượng Hội Đồng tội giết Đấng Thiên Sai: “Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi.” Sau đó, các ông vạch ra cho mọi người nhìn thấy uy quyền Thiên Chúa: “Nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Israel ơn sám hối và ơn tha tội.”
Khi bị Thượng Hội Đồng đe dọa và ngăn cấm không cho rao giảng Danh Chúa Giêsu, ông Phêrô và các Tông-đồ khác đáp lại rằng: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.”
1.2/ Phản ứng ngoan cố của Thượng Hội Đồng: Đã sai lầm khi luận tội và xin đóng đinh Chúa Giêsu, họ vẫn không chịu nhận tội khi các Tông-đồ làm chứng cho Ngài. Vị Thượng Tế hỏi các Tông-đồ: "Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Jerusalem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi!" Khi các Tông-đồ trả lời phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm, họ giận điên lên và muốn giết các ông.
Một câu trả lời hết sứ hợp lý, nhất là cho những con người mang tiếng bảo vệ Lề Luật của Thiên Chúa; thế mà họ không nhận ra sự thật, lại còn để cho sự kiêu ngạo và ghen tị thống trị con người họ, và dùng sức mạnh để áp đảo các Tông-đồ. Họ nhân danh bảo vệ Lề Luật; nhưng thực ra họ coi thường Lề Luật; chẳng hạn: (1) Họ kết án Chúa Giêsu mà không điều tra về Ngài như Lề Luật đòi hỏi; (2) Họ đòi đóng đinh Chúa vào thập giá ngay cả khi một người ngoại, Philatô, đã tuyên bố Ngài vô tội; và (3) Họ đe dọa, đánh đòn, và muốn giết cả hai nhân chứng, Phêrô và Gioan, khi các ông muốn làm chứng cho Chúa Giêsu. Nói tóm, họ không còn biết gì đến Lề Luật như chức vụ họ đòi phải thi hành; nhưng họ để cho tính nóng giận và sự ghen tức làm chủ, để rồi chỉ biết dùng bạo lực để đàn áp người vô tội.
2/ Phúc Âm: Ai tin vào Người Con thì được sự sống đời đời.
2.1/ Chúa Giêsu mặc khải cho con người những gì từ Thiên Chúa: Chân lý căn bản con người cần khiêm nhường nhìn nhận: “Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người; kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất. Đấng từ trời mà đến thì ở trên mọi người.” Tiên tri Isaiah cũng từng tuyên sấm những gì Thiên Chúa nói: “Trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng và đường lối của Ta cũng cao hơn các ngươi bấy nhiêu (Isa 55:9).
Vì có sự khác biệt lớn lao như thế, nên con người không thể hiểu những gì từ Thiên Chúa, nếu những điều đó không được mặc khải và soi sáng cho con người. Chúa Giêsu đến để mặc khải cho con người những mầu nhiệm của Thiên Chúa và Chúa Thánh Thần soi sáng cho con người để họ có thể hiểu những chân lý này. Chúa Giêsu nói: “Người làm chứng về những gì Người đã thấy đã nghe, nhưng chẳng ai nhận lời chứng của Người. Ai nhận lời chứng của Người, thì xác nhận Thiên Chúa là Đấng chân thật.”
Sở dĩ con người không tin vào Đức Kitô là vì từ trước tới giờ họ chỉ tin có Một Thiên Chúa. Tuy họ biết, theo lời các ngôn sứ, Thiên Chúa sẽ gởi Đấng Thiên Sai đến để cứu chuộc dân; nhưng họ tin Ngài là Đấng sẽ dùng uy quyền mà cứu chuộc và thống trị dân, chứ không phải bằng khiêm nhường chịu đau khổ như Đức Kitô. Chúa Giêsu đến cắt nghĩa cho họ biết về sự liên hệ giữa Thiên Chúa và Ngài, Người được Thiên Chúa sai đến, nhưng họ từ chối không tin vào lời chứng của Người. Chúa muốn nhắc nhở cho họ biết nếu họ chưa thông suốt việc dưới đất, làm sao có thể thông suốt việc trên trời.
2.2/ Hậu quả của việc nhìn nhận hay chối từ Con Thiên Chúa: Nếu một người nhìn nhận Đức Kitô là Đấng được Thiên Chúa sai đi, họ sẽ được hưởng sự sống đời đời, được nhận lãnh Thánh Thần, và được hưởng muôn hồng ân mà Thiên Chúa Cha đã trao vào tay Người Con. Nếu họ từ chối không tin Đức Kitô là Đấng được Thiên Chúa sai đến, họ sẽ không được hưởng sự sống đời đời, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần học hỏi để nhận biết sự khôn ngoan và uy quyền của Thiên Chúa. Chúng ta cũng phải nhìn nhận khả năng giới hạn và sự yếu đuối của mình. Có như vậy, chúng ta mới biết cách sống làm sao cho đúng và đạt được kết quả tốt đẹp cho cuộc đời.
- Ai tuyên bố phải hiểu mới tin là người kiêu ngạo và rồ dại. Kiêu ngạo vì cho mình có thể thông suốt mọi sự trên trời cũng như dưới đất. Rồ dại vì không biết giới hạn của mình và bỏ lỡ cơ hội để học hỏi những điều mới lạ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


02/05/19 THỨ NĂM ĐẦU THÁNG TUẦN 2 PS
Th. A-tha-na-xi-ô, giám mục, tiến sĩ HT
Ga 3,31-36


“NÓI CHUYỆN TRÊN TRỜI”
“Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người; kẻ bởi đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất.” (Ga 3,31)

Suy niệm: “Kẻ bởi đất mà ra thì nói những chuyện dưới đất,” và giả như họ có nói “những chuyện trên trời” thì cũng nói theo kiểu “những chuyện dưới đất.” Con người dù có ai thông thái khôn ngoan đến mấy đi nữa, khi nói về Thiên Chúa, cũng phải dùng ngôn ngữ loài người và những khái niệm của con người để phóng chiếu lên tới vô cùng, và giả định như thế là Thiên Chúa. Do đó, con người vẫn thường vô tình tạo ra những thần linh theo hình ảnh, sở thích của mình để rồi tôn thờ chính “những thần linh do tay mình làm ra.” Chỉ có Đấng từ trời xuống mới đủ khả năng, đủ thế giá để nói về những sự trên trời. Vì thế, nếu chúng ta muốn biết điều chi về Thiên Chúa, chúng ta chỉ có thể tìm biết từ chính Con Một của Người, Đấng từ trời mà xuống. Và nếu chúng ta muốn đến với Thiên Chúa, chúng ta cũng chỉ có thể đến qua Đức Giê-su Ki-tô, Đấng duy nhất đã chết, sống lại và lên trời. Quả thật, Đức Giê-su Ki-tô là “Đấng Cứu Độ Duy Nhất” của nhân loại.
Mời Bạn: Khi mọi lời nói của chúng ta đều bất cập trước mầu nhiệm vô biên của Thiên Chúa thì bạn vẫn còn một phương thế để đạt tới Thiên Chúa đó là dựa vào chính Lời Chúa và nhờ Thánh Thần hướng dẫn, để hiểu biết và đón nhận thánh ý Ngài.
Sống Lời Chúa: Trung thành đọc và suy gẫm Lời Chúa mỗi ngày.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban Thần Khí Đức Ki-tô trên chúng con, cho chúng con luôn xác tín quê hương đích thực của chúng con ở trên trời, và để chúng con biết say mê những sự trên trời, biết dùng của cải đời này mà đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.
(5 phút lời Chúa)

Đấng từ trên cao mà đến (02.5.2019 – Thứ năm Tuần 2 Phục sinh)
Dù cư ngụ trên mặt đất, tôi vẫn luôn hướng về Cha tôi trên trời. Khi làm xong sứ mạng, tôi sẽ trở về với gốc của tôi.


Suy nim:
Giêsu ơi! Ngài từ đâu đến?
Tôi là Đấng từ trên cao mà đến.
Tôi là Đấng từ trời mà đến (c.31).
Tôi sinh ra trên đất, sống trên đất, chết trên đất.
Nhưng tôi không thuộc về đất, đất không phải là gốc của tôi.
Gốc của tôi ở nơi cung lòng Thiên Chúa (Ga 1, 18).
Dù cư ngụ trên mặt đất, tôi vẫn luôn hướng về Cha tôi trên trời.
Khi làm xong sứ mạng, tôi sẽ trở về với gốc của tôi.
Giêsu ơi! Ngài làm gì vậy?
Tôi làm chứng về điều tôi đã thấy và đã nghe (c. 32).
Tôi làm chứng về Thiên Chúa là Cha của tôi.
Tôi đã thấy việc Người làm và đã nghe tiếng Người nói.
Nhiều vĩ nhân diễn tả rất hay, rất đúng về Thiên Chúa
và cũng có kinh nghiệm rất sâu về Người.
Nhưng họ không phải là Con như tôi.
Họ chẳng thể nào gần mầu nhiệm Thiên Chúa như tôi.
Chẳng ai biết Cha bằng Con, không ai biết Cha trừ ra Con (Lc 10, 22).
Chỉ mình tôi mới có thể vén mở trọn vẹn khuôn mặt Thiên Chúa.
Giêsu ơi! Ngài là ai?
Tôi là người được Thiên Chúa sai đến với nhân loại trên mặt đất (c. 34).
Chẳng có giây phút nào tôi quên mình là Con, người được sai.
Chẳng có giây phút nào tôi quên Cha tôi là Đấng sai tôi.
Khi nhận mình triệt để tùy thuộc vào Cha, tôi chẳng hề xấu hổ.
Tôi đáng tin vì chính sự tùy thuộc đó.
Tôi chẳng làm điều gì tự mình,
tôi chỉ làm điều tôi đã thấy Cha tôi làm (Ga 5, 19).
Tôi chẳng nói điều gì tự mình,
tôi chỉ nói điều tôi đã nghe Cha tôi nói (Ga 8, 26).
Chính khi tôi tùy thuộc trọn vẹn vào Cha mà tôi được tự do.
Giêsu ơi! Ngài có hạnh phúc không?
Tôi hạnh phúc vì tôi yêu và được yêu.
Cha tôi yêu mến tôi và tôi ở lại trong tình yêu của Cha (Ga 15, 10),
Người vẫn ở với tôi và không để tôi cô độc (Ga 8, 29).
Người yêu mến tôi vì tôi dám hy sinh mạng sống cho đoàn chiên (Ga 10, 17).
Tình yêu của Cha thể hiện qua việc Người trao phó mọi sự trong tay tôi (c. 35).
Tôi có quyền phán xét, quyền cho sống lại ngày sau hết, quyền trên mọi xác phàm.
Bởi vậy tôi mới nói mọi sự Cha có là của tôi (Ga 16, 15).
Hãy đón nhận lời chứng của tôi (c. 33).
Hãy tin vào tôi để được sự sống vĩnh hằng ngay từ đời này (c. 36).
Hãy đến với tôi để được chia sẻ cùng một sứ mạng và vinh quang.
Cầu nguyn:

Lạy Cha,
con phó mặc con cho Cha,
xin dùng con tùy sở thích Cha.
Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn.
Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả.
Miễn là ý Cha thực hiện nơi con
và nơi mọi loài Cha tạo dựng,
thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa.
Con trao linh hồn con về tay Cha.
Con dâng linh hồn con cho Cha,
lạy Chúa Trời của con,
với tất cả tình yêu của lòng con,
Vì con yêu mến Cha,
vì lòng yêu mến
thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha,
thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha,
không so đo,
với một lòng tin cậy vô biên,
vì Cha là Cha của con.
(Charles de Foucauld)

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
2 THÁNG NĂM
Viên Đá Góc
Đức Kitô là viên đá góc: “Người là viên đá mà quí vị là thợ xây loại bỏ, lại trở nên đá tảng góc tường” (Cv 4, 11). Những người không đón nhận lời chứng của Tin Mừng và xử tử Đức Kitô trên Thập Giá là những người đã loại bỏ viên đá này. Những người cố sức tổ chức thế giới và đời sống xã hội không cần đến Đức Kitô và chống lại Người, chẳng phải họ đang loại bỏ Người một lần nữa đó sao? Thế nhưng, viên đá bị loại bỏ – và bị loại bỏ quá nhiều lần này – chính là viên đá góc.
Công trình cứu độ con người chỉ có thể đứng được trên nền móng duy nhất là Đức Kitô. Chỉ nơi Người mới có nền tảng vững chắc để xây dựng trật tự và hòa bình đích thực giữa con người với con người. Chỉ nhờ Người, chúng ta mới có thể được đổi mới tâm linh và triển nở đến mức sung mãn theo sự tiền định từ đời đời dành sẵn cho mình. Chỉ qua Người, thế giới con người chúng ta mới có thể trở thành ‘người’ đích thực hơn.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II

Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 02 - 5
Cv 5, 27-33; Ga 3, 31-36.

LỜI SUY NIỆM: “Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên người ấy”.
Chúa Giêsu là tâm điểm đức tin của chúng ta, bởi lẽ: “Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; Vì dưới gầm trời này, không có một Danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ.” (Cv 4,12).
Lạy Chúa Giêsu. Chúa là đường là Sự Thật và là Sự Sống. Xin Chúa ban cho tất cả chúng con tin vào Chúa để được ơn cứu độ.
Mạnh Phương

Gương Thánh Nhân
Ngày 02-05: Thánh ATHANASIÔ
Giám mục Tiến Sĩ Hội Thánh (295 - 373)

Thánh Athanasiô sinh khoảng năm 295 có lẽ tại Alexandria. Gia đình Ngài rõ ràng là khá giả vì sau này Ngài có dịp trốn ở phần mộ của gia đình, Ngài đã theo môn cổ học và sau này thường trích dẫn các tác giả cổ. Có lẽ Ngài cùng theo học tại một trường Giáo lý ở Caêsarêa nên tư tưởng của Ngài thấm nhuần Kinh thánh, cả những chú giải Kinh thánh và cũng theo truyền thống các giáo phụ nữa.
Vào khoảng 25 tuổi Athanasiô đã có một thời sống với thánh Antôn ẩn tu. Bốn mươi năm sau, Ngài đã mời thánh An tôn ẩn tu về Alexandria để góp phần bảo vệ đức tin. Khi qua đời thánh ẩn tu đã nhường lại cho Athanasiô cái áo choàng Ngài vẫn dùng đắp mình khi ngủ và tấm da chiên để dùng sưởi ấm lúc tuổi già. Những năm chung sống nơi sa mạc với vị thánh ẩn tu này đã tạo nên nét thánh thiện và nhân cách của Athanasiô.
Vào năm 320, Athanasiô mới bắt đầu góp phần vào lịch sử. Khi ấy Đức Cha Alexander Giám mục Alexandria cảm phục và triều vời Athanasiô từ sa mạc về, đặt làm phó tế. Khi ấy Ariô là cha sở Boucalis. Ong ta là một nhà giảng thuyết danh tiếng, có một cuộc sống khắc khổ và hướng dẫn các trinh nữ hiến mình cho Thiên Chúa. Ariô đã sáng nghĩ và rao giảng những ý tưởng lầm lạc cho rằng: "Ngôi Lời Thiên Chúa không có từ đời đời, không cùng bản tính với Chúa Cha mà chỉ là một thụ tạo được mang danh hiệu Con Thiên Chúa". Athanasiô đã bảo bỏ những sai lầm này. Bút pháp và nội dung của bức thông điệp Đức Giám mục Alexander ban hành năm 322 cho thấy tác giả chính là Athanasiô.
Tại công đồng Nicea, thánh Athanassiô tháp tùng Đức Giám mục Alaxander và đã góp phần vào bản văn chung quyết của cộng đồng, trong đó định tín rằng: Chúa Con đồng bản tính với Chúa Cha. Ngài đã trở thành mục tiêu cho bọn lạc giáo ghen ghét.
Mùa hạ năm 328, Đức Giám mục Alexander qua đời và đặt Athanasiô lên kế vị. Nhận thấy mình bất xứng, Athanasiô đã bỏ trốn, nhưng rồi bị ép buộc lãnh nhận trách nhiệm. Ngài đã tỏ ra có nhân cách khôn sánh, có ý chí bất khuất và rất thông minh. Rảo quanh khắp giáo phận rộng lớn, Ngài gặp thánh Dachômiô từ trong sa mạc, là Đấng đã nghe Chúa nói với mình rằng: - Ta đã đặt Athanasiô làm cột trụ Giáo hội, nhưng Ngài sẽ bị đau khổ nhiều.
Nhưng Athanasiô không sợ đau khổ. Nhiều lần Ngài đã bị trục xuất khỏi giáo phận. Trước hết, dưới ảnh hửơng của những người theo phái Ariô, năm 335 thánh Athanasiô bị vua Constantinô đầy đi Trier ở biên thùy nước Đức. Tại đây Ngài trước tác một số tác phẩm nay vẫn còn danh tiếng.
Nhưng rồi nămsau. Ariô chết cách khốn khổ. Vua Constantinô cho thánh nhân được trở về giáo phận, Ngài chỉ trở lại hai năm sau tức năm 337 khi thấy nhà vua mới Constance ngả về phía lạc giáo. Cuộc trở về của thánh nhân diễn ra như một cuộc khải hoàn. Tuy nhiên từ năm 337 đến năm 366, cuộc đời Ngài là một cuộc chiến đấu liên tục với nhóm người ngả theo Ariô có, bảo thủ có, buông thả để an phận có. Chính hoàng đế cũng muốn can thiệp để sửa đổi giáo thuyết Hội Thánh khiến các thù dịch tỏ ra độc ác và tìm cách tiêu diệt vị giám mục. Lần kia đang lúc thánh Athanasiô dâng lễ, bọn lính xâm nhập thánh đường. Thánh nhân trốn thoát được và ẩn mình trong sa mạc. Sợ những người chứa chấp bị liên lụy Ngài ẩn mình trong một hang đá. Và không ngừng trung thành với đức tin chân chính.
Hoàng đế Constance qua đời, Juliano người sẽ mang biệt danh là kẻ bội giáo, lên kế vị và cho phép những kẻ lưu đày trở về. Đức Giám mục Athanasiô trở lại giáo phận và thiết lập trật tự trong giáo đoàn cũng như lo truyền bá đức tin sang Ethiopie và Ả Rập.
Ngài chống lại các mê tín dị đoan khiến các lương dân tức giận. Họ quyết sát hại thánh nhân. Lần này, Ngài lại phải chạy trốn theo lệnh của nhà vua, bội giáo chèo thuyền dọc sông Nil, Ngài bị quân lính đuổi theo sát nút. Nguy ngập Ngài quay thuyền lại để gặp họ. Bọn lính hung hăng hỏi thăm xem còn cách vị giám mục bao xa. Ngài trả lời : - Chèo mạnh lên, ông không ở xa đâu.
Bọn lính vội vã làm theo và thánh nhân thoát nạn, Ngài lang thang đây đó cho tới khi Vua Julianô qua đời, vào năm sau. Jovianô, vị tân hoàng đế rất kính phục đức giám mục và thích đàm luận với Ngài. Nhưng triều đại của ông lại quá vắn vỏi. Khi Valens lên nắm quyền cai trị, lại một cuộc bách hại mới mở ra. Một lần nữa thánh Athanasiô lại phải trốn đi. Trong bốn tháng liền, Ngài ẩn mình trong phần mộ của gia đình.
Sau cùng Valens vì hiểu được lòng kính phục của dân Ai cập đối với vị giám mục của họ, và không muốn xa rời dân chúng nên chịu cho Ngài trở về. Những năm cuối đời, thánh nhân được sống trong yên ổn phần nào, bởi vì lúc ấy cuộc tranh chấp thực sự chưa ngã ngũ, Ngài qua đời ngày 02 tháng 5 năm 373. Phải đợi năm năm sau, cuộc tranh luận của cộng đồng Nicêa mới toàn thắng với cái chết của Valens.
Thánh Athanasiô đã viết những tác phẩm vĩ đại nhất trong 30 năm xáo trộn. Cuốn Uncarnatione Verbi hoàn thành năm 337, cuốn Virginitate và Orationes khoảng năm 357, cuốn Contra Arianô có thể sau năm 362. Ngài đã viết rất nhiều và mọi tư tưởng Ngài cũng như cuộc sống Ngài tập trung vào hai ý niệm: Chúa Con là sự bày tỏ của Chúa Cha, và Giáo hội là sự bày tỏ của Chúa Con. Giáo hội Tây phương kính nhớ Ngài như thánh tiến sĩ Chúa Ba Ngôi, nhưng trước hết, Ngài là Thánh Tiến sĩ về mầu nhiệm nhập thể và về Ơn thánh.
(daminhvn.net)


02 Tháng Năm
Ðức Mẹ Guadalupe
Dạo tháng 5/1990, Ðức Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho một người thổ dân Mehico tên là Juan Diego, người được Ðức mẹ hiện ra tại Guadalupe...
Juan Diego là một người thổ dân nghèo sống với người cậu tại làng Telpetlao thuộc ngoại ô thủ đô Mehico vào khoảng thế kỷ 16. Một buổi sáng thứ bảy nọ, trên đường đi đến thánh đường để dự thánh lễ, Juan Diego bỗng nghe có tiếng hát du dương từ trên một ngọn đồi. Anh tiến lại gần và thấy một thiếu nữ xinh đẹp tự xưng là Trinh Nữ Maria. Ðức Mẹ nói với người thổ dân nghèo như sau: "Ta muốn có một đền thờ được dựng lên tại đây để Ta dùng tình thương, niềm cảm thông, sự giúp đỡ và bảo vệ của Ta mà bày tỏ Thiên Chúa cho loài người. Con hãy đi gặp vị giám mục Mehico và nói với Ngài rằng Ta sai con đến gặp Ngài để bày tỏ ý muốn của Ta. Con hãy tin tưởng rằng Ta sẽ biết ơn con và ân thưởng cho con. Ta sẽ làm cho con được giàu có và tôn vinh con".
Juan đến gặp vị giám mục, nhưng anh ta buồn bã trở về làng, vì giám mục không tin lời của anh. Ðức mẹ lại hiện ra cho anh một lần nữa và cũng sai anh mang một sứ điệp như thế đến cho vị giám mục. Nhưng lần thứ hai, dù cho anh có van nài khóc lóc, vị giám mục vẫn một mực không tin. Vị giám mục nói với người thổ dân nghèo rằng: "Nếu Ðức Mẹ thực sự muốn điều đó thì xin Ngài hãybày tỏ một dấu lạ". Và ngài bí mật cho người theo dõi. Lần thứ ba, Ðức Mẹ lại hiện ra cho Juan Diego, nhưng Ngài bảo anh: "Hãy trở lại vào ngày mai và Ngài sẽ cho vị giám mục một dấu lạ".
Ngày hôm sau, Juan Diego không thể đến điểm hẹn với Ðức Mẹ được vì anh còn phải đi tìm thầy thuốc cho người cậu đang mắc bệnh. Nhưng khi đi qua ngọn đồi, Juan vẫn được Ðức Mẹ hiện ra. Ngài bảo đảm với anh rằng người cậu của anh sẽ được lành bệnh và thay vì để Juan tiếp tục lên đường đi Mehico để tìm thầy thuốc, Ðức Mẹ đã sai anh đến nơi Ngài hiện ra cho anh lần đầu tiên. Tại đây, Ngài sẽ cho anh những cánh hoa thật đẹp và dấu lạ để mang đến cho vị giám mục... Lúc bấy giờ đang là mùa đông và ngọn đồi nơi Juan được Ðức Mẹ hiện ra thường chỉ có những cây cỏ của sa mạc như các loại gai và xương rồng. Thế nhưng, hôm đó, hoa bỗng nở rộ trong sa mạc. Juan hái lấy dâng cho Ðức Mẹ, Ðức Mẹ sờ đến những cánh hoa và bảo anh lấy chiếc áo choàng để đựng hoa mang đến cho vị giám mục...
Khi Juan vừa mở chiếc áo choàng ra để lấy hoa cho vị giám mục xem thì lạ lùng thay, hình ảnh Ðức Mẹ đã được in trên chiếc áo của anh... Tin ở lời Ðức Mẹ, vị giám mục đã tức tốc lên đường đến làng Ðức Mẹ đã hiện ra cho anh Juan. Ngài nhận thấy người cậu của anh đã được lành bệnh. Các cuộc lành bệnh lạ lùng đã diễn ra từ đó... Một đền thánh dâng kính Ðức Mẹ đã được xây cất để rồi cuối cùng trở thành Vương cung thánh đường Guadalupe như chúng ta vẫn quen gọi.
Trong thánh lễ tôn phong chân phước cho Juan Diego tại đền thánh Guadalupe ngay buổi chiều chủ nhật khi vừa đến Mehico, Ðức Gioan Phaolô II đã kêu gọi người dân Mehico hâm nóng lại tinh thần truyền giáo. Truyền giáo theo đúng nghĩa là được sai đi để mang sứ điệp đến cho người khác. Cũng giống như tất cả những ai được diễm phúc gặp Ðức Mẹ, chân phước Juan Diego đã được sai đi... Phải vất vả nhiều lần và dĩ nhiên, với sự giúp đỡ của Ðức mẹ, Juan Diego mới có thể thuyết phục được vị giám mục...
Người Kitô, từ bản chất là người được sai đi và sứ điệp của họ chính là sứ điệp của yêu thương... Cùng với những cánh hoa dâng tiến Mẹ trong tháng Năm này, chúng ta được mời gọi để mang những cánh hoa yêu thương đến cho mọi người. Tình thương, sự giúp đỡ của Mẹ dành cho chúng ta cũng phải được chúng ta diễn đạt, cao rao qua cuộc sống dạt dào Tình Mến đối với mọi người.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét